Đề tài Khủng hoảng kinh tế hiện nay: Phân tích và khuyến nghị từ lý thuyết kinh tế trường phái Áo

Tóm tắt Kinh tế Việt Nam và thế giới đang trong giai đoạn suy thoái, hoặc tệ hơn nữa, khủng hoảng. Bài viết này hướng tới việc lý giải các nguyên nhân dẫn đến suy thoái/ khủng hoảng kinh tế và từ đó đưa ra các khuyến nghị chính sách từ góc nhìn của lý thuyết kinh tế trường phái Áo. Dựa trên kinh nghiệm của cuộc Đại khủng hoảng 1929-1932 và các diễn biến gần đây của nền kinh tế Mỹ, bài viết này cho rằng khả năng kinh tế Mỹ và thế giới tiếp tục rơi sâu vào khủng hoảng trong một thời gian tương đối dài là rất lớn. Đối với nền kinh tế Việt Nam, bài viết cho rằng những chính sách kiểm soát giá cả, kiểm soát hàng hóa, tài chính mở rộng, tiền tệ mở rộng, và duy trì vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là những nguyên nhân làm cho cấu trúc sản xuất của nền kinh tế Việt Nam bị méo mó nghiêm trọng, dẫn đến sự bất ổn vĩ mô trong 2008. Thêm nữa, tình trạng cấu trúc méo mó của nền kinh tế Việt Nam hầu như chưa được cải thiện trong những năm vừa qua, đặt ra nguy cơ của các bất ổn vĩ mô quay trở lại trong thời gian tới. Để có thể tránh rơi vào khủng hoảng trong trước mắt cũng như đạt được tăng trưởng bền vững trong dài hạn, Việt Nam nên rà soát loại bỏ các chính sách cản trở sự phát triển của thị trường, theo đuổi chính sách tài khóa thận trọng và cắt giảm chi tiêu ngân sách, theo đuổi chính sách tiền tệ trung tính, và tiếp tục đẩy mạnh cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước. Mục lục 1. Dẫn nhập 4 2. Lý thuyết chu kỳ kinh doanh của trường phái kinh tế Áo: từ sai lầm trong kế hoạch kinh doanh cá nhân cho tới khủng hoảng 6 2.1. Yếu tố sai lầm và yếu tố học hỏi trong các kế hoạch kinh tế cá nhân 6 2.2. Sự vận động của nền kinh tề thị trường 7 2.3. Sai lầm hệ thống và chu kỳ kinh doanh .7 2.4. Sự khủng hoảng .10 3. Về cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay: Một số nhận xét 11 3.1. Nguyên nhân cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay 12 3.2. Những lo lắng không đáng có .14 3.3. Đánh giá các giải pháp đang được chính phủ Mỹ áp dụng gần đây 16 3.4. Kinh tế thế giới đi về đâu? 18 4. Việt Nam: những mầm mống của suy thoái và khủng hoảng 20 4.1. Các biện pháp can thiệp gián tiếp 20 4.2. Các biện pháp can thiệp trực tiếp .25 5. Các kết luận và khuyến nghị chính sách 32 Tài liệu tham khảo .36 1. Dẫn nhập Đâu là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh tế? Làm thế nào để đối phó với khủng hoảng? Đây là những câu hỏi được quan tâm hàng đầu hiện nay bởi tất cả các giới ở Việt Nam, từ những nhà nghiên cứu kinh tế, những nguời làm chính sách, cho tới hầu hết các cá nhân tham gia vào nền kinh tế. Mối bận tâm này xuất phát từ những bất ổn từ cả bên ngoài và bên trong Việt Nam. Ở bên ngoài, nền kinh tế thế giới năm 2008 trải qua một loạt các khủng hoảng kế tiếp nhau như khủng hoảng cho vay địa ốc dưới chuẩn của Mỹ, sự dao động với biên độ cực lớn trong một thời gian ngắn của giá nguyên liệu cơ bản, đặc biệt là dầu thô và lương thực, sự sụp đổ của các công ty tài chính hàng đầu ở phố Wall, sự sụp đổ hệ thống ngân hàng ở Iceland, và cuối cùng là sự suy thoái của toàn bộ các nền kinh tế trên thế giới. Ở trong nước, vào nửa đầu năm 2008, hầu hết các chỉ số vĩ mô của nền kinh tế của Việt Nam đều ở tình trạng báo động, trong đó đặc biệt phải kể đến chỉ số giá bán lẻ (CPI) (so với cùng kỳ năm ngoái) ở thời điểm cao nhất tăng lên đến hơn 28% và thâm hụt cán cân thương mại ở mức kỷ lục tới 17,5 tỷ USD; thêm vào đó, thị trường chứng khoán bị suy giảm rất mạnh, thị trường bất động sản rơi vào tình trạng đóng băng. Mặc dù, từ giữa năm trở đi các chỉ số vĩ mô bắt đầu đi vào ổn định với CPI và thâm hụt cán cân thương mại hàng tháng giảm dần, nhưng bắt đầu từ quí IV/2008, tăng trưởng kinh tế bắt đầu suy giảm, hiện tượng sa thải nhân công, doanh nghiệp thua lỗ, thậm chí phá sản có chiếu hướng gia tăng. Trong thời gian vừa qua, đã có nhiều nghiên cứu, phân tích của các chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước về nguyên nhân dẫn đến các bất ổn kinh tế vĩ mô trong nước, các nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh tế toàn cầu và tác động của nó đến Việt Nam, và đánh giá các tác động của các chính sách chính phủ tới nền kinh tế 2 . Tuy nhiên, các nghiên cứu này hoặc thường thiên về mô tả hoặc thường dựa trên các phương pháp nghiên cứu vĩ mô tổng hợp Keynesian-tân cổ điển. Ưu điểm của các cách tiếp cận này là chúng thường giúp cho ta có cái nhìn nhanh chóng về tổng thể nền kinh tế. Nhưng chúng lại có nhược điểm cơ bản là thiếu nền tảng vi mô, tức hành vi của các chủ thể thực sự tham gia vào các hoạt động của nền kinh tế. Chính vì thế, các nghiên cứu này thường đưa ra các giải pháp chính sách có tác động trực tiếp và ngắn hạn, trong khi bỏ qua các tác động thứ cấp và dài hạn. Nghiên cứu này sẽ sử dụng lý thuyết chu kỳ kinh doanh của trường phái kinh tế Áo để phân tích nguồn gốc của khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay cũng như sự bất ổn và suy thoái kinh tế ở Việt Nam. Về cơ bản, nó chỉ ra rằng suy thoái xảy ra bắt nguồn từ việc đại bộ phận chủ thể kinh tế nhận ra rằng các kế hoạch và kỳ vọng kinh tế của họ trở nên sai lầm đến mức không thể điều chỉnh, khiến họ phải đồng loạt phải dừng hoặc hủy bỏ. Đằng sau của sự thất bại hàng loạt của các kế hoạch kinh tế cá nhân đa phần là do các tín hiệu sai từ các chính sách của chính phủ chứ không phải là do hành vi phi lí tính của các chủ thể kinh tế. Lý giải cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay, căn cứ vào lý thuyết này, các nhà kinh tế trường phái Áo chỉ ra rằng nguyên nhân chủ yếu là do Mỹ duy trì các định chế cho vay nhà thế chấp dưới chuẩn, do Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) duy trì mức lãi suất thấp trong một thời gian dài, và do Trung Quốc cố duy trì đồng Nhân dân tệ yếu để xuất siêu. Đối với Việt Nam, nguyên nhân là do sự tích tụ của một loạt các chính sách về kiếm soát giá và kiểm soát hàng hóa, chính sách tài khóa mở rộng, chính sách tiền tệ nới lỏng, và chính sách duy trì khối doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả. Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng các can thiệp tiếp theo của chính phủ Mỹ như kích cầu, giải cứu các công ty sắp phá sản, bơm tiền v.v. đều chưa chắc cải thiện được tình hình, nhưng lại có thể làm cho tình hình kinh tế trở nên tồi tệ hơn. Trên cơ sở đó, nghiên cứu này cho rằng tình hình kinh tế thế giới sẽ khó có thể sáng sủa trở lại trong năm tới; và ngay khi suy thoái chấm dứt thì tình trạng trì trệ có khả năng sẽ kéo dài thay vì hồi phục nhanh chóng. Chính phủ Việt Nam vì thế cần rất thận trọng trong việc sử dụng các biện pháp can thiệp trực tiếp như kích cầu hay nới lỏng tiền tệ để chống suy giảm kinh tế. Một khi chính phủ chi tiêu quá nhiều hoặc lượng tiền được đưa ra lưu thông quá lớn trong khi năng lực sản xuất không thể cải thiện do cả sự yếu kém nội tại và sự suy thoái toàn cầu, nền kinh tế Việt Nam dễ bị rơi trở lại vào bất ổn kinh tế vĩ mô như lạm phát hoặc thâm hụt cán cân thanh toán. .

pdf45 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1843 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khủng hoảng kinh tế hiện nay: Phân tích và khuyến nghị từ lý thuyết kinh tế trường phái Áo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
10 Việc rao bán các mặt hàng này gần như công khai trên các trang rao vặt rất phổ biến như: www.azraovat.com, www.muabanraovat.com, www.vatgia.com/, www.choso.vn/, v.v. 11 Không có thống kê đầy đủ về sự phát triển của lĩnh vực công nghiệp này trên toàn thế giới. Nhưng chỉ riêng ngành giải trí tình dục ở Mỹ đã thu về từ 10 tỷ đến 14 tỷ USD hàng năm (theo Comella, 2008). Có thể tham khảo nghiên cứu của Bakker (2007) về sự không thể ngăn cản sự phát triển của ngành ‘khiêu dâm’ này. 27 Để tài trợ cho các hoạt động của mình, nhà nước thu thuế của dân chúng và các cơ sở kinh doanh. Khi đánh thuế, nhà nước sẽ làm giảm thu nhập của người nộp thuế. Khi chi tiêu, nhà nước trước hết mang đến lợi ích cho đội ngũ công chức của nhà nước, tiếp đến là những người mà cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho nhà nước, và cuối cùng là những người được hưởng sự tài trợ của nhà nước. Vì các hoạt động đánh thuế và chi tiêu của nhà nước sẽ dẫn đến việc phân bổ lại các nguồn lực của nền kinh tế từ khu vực này sang khu vực khác nên, gần như chắc chắn, chúng sẽ gây ra những méo mó cho cấu trúc sản xuất của nền kinh tế. Để đánh giá tác động của hệ thống thuế khóa và chi tiêu của nhà nước đối với cấu trúc nền kinh tế, ta xem xét hai khía cạnh sau: (i) Tổng mức thu – chi ngân sách của nhà nước, và (ii) cân đối ngân sách12. Tổng mức thu – chi mà nhà nước thực hiện phản ánh mức độ nhà nước can thiệp vào nền kinh tế. Nếu như trong quá trình vận hành, nhà nước ngày càng giảm được tổng mức thu – chi thì chứng tỏ nhà nước ngày càng vận hành hiệu quả. Còn, cân đối ngân sách phản ánh mức độ rủi ro mà nhà nước có thể gây ra cho nền kinh tế. Nếu ngân sách bị thâm hụt nhiều thì có nghĩa là trong tương lai nhà nước sẽ phải tìm ra cách thức nào đó chưa rõ ràng để bù đắp, khiến cho các chủ thể kinh tế phải đề phòng rủi ro nhiều hơn. Cấu trúc thu chi của nhà nước Việt Nam được trình bày trong Bảng 1. Nhìn vào bảng ta thấy rằng trong giai đoạn từ năm 2000 trở lại đây tổng thu ngân sách nhà nước liên tục tăng, từ mức 20,1% GDP năm 2000 lên đến 27,9% GDP năm 2006. Đóng góp cho sự gia tăng nguồn thu của nhà nước đến chủ yếu từ khối doanh nghiệp nhà nước, từ dầu thô, và từ hải quan. Mặc dù chính phủ Việt Nam cố gắng tăng thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và thuế thu nhập cá nhân để bù đắp cho sự suy giảm nguồn thu từ xuất khẩu dầu thô cũng như khu vực kinh tế nhà nước, nhưng kết quả vẫn chưa thực sự được cải thiện. Song song với việc tăng thu ngân sách, chi ngân sách nhà nước cũng liên tục tăng, từ mức 24,7% GDP năm 2000 lên mức 32,2% GDP năm 2007, trong đó chi cho đầu tư phát triển đã tăng từ mức 6,7% GDP năm 2000 lên đến mức đỉnh 9,7% năm 2003, sau đó giảm xuống quanh mức 9% GDP. Cấu trúc thu – chi ngân sách của nhà nước cho thấy Việt Nam đã thực hiện chính sách tài khóa mở rộng rất mạnh trong giai đoạn 2000-2007. Nhà nước đã đầu tư rất lớn cho cơ sở hạ 12 Còn có một khía cạnh nữa mà các nhà kinh tế học phúc lợi tranh cãi về hệ thống thu – chi ngân sách là mức độ hiệu quả cũng như công bằng mà hệ thống này tạo ra. Chẳng hạn tranh luận về hệ thống thu – chi dựa trên nguyên tắc lợi ích (benefit principle), theo đó các khoản thu của nhà nước nên được gắn với các khoản chi của nhà nước, và hệ thống thu – chi dựa trên nguyên tắc khả năng chi trả (ability-to-pay principle) theo đó việc thu và chi cần căn cứ vào khả năng đóng góp cũng như mức độ thiết yếu của các đối tượng liên quan. Tuy nhiên, đối với trường phái kinh tế Áo, việc tranh luận về khía cạnh này của hệ thống thu – chi ngân sách là không có nhiều ý nghĩa vì bản thân hệ thống thu-chi ngân sách nhà nước đã mang bản chất phi hiệu quả và phi công bằng. 28 tầng. Đây có lẽ là một trong những nguyên nhân chủ yếu đóng góp vào việc gia tăng tín dụng cho nền kinh tế, dẫn đến CPI tăng mạnh trong năm 2007 và 2008. Bảng 1. Cấu trúc thu – chi ngân sách theo phần trăm GDP từ 2000 – 2008 (%) 2000 2002 2003 2004 2005 2006 2007* 2008** Tổng thu (không kể viện trợ) 20,1 22,7 24,3 26,3 26,8 27,9 27,0 26,0 Thu trong nước (Không kể thu từ dầu thô) 10,5 11,9 12,8 14,6 14,3 14,9 13,9 12,0 Thu từ doanh nghiệp Nhà nước 4,5 4,7 4,7 4,5 4,7 4,8 4,7 3,7 Thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 1,1 1,4 1,6 2,1 2,3 2,7 2,7 2,1 Thu từ khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh 1,3 1,4 1,7 1,9 2,0 2,3 2,7 2,2 Thu từ dầu thô 5,3 4,9 6,0 6,8 7,9 8,6 6,0 6,6 Thu từ hải quan 4,3 5,9 5,5 4,9 4,5 4,4 4,9 5,4 Tổng chi 24,7 27,7 29,5 29,9 31,3 31,6 32,2 30,5 Chi cho đầu tư phát triển 6,7 8,4 9,7 9,2 9,4 9,1 8,9 7,8 Chi phát triển sự nghiệp kinh tế xã hội 14,0 14,6 15,6 15,1 15,8 16,6 18,0 -- Cán cân ngân sách -4,1 -4,5 -4,7 -3,3 -4,1 -2,9 -5,2 -5,5 Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu của Tổng cục thống kê Chú thích: (*): Ước tính từ Công bố ngân sách năm 2007 trên website của Bộ tài chính. (**): ước tính từ các thông tin công bố trong ‘Tình hình kinh tế - xã hội năm 2008’ của Tổng cục thống kê. Việt Nam cũng liên tục rơi vào tình trạng thâm hụt ngân sách, hầu như ở mức trên 4% GDP/năm. Với một nước đang phát triển, mức thâm hụt ngân sách như vậy chưa phải thực sự nguy hiểm. Tuy nhiên, với mức thâm hụt liên tục như vậy sẽ làm cho nợ trong nước và nước ngoài ngày càng tăng. Sự tích tụ nợ sẽ gây ra rủi ro cho sự ổn định vĩ mô của nền kinh tế. Trong năm 2008, chính phủ có đề ra các biện pháp cắt giảm chi tiêu để đối phó với mức lạm phát cao. Xét về giá trị, chi tiêu của chính phủ vẫn tăng mạnh, tới 22,3% so với năm 2007 và cao hơn dự toán 18.9%. Nhưng do mức lạm phát tăng cao, nên tổng chi đã giảm xuống còn 30,5% GDP, trong đó chi cho đầu tư phát triển giảm xuống còn 7,8% GDP. Do kinh tế bị suy thoái, tổng thu cũng bị suy giảm, chỉ còn 26% GDP. Hệ quả là thâm hụt ngân sách năm 2008 của Việt Nam ở mức lớn nhất kể từ năm 2000, tới -5,5% GDP. Tình hình có thể còn tệ hơn trong thời gian tới vì để đối phó với sự suy giảm kinh tế, gần đây chính phủ đưa ra nhiều biện pháp giảm thuế, giãn thuế cho doanh nghiệp và cá nhân, trong khi lại tiếp tục thực hiện các chính sách kích cầu và tăng lương tối thiếu. Các nguồn thu quan trọng của ngân sách như từ hải quan, từ dầu thô, từ khu vực DNNN có xu hướng giảm mạnh. Và do 29 chúng ta hầu như không thấy các chính sách liên quan đến việc giảm chi tiêu chính phủ cũng như cân đối ngân sách mang tình dài hạn, nên những biện pháp đối phó ngắn hạn này hầu như chắc chắn sẽ tạo ra áp lực lớn đối với sự ổn định kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong vài năm tới. Tiền tệ và hệ thống tài chính Tiền tệ là phương tiện trao đổi và tích trữ giá trị. Khi tiền tệ chuyển từ hình thức kim bản vị sang hình thức tiền nhà nước (fiat money), nó mất đi tính trung lập vốn có của nó. Tiền tệ trở thành công cụ để nhà nước can thiệp vào nền kinh tế. Tùy từng thời điểm, chính sách tiền tệ được các chính phủ sử dụng để kích thích tăng trưởng, chống lạm phát, hay giảm tỷ lệ thất nghiệp.Tuy nhiên, như các nhà kinh tế trường phái Áo chỉ ra, các chính sách tiền tệ tích cực (pro-active policies) để thực hiện các mục tiêu này đều dẫn đến méo mó cấu trúc sản xuất, tạo ra tiềm ẩn suy thoái và khủng hoảng. Chính sách tiền tệ đúng đắn nhất của các ngân hàng trung ương, theo trường phái kinh tế Áo, là duy trì mức lãi suất tự nhiên cho nền kinh tế, tức mức lãi suất hình thành từ nhu cầu đầu tư và tiết kiệm thực của nền kinh tế. Vấn đề là ngân hàng trung ương không thể biết cụ thể mức lãi suất tự nhiên tại một thời điểm và nó sẽ thay đổi theo chiều hướng nào. Để giải quyết khó khăn này, ngân hàng trung ương nên thực hiện chính sách tiền tệ trung tính (neutral monetary policies), tức làm thế nào để cho sự khác biệt giữa các mức lãi suất trên thị trường và các mức lãi suất tự nhiên là tổi thiểu (Garrison, 2005). Do không thể xác định đước giá trị chính xác của các mức lãi suất tự nhiên, sự vận hành của ngân hàng trung ương mang tính “nghệ thuật thực tiễn” tựa như nghệ thuật kinh doanh của doanh nhân chứ không còn mang tính kỹ thuật như hiện tại. Đối với Việt Nam, chính sách tiền tệ thực ra mới chỉ xuất hiện gần đây. Trong gần suốt thập kỷ 1990, dù ngân hàng trung ương đã được tách khỏi các ngân hàng thương mại (NHTM), nhưng vì trong nền kinh tế khối ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN) chiếm tới trên 80% tổng số tài sản và tín dụng của toàn bộ hệ thống ngân hàng thương mại, nên các hoạt động của ngân hàng nhà nước Việt Nam (NHNNVN) về cơ bản vẫn gắn chặt với các chính sách tài khóa và khu vực DNNN. Chỉ tới năm 1998, với sự ra đời của hai bộ luật Luật về ngân hàng nhà nước Việt Nam và Luật về các tổ chức tín dụng Việt Nam, hoạt động của NHNNVN mới thực sự bắt đầu độc lập với chính sách tài khóa và các hoạt động của DNNN. Các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) cũng bắt đầu được đối xử bình đẳng hơn so với NHTMNN trong việc tiếp cận với NHNNVN. Nhờ những đổi mới này, các NHTMCP đã phát triển với tốc độ rất nhanh từ năm 2000 cho tới nay. Thị phần của các ngân hàng thương mại cổ phần đã tăng từ mức 12% năm 2001 lên tới 30% vào đầu năm 2008. Bức 30 tranh tín dụng của hệ thống tài chính của Việt Nam thay đổi căn bản. Do cạnh tranh, lãi suất huy động vốn từ dân cư đã tăng đáng kể, từ mức dưới 4% năm 2000 lên mức 6,5% vào năm 2002. Trong khi đó lãi suất cho vay lại có xu hướng giảm. Cho tới tháng 3/2008, các DNNN chỉ còn chiếm 31,1% tổng dư nợ tín dụng. DNNN cũng không còn vay chủ yếu từ các NHTMNN nữa. Họ đã mở rộng sang vay của các NHTMCP. Tính tới tháng 6-2008, NHTM chỉ còn cấp 50% tín dụng cho khối DNNN, giảm đáng kể từ mức trên 70% của năm 2002 (Ngân hàng thế giới, 2008). Về phía NHNNVN, đối phó với sự suy giảm kinh tế trong các năm 1998-2000, từ năm 2001 trở lại đây, chính sách tiền tệ nới lỏng để kích thích nền kinh tế phát triển đã được áp dụng13. Hệ quả là cung tiền mở rộng (M2) tăng 381% trong giai đoạn 2001-2007, tổng tín dụng vì thế cũng đã tăng rất nhanh, với mức tín dụng năm 2007 tăng 458% so với năm 2001. Chính sách nới lỏng tín dụng trong giai đoạn này có lẽ là nguyên nhân chính ngấm ngầm làm méo mó cấu trúc sản xuất của nền kinh tế, mà cuối cùng được biểu hiện ra ngoài bắt đầu từ giữa năm 2007, với sự leo thang của CPI, sự hình thành bong bóng bất động sản và bong bóng thị trường chứng khoán. Để đối phó với tình trạng này, trong năm 2008, NHNNVN đã thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm giảm CPI. Một loạt các biện pháp được đưa ra như tăng các mức lãi suất chiết khấu, lãi suất cơ bản và tỷ lệ dự trữ bắt buộc; yêu cầu các ngân hàng mua trái phiếu bắt buộc; và hạn chế cho vay bất động sản, hạn chế cho vay chứng khoán. Những biện pháp này đã khiến cho lãi suất huy động của ngân hàng thương mại có nơi lên đến 21%, đẩy lãi suất cho vay cũng tăng ở mức tương ứng. Hậu quả là nền kinh tế bị phanh gấp, khiến cho nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng thua lỗ. Một danh sách dài những doanh nghiệp thua lỗ trong quí IV/2008 là một minh họa rõ nét cho hậu quả tiêu cực của chính sách phanh gấp này. Rất may cho nền kinh tế Việt Nam là khủng hoảng kinh tế toàn cầu xảy ra vào cuối năm 2008. Nhờ giá cả các nguồn nguyên liệu và máy móc thiết bị nhập khẩu giảm mạnh, áp lực lạm phát và mất cán cân thanh toán được giải tỏa, giúp cho NHNN có thể tăng tín dụng và giảm lãi suất. Các hoạt động của ngân hàng thương mại và khu vực sản xuất đã hồi sinh trở lại. 13 Cụ thể, lãi suất cơ bản trong năm 2001 đã được điều chỉnh giảm từ mức 9%/năm vào đầu năm xuống mức 7%/năm vào cuối năm, sau đó tăng trở lại chút đỉnh nhưng luôn ở dưới mức 7,8%/năm cho đến hết năm 2005, và dưới mức 8,25%/ năm cho đến hết năm 2007; lãi suất chiết khấu được duy trì ở mức 3%/năm vào năm 2003, sau đó được điều chỉnh tăng vài lần nhưng dưới mức 4,5%/năm cho đến hết năm 2007; tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong năm 2003 cho các NHTM là 2% đối với các khoản gửi dưới 12 tháng, sau đó tỷ lệ này được nâng lên mức 5% vào cuối năm 2004 và được duy trì suốt đến giữa năm 2007. 31 Doanh nghiệp nhà nước Có rất nhiều lý do biện minh cho sự tồn tại của doanh nghiệp nhà nước (DNNN), chẳng hạn để cung cấp các dịch vụ công ích cho xã hội, thực hiện các dự án có qui mô lớn hay độ rủi ro cao, và đảm bảo chủ quyền quốc gia. Tuy nhiên, lý thuyết và thực tiễn chỉ ra rằng việc sử dụng DNNN để cung cấp một số loại hàng hóa, dịch vụ nào đó về cơ bản là kém hiệu quả. Nếu DNNN hoạt động trong các lĩnh vực cung cấp hàng hóa thuơng mại thông thường, nó thường cồng kềnh, ít chịu tiến hành các hoạt động đổi mới công nghệ cũng như cắt giảm chi phí, vì nếu thua lỗ thì ngân sách nhà nước sẽ gánh chịu. Nếu hoạt động trong những lĩnh vực mang tính “công ích” đòi hỏi sự trợ cấp của nhà nước thì nó thường dẫn đến khuynh hướng phình to để tăng mức trợ cấp, dẫn đến cung cấp bừa bãi cho người tiêu dùng, gây lãng phí cho xã hội. Hơn nữa, DNNN cũng thường xuyên đòi hỏi việc kiểm soát giá, kiểm soát hàng hóa, đặc quyền về cung cấp hàng hóa và dịch vụ do nhà nước chi trả. Đây là những vấn đề hiện diện thường trực trong các DNNN và hầu như không có giải pháp khắc phục. Việc cải cách DNNN cũng như mở rộng cửa cho phép sự tham gia của khối tư nhân vào các lĩnh vực kinh doanh truyền thống của DNNN trở thành một yêu cầu quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của một quốc gia. Ở Việt Nam, quá trình cải cách khu vực DNNN được thực hiện từ những năm đầu 1990. Tuy nhiên, gần như trong suốt thập kỷ 1990, sự đổi mới khu vực này chủ yếu chỉ dừng ở việc thay đổi cấu trúc tổ chức để tăng tính tự chủ cho DNNN thay vì thay đổi cấu trúc sở hữu của các DNNN. Chỉ từ năm 2000 trở đi, quá trình cổ phần hóa mới bắt đầu được đẩy mạnh hơn, nhờ nhiều biện pháp khác nhau. Cụ thể, thứ nhất, Luật Doanh nghiệp thống nhất năm 2005 đã đưa ra khung quản trị chung cho toàn bộ các doanh nghiệp, bất kể hình thức sở hữu. Thứ hai, nhà nước đã bắt đầu áp dụng nhiều hình thức để cổ phấn hóa DNNN, như bán cho cán bộ công nhân viên của DNNN, đầu giá công khai, bán cho các nhà đầu tư chiến lược, và bán đấu thầu toàn bộ. Thứ ba, nhà nước đã thành lập Tổng công ty đầu tư vốn nhà nước (SCIC) để thay mặt nhà nước thực hiện các quyền chủ sở hữu trong các DNNN. Sự hình thành SCIC góp phần giải quyết mâu thuẫn về lợi ích giữa quản lý nhà nước và quản lý doanh nghiệp của các cơ quan chủ quản DNNN. Đây cũng là cơ sở để xoá bỏ chế độ chủ quản đối với doanh nghiệp mà các cơ quan chính phủ, các bộ, và UBND các tỉnh thành đang nắm giữ. Kết quả là, trong những năm vừa qua, đã có 5.366 doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp lại, trong đó cổ phần hoá 3.756 doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong mấy năm trở lại đây, quá trình sắp xếp DNNN diễn ra rất chậm chạp. Năm 2007 chỉ sắp xếp được 271 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp, trong đó có 81 DNNN được cổ phần hóa, chưa bằng 1/5 kế hoạch cải 32 cách DNNN giai đoại 2007-2010 là phải sắp xếp 1.553 doanh nghiệp Nhà nước. Còn năm 2008, Cổ phần hóa DNNN gần như ngừng trệ. Một vần đề khác xuất hiện gần đây trong khối DNNN là nhiều DNNN mở rộng kinh doanh sang các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, thị trường chứng khoán, và bất động sản. Việc mở rộng kinh doanh dẫn đến sự gia tăng số lượng doanh nghiệp thành viên. So với năm 2006, số lượng công ty con đã tăng 10%, công ty liên kết tăng 39%. Riêng Tập đoàn công nghiệp tàu thuỷ Vinashin chỉ trong năm 2007 đã tăng 43 công ty con, 111 công ty liên kết chỉ trong năm ngoái14. Như vậy, theo báo cáo của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp của Chính phủ15, sau quá trình sắp xếp, đổi mới DNNN, đến nay cả nước vẫn còn tới 1.720 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước được tổ chức dưới hình thức tập đoàn kinh tế (7 đơn vị), tổng công ty nhà nước (86 đơn vị) và công ty nhà nước độc lập (1.099). Nhà nước giữ 100% vốn điều lệ ở 524 doanh nghiệp thành viên, giữ trên 50% vốn điều lệ ở 738 doanh nghiệp thành viên và dưới 50% vốn điều lệ ở 672 doanh nghiệp đã cổ phần hóa. Theo số liệu của Tổng cục thống kê nền kinh tế Việt Nam, vị trí của DNNN trong cơ cấu GDP của nền kinh tế hầu như không có thay đổi đáng kể trong một thời gian dài, chỉ giảm hơn 2%, từ mức 38,52% năm 2000 xuống mức 36,43% năm 2007. Với sự hiện diện vẫn còn lớn như vậy trong cơ cấu kinh tế, việc đánh giá hiệu quả của DNNN trở nên khó khăn. Theo báo cáo gần đây của Ngân hàng thế giới, nếu chỉ nhìn vào tỷ suất lợi nhuận thì ta sẽ có cái nhìn phiến diện về DNNN. Dựa trên số liệu kế toán, Báo cáo của Ngân hàng thế giới cho thấy tỷ suất lợi nhuận trên tài sản của DNNN cũng như các công ty cổ phần có vốn của nhà nước cao hơn hẳn so với khối doanh nghiệp phi nhà nước cũng như khối doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (Hình 5.2, Ngân hàng thế giới, 2008). Tuy nhiên, tỷ suất này không phản ánh được các khía cạnh: giá trị tài sản của DNNN thường được định giá thấp, doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam thường tìm cách khai thấp lợi nhuận để giảm thuế, DNNN được lợi thế về tiếp cận vốn, về các dự án của chính phủ, và về lợi thế độc quyền của nhiều DNNN trong các lĩnh vực thuộc diện kiểm soát giá hoặc kiểm soát hàng hóa. Tóm lại, Việt Nam vẫn duy trì chính sách khu vực doanh nghiệp nhà nước chiếm vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Khu vực tư nhân, mặc dù đã có mức độ tăng trưởng đáng kể, vẫn chưa được khu vực kinh tế nhà nước nhường chỗ kinh doanh trong những các lĩnh vực công 14 “Chuyển đổi DN 100% vốn Nhà nước: hụt hơi chạy tiến độ” (24/04/2008). 15 Theo cuộc họp của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước ngày 10/07/2008. Cũng xem “Doanh nghiệp nhà nước: đã thực sự vững vàng?” (19/07/2008). Nguồn: 33 nghiệp và dịch vụ đòi hỏi vốn đầu tư lớn. DNNN vì thế vẫn là một nguy cơ đáng kể khiến cho nền kinh tế bị méo mó trong tương lai. 5. Các kết luận và khuyến nghị chính sách Dựa trên lý thuyết chu kỳ kinh doanh của trường phái Áo, nghiên cứu này tìm hiểu các nguyên nhân dẫn đến đợt khủng hoảng kinh tế toàn cầu và suy thoái kinh tế hiện nay ở Việt Nam. Dưới đây là những kết luận chính của nghiên cứu này. - Bi quan về khả năng hồi phục của nền kinh tế toàn cầu hiện nay. Kinh nghiệm lịch sử của những đợt khủng hoảng trước như Đại khủng hoảng 1929-1933 và thời kỳ đình đốn-lạm phát kinh tế thập kỷ 1970 cho thấy sự can thiệp của nhà nước là nguyên nhân chính dẫn đến suy thoái và khủng hoảng, và sự can thiệp trực tiếp của nhà nước theo hướng ngăn cản quá trình điều chỉnh cơ cấu sản xuất trong giai đoạn suy thoái thường khiến cho tình hình xấu đi thay vì tốt lên. Đối với cuộc khủng hoảng hiện nay, chính sách can thiệp của chính phủ Mỹ như tăng thâm hụt ngân sách, giảm chất lượng đồng USD, giải cứu các công ty có khả năng bị phá sản v.v. đang đặt nền kinh tế Mỹ cũng như nền kinh tế thế giới vào một tình trạng rủi ro chưa từng có. - Sự suy thoái của nền kinh tế Việt Nam hiện nay phần nhiều bắt nguồn từ các nguyên nhân nội tại. Với xuất phát điểm là một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Việt Nam đã có nhiều cải cách quan trọng theo hướng thị trường. Những cải cách này đã góp phần rất lớn vào sự phát triển của kinh tế Việt Nam trong thời gian vừa qua. Tuy nhiên, sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế vẫn còn nhiều. Số lượng các mặt hàng thuộc diện kiểm soát giá, diện cấm và hạn chế kinh doanh, và kinh doanh có điều kiện vẫn còn rất lớn. Cơ chế kiểm soát các loại mặt hàng này hầu như không có nhiều thay đổi. Những chính sách can thiệp này dẫn đến tổn thất kinh tế, lãng phí tài nguyên, và kìm hãm các lực lượng kinh tế phát triển. Nhà nước cũng liên tục tăng thu để đáp nhu cầu chi tiêu của mình, nhưng mặc dù thế, thâm hụt ngân sách vẫn liên tục mở rộng. Sự chi tiêu lớn của nhà nước, kết hợp với chính sách tiền tệ mở rộng và khối DNNN hầu như không thuyên giảm đã đẩy nền kinh tế vào tình trạng tăng trưởng nóng, kinh tế vĩ mô bất ổn định, dù cho tỷ lệ tăng trưởng không phải là cao so với các nước trong khu vực với cùng mức phát triển trước đây. - Tới hết năm 2008, những nguyên nhân nội tại dẫn đến cấu trúc sản xuất méo mó hầu như chưa được cải thiện. Trong ba quí đầu năm 2008, Việt Nam thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt để ngăn chặn lạm phát. Tuy nhiên, vào cuối năm, NHNN lại bắt đầu khuyến khích mở rộng tín dụng để đối phó với suy giảm kinh tế. Chi tiêu chính phủ lại gia tăng, trong khi 34 nguồn thu bị sụt giảm. Quá trình cải cách DNNN vẫn tiếp tục đình trệ, ngoại trừ việc SCIC dự định thoái vốn ở hầu hết những doanh nghiệp cổ phần vừa và nhỏ mà SCIC đang nắm giữ cổ phần. Một chút tín hiệu tích cực xuất hiện khi chính phủ dự định áp dụng cơ chế thị trường để hình thành giá cho các lĩnh vực xăng dầu, điện, than, nước sạch, và giao thông công cộng. Tóm lại, nếu như những nguyên nhân can thiệp này không được cải thiện, Việt Nam có nguy cơ bị rơi trở lại tình trạng bất ổn kinh tế, thậm chí tồi tệ hơn hồi đầu năm 2008, như lạm phát, mất cân đối cán cân thanh toán, đồng nội tệ bị mất giá bất cứ khi nào. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu xảy ra vào cuối năm 2008 thực sự là một may mắn cho nền kinh tế Việt Nam. Tuy khủng hoảng có làm cho xuất khẩu của Việt Nam bị suy giảm nhưng nó giúp cho Việt Nam tiếp cận được với nguồn nguyên liệu đầu vào cũng như máy móc thiết bị rẻ hơn rất nhiều so với trước đây. Điều này đã giúp cho nền kinh tế tạm thời giải tỏa được các áp lực về lạm phát, mất cân đối cán cân thanh toán, và sự mất giá của VND trong điều kiện chính sách tài khóa và tiền tệ vẫn tiếp tục được nới lỏng. Nếu giả sử nền kinh tế thế giới vẫn tiếp tục tăng trưởng như đầu năm 2008, Việt Nam chắc chắn sẽ phải tiếp tục chính sách thắt chặt tiền tệ và hạn chế nhập siêu, khi đó mức độ suy giảm tăng trưởng của các doanh nghiệp trong nước sẽ còn lớn hơn nhiều so với những gì đang diễn ra hiện nay. Vì thế, ta cần phải nhìn nhận rằng đây là một thời điểm thuận lợi cho Việt Nam tiến hành các cải cách kinh tế nhằm ngăn chặn suy thoái và khủng hoảng quay trở lại, đồng thời tạo ra một cấu trúc kinh tế mới, giúp cho Việt Nam phát triển nhanh hơn và bền vững hơn các quốc gia khác khi kinh tế thế giới hồi phục. Câu đề dẫn ở đầu bài viết mà tôi trích từ tác phẩm Đường về nô lệ (the Road to Serdom) (2009) của F.A. Hayek nên được xem như là nguyên lý nền tảng để xây dựng các chính sách kinh tế của chính phủ. Dưới đây là những khuyến nghị chính sách cụ thể xung quanh việc loại trừ các yếu tố can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế để đặt được mục tiêu này. -Tăng cường thông tin minh bạch để giúp cho mọi cá nhân tự khắc phục khó khăn: Khi suy thoái kinh tế xuất hiện, các cá nhân là những người nhận thấy rõ nhất các sai lầm trong kế hoạch kinh doanh trước đây của mình, và cũng là những người có khả năng nhất trong việc hiệu chỉnh chúng. Để giúp cho các cá nhân có thể tự khắc phục khó khăn, chính phủ nên tăng cường thông tin minh bạch về các hoạt động của mình. Chính phủ cũng có thể thực hiện các hành động như xây dựng các diễn đàn đối thoại thường xuyên giữa chính phủ với các chủ thể kinh tế và giữa các chủ thể kinh tế trong các ngành nghề khác nhau để cho các doanh nghiệp có thể hiểu được khó khăn, thuận lợi, cũng như dự định của nhau, qua đó góp phần làm cho 35 mối liên kết tổng thể được điều chỉnh về trạng thái tốt hơn, giúp cho nguy cơ khủng hoảng được giải toả. - Chính sách tài khóa: Trong giai đoạn suy thoái, Việt Nam nên thực hiện chính sách tài khóa cẩn trọng. Ngân sách chỉ nên dùng để hỗ trợ những người lao động bị mất việc làm thay vì tìm cách cứu giúp các doanh nghiệp thua lỗ. Với một ngân sách liên tục bị thâm hụt và khủng hoảng kinh tế thế giới có khả năng còn kéo dài, việc đẩy mạnh chi tiêu chính phủ ngay trong giai đoạn đầu suy thoái rất dễ khiến cho môi trường kinh tế vĩ mô của Việt Nam bị rơi vào bất ổn trong nay mai. Các biện pháp giãn thuế ngắn hạn trong khi nguồn thu bị thu hẹp sẽ tạo ra bất ổn cho doanh nghiệp thay vì giúp doanh nghiệp vượt khó. Chính phủ cũng nên xây dựng kế hoạch dài hạn để giảm chi tiêu thường xuyên, chuyển các khoản đầu tư công sang cho khu vực tư nhân, qua đó góp phần vào việc giảm thuế dài hạn cho khu vực doanh nghiệp và cá nhân mà vẫn đảm bảo được cân đối ngân sách. - Chính sách tiền tệ: Việt Nam nên nhất quán xây dựng chính sách tiền tệ trung tính (neutral monetary policies) không những trong giai đoạn suy thoái này mà cả trong dài hạn để ngăn ngừa các nguy cơ suy thoái kinh tế trong tương lai. Việc xác định lãi suất chiết khấu, lãi suất cơ bản không nên hướng đến duy trì một mức tăng CPI ổn định hoặc duy trì tỷ lệ tăng trưởng kinh tế ổn định mà nên căn cứ vào vào các đúc kết thực tiễn (practical maxims) của chính NHNNVN như các biến động cung-cầu về vốn vay trên thị trường, tăng giảm năng suất của nền kinh tế, cấu trúc của hệ thống tài chính quốc gia, thói quen sử dụng tiền tệ của dân chúng v.v. để sao cho các mức lãi suất danh nghĩa trên thị trường sát với mức lãi suất tự nhiên của nền kinh tế. Việt Nam cũng nên tiếp tục cho phép nhiều đồng tiền quốc tế làm phương tiện giao dịch trên lãnh thổ Việt Nam. Sự biến đổi tỷ giá cũng như các mức lãi suất ngoại tệ xác lập trên thị trường là những chỉ báo tốt giúp cho NHNNVN dễ dàng hơn trong việc dò tìm ‘mức lãi suất tự nhiên’ cho nền kinh tế hơn. Việc xác định tỷ giá chính thức nên được xem là bài toán sau khi NHNNVN xác lập lãi suất danh nghĩa cho nền kinh tế. Tỷ giá xác lập trên thị trường sẽ dao động căn cứ vào lãi suất danh nghĩa VND, lãi suất ngoại tệ, cung cầu ngoại tệ và vàng trên thị trường. NHNNVN nên chọn thời điểm thích hợp để nới lỏng hơn nữa biên độ giao động tỷ giá. Trên cơ sở các thông số có tính thị trường đó, NHNNVN có thể điểu chỉnh tỷ giá chính thức để phản ánh chính sách lãi suất VND của mình và các thay đổi trên thị trường. - Chính sách cải cách DNNN: Việc đẩy mạnh cổ phần hoá và cải cách doanh nghiệp nhà nước sẽ giúp cho các doanh nghiệp này chủ động tìm kiếm cơ hội thị trường, và nhờ đó có 36 thể sẽ phát triển nhanh hơn. Nhà nước không nên e ngại việc không bán được cổ phiếu ra bên ngoài ở thời điểm cổ phần hoá. Nhà nước có thể vẫn tiếp tục nắm đa phần vốn sở hữu tại các doanh nghiệp sau khi đã cổ phần. Doanh nghiệp sau cổ phần vẫn có thể có động lực đổi mới phát triển nếu như nhà nước cam kết sẽ thưởng cho doanh nghiệp một phần lợi nhuận có được từ phần cổ phiếu thoái vốn của mình nếu như doanh nghiệp làm ăn phát đạt. - Tăng cường vai trò của thị trường và xã hội dân sự cho các lĩnh vực kinh doanh hàng hóa thuộc diện kiểm soát giá và thuộc diện cấm, hạn chế, hoặc kinh doanh. Chính phủ và giới nghiên cứu cần nghiêm túc rà soát lại danh mục các loại hàng hóa thuộc diện kiểm soát giá và thuộc diện cấm, hạn chế, hoặc kinh doanh để nới lỏng các can thiệp hành chính đồng thời tăng cuờng các yếu tố thị trường và xã hội dân sự cho từng mặt hàng. Nếu những nới lỏng này thành công chúng sẽ góp phần rất lớn vào việc mở rộng năng lực sản xuất của nền kinh tế. Với các mặt hàng thuộc diện kiểm soát giá cả hay kinh doanh có điều kiện như các loại nguyên liệu cơ bản (điện, nước, than, xi măng, sắt thép, xăng dầu, đường sắt), các sản phẩm có tính xã hội (bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, giáo dục), các sản phẩm công nghệ, bất động sản, và các sản phẩm phái sinh v.v., chính phủ có thể thiết kế cơ chế thị trường ban đầu cho chúng. Một khi cơ chế thị trường cho các lĩnh vực này được thiết lập, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần hoàn toàn có thể tham gia; và theo thời gian, cơ chế giá cả sẽ được hoàn thiện dần từ thực tiễn để đảm bảo lợi ích cho mọi bên tham gia thị trường. Đối với các mặt hàng thuộc diện cấm hoặc hạn chế kinh doanh (như đánh bạc, các sản phẩm dành cho người lớn, các loại dịch vụ chiêm tinh bói toán, các loại thuốc có tính gây nghiện, karaoke-vũ trường v.v.), chính phủ trước mắt nên tìm cách chuyển chúng sang loại kinh doanh có điều kiện và học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia khác để dần xây dựng được cơ chế thị trường phù hợp cho chúng. Hà nội, tháng 4, 2009. 37 Tài liệu tham khảo Bagus, P. and M. Schiml, (2009), “The Insolvency of the FED,” Mises Daily. Bakker, P., (2007). “The Irresistible Rise of Porn: The Untold Story of a Global Industry,” Observatorio (OBS*), vol 1(1). Bonn, J., (2008), “Deflation: Nothing to Fear,” Mises Daily. Comella, L., (2008), “It's Sexy. It's Big Business. And It's Not Just for Men,” Contexts, vol. 7(3): 61–63 Garrison, R., (2001), “Time and Money: The Macroeconomics of Capital Structure”, Routledge, London. Garrison, R., (2005), “The Austrian School”, in Snowdon, B. and H. Vane (eds.), “Modern Macroeconomics: Its Origins, Development and Currrent State”, Cheltenham: Edward Elgar. Hayek, F., (1931), “Prices and Production”, New York: Augustus M. Kelley. Hayek, F., (2009), “Đường về nô lệ”. NXB Tri Thức: Hà Nội. Higgs, R., (1997), “Regime Uncertainty Why the Great Depression Lasted So Long and Why Prosperity Resumed after the War,” The Independent Review, vol. 1(4):561-590. Horwitz, S., (2000), “Microfoundations and Macroeconomics: An Austrian Approach”, London: Routledge. Hülsmann, G., (1998), “Toward a General Theory of Error Cycles.” Quarterly Journal of Austrian Economics, vol.1(4): 1–24. Murphy, R., (2008). “Did the FED Cause the Housing Bubble?” Mises Daily. Reisman, (2009), “Falling Prices Are the Antidote to Deflation,” Mises Daily. Rothbard, M., (1963). “America’s Great Depression”, Kansas City: Sheed and Ward. Rothbard, M., (2004[1962]). “Man, Economy, and State: A Treatise on Economic Principles”, Auburn, AL: Ludwig von Mises Institutes. Shostak, F., (2006). “How China's monetary policy drives world commodity prices,” Mises Daily. Shostak, F., (2008). “Are Fannie and Freddie Too Big to Fail?” Mises Daily. 38 Skousen, M., (1994). “The Great Depression,” in Boettke, P. (ed.), The Elgar Companion to Austrian Economics, Cheltenham: Edward Elgar. Thornton, (2008)., “The Housing Bubble in 4 Easy Steps, ” Mises Daily. World Bank (2008). “Báo cáo phát triển Việt Nam 2009: Huy động và sử dụng vốn”. Hội nghị Nhóm Tư vấn các nhà tài trợ, Hà nội, 4-5/12/2008. 39 Phụ lục Phụ lục 1 – Danh mục các mặt hàng chịu sự kiểm soát giá cả theo các Nghị định năm 1992, 2003, và 2008 Quyết định 137-HĐBT (1992) Nghị định 170/2003/NĐ-CP (2003) Nghị định 75/2008/NĐ-CP (2008) Danh mục hàng hóa, dịch vụ do nhà nước áp dụng khung giá cố định 1. Điện, cước thư, cước điện thoại, điện báo trong nước; 2. Thuỷ lợi phí đối với việc sử dụng nước từ công trình thuỷ lợi đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước; 3. Tài nguyên nhượng bán hoặc cho thuê; 4. Đất cho thuê; 5. Nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước cho thuê hoặc bán. Danh mục tài sản, hàng hoá, dịch vụ do Nhà nước định giá a) Đất đai theo quy định của Luật Đất đai; b) Mặt nước, tài nguyên quan trọng theo quy định của pháp luật; c) Tài sản của Nhà nước được bán, cho thuê không qua hình thức đấu thầu, đấu giá: - Nhà thuộc sở hữu nhà nước cho thuê hoặc bán; - Hàng hóa dự trữ quốc gia; - Tài sản nhà nước là công trình kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng; - Hàng hoá, dịch vụ được sản xuất theo đặt hàng của Nhà nước. d) Hàng hoá, dịch vụ Nhà nước độc quyền: - Điện; - Dịch vụ vận chuyển hành khách bằng máy bay tuyến đường chuẩn trong nước; - Dịch vụ bưu chính, viễn thông: thư thường trong nước có khối lượng đến 20 gram, thuê bao điện thoại và liên lạc điện thoại nội hạt tại nhà thuê bao, điện thoại đường dài trong nước và quốc tế; thuê kênh viễn thông quốc tế liên tỉnh nội hạt và các dịch vụ bưu chính, viễn thông khác do Thủ tướng Chính phủ quy định theo Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông. đ) Hàng hoá, dịch vụ quan trọng đối với quốc kế dân sinh: - Xăng, dầu theo quy định của Thủ tướng Chính phủ; - Nước sạch cho sinh hoạt; - Vận chuyển hành khách bằng xe buýt trong thành phố, thị xã, khu công nghiệp; - Một số loại thuốc thiết yếu phòng và chữa bệnh cho người; - Hàng hoá được trợ giá, trợ cước vận chuyển; - Báo Nhân dân, báo cơ quan của Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam các tỉnh, thành phố trực Danh mục tài sản, hàng hoá, dịch vụ do Nhà nước định giá a) Đất đai, mặt nước; b) Rừng; c) Tài nguyên quan trọng khác; d) Nhà thuộc sở hữu nhà nước cho thuê hoặc bán. Nhà ở xã hội, nhà ở công vụ; đ) Hàng dự trữ quốc gia; e) Tài sản nhà nước là công trình kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng; g) Hàng hóa, dịch vụ được sản xuất theo đặt hàng của Nhà nước; sản phẩm, dịch vụ công ích được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đặt hàng, giao kế hoạch; h) Hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực độc quyền nhà nước theo quy định của pháp luật; i) Điện; k) Dịch vụ chuyển tải điện; dịch vụ đấu nối lưới điện truyền tải, phân phối điện; dịch vụ điều độ hệ thống điện; dịch vụ điều hành giao dịch thị trường điện lực; các dịch vụ phụ trợ, điều tiết thị trường điện lực, tham gia thị trường điện; l) Dịch vụ vận chuyển hàng không nội địa; dịch vụ cất cánh, hạ cánh; điều hành bay đi, đến; hỗ trợ bảo đảm hoạt động bay; soi chiếu an ninh; phục vụ hành khách; dịch vụ khác tại cảng hàng không, sân bay; m) Dịch vụ đối với thư cơ bản (thư thường) trong nước có khối lượng đến 20 gram; dịch vụ điện thoại nội hạt; dịch vụ bưu chính, viễn thông công ích; dịch vụ bưu chính dành riêng; n) Nước sạch cho sinh hoạt; o) Dịch vụ vận chuyển hành khách công cộng bằng xe buýt trong đô thị, khu công nghiệp; p) Dịch vụ vận chuyển hành khách công cộng bằng đường sắt trong đô thị; q) Thuốc phòng và chữa bệnh cho người do ngân sách nhà nước và bảo hiểm y tế chi trả; r) Hàng hóa được trợ giá; trợ cước vận chuyển; dịch vụ vận chuyển, cung ứng hàng hoá và dịch vụ thiết yếu phục vụ đồng bào miền núi, vùng sâu, vùng xa; s) Báo Nhân dân, báo cơ quan ngôn luận 40 thuộc Trung ương. của Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Danh mục hàng hóa, dịch vụ thuộc diện định giá giới hạn 1. Giá tối đa hàng chuẩn: xăng dầu, kim loại, urê, xi măng, giấy in báo, cước vận chuyển bằng đường sắt, đường biển đối với lương thực từ Nam ra Bắc, phân bón từ Bắc vào Nam và một số hàng hoá quan trọng đưa lên miền núi, giá giới hạn mua vào và bán ra các mặt hàng thuộc danh mục dự trữ quốc gia. 2. Giá tối thiểu mua thóc, giá tối đa bán gạo tại các thị trường trọng điểm khi có biến động giá; 3. Giá tối đa nước máy tại các thành phố, khu công nghiệp; 4. Giá xuất khẩu tối thiểu bằng ngoại tệ: gạo, dầu thô, giá nhập khẩu tối đa bằng ngoại tệ, xăng dầu, urê; 5. Giá để tính thuế đối với đất; 6. Giá để tính thuế một số hàng nhập khẩu; 7. Tỷ giá giữa đồng ngân hàng Việt Nam và đồng ngoại tệ. Danh mục hàng hóa, dịch vụ thuộc diện bình ổn giá a) xăng, dầu, b) khí hoá lỏng, c) xi măng, d) sắt thép, đ) phân bón, e) lúa, gạo, g) cà phê, h) bông hạt và bông xơ, i) mía cây nguyên liệu, k) muối; l) một số loại thuốc phòng, chữa bệnh cho người. Danh mục hàng hóa, dịch vụ thuộc diện bình ổn giá a) Xăng, dầu; b) Xi măng; c) Thép xây dựng; d) Khí hóa lỏng; đ) Phân bón hóa học; e) Thuốc bảo vệ thực vật; g) Thuốc thú y: vac xin lở mồm long móng; vac xin cúm gia cầm; các loại kháng sinh: Oxytetracycline, Ampicilline, Tylosin, Enrofloxacin; h) Muối; i) Sữa; k) Đường ăn (đường trắng và đường tinh luyện); l) Thóc, gạo; m) Thuốc phòng, chữa bệnh cho người thuộc danh mục thuốc chữa bệnh chủ yếu sử dụng tại các cơ sở khám, chữa bệnh do Bộ Y tế quy định; n) Cước vận chuyển hành khách bằng đường săt loại ghế ngồi cứng; o) Một số loại thức ăn chăn nuôi gia súc: ngô, đậu tương, khô dầu đậu tương. 41 Phụ lục 2: Danh mục kiểm soát hàng hóa theo các Nghị định 1995, 1999, và 2006 Nghị định 02/CP (05/01/1995) Nghị định 11/1999/NĐ-CP (03/03/1999) Nghị định 59/2006/NĐ-CP (12/06/2006) Danh mục cấm kinh doanh 1. Vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng và phương tiện kỹ thuật quân sự. 2. Các chất ma tuý. 3. Các hiện vật có giá trị thuộc di tích 4. Các vật phẩm, sản phẩm văn hoá phản động, đồi truỵ. 5. Thuốc lá điếu sản xuất tại nước ngoài. 6. Các loại pháo nổ sản xuất trong nước, các loại pháo sản xuất tại nước ngoài. 7. Các loại thuốc chữa bệnh cho người và gia súc, thuốc bảo vệ thực vật và các loại trang thiết bị, dụng cụ y tế chưa được phép sử dụng ở Việt Nam. 8. Thực vật, động vật rừng quý hiếm. 9. Một số loại đồ chơi cho trẻ em gây nguy hại tới giáo dục nhân cách, tới sức khoẻ của trẻ em, hoặc tới an ninh trật tự, an toàn xã hội. 10. Hành vi có tính kinh doanh hoặc dịch vụ trái với thuần phong mỹ tục Việt Nam. 1. Vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng và phương tiện kỹ thuật chuyên dùng của các lực lượng vũ trang 2. Các chất ma túy 3. Một số hóa chất có tính độc hại mạnh 4. Các hiện vật thuộc di tích lịch sử, văn hóa, bảo tàng 5. Các sản phẩm văn hóa phản động, đồi trụy, mê tín dị đoan hoặc có hại tới giáo dục nhân cách 6. Thuốc lá điếu sản xuất tại nước ngoài 7. Các loại pháo 8. Các loại thuốc phòng bệnh, chữa bệnh cho người và gia súc, thuốc bảo vệ thực vật và các loại trang thiết bị, dụng cụ y tế chưa được phép sử dụng tại Việt Nam 9. Thực vật, động vật hoang dã thuộc danh mục Công ước quốc tế quy định mà Việt Nam tham gia ký kết và các loại động vật, thực vật quý hiếm khác cần được bảo vệ 10. Một số đồ chơi trẻ em có hại tới giáo dục nhân cách, sức khỏe của trẻ em hoặc tới an ninh, trật tự, an toàn xã hội 11.(*) Một số loại hoá chất, phụ gia, chế phẩm sinh học, chất xử lý môi trường, chất tẩy rửa khử trùng sử dụng cho sản xuất giống, nuôi trồng, bảo quản, chế biến thủy sản và dịch vụ thủy sản không được phép sử dụng tại Việt Nam A. Hàng hóa 1. Vũ khí quân dụng, trang thiết bị, kỹ thuật, khí tài, phương tiện chuyên dùng quân sự, công an; quân trang (bao gồm cả phù hiệu, cấp hiệu, quân hiệu của quân đội, công an), quân dụng cho lực lượng vũ trang; linh kiện, bộ phận, phụ tùng, vật tư và trang thiết bị đặc chủng, công nghệ chuyên dùng chế tạo chúng 2. Các chất ma túy 3. Hóa chất bảng 1 (theo Công ước quốc tế) 4. Các sản phẩm văn hóa phản động, đồi trụy, mê tín dị đoan hoặc có hại tới giáo dục thẩm mỹ, nhân cách 5. Các loại pháo 6. Đồ chơi nguy hiểm, đồ chơi có hại tới giáo dục nhân cách và sức khỏe của trẻ em hoặc tới an ninh, trật tự, an toàn xã hội (bao gồm cả các chương trình trò chơi điện tử) 7. Thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật cấm hoặc chưa được phép sử dụng tại Việt Nam theo quy định tại Pháp lệnh Thú y, Pháp lệnh Bảo vệ và kiểm dịch thực vật 8. Thực vật, động vật hoang dã (bao gồm cả vật sống và các bộ phận của chúng đã được chế biến) thuộc danh mục điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên quy định và các loại thực vật, động vật quý hiếm thuộc danh mục cấm khai thác và sử dụng 9. Thủy sản cấm khai thác, thủy sản có dư lượng chất độc hại vượt quá giới hạn cho phép, thủy sản có độc tố tự nhiên gây nguy hiểm đến tính mạng con người 10. Phân bón không có trong danh mục được phép sản xuất, kinh doanh và sử dụng tại Việt Nam 11. Giống cây trồng không có trong danh mục được phép sản xuất, kinh doanh; giống cây trồng gây hại đến sản xuất và sức khỏe con người, môi trường, hệ sinh thái 12. Giống vật nuôi không có trong danh mục được phép sản xuất, kinh doanh; giống vật nuôi gây hại cho sức khỏe con người, nguồn gen vật nuôi, môi trường, hệ sinh thái 13. Khoáng sản đặc biệt, độc hại 14. Phế liệu nhập khẩu gây ô nhiễm môi trường 15. Các loại thuốc chữa bệnh cho người, các loại vắc xin, sinh phẩm y tế, mỹ phẩm, hóa chất và chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn trong lĩnh vực gia dụng và y tế chưa được phép sử dụng tại Việt Nam 16. Các loại trang thiết bị y tế chưa được phép sử dụng tại Việt Nam 17. Phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm, vi chất dinh dưỡng, thực phẩm chức năng, thực phẩm có nguy cơ cao, thực phẩm được bảo quản bằng phương pháp chiếu xạ, thực phẩm có gen đã bị biến đổi chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép 18. Sản phẩm, vật liệu có chứa amiăng thuộc nhóm amfibole B. Dịch vụ 1. Kinh doanh mại dâm, tổ chức mại dâm, buôn bán phụ nữ, trẻ em 42 2. Tổ chức đánh bạc, gá bạc dưới mọi hình thức 3. Dịch vụ điều tra bí mật xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân 4. Hoạt động kinh doanh môi giới kết hôn có yếu tố nước ngoài nhằm mục đích kiếm lời 5. Hoạt động kinh doanh môi giới nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nhằm mục đích kiếm lời Danh mục hạn chế kinh doanh I. Hàng hóa đặc biệt hạn chế kinh doanh 1. Hàng hóa có chứa chất phóng xạ và thiết bị phát bức xạ ion hóa 2. Vật liệu nổ a) Vật liệu nổ công nghiệp b) Vật liệu nổ dùng cho quốc phòng, an ninh 3. Thuốc bảo vệ thực vật thuộc danh mục hạn chế sử dụng tại Việt Nam II. Hàng hóa hạn chế kinh doanh 1. Thuốc lá điếu sản xuất trong nước 2. Rượu các loại từ trên 30 độ cồn trở lên A. Hàng hóa 1. Súng săn và đạn súng săn, vũ khí thể thao, công cụ hỗ trợ 2. Hàng hóa có chứa chất phóng xạ, thiết bị phát bức xạ hoặc nguồn phóng xạ 3. Vật liệu nổ công nghiệp, Nitrat Amôn (NH4NO3) hàm lượng cao từ 98,5% trở lên 4. Hóa chất bảng 2 và bảng 3 (theo Công ước quốc tế) 5. Thực vật, động vật hoang dã quý hiếm (bao gồm cả vật sống và các bộ phận của chúng đã được chế biến) 6. Thuốc lá điếu, xì gà và các dạng thuốc lá thành phẩm khác 7.Rượu các loại B. Dịch vụ 1. Dịch vụ karaoke, vũ trường Danh mục kinh doanh có điều kiện 1. Phế liệu, phế thải kim loại và phế liệu, phế thải có hoá chất độc hại 2. Vật liệu xây dựng (kinh doanh ở thành thị) 3. Hoá chất độc mạnh, chất phóng xạ. 4. Vật liệu nổ dùng trong công nghiệp 5. Xăng, dầu và các loại chất đốt bằng hoá chất. 6. Than mỏ (trừ than đã chế biến làm chất đốt sinh hoạt gia đình). 7. Khách sạn Nhà trọ 8. Các dịch vụ: - Khắc dấu - Cho thuê và sửa chữa súng săn. - Vũ trường, massage - Giải phẫu thẩm mỹ - Sòng bạc (casino) 9. In ấn, kinh doanh các thiết bị Mục I. Hàng hóa, dịch vụ cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh A. Hàng hóa 1. Xăng dầu các loại 2. Khí đốt các loại 3. Hóa chất độc hại và sản phẩm có hóa chất độc hại 4. Thuốc phòng bệnh, chữa bệnh cho người, các loại vắc xin, sinh phẩm, trang thiết bị, dụng cụ y tế 5. Thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật 6. (*) Thuốc thú y thủy sản 7. (*) Thức ăn thủy sản B. Dịch vụ 1. Dịch vụ giết mổ gia súc II. Hàng hóa, dịch vụ không phải cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh A. Hàng hóa 1. Vàng 2. Đá qúy 3. Thực phẩm tươi sống và chế biến Mục 1: Hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh A. Hàng hóa 1. Xăng, dầu các loại 2. Khí đốt các loại (bao gồm cả hoạt động chiết nạp) 3. Các thuốc dùng cho người 4. Thực phẩm thuộc Danh mục thực phẩm có nguy cơ cao 5. Thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật; nguyên liệu sản xuất thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật 6. Di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia 7. Phim, băng, đĩa hình (bao gồm cả hoạt động in, sao chép) 8. Nguyên liệu thuốc lá B. Dịch vụ 1. Dịch vụ y tế; dịch vụ y, dược cổ truyền 2. Dịch vụ kinh doanh thuốc bao gồm dịch vụ bảo quản thuốc và kiểm nghiệm thuốc 3. Hành nghề thú y 4. Hành nghề xông hơi khử trùng 5. Thiết lập mạng và cung cấp dịch vụ viễn thông 6. Dịch vụ truy nhập Internet (ISP) 7. Dịch vụ kết nối Internet (IXP) 8. Dịch vụ ứng dụng Internet trong bưu chính, viễn thông (OSP bưu chính, OSP viễn thông) 9. Cung cấp dịch vụ bưu chính 10. Dịch vụ chuyển phát thư trong nước và nước ngoài 11. Phân phối điện, bán buôn điện, bán lẻ điện và tư vấn chuyên ngành về điện lực 12. Dịch vụ tổ chức biểu diễn nghệ thuật 13. Dịch vụ hợp tác làm phim 14. Dịch vụ vận tải đa phương thức quốc tế 43 ngành in 10. Một số cổ vật không thuộc loại cấm kinh doanh. 11. Dịch vụ cầm đồ. 12. Dịch vụ trông giữ tài sản. 13. –n uống (trong khách sạn nhà hàng) –n uống bình dân. 14. Giết mổ, bán thịt gia súc, gia cầm. 15. Chế biến thực phẩm. 16. Thuốc chữa bệnh cho người. 17. Thuốc thú y, thuốc 18. Khám chữa bệnh Đông, Tây y. 19. Một số trang bị, dụng cụ y tế 20. Vàng, đá quý (gồm cả làm dịch vụ gia công chế tác). 21. Một số loại vật tư kỹ thuật các cấp (hoá chất, kim loại mầu, thiết bị công nghệ...) 22. Dịch vụ du lịch lữ hành: + Quốc tế + Trong nước 4. Vật liệu xây dựng 5. Than mỏ (trừ than đã chế biến làm chất đốt cho sinh hoạt gia đình) 6. (*) Giống thủy sản 7. (*) Ngư cụ và trang thiết bị khai thác thủy sản 8. (*) Thủy sản tươi sống và đã chế biến B. Dịch vụ 1. Cầm đồ 2. Nhà hàng ăn uống 3. Kinh doanh ăn uống bình dân 4. (*) Thú y thủy sản 5. (*) Bảo quản, vận chuyển giống thủy sản, thức ăn thủy sản 6. (*) Thu gom, bảo quản và vận chuyển thủy sản 15. Dịch vụ thiết kế phương tiện vận tải 16. Các dịch vụ bảo hiểm: - Bảo hiểm nhân thọ; - Bảo hiểm phi nhân thọ; - Tái bảo hiểm; - Môi giới bảo hiểm; - Đại lý bảo hiểm. 17. Các dịch vụ về chứng khoán và thị trường chứng khoán: Môi giới chứng khoán; tự kinh doanh chứng khoán; quản lý danh mục đầu tư chứng khoán; bảo lãnh phát hành chứng khoán; tư vấn tài chính và đầu tư chứng khoán; đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán; Bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương; Đấu thầu trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương 18. Dịch vụ xuất khẩu lao động 19. Dịch vụ pháp lý (bao gồm cả tư vấn pháp luật và bào chữa) do luật sư Việt Nam thực hiện 20. Dịch vụ tư vấn pháp luật do luật sư nước ngoài thực hiện 21. Dịch vụ khắc dấu 22. Dịch vụ bảo vệ 23. Dịch vụ lữ hành quốc tế Mục 2 Hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện không cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh A. Hàng hóa 1. Các loại hóa chất độc khác không thuộc hóa chất bảng (theo Công ước quốc tế) 2. Thực phẩm ngoài Danh mục thực phẩm có nguy cơ cao, nguyên liệu thực phẩm, phụ gia thực phẩm và chất hỗ trợ chế biến thực phẩm 3. Các loại trang thiết bị y tế 4. Ngư cụ (bao gồm cả nguyên liệu để chế tạo ngư cụ) và trang thiết bị khai thác thủy sản 5. Thức ăn nuôi thủy sản 6. Giống vật nuôi được phép sản xuất kinh doanh 7. Thức ăn chăn nuôi 8. Giống cây trồng chính, giống cây trồng quý hiếm cần bảo tồn 9. Phân bón 10. Vật liệu xây dựng 11. Than mỏ 12. Vật tư, thiết bị viễn thông (trừ thiết bị phát, thu phát sóng vô tuyến) 13. Thiết bị phát, thu phát sóng vô tuyến 14. Các loại máy, thiết bị, vật tư, các chất có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động, vệ sinh lao động 15. Vàng B. Dịch vụ 1. Giết mổ, sơ chế động vật, sản phẩm động vật; bảo quản, vận chuyển sản phẩm động vật sau giết mổ, sơ chế 2. Dịch vụ về giống cây trồng, vật nuôi theo Pháp lệnh Giống cây trồng và Pháp lệnh Giống vật nuôi 3. Đại lý dịch vụ bưu chính, dịch vụ chuyển phát thư 44 (bao gồm cả đại lý dịch vụ chuyển phát thư cho tổ chức chuyển phát nước ngoài) 4. Đại lý dịch vụ viễn thông 5. Đại lý dịch vụ Internet công cộng 6. Dịch vụ phát hành xuất bản phẩm 7. Dịch vụ quảng cáo 8. Dịch vụ cho thuê lưu trú 9. Dịch vụ kinh doanh các tòa nhà cao trên 10 tầng làm khách sạn, nhà ở, văn phòng làm việc 10. Dịch vụ cầm đồ 11. Dịch vụ in 12. Dịch vụ thành lập, in và phát hành các loại bản đồ không thuộc phạm vi quản lý của cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương 13. Dịch vụ kiểm định các loại máy, thiết bị, vật tư, các chất có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động, vệ sinh lao động 14. Dịch vụ dạy nghề; tư vấn dạy nghề 15. Dịch vụ giới thiệu việc làm 16. Dịch vụ vận tải bằng ô tô 17. Dịch vụ vận tải đường sắt 18. Kinh doanh kết cấu hạ tầng đường sắt 19. Các dịch vụ hỗ trợ vận tải đường sắt 20. Dịch vụ vận tải đường sắt đô thị 21. Dịch vụ đóng mới, hoán cải, sửa chữa, phục hồi phương tiện thủy nội địa 22. Dịch vụ xếp, dỡ hàng hóa, phục vụ hành khách tại cảng, bến thủy nội địa 23. Dịch vụ vận tải đường thủy nội địa 24. Dịch vụ đại lý tầu biển 25. Dịch vụ đại lý vận tải đường biển 26. Dịch vụ môi giới hàng hải 27. Dịch vụ cung ứng tầu biển 28. Dịch vụ kiểm đếm hàng hóa 29. Dịch vụ lai dắt tầu biển 30. Dịch vụ sửa chữa tầu biển tại cảng biển 31. Dịch vụ vệ sinh tầu biển 32. Dịch vụ xếp dỡ hàng hóa tại cảng biển 33. Dịch vụ vận tải biển 34. Đại lý làm thủ tục hải quan 35. Dịch vụ kế toán 36. Dịch vụ kiểm toán và các dịch vụ liên quan khác về tài chính, kế toán, thuế 37. Dịch vụ thẩm định giá 38. Các dịch vụ hoạt động xây dựng được quy định trong Luật Xây dựng 39. Dịch vụ cho người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuê nhà tại Việt Nam 40. Dịch vụ lưu trú du lịch 41. Dịch vụ lữ hành nội địa 42. Đại lý lữ hành 43. Dịch vụ vận chuyển khách du lịch 44. Dịch vụ du lịch trong khu du lịch, điểm du lịch, đô thị du lịch 45. Dịch vụ hướng dẫn viên 46. Dịch vụ giám định thương mại (*) Ban hành bổ sung theo Nghị định 2002. 45 LIÊN HỆ: Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (CEPR) Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà nội Phòng 704, Nhà E4, 144 Đường Xuân Thủy, Quận Cầu Giấy Địa chỉ: Hà nội, Việt nam Tel: (84) 4 3754 7506/ext 704 -714 Fax: (84) 4 3704 9921 Email: Info@cepr.org.vn Website: www.cepr.org.vn © 2009 Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfNC09 Dinh Tuan Minh.pdf
Tài liệu liên quan