Ngoài ra, Việt Nam cần triệt để và kiên quyết hơn trong việc quy định rõ ràng, minh bạch các thủ tục hành chính ở mọi khâu, mọi cấp; công khai các quy trình, thời hạn, trách nhiệm xử lý các thủ tục hành chính nhằm tạo nên sự chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về cải cách hành chính trong lĩnh vực ĐTNN; duy trì thường xuyên các cuộc gặp gỡ, đối thoại với cộng đồng các nhà đầu tư.
Bên cạnh việc xây dựng môi trường pháp lý thông thoáng và nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với hoạt động FDI tại Việt Nam, Việt Nam cũng cần xây dựng các văn bản pháp luật quy định về hoạt động đầu tư của các DN Việt Nam ra nước ngoài bởi hoạt động này tuy hiện nay còn chưa phát triển song đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường quốc tế và góp phần thu hút ĐTNN ngược lại Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam mới chỉ có Nghị định về đầu tư ra nước ngoài chứ chưa có Luật quy định về vấn đề này.
121 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1589 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khu vực đầu tư Asean (aia) và giải pháp cải thiện môi trường đầu tư của Việt Nam trong quá trình tham gia Aia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
IA đòi hỏi phải dành các ưu đãi trước hết cho các nhà đầu tư ASEAN và sau đó một thời gian (khoảng 3 -5 năm) mới dành cho các nhà ĐTNN khác. Song, trên thực tế, chúng ta không nên tạo ra một sự phân biệt đối xử quá lớn giữa các nhà đầu tư đến từ ASEAN và các nhà đầu tư đến từ các khu vực khác của thế giới. Chúng ta cần nhìn nhận việc tham gia AIA chỉ là một vòng hội nhập trên quá trình chúng ta hội nhập vào khu vực và thế giới. Do đó, nếu tồn tại một sự phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư sẽ dẫn đến làm xấu đi môi trường đầu tư của chúng ta. Điều này một lần nữa đòi hỏi chúng ta sớm thống nhất hai hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động FDI và đầu tư trong nước.
Mặt khác, cũng như chương trình tự do hoá thương mại, chương trình tự do hoá đầu tư đặt ra cho các Quốc gia thành viên tham gia khả năng thực hiện bảo hộ một số ngành sản xuất trong nước khi cần thiết. Tuy nhiên, trong thời gian hiện nay, chúng ta phải hết sức tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài, đặc biệt là vốn FDI để thực hiện quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hóa đất nước. Việc tạo ra một môi trường đầu tư tự do, bình đẳng là hết sức cần thiết để đạt được mục tiêu nói trên. Vì vậy, phải thực hiện chính sách bảo hộ có điều kiện, tránh bảo hộ tràn lan, làm mất đi các yếu tố cần thiết thúc đẩy cạnh tranh và đầu tư. Việc bảo hộ của Việt Nam khi tham gia AIA cần đạt được những điều kiện sau:
Bảo hộ cho một số ngành, lĩnh vực hẹp mà chúng ta có khả năng tự lực phát triển;
Bảo hộ trên cơ sở kết hợp các điều kiện đầu tư với các ưu đãi đầu tư đối với những ngành chúng ta cần thu hút FDI có công nghệ nguồn để phát triển một số ngành công nghiệp chủ chốt trong nước;
Việc bảo hộ phải được quy định cụ thể trong từng trường hợp, từng thời gian cụ thể, không bảo hộ vĩnh viễn cho bất kỳ ngành nào, lĩnh vực nào (trừ các lĩnh vực có liên quan đến an ninh, quốc phòng).
4. Phối hợp tự do hoá thương mại với tự do hoá đầu tư:
Tự do hoá thương mại với tự do hoá đầu tư có mối quan hệ chặt chẽ và khăng khít với nhau. Thông thường, việc tự do hóa việc di chuyển hàng hoá giữa các nước diễn ra trước, rồi đến việc tự do hoá di chuyển của các nhân tố sản xuất như vốn, lao động... Quá trình này cũng đang được định hình dần ở các Quốc gia ASEAN. Việt Nam, với tư cách là thành viên của ASEAN, đã tham gia vào Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và đang chuẩn bị tham gia vào Khu vực Đầu tư ASEAN (AIA). Mục tiêu cuối cùng của quá trình này là tạo ra cho Việt Nam các ngành công nghiệp có đủ sức cạnh tranh với các Quốc gia ASEAN khác. Điều này đỏi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tự do hoá thương mại và chính sách tự do hóa đầu tư.
Việc tự do hoá thương mại bao gồm cắt giảm thuế quan và loại bỏ các hàng rào phi quan thuế phải được thực hiện sao cho không thủ tiêu các nhân tố thúc đẩy đầu tư. Bởi trên thực tế, không ít các nhà đầu tư đã than phiền về việc cắt giảm thuế nhập khẩu hàng hóa, trong khi không có các biện pháp để thúc đẩy sản xuất trong nước, kết quả là thủ tiêu đầu tư.
Trên cơ sở định hướng đầu tư vào các ngành và lĩnh vực ưu tiên, cần phải có các chính sách thương mại phù hợp để tạo điều kiện thúc đẩy các ngành đó phát triển, trên cơ sở huy động các nguồn lực trong nước và nước ngoài. Với các ngành công nghiệp mới, Việt Nam nên có các chính sách bảo hộ và ưu đãi về mặt thương mại để các ngành này có thể phát triển được. Tất nhiên, việc bảo hộ và dành ưu đãi nói trên cũng phải tính đến trong quá trình tự do hoá thương mại trong khuôn khổ AFTA. Bên cạnh đó, cũng cần tăng cường ngăn chặn tình trạng nhập khẩu lậu hàng hoá từ bên ngoài.
5. Củng cố và hoàn thiện hệ thống ngân hàng:
Thực tế cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 ở Đông Nam Á cho thấy sự yếu kém của hệ thống tài chính - ngân hàng có thể kìm hãm tốc độ tăng trưởng và làm xói mòn hiệu quả đầu tư (do lãi suất cao, tỷ giá không ổn định...). Hệ thống ngân hàng của Việt Nam tuy không chịu những ảnh hưởng trực tiếp của cuộc khủng hoảng nhưng cũng cho thấy đang trong tình trạng báo động do sự yếu kém cả về mặt tài chính và thanh tra giám sát: nợ quá hạn tăng (điều này chứng tỏ còn một khoản nợ tồn đọng rất lớn trong nền kinh tế), cơ sở vốn mong manh; cho các DN quốc doanh vay không cần thế chấp và đang chịu nhiều rủi ro về ngoại tệ (50% các khoản nợ của DN Nhà nước là bằng ngoại tệ). Do đó, các ngân hàng thương mại rất dễ bị tổn thương khi tăng trưởng kinh tế giảm và nền kinh tế xảy ra nhiều đột biến.
Vì vậy, trong thời gian tới, Việt Nam cần thực hiện các biện pháp cần thiết để củng cố và hoàn thiện hệ thống tài chính - ngân hàng của mình. Các hành động này bao gồm: (i) cơ cấu lại hệ thống ngân hàng theo hướng buộc các ngân hàng phải minh bạch mọi khoản cho vay khó đòi, kiên quyết loại bỏ các tổ chức tài chính mất khả năng thanh toán để tránh các tác động dây chuyền và các tác động tâm lý; (ii) hoàn thiện các quy định về phòng ngừa rủi ro và thanh tra trong hệ thống tài chính - ngân hàng; (iii) hoàn thiện các quy định về vay nợ nước ngoài theo hướng vừa nhằm đảm bảo uy tín tín dụng của Việt Nam trên các thị trường tài chính quốc tế, vừa quy định rõ ràng về trách nhiệm trả nợ của các ngân hàng, DN vay nợ.
Một hệ thống ngân hàng tài chính vững mạnh là một trong những điều kiện để Việt Nam có thể duy trì tốc độ tăng trưởng cao, và là một đòi hỏi để có thể cải thiện môi trường đầu tư theo hướng tốt hơn.
Ngoài ra, trong quá trình hội nhập, Nhà nước cần có cơ chế và chính sách đồng bộ, trong đó có chính sách hỗ trợ đầu tư, tín dụng ưu đãi để giúp các DN trong nước và các DN FDI đầu tư vào sản xuất nguyên liệu cung ứng cho sản xuất. Đây là một giải pháp quan trọng để cắt giảm chi phí sản xuất. Mặt khác, dù còn khó khăn về dự trữ ngoại tệ, Nhà nước cũng cần sớm giảm dần tỷ lệ kết hối để giảm thiểu rủi ro về chênh lệch tỷ giá hối đoái cho các DN hoạt động hướng vào xuất nhập khẩu.
6. Đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động, xúc tiến đầu tư.
Công tác vận động, xúc tiến đầu tư cần được đổi mới về nội dung và phương thức thực hiện, theo một kế hoạch và chương trình chủ động, có hiệu quả. Trước hết, Việt Nam cần xác định xúc tiến đầu tư, cũng như xúc tiến thương mại, là nhiệm vụ và trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, của các Bộ, ngành, các tỉnh, Ban quản lý các KCN, KCX.
Chúng ta cần thực hiện chủ trương đa phương hoá các đối tác ĐTNN để tạo thế chủ động trong mọi tình huống. Cùng với việc tiếp tục thu hút các nhà đầu tư truyền thống ở châu Á và ASEAN vào các dự án mà họ có kinh nghiệm và thế mạnh như chế biến nông sản, sản xuất hàng tiêu dùng xuất khẩu... thì Việt Nam cần chuyển hướng sang các đối tác Tây Âu, Bắc Âu, Bắc Mỹ nhằm tranh thủ tiềm lực vốn, công nghệ, kỹ thuật hiện đại để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; chú ý các dự án lớn, dự án vừa và nhỏ nhưng công nghệ hiện đại.
Trên cơ sở quy hoạch ngành, sản phẩm, lãnh thổ và danh mục dự án kêu gọi đầu tư được phê duyệt; các ngành, các địa phương cần chủ động tiến hành vận động, xúc tiến đầu tư một cách cụ thể, trực tiếp đối với từng dự án, trực tiếp với từng tập đoàn, công ty, nhà đầu tư có tiềm năng.
7. Nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với FDI.
Sau khi tạo dựng được môi trường pháp lý và cơ chế chính sách thông thoáng, hấp dẫn, vấn đề then chốt có tính quyết định là việc chỉ đạo điều hành tập trung, thống nhất và kiên quyết của Chính phủ, việc nghiêm túc thực hiện của các Bộ, ngành và địa phương.
Do vậy, cần xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ tổng hợp, các Bộ quản lý ngành, Uỷ ban nhân dân tỉnh trong việc quản lý hoạt động ĐTNN theo đúng thẩm quyền, trách nhiệm của từng Cơ quan quản lý Nhà nước.
Cũng cần quy định cụ thể chế độ kiểm tra của các cơ quan quản lý Nhà nước để chấm dứt sự kiểm tra tuỳ tiện, hết sức tránh hình sự hoá các quan hệ kinh tế của DN; đồng thời vẫn bảo đảm giám sát được các DN và áp dụng các chế tài đối với sự vi phạm pháp luật của các DN.
Ngoài ra, Việt Nam cần triệt để và kiên quyết hơn trong việc quy định rõ ràng, minh bạch các thủ tục hành chính ở mọi khâu, mọi cấp; công khai các quy trình, thời hạn, trách nhiệm xử lý các thủ tục hành chính nhằm tạo nên sự chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về cải cách hành chính trong lĩnh vực ĐTNN; duy trì thường xuyên các cuộc gặp gỡ, đối thoại với cộng đồng các nhà đầu tư.
Bên cạnh việc xây dựng môi trường pháp lý thông thoáng và nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với hoạt động FDI tại Việt Nam, Việt Nam cũng cần xây dựng các văn bản pháp luật quy định về hoạt động đầu tư của các DN Việt Nam ra nước ngoài bởi hoạt động này tuy hiện nay còn chưa phát triển song đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường quốc tế và góp phần thu hút ĐTNN ngược lại Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam mới chỉ có Nghị định về đầu tư ra nước ngoài chứ chưa có Luật quy định về vấn đề này.
8. Xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng cứng:
Trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng (CSHT) của Việt Nam, chỉ có viễn thông là ở mức tương đối hoàn thiện. Các yếu tố khác như đường ô tô, đường xe lửa, sân bay, cảng biển, các phương tiện vận tải, tiện ích công cộng (điện, nước, thông tin và các công trình dịch vụ, phúc lợi xã hội..) hầu như chưa đáp ứng được nhu cầu đầu tư. Mặc dù áp dụng chính sách ưu đãi về tiền thuê đất và thuế lợi tức nhưng do phải bỏ nhiều chi phí cho các công trình ngoài hàng rào hoặc chi phí vận chuyển hàng xuất khẩu bằng công-ten-nơ đến cảng cửa khẩu khá xa (các dự án may mặc xuất khẩu) nên vô hình chung, các ưu đãi này đã bị triệt tiêu. CSHT mới chỉ phát triển ở một số thành phố lớn và trung tâm công nghiệp của cả nước. Đặc biệt, CSHT ở miền Trung phải nói là quá yếu kém. Tuy vậy, ngay cả ở các địa phương được coi là tương đối phát triển về CSHT như thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Sông Bé ở miền Nam, Đà Nẵng ở miền Trung, Hà Nội và Hải Phòng ở miền Bắc thì cũng đã xuất hiện tình trạng “ chiếc áo cũ trở nên quá chật so với cơ thể đang phát triển”. Nguy cơ thiếu điện, nước, quá tải về giao thông đang ngày càng trực tiếp đe dọa chính tốc độ phát triển kinh tế- xã hội của Việt Nam nói chung và tình hình ĐTNN nói riêng.
Nếu so với các nước trong khu vực, Việt Nam là nước có hệ thống cơ sở hạ tầng cứng vào loại kém nhất. Trong khi đó, kinh nghiệm của các Quốc gia ASEAN và Trung Quốc cho thấy các điều kiện cơ sở hạ tầng là vô cùng quan trọng trong việc thu hút FDI. Trong thời gian tới, Việt Nam cần đặc biệt chú ý tới việc phát triển cơ sở hạ tầng của mình để có thể cạnh tranh thu hút FDI với các Quốc gia khác trong khu vực, đặc biệt là đối với ASEAN một khi AIA được triển khai.
Nhằm mục tiêu thu hút FDI, việc phát triển cơ sở hạ tầng của Việt Nam cần theo hướng tập trung trước hết vào các khu công nghiệp, khu chế xuất và các đặc khu công nghiệp (khi được xây dựng); không nên mở quá nhiều khu công nghiệp (hoặc các loại hình tương tự) mà thiếu sự đầu tư cần thiết về cơ sở hạ tầng để có thể thu hút FDI. Nhiệm vụ trọng tâm là thu hút đầu tư để lấp đầy các KCN đã được thành lập.
Để tạo thuận lợi thu hút đầu tư vào KCN, chúng ta cần thực hiện việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các DN KCN; bảo đảm các công trình hạ tầng kỹ thuật (đường, điện, nước, thông tin liên lạc) đến tận hàng rào các KCN; ưu đãi ở mức cao nhất các dự án phát triển hạ tầng xã hội đồng bộ với KCN (nhà ở cho công nhân, trường học, trường dạy nghề, cơ sở chữa khám bệnh, thương mại và các dịch vụ đời sống của các thành phần kinh tế).
KCN là một bộ phận của quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn tỉnh; do đó, cần xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ của Ban quản lý KCN cấp tỉnh; Ban quản lý KCN nên là một cơ quan của tỉnh, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp và toàn diện của Tỉnh uỷ và Uỷ ban nhân dân tỉnh (trừ các KCN có quy mô quá lớn, nằm trên địa bàn nhiều tỉnh).
9. Chú trọng công tác cán bộ và đào tạo công nhân kỹ thuật, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hoạt động của Công đoàn và các tổ chức đoàn thể trong các DN có vốn ĐTNN.
Một trong những vấn đề mà Việt Nam phải đặc biệt chú trọng đến là công tác đào tạo nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực trình độ chuyên môn của đội ngũ công chức Nhà nước các cấp, đội ngũ cán bộ Việt Nam trong các DN ĐTNN; trước mắt tập trung vào một số vấn đề sau:
- Xây dựng Quy chế cán bộ Việt Nam tham gia Hội đồng quản trị và quản lý DN liên doanh, trong đó cần quy định rõ tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ và chính trị; trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của cán bộ trong và sau thời gian làm việc tại các DN ĐTNN; chế độ báo cáo, kiểm tra. Hiện nay, Ban Tổ chức Trung ương đang phối hợp với các Bộ liên quan nghiên cứu chuyên đề quan trọng này để trình Bộ Chính trị.
- Tổ chức đào tạo chính quy cán bộ làm công tác ĐTNN, cán bộ quản lý các DN có vốn ĐTNN, tổ chức đào tạo công nhân lành nghề làm việc cho các DN ĐTNN và tiến hành tập huấn thường xuyên cho số cán bộ Việt Nam hiện nay đang làm việc tại các DN liên doanh, trang bị kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ, luật pháp, kinh nghiệm cần thiết nhất.
- Xây dựng chiến lược đào tạo đội ngũ doanh nhân Việt Nam có đầy đủ năng lực và bản lĩnh để tham gia đầu tư ra nước ngoài, cạnh tranh thành công với các DN nước bạn ngay trên đất nước họ.
Ngoài ra, Việt Nam cần đề ra các quy định và hướng dẫn phương thức sinh hoạt và nội dung hoạt động của các tổ chức Đảng trong các DN có vốn ĐTNN, phù hợp với đặc điểm của loại hình DN này và có kế hoạch vận động thành lập Công đoàn ở tất cả các DN ĐTNN và nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức Công đoàn trong các DN ĐTNN. Chính phủ cần xem xét hỗ trợ một phần kinh phí cho các tổ chức Công đoàn tại các DN. Xây dựng tổ chức Công đoàn thật sự trở thành người bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của người lao động; giáo dục kỷ luật lao động, tác phong lao động công nghiệp cho công nhân, xây dựng quan hệ hợp tác với chủ đầu tư.
Tất nhiên, cần có nhiều điều kiện để có thể tạo ra một môi trường đầu tư tự do, hấp dẫn. Ngoài các điều kiện kể trên, Việt Nam cũng cần phải chú ý tới việc cải cách hệ thống DNNN, cải cách hành chính và chuẩn bị tốt công tác đào tạo nhân lực... Duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức cao là nhân tố quyết định sự thành công trong chuyển đổi cơ chế kinh tế ở Việt Nam, và đó cũng là nhân tố quyết định tính hấp dẫn của môi trường đầu tư ở Việt Nam trong thời gian tới. Như đã nêu rõ trong Chiến lược Phát triển Kinh tế Xã hội - được Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 9 thông qua (tháng 4 năm 2001) - Việt Nam muốn đầu tư 60 tỉ đô la Mỹ trong giai đoạn từ 2000 đến năm 2005 để duy trì tỉ lệ tăng trưởng trung bình GDP là 7,5% mỗi năm. FDI sẽ đóng góp 12 tỉ đô la Mỹ cho nguồn đầu tư đã thực hiện. Tỉ lệ thực hiện 40% có nghĩa là Việt Nam phải huy động 30-35 tỉ đô la Mỹ trong giai đoạn từ 2000-2005. Đây là mục tiêu có thể đạt được nếu Việt Nam tiến hành cải cách sâu sắc, cải thiện môi trường đầu tư và có khả năng cạnh tranh với các nền kinh tế khu vực.
Kết luận
Trong bối cảnh các quốc gia đang ngày càng liên kết chặt chẽ, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và sự cạnh tranh về vốn và công nghệ ngày càng trở nên gay gắt thì việc các Quốc gia ASEAN cùng nhau đi đến một thoả thuận về tự do hoá đầu tư trực tiếp nước ngoài là một đòi hỏi khách quan, tất yếu diễn ra. Việt Nam, với tư cách là một thành viên của ASEAN, có trách nhiệm hợp tác và tham gia vào chương trình tự do hoá này. Hơn nữa, đây cũng là bước tiến thử nghiệm về mặt chất trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Tham gia vào AIA, Việt Nam sẽ được lợi từ việc gia tăng khối lượng FDI vào ASEAN do các trở ngại về đầu tư trực tiếp sẽ được loại bỏ. Qua đó, Việt Nam có cơ hội nhận được các công nghệ và kỹ thuật tiên tiến. Tuy nhiên, đó chỉ là một mặt của vấn đề. Do trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam thuộc hàng thấp nhất trong khối nên khi tham gia vào các chương trình tự do hoá nói chung và vào AIA nói riêng, Việt Nam sẽ là nước dễ bị tổn thương nhất.
Do đó, nhằm phát huy các tác động tích cực và giảm tối đa các tác động tiêu cực của việc tham gia vào AIA, Việt Nam cần phải có các chính sách và hướng đi đúng đắn. Điều này đòi hỏi phải phối hợp đồng bộ các chính sách kinh tế vĩ mô với các biện pháp điều chỉnh và hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam nhằm tạo ra một môi trường thu hút đầu tư, dựa trên cơ sở phân tích khả năng sản xuất trong nước cũng như các lợi thế so sánh của Việt Nam.
Và những gì mà nguyên Phó thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm đã nói tại một cuộc gặp gỡ các nhà ĐTNN đã khẳng định quyết tâm của Chính phủ Việt Nam thu hút mạnh mẽ hơn nữa ĐTNN trong tương lai: “.. tôi cam kết rằng Chính phủ Việt Nam thật sự coi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là bộ phận hợp thành của nền kinh tế Việt Nam, chia sẻ với các nhà đầu tư nước ngoài mọi thành bại, khó khăn, rủi ro, sẽ làm hết sức mình để tìm ra các giải pháp tích cực, hữu hiệu để làm cho môi trường đầu tư của Việt Nam có sức hấp dẫn hơn, mang tính cạnh tranh cao hơn; duy trì thường xuyên sự ổn định chính trị và xã hội , để cho các nhà đầu tư đã và sẽ đến Việt Nam thu được nhiều thành công, đóng góp ngày càng lớn vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam và đóng góp vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá của chúng tôi.”
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nghị quyết Đại Hội Đảng lần thứ IX (tháng 4 năm 2001)
Tờ trình Chính phủ của Bộ Kế hoạch và đầu tư về “ Hiệp định khung về khu đầu tư ASEAN (AIA)”.
Tờ trình Thủ tướng Chính phủ của Bộ Kế hoạch và đầu tư về “ Nghị định thư sửa đổi bổ sung Hiệp định khung về khu đầu tư ASEAN (AIA)”
Các báo cáo gửi Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế Quốc tế của Bộ Kế hoạch và đầu tư về “Kết quả các cuộc họp CCI” lần thứ 10;11;12;13;14;15
Các báo cáo gửi Thủ tướng Chính phủ của Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế Quốc tế “Triển khai kết quả các cuộc họp CCI” lần thứ 10;11;12;13;14;15
Báo cáo của Bộ Kế hoạch và đầu tư về “Tình hình thực hiện và giải pháp thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài” tháng 7 năm 2000.
Bài phát biểu của nguyên Phó Thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm trong cuộc gặp gỡ các nhà ĐTNN tại Hà Nội ngày 25/3/1999.
GS.TS Tô Xuân Dân - PGS.TS. Vũ Chí Lộc - “ Quan hệ kinh tế quốc tế - Lý thuyết và thực tiễn” - NXB Hà Nội, tháng 7/1997.
PGS. TS. Vũ Chí Lộc - “Giáo trình đầu tư nước ngoài” - Nhà xuất bản giáo dục 1997.
Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương - “Kinh tế Việt Nam năm 2001” - NXB Chính trị Quốc gia - Hà Nội, năm 2002.
ASEAN Statistical Yearbook 2001
Tổng Cục thống kê - “Niên giám thống kê” - NXB Thống kê, năm 1999, năm 2001.
Võ Minh Điều-Võ Thành Hưng, Viện nghiên cứu tài chính - “Khu vực đầu tư ASEAN và việc tham gia của Việt Nam” - NXB Tài Chính - Hà Nội năm 1999.
PGS.TS. Nguyễn Quang Thái, Văn phòng Chính phủ, Vụ các tổ chức kinh tế quốc tế - “Môi trường đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, con đường đi đến khu đầu tư ASEAN (AIA)” - NXB Công an Nhân dân - Hà Nội năm 1999.
“Kinh tế Việt Nam và thế giới năm 1999-2000” - Thời báo kinh tế Việt Nam
“Kinh tế Việt Nam và thế giới năm 2000-2001” - Thời báo kinh tế Việt Nam
“Kinh tế Việt Nam và thế giới năm 2001-2002” - Thời báo kinh tế Việt Nam
Anh Đức - “Mở rộng và nâng cao hiệu quả đầu tư ASEAN” - Tạp chí Kinh tế - số 34, ngày 27/8/2002.
Thanh Huyền, K.Ly - “Đầu tư trực tiếp nước ngoài: Góp phần thúc đẩy nền kinh tế trong nước” - Thời báo Tài chính Việt Nam - số 88, tháng 6/2002.
“Kết quả thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam năm 2001” - Tạp chí Kinh tế - Xã hội, số 2-731.
Vĩnh Sơn - “Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư” - Báo Đầu tư - số 100 (887) ngày 21/8/2002.
Thạc sỹ Phạm Thị Thanh Bình, Viện Kinh tế thế giới - “Đầu tư của ASEAN vào Việt Nam, thập kỷ 90” - Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương - số 2(37), tháng 4/2002.
“Tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư phát triển trong 7 tháng năm 2002” - Tạp chí Thông tin Kinh tế - Xã hội - số 4(04), tháng 8/2002
“Tiếp tục thu hút nhiều hơn với chất lượng cao hơn nguồn vốn đầu tư nước ngoài để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá” - Tạp chí Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài - số 25, tháng 6/2002.
Tiến sỹ Lê Đăng Doanh - “Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam: Kết quả, thành công, thử thách và triển vọng”- Quỹ tiền tệ Quốc tế Hội nghị Đầu tư trực tiếp nước ngoài - Hà nội, ngày 16/8/2002.
Kim Ngọc - “Đầu tư vào ASEAN: Cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam” - Tạp chí Kinh tế - số 18 ngày 7/5/2002.
27. Thạc sỹ Đỗ Thị Thuỷ - TS. Lê Tuyết Hoa - “Ảnh hưởng của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam” - Tạp chí Ngân Hàng - số 1+2 năm 2000.
Thạc sỹ Nguyễn Trọng Hà - “ Đánh giá tác động của FDI đến ngoại thương Việt Nam” - Tạp chí Kinh tế và Phát triển - số 62, tháng 8/2002.
Nguyễn Hữu Hiểu - “ Đầu tư trực tiếp nước ngoài với vấn đề lao động Việt Nam” - Tạp chí Kinh tế và dự báo - số 350, tháng 6/2002.
Anh Đức - “Hội nghị CG giữa kỳ: Việt Nam đã có những sự cải thiện quan trọng” - Tạp chí Kinh tế - số 21, ngày28/5/2002.
TS. Lê Khoa - “Nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam” - Tạp chí Phát triển kinh tế - số 138, tháng 4/2002.
Thạc sỹ Nguyễn Hoàng Xanh - “Nâng cao năng lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới” - Tạp chí Phát triển kinh tế - số 138, tháng 4/2002.
TS. Vũ Thị Bạch Tuyết - “ Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những vấn đề gì cho doanh nghiệp?” - Tạp chí Tài chính - số 4(450), tháng 4/2002.
“Vốn đầu tư nước ngoài: Cần tạo ra sức hút mạnh hơn” - (16/8/2002).
“Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam: Tháo gỡ kịp thời, chuyển biến tích cực”- (17/6/2002).
“Khắc phục hạn chế trong chính sách thu hút đầu tư nước ngoài” - (31/5/2002).
“Kinh tế Việt Nam và một số kiến nghị về mặt tài chính” - (22/5/2002).
“Họp nhóm đầu tư thương mại Nhật Bản - Việt Nam lần thứ 3: Việt Nam cần tăng tốc cải thiện môi trường đầu tư” - (22/4/2002).
“Thu hút đầu tư nước ngoài: Một năm bứt phá” - (29/1/2002).
“Xuất khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài: Đã thể hiện sự nỗ lực lớn” - (24/10/2002).
PHỤ LỤC SỐ 1:
HIỆP ĐỊNH KHUNG VỀ KHU ĐẦU TƯ ASEAN
Chính phủ các nước Brunei Darrusalam, Cộng hòa In-đô-nê-xi-a, Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, Ma-lai-xi-a, Liên bang Mi-an-ma, Cộng hoà Phi-lip-pin, Cộng hoà Sing-ga-po, Vương quốc Thái Lan và Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là các quốc gia thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN);
KHẲNG ĐỊNH LẠI tầm quan trọng của việc giữ vững sự tăng trưởng và phát triển kinh tế ở tất cả các Quốc gia thành viên bằng những nỗ lực chung nhằm tự do hoá thương mại, thúc đẩy thương mại và đầu tư giữa các nước ASEAN đã được nêu trong Hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN được ký kết tại Sing-ga-po ngày 28 tháng 1 năm 1992;
NHẮC LẠI quyết định của Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ Năm tổ chức vào ngày 15 tháng 12 năm 1995 về việc xây dựng Khu đầu tư ASEAN (sau đây gọi tắt là “AIA”) nhằm tăng cường tính hấp dẫn và tính cạnh tranh của ASEAN để thúc đẩy đầu tư trực tiếp;
KHẲNG ĐỊNH cam kết theo Hiệp định ASEAN năm 1987 về khuyến khích và bảo hộ đầu tư và Nghị định thư năm 1996 bổ sung Hiệp định này nhằm củng cố lòng tin của các nhà đầu tư khi đầu tư vào ASEAN;
LƯU TÂM đến Hiệp định thành lập Khu mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và việc thực hiện Chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO) nhằm khuyến khích đầu tư lớn hơn vào khu vực;
THỪA NHẬN rằng đầu tư trực tiếp là một nguồn tài chính quan trọng để giữ vững tốc độ phát triển kinh tế, công nghiệp, cơ sở hạ tầng và công nghệ; do đó, thừa nhận nhu cầu thu hút đầu tư trực tiếp vào ASEAN với mức độ lớn hơn và bền vững hơn;
QUYẾT TÂM hoàn thành việc thực hiện tầm nhìn ASEAN xây dựng Khu đầu tư ASEAN có tính cạnh tranh với môi trường đầu tư thông thoáng và rõ ràng hơn vào ngày 1 tháng 1 năm 2010; và
GHI NHỚ rằng những biện pháp được thoả thuận nhằm hình thành Khu vực đầu tư ASEAN có tính cạnh tranh vào năm 2010 sẽ góp phần hướng tới Tầm nhìn ASEAN năm 2020.
ĐÃ THOẢ THUẬN NHƯ SAU:
ĐIỀU 1
Định nghĩa
Với mục đích của Hiệp định này:
“Nhà đầu tư ASEAN” có nghĩa là:
một công dân của một Quốc gia thành viên; hoặc
một pháp nhân của một Quốc gia thành viên,
thực hiện đầu tư vào Quốc gia thành viên khác, trong đó vốn ASEAN của pháp nhân đó cộng gộp với tất cả các vốn ASEAN khác ít nhất phải bằng tỷ lệ tối thiểu cần có để thoả mãn các yêu cầu về vốn quốc gia và các yêu cầu về vốn khác của pháp luật trong nước và chính sách quốc gia được công bố, nếu có, của nước chủ nhà liên quan tới đầu tư đó.
Với mục đích của định nghĩa này, vốn của các công dân hoặc pháp nhân của bất kỳ Quốc gia thành viên nào sẽ được coi như là vốn của các công dân và các pháp nhân nước chủ nhà.
“Vốn ASEAN thực tế” đối với một nhà đầu tư vào một quốc gia thành viên là phần vốn nắm giữ cuối cùng của các công dân hoặc các pháp nhân của Quốc gia thành viên ASEAN trong đầu tư đó. Khi cơ cấu cổ phần hoặc cơ cấu vốn của nhà đầu tư ASEAN gây khó khăn cho việc nắm giữ cuối cùng thì các quy tắc và thủ tục nắm giữ thực tế của Quốc gia thành viên nơi nhà đầu tư ASEAN thực hiện đầu tư có thể được áp dụng. Uỷ ban điều phối đầu tư sẽ chuẩn bị các hướng dẫn cho việc xác định vốn thực tế này, nếu cần.
“Pháp nhân” có nghĩa là bất kỳ thực thể pháp lý nào được thành lập hoặc tổ chức hợp pháp theo luật hiện hành, vì lợi nhuận hoặc không vì lợi nhuận, thuộc sở hữu tư nhân hay sở hữu Nhà nước, bao gồm mọi công ty, tập đoàn, liên doanh, công ty một chủ hoặc Hiệp hội.
“Các biện pháp” nghĩa là các luật, các quy định, các quy tắc, các thủ tục, các quyết định, các hành vi hành chính, hoặc bất kỳ hành vi nào khác của các Quốc gia thành viên tác động đến đầu tư.
“Công dân” có nghĩa là thể nhân có quốc tịch của một Quốc gia thành viên phù hợp với pháp luật hiện hành của Quốc gia đó.
ĐIỀU 2
Phạm vi
Hiệp định này sẽ điều chỉnh tất cả đầu tư trực tiếp, nhưng không điều chỉnh:
đầu tư gián tiếp; và
những vấn đề liên quan đến đầu tư đã được các Hiệp định khác của ASEAN điều chỉnh như Hiệp định Khung ASEAN về Dịch vụ.
ĐIỀU 3
Mục tiêu
Những mục tiêu của Hiệp định này là:
xây dựng một Khu đầu tư ASEAN (AIA) có môi trường đầu tư thông thoáng và rõ ràng hơn giữa các Quốc gia thành viên, nhằm:
đẩy mạnh đầu tư vào ASEAN từ cả các nguồn trong và ngoài ASEAN;
cùng thúc đẩy ASEAN thành khu vực đầu tư hấp dẫn nhất;
củng cố và tăng cường tính cạnh tranh của các lĩnh vực kinh tế của ASEAN;
giảm dần hoặc loại bỏ các quy định và điều kiện đầu tư có thể cản trở các dòng đầu tư và sự hoạt động của các dự án đầu tư trong ASEAN; và
đảm bảo rằng việc thực hiện những mục tiêu trên sẽ góp phần hướng tới tự do di chuyển đầu tư vào năm 2020.
ĐIỀU 4
Các đặc điểm
AIA sẽ là một khu vực, nơi:
có một chương trình hợp tác đầu tư ASEAN nhằm tạo ra đầu tư lớn hơn từ các nước ASEAN và các nước ngoài ASEAN;
chế độ đối xử quốc gia được dành cho các nhà đầu tư ASEAN vào năm 2010, và cho tất cả các nhà đầu tư vào năm 2020, ngoại trừ các ngoại lệ được quy định trong Hiệp định này;
tất cả các ngành nghề được mở cửa cho các nhà đầu tư ASEAN vào năm 2010 và cho tất cả các nhà đầu tư vào năm 2020, ngoại trừ các ngoại lệ được quy định trong Hiệp định này;
khu vực kinh doanh có vai trò lớn hơn trong các lĩnh vực hợp tác về đầu tư và các hoạt động có liên quan trong ASEAN; và
có lưu chuyển tự do hơn về vốn, lao động lành nghề và chuyên gia, công nghệ giữa các Quốc gia thành viên.
ĐIỀU 5
Các nghĩa vụ chung
Để thực hiện các mục tiêu quy định tại Điều 3, các Quốc gia thành viên sẽ:
đảm bảo rằng các biện pháp và các chương trình được thực hiện trên cơ sở công bằng và cùng có lợi;
thực hiện các biện pháp thích hợp để đảm bảo tính rõ ràng và nhất quán trong việc áp dụng và giải thích các luật, quy định và thủ tục hành chính liên quan đến đầu tư của nước mình nhằm tạo ra và duy trì một chế độ đầu tư có thể dự đoán trước được trong ASEAN;
bắt đầu quá trình hỗ trợ, xúc tiến và tự do hóa để có thể đóng góp một cách liên tục và đáng kể vào mục tiêu thiết lập môi trường đầu tư thông thoáng và rõ ràng hơn;
thực hiện các biện pháp thích hợp nhằm tăng cường tính hấp dẫn của môi trưòng đầu tư của các Quốc gia thành viên đối với các dòng đầu tư trực tiếp; và
thực hiện các biện pháp hợp lý trong khả năng cho phép để đảm bảo việc tuân thủ các điều khoản của Hiệp định này của chính quyền khu vực, địa phương và các cơ quan có thẩm quyền trong lãnh thổ đất nước mình.
ĐIỀU 6
Các chương trình và Kế hoạch hành động
Để thực hiện các nghĩa vụ quy định trong Hiệp định này, các Quốc gia thành viên cam kết cùng nhau xây dựng và thực hiện các chương trình sau:
Hợp tác và tạo thuận lợi như quy định trong Chương trình I;
Xúc tiến và tăng cường hiểu biết như quy định trong Chương trình II; và
Tự do hoá như quy định trong Chương trình III.
Các Quốc gia thành viên sẽ đưa ra các Kế hoạch hành động thực hiện những Chương trình nêu trong khoản 1 cho Hội đồng AIA được thành lập theo Điều 16 của Hiệp định này.
Các Kế hoạch hành động sẽ được xem xét lại 2 năm một lần để đảm bảo thực hiện được các mục tiêu của Hiệp định này.
ĐIỀU 7
Mở cửa các ngành nghề và Đối xử quốc gia
Tùy thuộc vào các quy định của Điều này, mỗi Quốc gia thành viên sẽ:
mở cửa ngay lập tức các ngành nghề của nước mình cho đầu tư của các nhà đầu tư ASEAN;
dành ngay lập tức cho các nhà đầu tư ASEAN và đầu tư của họ, đối với tất cả các ngành nghề và các biện pháp có tác động tới các đầu tư đó, bao gồm, nhưng không chỉ giới hạn ở việc tiếp nhận, thành lập, nắm giữ, mở rộng, quản lý, vận hành và định đoạt đầu tư, sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử cho các nhà đầu tư và đầu tư tương tự của nước mình (“đối xử quốc gia”).
Mỗi Quốc gia thành viên sẽ đưa ra một Danh mục loại trừ tạm thời và một Danh mục nhạy cảm, nếu có, trong vòng 6 tháng kể từ ngày ký Hiệp định này, bao gồm bất kỳ ngành nghề hoặc biện pháp nào có tác động đến đầu tư (nêu tại khoản 1 trên) mà Quốc gia đó không thể mở cửa hay dành đối xử quốc gia cho các nhà đầu tư ASEAN. Các danh mục này sẽ tạo thành một phụ lục của Hiệp định này. Trong trường hợp một Quốc gia thành viên, vì một lý do xác đáng, không thể cung cấp các danh mục trong thời hạn nói trên, Quốc gia thành viên đó có thể đề nghị Hội đồng AIA gia hạn.
Danh mục loại trừ tạm thời sẽ được xem xét lại 2 năm một lần và sẽ được tất cả các Quốc gia thành viên, trừ Cộng hoà Xã hội chủ Nghĩa Việt Nam, Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào và Liên bang Mi-an-ma, loại bỏ dần cho đến năm 2010. Cộng hoà Xã hội chủ Nghĩa Việt Nam sẽ bỏ dần Danh mục loại trừ tạm thời cho đến năm 2013 và Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào và Liên bang Mi-an-ma sẽ bỏ dần Danh mục loại trừ tạm thời của mình cho đến năm 2015.
Danh mục nhạy cảm sẽ được xem xét lại vào ngày 1 tháng 1 năm 2003 và vào từng giai đoạn tiếp theo do Hội đồng AIA quyết định.
ĐIỀU 8
Đối xử Tối huệ quốc
Phù hợp với Điều 7 và Điều 9 của Hiệp định này, mỗi Quốc gia thành viên sẽ dành ngay lập tức và vô điều kiện cho các nhà đầu tư và đầu tư của các Quốc gia thành viên khác, sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho các nhà đầu tư và đầu tư của bất kỳ Quốc gia thành viên nào khác đối với tất cả các biện pháp có tác động đến đầu tư, bao gồm, nhưng không chỉ giới hạn ở việc tiếp nhận, thành lập, nắm giữ, mở rộng, quản lý, vận hành và định đoạt đầu tư.
Đối với các đầu tư thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định này, mọi sự đối xử theo các hiệp định hoặc thoả thuận hiện tại hoặc tương lai mà một Quốc gia là một bên đều sẽ được dành cho tất cả các Quốc gia thành viên khác trên cơ sở tối huệ quốc.
Yêu cầu nêu tại khoản 2 không áp dụng đối với các Hiệp định hoặc thoả thuận hiện tại được các Quốc gia thành viên thông báo cho Hội đồng AIA trong vòng 6 tháng kể từ ngày ký Hiệp định này.
Quy định nêu tại khoản 1 không ngăn cản bất kỳ Quốc gia thành viên nào dành đối xử đặc biệt hoặc ưu đãi cho các nước láng giềng theo các tam giác phát triển và các thoả thuận tiểu khu vực khác giữa các Quốc gia thành viên.
ĐIỀU 9
Quyền khước từ Đối xử tối huệ quốc
Nếu một Quốc gia thành viên tạm thời chưa sẵn sàng đưa ra các nhượng bộ theo Điều 7 của Hiệp định này và Quốc gia thành viên khác đã có những nhượng bộ theo Điều đó, thì Quốc gia thành viên nêu trên phải từ bỏ quyền của mình được hưởng các nhượng bộ đó. Tuy nhiên, nếu một Quốc gia thành viên dành các nhượng bộ nêu trên muốn bỏ qua yêu cầu đó, thì Quốc gia thành viên kia vẫn được hưởng sự ưu đãi đó.
Tính đến trường hợp gia nhập ASEAN sau của Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào và Liên bang Mi-an-ma, những quy định của khoản 1 Điều này sẽ chỉ áp dụng đối với Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trong vòng 3 năm, và đối với Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào và Liên bang Mi-an-ma trong thời gian 5 năm kể từ ngày Hiệp định này có hiệu lực.
ĐIỀU 10
Điều chỉnh các Chương trình, Phụ lục và Kế hoạch hành động
Bất kỳ sự điều chỉnh nào của các Chương trình I, II, III và các Kế hoạch hành động của các Chương trình này đều phải được Uỷ ban Điều phối Đầu tư (CCI) được thành lập theo Điều 16 (4) của Hiệp định này chấp nhận.
Bất kỳ sự điều chỉnh nào hoặc rút lại các cam kết trong Chương trình III và các Kế hoạch hành động của Chương trình này và các Phụ lục đều phải được Hội đồng AIA xem xét phù hợp với các điều khoản của Nghị định thư ASEAN về Thủ tục Thông báo.
ĐIỀU 11
Tính rõ ràng, trong sáng
Mỗi Quốc gia thành viên sẽ thông báo cho Hội đồng AIA thông qua việc xuất bản hoặc bất kỳ một phương tiện nào khác, tất cả các biện pháp, luật, quy định và hướng dẫn hành chính có liên quan hoặc ảnh hưởng tới việc thực hiện Hiệp định này. Quy định này cũng áp dụng đối với các hiệp định quốc tế có liên quan hoặc ảnh hưởng tới đầu tư mà Quốc gia thành viên là một bên ký kết.
Mỗi Quốc gia thành viên sẽ nhanh chóng và ít nhất là mỗi năm một lần thông báo cho Hội đồng AIA bất kỳ sự ban hành hoặc thay đổi nào của luật, quy định và hướng dẫn hành chính hiện hành có liên quan hoặc ảnh hưởng một cách đáng kể đến các đầu tư hoặc các cam kết của mình theo Hiệp định này.
Không có quy định nào trong Hiệp định này yêu cầu bất kỳ Quốc gia thành viên nào cung cấp các thông tin mật mà việc tiết lộ chúng có thể làm cản trở việc thi hành luật, hoặc trái với lợi ích công cộng, hoặc có thể làm tổn hại tới các lợi ích thương mại chính đáng của các doanh nghiệp cụ thể, Nhà nước hay tư nhân.
ĐIỀU 12
Các hiệp định khác
Các Quốc gia thành viên khẳng định các quyền và nghĩa vụ hiện tại của họ theo Hiệp định ASEAN 1987 về Khuyến khích và Bảo hộ Đầu tư và Nghị định thư năm 1996 bổ sung Hiệp định này. Trong trưòng hợp Hiệp định này quy định các điều khoản ưu đãi hơn Hiệp định và Nghị định thư nói trên thì sẽ áp dụng các quy định của Hiệp định này.
Hiệp định này hoặc bất kỳ biện pháp nào được thực hiện trên cơ sở Hiệp định này sẽ không ảnh hưởng đến các quyền và các nghĩa vụ của các Quốc gia thành viên theo các hiệp định hiện tại mà các Quốc gia thành viên tham gia.
Không có quy định nào trong Hiệp định này ảnh hưởng tới các quyền của các Quốc gia thành viên tham gia vào các hiệp định khác không trái với các quy tắc, mục tiêu và các điều khoản của Hiệp định này.
ĐIỀU 13
Ngoại lệ chung
Không có quy định nào của Hiệp định này được hiểu là ngăn cấm bất kỳ Quốc gia thành viên nào thông qua hoặc thực hiện các biện pháp dưới đây, với điều kiện các biện pháp đó không được áp dụng theo cách để tạo ra sự phân biệt đối xử tuỳ tiện hoặc bất hợp lý giữa các nước, nơi có các điều kiện tương tự nhau, hoặc hạn chế trá hình việc lưu chuyển đầu tư:
Các biện pháp cần thiết để bảo vệ an ninh quốc gia hoặc đạo đức xã hội;
Các biện pháp cần thiết để bảo vệ cuộc sống hoặc sức khoẻ của con người, động vật hoặc thực vật;
Các biện pháp cần thiết để bảo đảm sự tuân thủ pháp luật không trái với các điều khoản của Hiệp định này, bao gồm các biện pháp liên quan tới:
việc ngăn cản các hiện tượng lừa đảo, gian lận hoặc giải quyết các tác động của việc không hoàn thành các nghĩa vụ theo thoả thuận đầu tư;
việc bảo vệ riêng tư của cá nhân liên quan đến việc đưa ra và phổ biến các tư liệu cá nhân và việc bảo vệ bí mật các hồ sơ và tài khoản cá nhân;
việc bảo đảm an toàn.
Các biện pháp nhằm bảo vệ việc đặt ra và thu một cách công bằng hoặc hiệu quả các loại thuế trực thu đối với đầu tư hoặc các nhà đầu tư của các nước thành viên.
ĐIỀU 14
Biện pháp tự vệ khẩn cấp
Nếu do kết quả của việc thực hiện chương trình tự do hoá theo Hiệp định này mà một Quốc gia thành viên bị hoặc đe dọa bị bất kỳ tổn hại nghiêm trọng nào, Quốc gia thành viên này có thể áp dụng các biện pháp tự vệ khẩn cấp trong chừng mực và thời gian cần thiết để ngăn cản hoặc khắc phục tồn hại đó. Các biện pháp này được thực hiện có tính chất tạm thời và không phân biệt đối xử.
Khi thực hiện các biện pháp khẩn cấp theo Điều này, các Quốc gia thành viên phải thông báo cho Hội đồng AIA trong vòng 14 ngày kể từ ngày tiến hành các biện pháp đó.
Hội đồng AIA sẽ xác định định nghĩa tổn hại nghiêm trọng hoặc dọa tổn hại nghiêm trọng và các thủ tục đưa ra các biện pháp tự vệ khẩn cấp phù hợp với Điều này.
ĐIỀU 15
Biện pháp bảo vệ cán cân thanh toán
Trong trường hợp cán cân thanh toán lâm vào tình trạng nghiêm trọng hoặc gặp các khó khăn về tài chính đối ngoại hoặc có sự đe dọa xảy ra các tình trạng trên, Quốc gia thành viên có thể đưa ra hoặc duy trì các hạn chế đối với đầu tư mà Quốc gia đó đã có các cam kết cụ thể, kể cả việc thanh toán hay chuyển tiền để thực hiện các giao dịch liên quan đến các cam kết đó. Các Quốc gia thành viên thừa nhận rằng, các áp lực đối với cán cân thanh toán của một Quốc gia thành viên trong quá trình phát triển kinh tế hoặc chuyển đổi kinh tế có thể buộc Quốc gia đó phải áp dụng các hạn chế để đảm bảo sự duy trì mức dự trữ tài chính đủ để thực hiện các chương trình phát triển kinh tế hoặc chuyển đổi kinh tế của nước mình.
Khi thực hiện các biện pháp bảo vệ cán cân thanh toán theo Điều này, các Quốc gia thành viên phải thông báo cho Hội đồng AIA trong vòng 14 ngày kể từ ngày áp dụng các biện pháp đó.
Các biện pháp nêu trong khoản (1) phải bảo đảm:
không phân biệt đối xử giữa các Quốc gia thành viên;
phù hợp với các quy định của Quỹ Tiền tệ Quốc tế;
tránh sự thiệt hại không cần thiết đối với các quyền lợi thương mại, kinh tế và tài chính của các Quốc gia thành viên khác;
không vượt quá mức cần thiết để giải quyết các tình trạng nêu trong khoản 1; và
là tạm thời và loại bỏ dần khi tình trạng nêu trong khoản 1 được cải thiện.
Các Quốc gia thành viên đưa ra các biện pháp bảo vệ cán cân thanh toán phải bắt đầu tham vấn với Hội đồng AIA và các Quốc gia thành viên khác trong vòng 90 ngày kể từ ngày thông báo để xem xét lại các biện pháp bảo vệ cán cân thanh toán do Quốc gia đó đưa ra.
Hội đồng AIA sẽ quyết định các quy tắc áp dụng đối với các thủ tục theo Điều này.
ĐIỀU 16
Cơ chế tổ chức
Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN (AEM) sẽ thành lập Hội đồng Khu vực đầu tư ASEAN (gọi là “Hội đồng AIA” trong Hiệp định này) bao gồm các Bộ trưỏng phụ trách về đầu tư và Tổng thư ký ASEAN. Những ngưòi đứng đầu các cơ quan đầu tư ASEAN sẽ tham gia các cuộc họp của Hội đồng AIA.
Điều 21 của Hiệp định này không làm ảnh hưởng tới việc Hội đồng AIA sẽ đựoc thành lập ngay sau khi ký Hiệp định này.
Hội đồng AIA sẽ giám sát, điều phối và xem xét việc thực hiện Hiệp định này và hỗ trợ AEM trong tất cả các vấn đề liên quan.
Trong quá trình thực hiện chức năng của mình, Hội đồng AIA sẽ thành lập một Uỷ ban điều phối đầu tư (CCI) bao gồm các quan chức cao cấp chịu trách nhiệm về đầu tư và các quan chức cao cấp khác của các cơ quan hữu quan thuộc Chính phủ.
Uỷ ban điều phối đầu tư sẽ thông báo cho Hội đồng AIA thông qua Hội nghị các quan chức kinh tế cao cấp (SEOM).
ĐIỀU 17
Giải quyết tranh chấp
Nghị định thư về Cơ chế giải quyết tranh chấp ASEAN sẽ áp dụng đối với bất kỳ tranh chấp hoặc bất đồng nào phát sinh giữa các Quốc gia thành viên liên quan đến việc giải thích và áp dụng Hiệp định này hoặc bất kỳ thỏa thuận nào phát sinh từ Hiệp định này.
Khi cần thiết, một cơ chế giải quyết tranh chấp riêng sẽ được thành lập cho mục đích của Hiệp định này và sẽ là một phần không tách rời của Hiệp định này.
ĐIỀU 18
Sửa đổi Hiệp định
Bất kỳ sửa đổi nào của Hiệp định này sẽ được thực hiện theo nguyên tắc nhất trí và có hiệu lực sau khi tất cả các Quốc gia thành viên nộp lưu chiểu văn bản phê chuẩn hoặc phê duyệt cho Tổng thư ký ASEAN.
ĐIỀU 19
Các Hiệp định hoặc Thoả thuận bổ sung
Các Chương trình, Kế hoạch hành động, Phụ lục và bất kỳ thoả thuận hoặc hiệp định nào khác phát sinh từ Hiệp định này sẽ là một phần không tách rời của Hiệp định này.
ĐIỀU 20
Việc tham gia của các Thành viên mới
Các Thành viên mới của ASEAN sẽ tham gia Hiệp định này theo các quy định và điều kiện thoả thuận giữa các Quốc gia đó và các Quốc gia đã ký Hiệp định này và bằng việc nộp lưu chiểu văn bản gia nhập cho Tổng thư ký ASEAN.
ĐIỀU 21
Các điều khoản cuối cùng
Hiệp định này có hiệu lực từ ngày tất cả các Chính phủ ký kết nộp văn bản lưu chiểu phê chuẩn hoặc phê duyệt cho Tổng thư ký ASEAN. Các Chính phủ tham gia ký kết sẽ nộp lưu chiểu văn bản phê chuẩn hoặc phê duyệt của nước mình trong vòng 6 tháng kể từ ngày ký Hiệp định này.
Hiệp định này được Tổng thư ký ASEAN lưu giữ và sẽ nhanh chóng cung cấp bản sao Hiệp định cho từng Quốc gia thành viên.
ĐỂ LÀM CHỨNG NHỮNG ĐIỀU NÓI TRÊN, những người ký tên dưới đây, được sự uỷ quyền hợp lệ của Chính phủ nước mình, đã ký Hiệp định khung về Khu đầu tư ASEAN.
Làm tại Makatu ngày 7 tháng 10 năm 1998 thành một bản duy nhất bằng tiếng Anh.
Thay mặt Chính phủ Brunei Darrusalam
(Đã ký) ABDUL RAHMAN TAIB
Bộ trưởng Bộ Công nghiệp và tài nguyên thiên nhiên.
Thay mặt Chính phủ Cộng hoà In-đô-nê-xi-a
(Đã ký) HAMZAH HAZ
Bộ trưởng Bộ Đầu tư/Chủ tịch Hội đồng điều phối đầu tư.
Thay mặt Chính phủ Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào
(Đã ký) SOULIVONG DARAVONG
Bộ trưởng Bộ Công nghiệp và Thủ công nghiệp.
Thay mặt Chính phủ Ma-lai-xi-a
(Đã ký) RAFIDAH AZIZ
Bộ trưởng Bộ Thương mại Quốc tế và Công nghiệp.
Thay mặt Chính phủ Mi-an-ma
(Đã ký) BRIGADIRE GENERAL DAVID O. ABEL
Bộ trưởng Văn phòng Chủ tịch Hội đồng Hoà bình và Phát triển Quốc gia.
Thay mặt Chính phủ Cộng hoà Phi-lip-pin
(Đã ký) JOSE TRINIDAD PARDO
Bộ trưởng Bộ Thương mại và Công nghiệp.
Thay mặt Chính phủ Cộng hoà Sing-ga-po
(Đã ký) LEE YOCK SUAN
Bộ trưởng Bộ Thương mại và Công nghiệp.
Thay mặt Chính phủ Vương quốc Thái Lan
(Đã ký) SUPACHAI PANITCHPAKDI
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Thương mại.
Thay mặt Chính phủ Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
(Đã ký) TRƯƠNG ĐÌNH TUYỂN
Bộ trưởng Bộ Thương mại.
PHỤ LỤC SỐ 2:
CHƯƠNG TRÌNH I
HIỆP ĐỊNH KHUNG VỀ KHU ĐẦU TƯ ASEAN (AIA)
Chương trình hợp tác và tạo thuận lợi
Đối với Chương trình hợp tác và tạo thuận lợi, các Quốc gia thành viên sẽ thực hiện:
Sáng kiến riêng để:
Tăng cường tính rõ ràng, trong sáng của các quy tắc, quy định, chính sách và thủ tục đầu tư của các Quốc gia thành viên thông qua việc xuất bản các thông tin đó một cách thường xuyên và làm cho các thông tin đó có thể tiếp cận được một cách rộng rãi.
Đơn giản hoá và làm nhanh chóng các thủ tục xin và phê duyệt các dự án đầu tư ở mọi cấp; và
Mở rộng số lượng các Hiệp định song phương về tránh đánh thuế hai lần giữa các Quốc gia thành viên ASEAN.
Sáng kiến tập thể để:
Thiết lập cơ sở dữ liệu về các ngành công nghiệp hỗ trợ của ASEAN và về các nhà cung cấp công nghệ ASEAN;
Thiết lập cơ sở dữ liệu ASEAN để tăng cường trao đổi dữ liệu đầu tư và thông tin về các cơ hội đầu tư ở ASEAN.
Thúc đầy quan hệ giữa khu vực Nhà nước và tư nhân thông qua đối thoại thường xuyên với cộng đồng doanh nghiệp ASEAN và các tổ chức quốc tế khác để xác định các trở ngại trong và ngoài ASEAN và kiến nghị các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư ASEAN;
Xác định các lĩnh vực trọng tâm để hợp tác kỹ thuật, như phát triển nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng, các ngành công nghiệp hỗ trợ, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, công nghệ thông tin, công nghệ công nghiệp, nghiên cứu và phát triển; và phối hợp các nỗ lực trong ASEAN và với các tổ chức quốc tế khác tham gia hợp tác kỹ thuật;
Xem xét lại và bổ sung Hiệp định ASEAN về Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư, nếu có thể; và
Xem xét khả năng ký kết Hiệp định ASEAN về tránh đánh thuế hai lần.
PHỤ LỤC SỐ 3:
CHƯƠNG TRÌNH II
HIỆP ĐỊNH KHUNG VỀ KHU ĐẦU TƯ ASEAN (AIA)
Chương trình xúc tiến và tăng cường hiểu biết
Đối với chương trình xúc tiến và tăng cường hiểu biết, các Quốc gia thành viên sẽ:
Tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư chung như hội thảo, lớp đào tạo, các chuyến khảo sát làm quen cho các nhà đầu tư từ các nước xuất khẩu vốn, cùng xúc tiến các dự án cụ thể với sự tham gia tích cực của khu vực tư nhân;
Tham vấn thường xuyên giữa các cơ quan đầu tư ASEAN về các vấn đề xúc tiến đầu tư;
Tổ chức các chương trình đào tạo liên quan đến đầu tư cho các quan chức của các cơ quan đầu tư ASEAN;
Trao đổi các danh mục các ngành/lĩnh vực khuyến khích mà các Quốc gia thành viên có thể khuyến khích đầu tư từ các Quốc gia thành viên khác và đề xuất các hoạt động xúc tiến đầu tư; và
Xem xét các giải pháp mà các cơ quan đầu tư của các Quốc gia thành viên có thể hỗ trợ hoạt động xúc tiến của các Quốc gia thành viên khác.
PHỤ LỤC SỐ 4:
CHƯƠNG TRÌNH III
HIỆP ĐỊNH KHUNG VỀ KHU ĐẦU TƯ ASEAN (AIA)
Chương trình tự do hoá
Đối với chương trình tự do hoá, các Quốc gia thành viên sẽ:
Đơn phương loại bỏ và hạn chế các biện pháp hạn chế đầu tư và thường xuyên xem xét lại chế độ đầu tư theo hướng tự do hoá hơn. Về vấn đề này, các Quốc gia thành viên có thể thực hiện các biện pháp để tự do hoá, trong đó có:
Các quy tắc và quy định và chính sách liên quan đến đầu tư;
Các quy tắc về điều kiện cấp phép;
Các quy tắc liên quan đến việc tiếp cận nguồn vốn trong nước; và
Các quy tắc để tạo thuận lợi cho việc thanh toán, tiếp nhận và chuyển lợi nhuận của các nhà đầu tư ra ngoài.
Thực hiện các Kế hoạch hành động của từng nước để:
Mở cửa tất cả các ngành nghề cho đầu tư của các nhà đầu tư ASEAN vào năm 2010 và cho tất cả các nhà đầu tư vào năm 2020 phù hợp với các điều khoản của Hiệp định này; và
Dành đối xử quốc gia cho tất cả các nhà đầu tư ASEAN vào năm 2010 và cho tất cả các nhà đầu tư vào năm 2020 phù hợp với các điều khoản của Hiệp định này.
3. Thúc đẩy dòng lưu chuyển tự do hơn về vốn, lao động lành nghề và chuyên gia, và công nghệ giữa các Quốc gia thành viên ASEAN.
PHỤ LỤC SỐ 5: ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1988-2001
Đơn vị: triệu đô la Mỹ
1997
1998
1999
2000
2001
1988-2001
I. FDI
1. Đăng ký mới
4.649
3.897
1.567
1987
2.436
41.002
2. Tăng vốn
1.146
875
641
600
580
6.756
3. Giải thể
544
2.428
564
1.709
1.350
9.284
4. Hết hạn
24
19
1
-
3
296
5. Còn hiệu lực
(1+2-3-4)
31.668
33.993
35.636
36.514
38.177
39.840
6. Thực hiện
(a+b)
3.032
2.189
4321.933
2.10
2.300
21.4821
a. Từ nước ngoài
2.768
2.062
1.758
1.900
2.100
19.115
b. Từ trong nước
264
127
175
200
200
2.367
7. Doanh thu
3.815
3.910
4.600
6.167
7.400
32.644
8. Xuất khẩu
1.790
1.982
2.547
3.300
3.560
15.088
9. Tỷ trọng trong GDP(%)
9,07
10,03
12,24
13,25
13,5
13,5
10. Tốc độ tăng công nghiệp (%)
23,2
24,4
20,0
23,0
12,1
11. Tỷ trọng trong công nghiệp (%)
28,9
32,0
34,4
36,0
35,4
35,4
12. Nộp ngân sách
315
317
271
260
13. Lao động trực tiếp đến cuối năm (1.000 người)
250
270
296
327
380
380
II. ODA
1. Cam kết
2.400
2.700
2.800
2.400
2.356
21.096
2. Giải ngân
1.000
1.350
1.650
1.711
9.726
III. Vốn nước ngoài (thực hiện)
3.768
3.304
3.108
3.550
3.811
28.841
Nguồn : http// www. vneconomy. com (ngày 8/10/2002)
PHỤ LỤC SỐ 6 : MỘT SỐ QUY ĐỊNH VỀ THUẾ THU NHẬP CỦA CÁC NƯỚC ASEAN Nguồn: “Luật pháp và chính sách vể đầu tư nước ngoài của các nước trong khu vực” - Tài liệu tham khảo của Bộ Tài chính (năm 2000)
Ma-lai-xi-a
In-đô-nê-xi-a
Phi-lip-pin
Sing-ga-po
Thái Lan
Mi-an-ma
Việt Nam
Thuế thu nhập doanh nghiệp ĐTNN
28%
10% đối với thu nhập dưới 25 tr rupiah/ năm
15% đối với phần thu nhập từ 25 tr đến 50 tr rupiah/năm
30% đối với thu nhập trên 50tr rupiah/năm
Giảm dần từ 34% năm 98 xuống 33% năm 1999 và 32% từ năm 2000 trở đi
26%
30%
30%
25%
Thuế thu nhập cá nhân
Người cư trú phải chịu thuế thu nhập cá nhân với mức thuế suất từ 2% đến 30% sau khi trừ đi các khoản thu được miễn thuế. Tuy nhiên, nếu thu nhập dưới 2500 RM thì thuế suất là 0%.
Người không cư trú phải chịu thuế thu nhập cá nhân với mức thuế suất 30% và không được hưởng bất kỳ khoản miễn thuế nào.
Áp dụng theo 3 mức giống thuế thu nhập công ty
Mức thuế thu nhập cá nhân thấp nhất là 5%; cao nhất là 34% vào năm 1998, giảm xuống còn 33% (năm 1999) và 32% từ năm 2000 trở về sau
Thuế suất từ 2% đến 26%
0-100.000 baht thuế suất : 5%
100.001-500.000baht: 10%
500.001- 1.000.000 : 20%
1.000.001- 4.000.000 :30%
trên 4.000.000 : 37%
Lương của một người không cư trú bị đánh thuế ở mức 35%. Thu nhập khác bị đánh ở mức ít nhất là 35% hoặc bằng mức của người cư trú từ 3% - 50%
Người nước ngoài : <8tr VND/tháng thuế suất là 0%
20tr: 10%
20-50 tr: 20%
50-80 tr: 30%
80-120: 40%
> 120tr: 50%
Người trong nước:
0-3tr VND /tháng: 0%
3-6tr: 10%
6-9tr: 20%
9-12tr: 30%
12-15tr: 40%
trên 15 tr: 50%
PHỤ LỤC SỐ 7: PHÂN BỔ VỐN FDI TRÊN THẾ GIỚI VÀO MỘT SỐ KHU VỰC (1987-1998) Nguồn: UNCTAD-World Investment Report 1999 -In trong “ Statistics of foreign direct investment in ASEAN” (1999 edition- ASEAN secretariat)
Đơn vị: triệu USD
1987-92 (TB năm)
1993
1994
1995
1996
1997
1998
Thế giới
173.530
219.421
253.506
32. 862
358.869
464.341
643.879
Các nước phát triển
136.628
133.850
146.379
208.372
211.120
273.276
460.431
Các nước đang phát triển
35.326
78.813
101196
106.224
135.343
172.553
165.936
Khu vực và các nước đang phát triển
Châu Á
19.613
54,835
63.844
68.126
82.035
95.505
84.880
Nam, Đông và Đông nam Á
18.569
49,798
61.386
67.065
79.397
87.835
77.277
ASEAN
9.541
15,994
19.681
21.643
25.980
27.813
21.400
Mỹ La tinh và Caribe
12.400
20,009
31.451
32.921
46.162
68.255
71.652
Nam Mỹ
5.510
7.974
14.999
18.950
31.711
46.686
49.973
Trung và Đông Âu
1.576
6.757
5.932
14.266
12.406
18.532
17.513
Châu Phi
3.010
3.469
5.313
4.145
5.907
7.657
7.931
% FDI vào ASEAN trong tổng FDI vào các nước đang phát triển
27%
20%
19%
20%
19%
16%
13%
% FDI vào ASEAN trong tổng FDI vào khu vực đang phát triển ở Châu Á
49%
29%
31%
32%
32%
29%
25%
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TH1309.doc