Đề tài Khủng hoảng kinh tế - tài chính tại Argentina: Nguyên nhân và Bài học

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 3 NỘI DUNG 4 I. Tình hình kinh tế Argentina trước khủng hoảng 4 II. Diễn biến 5 1. Các chính sách đề ra: 6 2. Cuộc khủng hoảng xảy ra 9 3. Hiệu ứng của cuộc khủng hoảng 10 III. Nguyên nhân của khủng hoảng 12 Trình tự cố biến cố trong cuộc khủng hoảng tài chính ở Argentina 14 IV. Biện pháp khôi phục nền kinh tế 16 Chính sách thương mại: 16 Chính sách đối ngoại: 19 Chính sách đầu tư: 19 Chính sách tài chính: 19 V. Bài học kinh ngiệm cho Việt Nam 20 1. Duy trì tỷ lệ vay nợ nước ngoài ở mức an toàn (<40% GDP). 20 2. Xây dựng cơ chế giám sát hữu hiệu các khoản vay nước ngoài 21 3. Cải cách bộ máy quản lý: giải quyết tham nhũng, cổ phần hóa ồ ạt và thất thoát 24

doc27 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3549 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khủng hoảng kinh tế - tài chính tại Argentina: Nguyên nhân và Bài học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài: Khủng hoảng kinh tế - tài chính tại Argentina: Nguyên nhân và Bài học Đề cương chi tiết: Lời mở đầu: Vài nét về Argentina. Nội dung nghiên cứu (Khủng hoảng vỡ nợ 1998 – 2001) Mục tiêu: giải thích nguyên nhân và rút ra bài học. Nội dung nghiên cứu Tình hình kinh tế Argentina trước khủng hoảng(thập niên 90) Thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế: Tư hữu hóa các xí nghiệp quốc doanh Lập hệ thống tiền tệ kép: cố định tỷ giá 1Peso =1USD =>có tác dụng tức thời, 3 năm sau nền kinh tế phát triển tốt, kiềm chế được lạm phát. Tuy nhiên do tự do hóa quá lớn đã để lại những mầm mống bất ổn =>khủng hoảng xảy ra, bắt đầu từ cuối năm 1998 và lên đến đỉnh điểm năm 2001. Nguyên nhân khủng hoảng Sai lầm trong chính sách tiền tệ (chính sách tỷ giá cố định, tư hữu hóa các xí nghiệp quốc doanh bán cho nước ngoài….) Lợi dụng uy tín quốc gia vay nợ nước ngoài để bù đắp ngân sách và ổn định đồng nội tệ, khi không có đủ ngoại tệ để chi trả =>vỡ nợ. Các cú sốc từ bên ngoài: Khủng hoảng tiền tệ Châu Á 97 – 98 Đô la lên giá =>Peso lên giá theo =>ảnh hưởng xuất khẩu Mêhico phá giá đồng Peso năm 94 Braxil phá giá đồng real năm 99 Bất ổn về hệ thống chính trị (tham nhũng,lãng phí, bộ máy yếu kém….) Bài học cho Việt Nam Duy trì tỷ lệ vay nợ nước ngoài ở mức an toàn (<40% GDP). Xây dựng cơ chế giám sát hữu hiệu các khoản vay nước ngoài. Cải cách bộ máy quản lý: giải quyết tham nhũng, Cổ phần hóa ồ ạt và thất thoát, hàng rào thuế quan yếu kém…. Kết luận LỜI MỞ ĐẦU Liên tục trong những năm của thập niên 90, Argentina thực hiện chương trình tái cấu trúc nền kinh tế rất mạnh mẽ, nổi bật là chương trình tư hữu hóa các xí nghiệp quốc doanh, bán chúng cho các ông chủ nước ngoài cùng với việc vay nợ nước ngoài đã giúp Chính phủ Argentina ổn định được giá trị đồng nội tệ, bước đầu đạt được sự tăng trưởng ngoạn mục trong thời gian sau đó. Vào thời gian đó, Argentina là một trong những “học trò xuất sắc” của IMF, được ngợi khen như một điển hình của sự thần kỳ mới. Thế rồi đến tháng 12/2001 hệ thống ngân hàng Argentina sụp đổ, nhấn chìm một trong những trung tâm kinh tế năng động và thành công tại khu vực Nam Mỹ. Gần như chỉ sau một đêm, đất nước này đã rơi vào cảnh đói nghèo, chỉ trong vòng 5 tuần 5 vị tổng thống lên chức xuống chức. Người dân, công nhân, viên chức ùa xuống đường biểu tình….Chính quyền Argentina cho rằng thủ phạm là các chính sách mà IMF và WB áp dụng tại nước này từ những năm 1990. Người dân thì cho rằng các nhà lãnh đạo đất nước phải chịu trách nhiệm trực tiếp cho những nỗi khổ mà họ đang phải chịu đựng. Vậy nguyên nhân thực sự của sự sụp đổ này là do đâu? Đó là một vấn đề lớn mà nhiều nhà nghiên cứu kinh tế đã tốn không ít giấy mực. Đây cũng là đề tài mà nhóm chúng tôi đưa ra để thảo luận, từ điển hình của Argentina mà rút ra những bài học cho Việt Nam trong giai đoạn hiên nay, khi Việt Nam cũng đang được xem là một thần kỳ mới, để rồi liệu rằng Việt Nam có vấp phải những sai lầm như Argentina đã từng vấp phải hay không ? NỘI DUNG Tình hình kinh tế Argentina trước khủng hoảng Vào đầu thế kỷ 20, Argentina là một trong những quốc gia giàu nhất thế giới. Với tài nguyên giàu có, Argentina xuất khẩu mạnh thực phẩm và nguyên vật liệu. Trong 4 thập kỷ từ sau thế chiến thứ hai đến cuối 80, Argentina áp dụng: Chính sách phát triển hướng nội Chính sách ngân sách mở rộng; thâm hụt ngân sách được tài trợ bằng in tiền. àTừ 1976 đến 1989, hai cuộc siêu lạm phát và hai cuộc khủng hoảng ngân hàng xảy ra. Nguyên nhân là do Argentina áp dụng chế độ độc tài quân sự trong nhiều năm, mà kết quả là ảnh hưởng một số vấn đề quan trọng về kinh tế. Trong quá trình đổi mới tổ chức quốc gia (1976-1983) đã được mua lại nợ rất lớn cho tiền mà sau đó đã bị mất trong các dự án khác nhau chưa hoàn thành. Đến cuối của chính quyền quân sự của quốc gia ngành công nghiệp đã bị ảnh hưởng nặng nề và thất nghiệp là lúc điểm cao nhất của nó. Năm 1983, dân chủ ở trong nước đã được phục hồi với cuộc bầu cử tổng thống của Raúl Alfonsín. Chính phủ mới của kế hoạch bao gồm ổn định nền kinh tế của Argentina bao gồm cả việc tạo ra một loại tiền tệ mới, trong đó vốn vay mới được yêu cầu. Bang cuối cùng đã trở thành không thể trả lãi suất vay nợ này, nền kinh tế sụp đổ và lạm phát bắt đầu gia tăng. Năm 1989, Argentina của lạm phát đạt 200% / tháng, cao sang 3.000% mỗi năm. Tổng thống từ chức Alfonsin sáu tháng trước khi kết thúc nhiệm kỳ của ông, và Carlos Menem nhậm chức. Những năm 1990: Cuộc chiến chống lạm phát đã đi tốt, và Argentina đã bắt đầu phục hồi. Đầu năm 1991, dưới sự cai trị của Bộ trưởng Bộ Kinh tế Domingo Cavallo, điều hành các biện pháp cố định giá trị của tiền tệ Argentina tại Australes trên 10.000 đô la Mỹ. Hơn nữa, mọi công dân có thể đi đến một ngân hàng và yêu cầu đối với bất kỳ số lượng tiền mặt trong tiền tệ trong nước sẽ được chuyển thành số tiền tương ứng của đô la, nhằm bảo toàn chuyển đổi này, các NHTW đã bị ràng buộc để giữ cho đồng đô la dự trữ của mình tại cùng cấp như là tiền mặt trong lưu thông. Mục đích ban đầu của các biện pháp như vậy là để đảm bảo sự chấp nhận của đơn vị tiền tệ trong nước, vì trong thời gian 1989 và 1990 đỉnh Siêu lạm phát, người dân đã bắt đầu để từ chối nó như thanh toán, đòi đô la Mỹ để thay thế. Chế độ này sau đó được qui định bởi một luật (Ley de Convertibilidad) mà phục hồi các Peso là đơn vị tiền tệ Argentina, với giá trị tiền tệ cố định của pháp luật với giá trị của đồng đô la Mỹ. Như là kết quả của pháp luật chuyển đổi, lạm phát giảm đáng kể, ổn định giá được đảm bảo, và giá trị của tiền tệ được bảo tồn. Điều này tăng chất lượng cuộc sống cho nhiều công dân, những người bây giờ có thể đủ khả năng để đi du lịch nước ngoài, mua đồ dùng trong nước và nhập khẩu sản phẩm điện tử hoặc yêu cầu cho các khoản tín dụng bằng đô la với lãi suất rất thấp. Nhưng Argentina đã phải trả các khoản nợ quốc tế, và nó cần thiết để giữ tiền vay. Tỷ giá hối đoái cố định được nhập khẩu giá rẻ, sản xuất một chuyến bay không đổi đô la ra khỏi đất nước và mất một tiến bộ của cơ sở hạ tầng công nghiệp của Argentina, dẫn tới sự gia tăng tỷ lệ thất nghiệp. Trong khi đó, chính phủ chi tiêu tiếp tục được cao và tham nhũng đã lan tràn. Nợ công của Argentina đã tăng trưởng rất nhiều trong những năm 1990, và các quốc gia cho thấy không có dấu hiệu thực sự của việc có thể phải trả nó. II. Diễn biến Mọi vấn đề bắt đầu từ khi tổng thống Carlos MENEM bắt đầu nhiệm kỳ năm 1989, nước này rơi vào tình trạng nợ nước ngoài nhiều, lạm phát lên tới 200%/tháng và năng suất giảm mạnh. Để vượt qua khủng hoảng kinh tế, chính phủ đã thực hiện các biện pháp sau: Các chính sách đề ra: Năm 1991 lập một hệ thống tiền tệ (currency board) với nhiệm vụ gắn chặt tỷ giá đồng peso với đồng dollar theo tỷ giá 1 đổi 1, và chỉ được phát hành vừa đủ tiền peso cho việc trao đổi trên thị trường. Đây là giải pháp nhằm khống chế lạm phát, nhưng đồng thời nó cũng hạn chế khả năng của ngân hàng trung ương trong việc hỗ trợ bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước và giúp đỡ các ngân hàng thương mại tăng cường tính thanh khoản. Xây dựng hệ thống tiền tệ kép (bi-monetary) đảm bảo vai trò ngang nhau giữa đồng peso với ngoại tệ (chủ yếu là đô la Mỹ). Người dân Argentina có quyền trả bằng bất kỳ đồng tiền nào trong các giao dịch của mình. Tự do hóa hoàn toàn hệ thống ngân hàng, bao gồm việc tư nhân hóa gần như tất cả các ngân hàng nhà nước ở địa phương và bán một ít các tổ chức tài chính trung bình và lớn cho nước ngoài. Tự do hóa hoàn toàn việc luân chuyển tư bản - cả tài chính lẫn đầu tư trực tiếp - mà không có bất kỳ hạn chế nào. Tư nhân hóa các công ty nhà nước từ công ty hàng không đến công ty điện và Bưu điện, trong khi nước này chưa hề có một hệ thống luật lệ mạnh và đầy đủ. Loại bỏ gần như tất cả các hàng rào phi thuế quan, và cắt giảm thuế từ trung bình 45% đầu thập niên 90 xuống còn 11% năm 2000. Từ chương trình tư hữu hóa hàng loạt xí nghiệp quốc doanh, tư hữu hóa ào ạt, nhất là việc bán chúng cho các ông chủ nước ngoài, bước đầu đã đem lại một lượng dự trữ ngoại tệ khá lớn cho quốc gia này. Nguồn thu từ chương trình tư hữu hóa cùng với việc vay nợ nước ngoài đã giúp Chính phủ Argentina ổn định giá trị của đồng nội tệ. Tất cả điều này đã làm nền tảng cho các tăng trưởng ngoạn mục sau đó. Thêm vào đó, những thành tựu kinh tế và sự ổn định trong giá trị đồng nội tệ đã dẫn tới một hệ quả đương nhiên, đó là dòng vốn quốc tế chảy ồ ạt vào Argentina. Những yếu tố đó khiến Argentina được ngợi khen như là một điển hình của sự thần kỳ mới và là một trong những “học trò xuất sắc” được IMF thừa nhận. Đồng thời Chính phủ Argentina đã tận dụng uy tín đang lên của quốc gia để liên tục vay nợ nước ngoài. Đương nhiên mọi lý lẽ lúc bấy giờ đều được lý giải khá hợp lý. Cứ như thế các khoản nợ nước ngoài âm thầm tăng lên dần, bắt đầu là ngưỡng an toàn từ tỉ lệ nợ dưới 50% GDP (35% trong năm 1995 cho đến gần 65% năm 2001). Khoản nợ nước ngoài này dẫn đến hậu quả tai hại là làm chính phủ mất đi sức đề kháng trước những rủi ro trong thâm hụt ngân sách, với suy nghĩ dù gì đi chăng nữa, chính phủ cũng dư sức bù đắp thâm hụt ngân sách bằng nguồn dự trữ ngoại tệ dồi dào và cả... vay nợ nữa. Những biện pháp này có tác dụng tức thời. 3 năm sau đó nền kinh tế phát triển tốt trong khi lạm phát giảm. Tuy nhiên sự tự do hóa quá nhanh và quá lớn đã để lại những mầm mống bất ổn. Cuối thập kỷ 90, đồng dollar Mỹ tăng giá dẫn đến việc đồng peso cũng tăng giá theo so với đồng tiền các nước đối tác thương mại nước này, làm giảm khả năng cạnh tranh hàng xuất khẩu của Argentina Năm 1994 khủng hoảng đồng peso Mexico làm ảnh hưởng đến nguồn vốn, mất nguồn tiền gửi ngân hàng, và khủng hoảng nghiêm trọng trong thời gian ngắn; một loạt chính sách cải cách để nâng đỡ hệ thống ngân hàng trong nước được đưa ra. Tỷ lệ tăng trưởng GDP thực tế được phục hồi nhanh chóng, đạt 8% vào năm 1997. Năm 1997 cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á nổ ra và lan ra khắp các nước đang phát triển trên thế giới Năm 1998, tình hình tài chính thế giới rối loạn do các vấn đề của Nga và nỗi lo lắng của các nhà đầu tư vào Brazil đã làm cho lãi suất trong nước tăng lên mức cao nhất trong hơn ba năm, làm giảm một nửa tỷ lệ tăng trưởng của nền kinh tế. Năm 1999 Brazil buộc phải phá giá đồng real 29% và đây là một đòn đau cho Argentina vì Brazil là nước xuất khẩu chủ yếu của Argentina. Từ những năm 1999, Argentina đã bắt đầu gặp phải những mất cân đối trong chi tiêu ngân sách. Do đã tư hữu hóa ào ạt các xí nghiệp quốc doanh trong thời gian trước đó, chính phủ giờ đây đã không còn nguồn thu nào khác ngoài thuế để bù đắp thâm hụt, đó là chưa kể vấn đề còn bị trầm trọng thêm bởi chính phủ liên tục phải trả nợ cho các hóa đơn vay nợ nước ngoài trước đây. Các điều kiện tồi tệ hơn vào năm 1999 khi GDP giảm 3%. Tổng thống Fernando DE LA RUA, người bắt đầu nhiệm kỳ vào tháng 12 năm 1999, đã tăng thuế và cắt giảm chi tiêu để giảm thâm hụt, làm GDP ở mức 2,5% năm 1999. Tăng trưởng năm 2000 càng trở nên tồi tệ ở mức 0,8%. Cả các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đều hoài nghi về khả năng trả nợ của chính phủ và giữ tỷ giá cố định theo đồng USD. Nền kinh tế Argentina bắt đầu suy thoái, các điểm yếu trong nền kinh tế lộ ra dẫn đến cuộc tháo chạy ồ ạt của nhà đầu tư nước ngoài. Vì nền kinh tế tự do hóa hết mức, việc rút tiền diễn ra rất dễ dàng. Argentina bắt buộc phải cầu viện IMF và tổ chức này - với những chính sách kỳ quặc - đã làm tình hình trở nên cực kỳ tồi tệ. Năm 2000 IMF đồng ý cho Argentina vay tiền với điều kiện nước này phải thắt chặt các chính sách tài chính, như không để tham hụt ngân sách và nâng lãi suất. Một điểm sáng đầu năm 2001 là IMF hỗ trợ 13,7 tỷ USD. Những chính sách này dẫn đến những cuộc biểu tình và đình công khắp quốc gia. Cuối năm 2001 dự trữ ngoại tệ của ngân hàng trung ương chỉ còn đúng 2 tỷ. Tổng thống de la Rua quyết định người dân chỉ được rút tối đa 1000 đô la một tháng, chính sách này được duy trì cho đến đầu năm 2002. Cuối năm 2001 IMF ngừng cấp các khoản cho vay mới với lý do Argentina không đáp ứng được các đòi hỏi tài chính. Argentina tuyên bố phá sản ngay sau đó. Cướp bóc và bạo loạn nổ ra khắp nơi khiến vài chục người chết. Cuộc khủng hoảng xảy ra Argentina nhanh chóng mất đi niềm tin của nhà đầu tư và các chuyến bay của tiền từ nước này tăng lên. Năm 2001, người dân lo sợ điều tồi tệ nhất đã bắt đầu rút một khoản tiền lớn của tiền từ tài khoản ngân hàng của họ, biến peso thành đô la và gửi ra nước ngoài, gây ra một chạy trên các ngân hàng. Chính phủ sau đó ban hành một bộ các biện pháp (thông được biết đến như các corralito) mà hiệu quả bị đóng băng tất cả tài khoản ngân hàng cho mười hai tháng, cho phép chỉ có khoản tiền nhỏ tiền mặt được rút lại. Do giới hạn này phụ cấp và các vấn đề nghiêm trọng nó gây ra trong những trường hợp nhất định, nhiều người Argentina trở thành điên và xuống đường của thành phố quan trọng, đặc biệt là Buenos Aires. Họ tham gia vào một hình thức phản kháng đã trở thành phổ biến được biết đến như cacerolazo (đập nồi và chảo). Các cuộc biểu tình đã xảy ra đặc biệt là trong giai đoạn 2001-2002. Lúc đầu, các cacerolazos được đơn giản chỉ ồn ào cuộc biểu tình, nhưng ngay sau họ bao gồm phá hủy tài sản, chỉ đạo thường xuyên tại các ngân hàng, công ty tư nhân nước ngoài, và đặc biệt là các công ty lớn của Mỹ. Nhiều doanh nghiệp hàng rào bằng kim loại được cài đặt bởi vì các cửa sổ và kính facades đã bị hỏng, và thậm chí bị bắt lửa cháy tại các cửa của họ. Bảng tin của các công ty như Coca Cola và những người khác bị đưa xuống của công chúng của những người biểu tình. Đối chất giữa cảnh sát và người dân đã trở thành một cảnh chung, và cháy cũng đã được thiết lập trên đường Buenos Aires. Fernando de la Rúa tuyên bố tình trạng khẩn cấp (bất hợp pháp vì nó cần xác nhận của Quốc hội), nhưng điều này chỉ nên tồi tệ hơn tình hình, kết tủa các cuộc biểu tình bạo lực của 20 và 21 Tháng Mười Hai năm 2001 tại Plaza de Mayo, nơi những người biểu tình đụng độ với cảnh sát, đã kết thúc với một số người chết, và kết tủa sự sụp đổ của chính phủ. De la Rua cuối cùng đã chạy trốn khỏi Rosada Casa trong một chiếc trực thăng vào ngày 21 tháng 12. Hiệu ứng của cuộc khủng hoảng Nhiều công ty tư nhân đã bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng: tiêu biểu Aerolineas Argentinas - một trong những công ty bị ảnh hưởng nhất Argentina, phải ngừng tất cả các chuyến bay quốc tế cho các ngày khác nhau trong năm 2002. Các hãng hàng không đến gần phá sản, nhưng đã sống sót. Hầu hết các mạng lưới trao đổi hàng hóa, khả thi như các thiết bị để phục các thiếu tiền mặt trong thời kỳ suy thoái này, sụp đổ như số lượng lớn người dân đã chuyển sang cho họ, tuyệt vọng để tiết kiệm như nhiều peso là họ có thể trao đổi cho các loại tiền tệ cứng như là một biện minh cho sự không chắc chắn. Một số người vô gia cư mới và Argentina thất nghiệp hàng làm việc như cartoneros, hoặc thu gom các tông. Các dự toán năm 2003 của 30.000 đến 40.000 người scavenged các đường phố cho các tông để cung như thế ra một cuộc sống bằng cách bán nó cho các nhà máy tái chế. Phương pháp này chỉ chiếm một trong nhiều cách đối phó trong một đất nước mà vào thời đó bị một tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt ở gần 25%. Nông nghiệp cũng bị ảnh hưởng: Các sản phẩm Argentina bị từ chối tại một số thị trường quốc tế, trong lo sợ rằng họ có thể đến hư hỏng vì những điều kiện nghèo, trong đó họ đã tăng trưởng, và USDA đặt hạn chế về thực phẩm và thuốc Argentina đến lúc Hoa Kỳ. Sản xuất của các kênh truyền hình đã buộc phải sản xuất thực tế cho thấy nhiều hơn bất kỳ loại hình khác cho thấy, bởi vì các nói chung rẻ để sản xuất so với các chương trình khác. Hầu như tất cả các chương trình giáo dục-truyền hình liên quan đã được hủy bỏ. Du lịch cân bằng với Chile đảo do giá hạ xuống ở Argentina Kể từ khi phó chủ tịch của De la Rua, Carlos Alvarez, đã từ chức vào năm 2000 mười, một cuộc khủng hoảng chính trị kéo tới. Thủ tục sau đây kế vị tổng thống được thiết lập trong Hiến pháp, tổng thống của Thượng viện Ramon Puerta nhậm chức, nhưng nhanh chóng từ chức, theo sau là chủ tịch của Phòng Hạ nghị sỹ, Eduardo Camaño. Hội Lập pháp (một cơ thể hình thành từ việc sáp nhập cả hai viện của Quốc hội) triệu tập với mục tiêu là tạo thêm một chính phủ hợp pháp tạm thời. Theo luật, các ứng cử viên được các thành viên của mình cộng với các Thống đốc của tỉnh, họ cuối cùng cũng bổ nhiệm Adolfo Rodríguez Saá, sau đó thống đốc của San Luis. Trong tuần cuối năm 2001, chính phủ lâm thời do Adolfo Rodríguez Saá, đối diện với impossibility thanh toán nợ cuộc họp, cài đặt sẵn trên phần lớn các khoản nợ công cộng, tổng cộng không ít hơn 93.000 triệu đô la Đúng vào ngày 31/12 năm 2001, ngày cuối cùng trong năm, Eduardo Duhalde được quốc hội chỉ định làm tổng thống và ông này ngay tức khắc lên án chính sách tự do hóa nền kinh tế. E. Đuhale tuyên bố chấm dứt sự hoạt động của currency board và lên kế hoạch phá giá đồng tiền 29% (1 đổi 1.4 dollar) trong những giao dịch thương mại quốc tế chủ yếu. Những yếu tố khác trong chính sách kinh tế của tân tổng thống bao gồm: chuyển đổi tất cả các khoản nợ có trị giá trên 100,000 USD thành đồng peso, kiểm soát tài khoản ngân hàng và dòng chảy tư bản, áp dụng chính sách thuế mới lên dầu thô để bồi thường cho chủ nợ bị mất mát do không được Argentina trả nợ, cân bằng thu chi ngân sách và tái đàm phán nợ công. Những chính sách này phát huy tác dụng. Argentina dần thoát khỏi khủng hoảng, nhưng rất chậm. Tình hình kinh tế trở nên tồi tệ hơn đều là liên quan đến lạm phát và thất nghiệp trong năm 2002. Vào thời gian ban đầu 1-to-tỷ lệ 1 đã tăng vọt lên gần 4 pesos mỗi đồng đô la, trong khi lạm phát được tích lũy từ mất giá đã được khoảng 80%. (Cần lưu ý rằng những con số thấp hơn đáng kể đã được báo trước bởi hầu hết những nhà kinh tế chính thống vào thời điểm đó) Chất lượng cuộc sống mức trung bình của Argentina đã hạ thấp tỷ lệ; nhiều doanh nghiệp đóng cửa hoặc phá sản, nhiều sản phẩm nhập khẩu trở nên hầu như không, và tiền lương được trái như chúng đã được trước khi cuộc khủng hoảng. III. Nguyên nhân của khủng hoảng Vấn đề trước hết là chính sách hối đoái gắn đồng peso của Argentina với đồng USD, theo tỷ lệ một - một, do Bộ trưởng Kinh tế Domingo Cavallo đề xuất năm 1991. Khi ấy ông Cavallo hy vọng biện pháp này sẽ giải quyết được nạn siêu lạm phát và giúp thanh toán nợ nần của nhà nước. Lúc đầu tình trạng lạm phát đã giảm xuống đáng kể từ mức 2.00%/tháng. Tuy nhiên thay đổi này cũng đã khiến nhà nước Argentina không có được chính sách tiền tệ riêng. Theo Time, đến năm 1999 khi nước Brazil láng giềng phá giá đồng real, các nhà đầu tư và thương nhân nước ngoài nhận ra mình có thể dùng đồng USD mua được nhiều hàng hóa hơn ở Brazil và một số nước khác trong vùng so với ở Argentina. Vì thế đầu tư nước ngoài vào Argentina và ngành xuất khẩu của nước này (chủ yếu là hàng nông phẩm) đã sụt giảm thê thảm. Yếu tố khủng hoảng thứ hai của Argentina gắn liền với việc chính phủ của Tổng thống Carlos Menem trong nhiệm kỳ thứ hai của mình đã vay nợ "thẳng tay" khiến tổng số nợ hiện nay lên đến 132 tỷ USD, tương đương 1/7 toàn số nợ của các nước đang phát triển. Mỗi khi bị lâm vào khủng hoảng, Argentina lại cần được vay nợ nên phải chấp nhận lãi suất cao (hiện Argentina phải trả lãi 15% cho khoản nợ của mình). Việc chính phủ mắc nợ nhiều đã làm lãi suất trong nước gia tăng. Nhiều công ty trong nước đã phải đóng cửa vì tín dụng cho sản xuất, kinh doanh trở nên quá khả năng thanh toán. Vấn đề thứ ba bắt nguồn từ làn sóng tư hữu hóa trong những năm 1990, dưới thời tổng thống Menem, đã làm nhiều người mất việc. Và do phần lớn các công ty tư nhân hóa thuộc lĩnh vực dịch vụ nhu yếu như cung cấp điện, nước... nên các công ty này đẩy giá cả các mặt hàng dịch vụ của mình cao hơn. Cuộc khủng hoảng của Argentina trở nên trầm trọng khi nhu cầu tiêu dùng trong nước suy giảm, nhiều doanh nghiệp phá sản và ngày càng có thêm nhiều người bị sa thải. Các khoản nợ của chính phủ cũng theo đó gia tăng vì thất thu từ nguồn thuế thu nhập đánh vào doanh nghiệp. Trong khi đó Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) khẳng định mình sẽ không giúp Argentina thoát khỏi khủng hoảng bằng cách chi trước những khoản tiền vay đã được thông qua để nước này thanh toán nợ. Cả ba yếu tố khủng hoảng trên đã kết hợp lại cách đây vài tuần khi người dân bắt đầu nghi ngờ rằng đồng peso sẽ bị mất giá nên đổ xô đến các ngân hàng yêu cầu chuyển số tiền của mình sang đồng USD theo tỷ giá 1:1 đúng theo chính sách của ông D.Cavallo. Trước tình hình này, ông Cavallo phải đưa ra giới hạn số tiền rút ra trong một tháng là 1.000 USD nhằm tránh tình trạng các ngân hàng bị kiệt quệ. Song giải pháp này chỉ càng làm người dân cảm thấy bất ổn và trở nên giận dữ hơn, dẫn đến tình trạng nhiều người kéo nhau đập phá các cửa hiệu, siêu thị để hôi của và nổ ra những cuộc biểu tình đòi chính phủ từ chức. Các nhà phân tích cho rằng giới lãnh đạo trên thế giới có thể rút ra nhiều bài học từ công tác điều hành thiếu sót của Chính phủ Argentina: chi nhiều hơn thu, bỏ qua một cách thô bạo những quy tắc của kinh tế thị trường, không chú trọng đạt được sự nhất trí giữa các đảng phái chính trị và nhắm mắt trước nạn tham nhũng. Xã luận của tờ Thương mại (Peru) cho rằng có một "quy tắc vàng" trong kinh tế mà không phải nhờ đến IMF hoặc phải là một nhà kinh tế nổi tiếng mới biết được: chỉ thu được 2 đồng thì không nên chi 3 nếu không muốn làm sụp đổ nền kinh tế nước mình. Sự xói mòn của bảng Tổng kết tài sản Sự gia tăng lãi suất Sự suy giảm của thị trường chứng khoán Sự gia tăng tính bất định Rủi ro tín dụng và rủi ro đạo đức gia tăng Thâm hụt ngân sách Khủng hoảng ti giá Hoảng loạn ngân hàng Rủi ro tín dụng và rủi ro đạo đức gia tăng Hoạt động kinh tế giảm sút Khủng hoảng ngân hàng Rủi ro tín dụng và rủi ro đạo đức gia tăng Hoạt động kinh tế giảm sút Trình tự cố biến cố trong cuộc khủng hoảng tài chính ở Argentina -Thâm hụt ngân sách ở Argentina quá lớn: Sự thâm hụt ngân sách quá lớn tạo ra tình trạng lo sợ rằng chính phủ sẽ mất khả năng trả nợ. Chính phủ gặp khó khăn trong việc khuyến khích mọi người mua trái phiếu của mình và không thể tài trợ bằng các khoản cho vay nước ngoài; để xử lý vấn đề khó khăn về ngân sách, chính phủ buộc các ngân hàng phải mua một lượng lớn trái phiếu. Khi các nhà đầu tư mất niềm tin vào khà năng của chính phủ trong việc hoàn trả các khoàn nợ, thì giá của chúng giảm xuống, tạo nên một lỗ hổng lớn trong bảng tổng kết tài sản của ngân hàng thương mại. Sự suy yếu như vậy trong bảng tổng kết tài sản làm ngân hàng có ít nguồn lực để cho vay và tình hình thiếu vốn cho vay góp phần tạo ra sự thu hẹp trong hoạt động kinh tế. -Tỉ giá quá cứng nhắc: Thực chế độ tỉ giá cố định 1 peso bằng 1USD. Do đó, khi Qũy Dự Trữ Liên Bang Mỹ bắt đầu tăng lãi suất vốn liên bang (lãi suất chiết khấu) để chống lại sức ép lạm phát, đã tạo ra một áp lực làm tăng lãi suất ở Argentina trực tiếp làm tăng vấn đề lựa chọn tiêu cực trên thị trường của họ, vì có nhiều khả năng những người mạo hiểm nhất muốn tìm các khoản cho vay. -Sự suy giảm thị trường chứng khoán và tính bất định: Sự gia tăng tính bất định và sụt giảm giá trị ròng với tư cách là sự sụt giảm trên thị trường cổ phiếu là tăng vấn đề thông tin không cân xứng. Nó làm cho người ta khó sàng lọc những người đi vay tốt và những người đi vay xấu và sự giảm sút trong giá trị ròng làm giảm giá trị vật thế chấp của doanh nghiệp làm tăng động cơ chấp nhận những dự án mạo hiểm, vì vốn cổ phần mất ít hơn khi dự án đầu tư không thành công. Nhìn chung, những yếu tố trên làm trầm trọng thêm sự lựa chọn tiêu cực và rủi ro đạo đức mà người cho vay phải đối mặt. Mà điều đó dẫn đến việc cho vay kém hấp dẫn hơn, họ không muốn cho vay hoặc cho vay ít hơn và điều này làm giảm quy mô cho vay, đầu tư và hoạt động kinh tế. Những yếu tố này tạo ra điều kiện cần và đủ cho nền kinh tế rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Hiệu ứng sau đó: Argentina nhanh chóng mất đi niềm tin của nhà đầu tư và các chuyến bay của tiền từ nước này tăng lên. Người dân lo sợ cho sự an toàn của số tiền đã gửi và không biết chất lượng danh mục cho vay của ngân hàng, người gửi tiền đổ xô đến ngân hàng rút tiền, dẫn đến tình trạng hoảng loạn ngân hàng bắt đầu từ ngày 11/10/2001. Tình hình này, cộng với nhận thức chính phủ sẽ tuyên bố vỡ nợ , dẫn đến tới cuộc tấn công đầu cơ vào đồng peso của Argentina và đồng tiền này đã sụp đỗ- giảm tới trên 70% giá trị. Nó làm cho các doanh nghiệp có mức nợ cao bằng đồng tiền nước ngoài hoàn toàn mất khả năng trả nợ. Tình hình này càng làm tăng vấn đề lựa chọn tiêu cực và rủi ro đạo đức. Kết quả, người cho vay trong nước và nước ngoài ít sẵn sàng cho vay hơn nữa làm sụt đổ hoạt động kinh tế và tốc độ tăng GDP thực tế đã giảm. Sự suy giảm trong dòng tiền mặt và bảng tổng kết tài sản của các doanh nghiệp và các hộ gia đình làm cho tình trạng khủng hoảng ngân hàng ngày càng tồi tệ hơn làm cho vấn đề lựa chọn tiêu cực và rủi ro đạo đức trên thị trường tài chính xấu đi do ngân hàng ít có khả năng đóng vai trò truyền thống của mình là trung gian tài chính. IV. Biện pháp khôi phục nền kinh tế Sau cuộc khủng hỏang trầm trọng 2000-2002, năm 2003 argentina đã vựt dậy nền kinh tế 1 cách ngoạn mục với tăng trưởng >6% ( mặc dù tăng trưởng năm 2002 là -10%) và tiếp tục phục hồi đáng kể cho đến ngày nay. Vậy bằng cách nào argentina làm nên sự kì diệu như thế? Kể từ khi lên cầm quyền 5/2003 chính phủ Kirchner đã bắt đầu thực hiện các kế họach hành động trong hàng lọat các lĩnh vực nhà nước, ban hành và áp dụng các chiến lược, chính sách, cơ cấu kinh tế nhằm đưa Argentina thoát khỏi khủng hoảng. Cụ thể: Chính sách thương mại: Tăng cường xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu và phát triển các ngành sản xuất trong nước. Chính sách đồng peso yếu và thúc đẩy xuất khẩu là một trong những biện pháp trọng tâm trong chính sách phát triển kinh tế của Argentina sau khi nước này phải đối mặt với một trong những cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng nhất trong lịch sử. Nỗ lực của Chính phủ trong việc đạt được thặng dư ngân sách liên tục trong 2 năm qua đã từng bước góp phần làm lành mạnh lĩnh vực tài chính công, tăng dự trữ ngoại hối và chi trả một phần lãi vay và các khoản nợ đến hạn, cải thiệt được một phần hình ảnh của Achentina với các tổ chức tài chính quốc tế. Vai trò và uy tín của Chính phủ và tổng thống ngày càng được củng cố. Chính Phủ ưu tiên, khuyến khích, củng cố và phát triển tư bản dân tộc với chính sách đẩy mạnh sản xuất và tăng cường hỗ trợ các doanh nhiệp nhỏ và vừa .Sản xuất hàng trong nước thay thế hàng nhập khẩu, từng bứớc nới lỏng các hạn chế vê tài chính, liên tục giảm lãi suất tiền vay. Duy trì tới mức tối đa giá các dịch vụ cơ bản như điện, nước, nhiên liệu. Áp dụng các biện pháp mạnh mẽ trong việc chống trốn thuế.Ngoài ra Argentina còn tăng cường xuất khẩu lúa mì, các hàng nông sản và các mặt hàng có thế mạnh của mình sang Brazil và các nước khác để giảm bớt hiện tượng nhập siêu. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Argentina trong những năm gần đây (Triệu USD) Năm Xuất khẩu Nhập khẩu Tổng số Chênh lệch 2001 26.610,00 20.321,00 46.931,00  6.289,00 2002 25.706,00 8.999,00 34.705,00 16.707,00 2003 29.349,00 13.813,00 43.162,00 15.536,00 2004 34.550,00 22.444,00 56.994,00 12.106,00 2005 40.347,00 28.688,00 69.035,00 11.659,00 2006 46.456,00 34.151,00 80.607,00 12.305,00 2007 55.933,00 44.780,00 100.713,00 11.153,00 Xuất nhập khẩu phân bố theo khu vực: Xuất khẩu (%) Nhập khẩu (%) Khối Mercosur 31 23 EU (Châu Âu) 23 22 NAFTA 16 19 Trung quốc 9 8 Các nước khác 21 28 Nhìn vào số liệu xuất nhập khẩu của Argentina đối với các nước trên thế giới từ năm 2001- 2007, ta thấy rằng cân bằng trong kim ngạch xuất nhập khẩu của Argentina với thế giới nói chung luôn luôn dương, không có hiện tượng nhập siêu trong thời kỳ này. Tuy nhiên, đối với từng nước riêng biệt thì Argentina cũng có hiện tượng nhập siêu, chẳng hạn như nhập siêu của Argentina đối với Brazil, Mỹ, Canada, Mexico v.v… Các vấn đề tiếp theo là giải quyết vấn đề năng lượng và giá cả. Giữ vững được thặng dư tài chính và cân bằng ngoại thương. Giải quyết tốt được vấn đề nợ đối với nước ngoài, cân bằng được cán cân thanh toán và điều chỉnh tăng số dư tài chính. Chính phủ AR. Đề ra các biện pháp kinh tế và kế hoạch “Đột biến- Shock” phải thực hiện là: + Tăng cường thu thuế Nhà nước và giảm chi phí công cộng; + Giữ vững và tăng thặng dư thương mại; +Tăng số tiền thu thuế từ việc xuất khẩu; Với số tiền tăng do thu thuế, sẽ trợ cấp để giảm giá lương thực, thực phẩm; +Tăng mức thuế về điện và gas; +Giữ vững tỉ giá tiền tệ; +Giảm lãi suất ngân hàng; +Tiếp tục bảo đảm bảo hiểm xã hội; + Tăng cường thương lượng với các tổ chức nước ngoài để họ tiếp tục cho nợ các khoản vay mà chưa phải trả v Chính sách đối ngoại: Chính sách đối ngoại của Argentina độc lập hơn so với trước, đặc biệt là trong chính sách quan hệ với Mỹ. Ưu tiên quan hệ với các nước láng giềng, tích cực ủng hộ chính sách liên kết khu vực Mercosur, Chile, tăng cường quan hệ với Venezuela, Mexico. Chú trọng trong quan hệ kinh tế với EU, Mỹ, các nước lớn, củng cố và tăng cường phát triển kinh tế và buôn bán với Trung quốc và Nhật Bản. Chính sách đầu tư: Tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài vào mọi lĩnh vực kinh tế của đất nước, đặc biệt là vào lĩnh vực năng lượng và các lĩnh vực sản xuất, thay thế việc nhập khẩu ở nước ngoài mà có thể gây nên hiện tượng nhập siêu. Ví dụ: kêu gọi Brazil đầu tư xây dựng các nhà máy sản xuất, lắp ráp các bộ phận ô tô ở Argentina, thay thế việc nhập khẩu các bộ phận này ở Brazil. Nhiều năm nay nước này vẫn đang tích cực mời chào, kêu gọi FDI nhưng kết quả còn hạn chế, do các nhà đầu tư nước ngoài chưa giải tỏa khỏi “hội chứng” từ cuộc khủng hoảng kinh tế 1999-2002 của nước này. Nhờ đó dòng vốn FDI đầu tư vào Argentina đã được cải thiện từ 2004 nhưng tốc độ chậm: 1,9 tỉ USD (2003), 4,2 tỉ (2004), 5,01 tỉ (2005), 4,8 tỉ (2006), 5 tỉ (2007), 8 tỉ (2008). FDI tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực bất động sản, dịch vụ bưu chính viễn thông, điện, nước, siêu thị, hàng không, tài chính ngân hàng, hạ tầng cơ sở, khai thác tài nguyên.  Chính sách tài chính: - Khôi phục việc quản lý ngoại hối, buộc các nhà xuất khẩu phải bán ngoại tệ trong nước và hạn chế việc vốn bị tuồn ra nước ngoài. - Quản lý thuế xuất khẩu, góp phần tạo ra cân đối ngân sách và giảm tác động của việc đồng peso mất giá đối với giá cả trong nước. - Chính sách hối đoái nhằm tránh đồng peso tăng giá thông qua sự can thiệp của Ngân hàng Trung ương, - Đông giá dịch vụ công cộng. (Nguyên văn tiếng TBN : Se mantuvo el congelamiento de las tarifas publicas), có nghĩa là : Giữ vững giá cả các mặt hàng quan trọng của nền kinh tế, đúng với những chi phí sản xuất (xí nghiệp) của chúng và trong mối tương quan với mức lương thực tế. Trước mắt, lối thoát khả dĩ nhất là để đồng peso trôi nổi, giúp Argentina tạo ra một hàng rào bảo vệ, chống những mặt hàng bên ngoài, thêm nữa điều này sẽ cải tạo cán cân thương mại (nhập siêu) với các nước như Brazil, Mexico với tỉ giá đô la tự do. Nhờ những biện pháp nêu trên, kinh tế Argentina phục hồi khá nhanh và giữ được nhịp độ tăng trưởng cao thuộc vào loại nhất ở MLT. Tốc độ tăng trưởng kinh tế Argentina 2003 -2008 (%) 2003 2004 2005 2006 2007 2008 8.8 9 9.2 8.5 8.6 7.1 V. Bài học kinh ngiệm cho Việt Nam 1. Duy trì tỷ lệ vay nợ nước ngoài ở mức an toàn (<40% GDP). Liên hệ với những gì đang diễn ra trên đất nước ta, “Bài học từ Argentina” cho thấy những cảnh báo này chẳng thừa chút nào, vì ngay giai đoạn đầu tiên, chương trình tái cấu trúc nền kinh tế VN có vẻ rất “khớp” với những hình ảnh trong “bài học” ấy. Theo WB, ngưỡng an toàn đối với các nước đang phát triển là tỉ lệ nợ nước ngoài phải dưới 40%/GDP Tỉ lệ nợ nước ngoài của VN thể hiện ở bảng sau: Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Tổng nợ(tỷ USD) 11.8 11.9 11.8 13.3 16.7 18.9 22.2 20.0 % GDP 39.0 37.4 34.0 34.1 36.8 35.8 36.6 37.2 Theo tiêu chí đánh giá quốc tế, các chỉ số phản ánh khả năng trả nợ của Việt Nam đều ở dưới mức lo ngại.Nhưng nếu tính đến lãi suất phải trả và cả việc đồng Việt Nam có khả năng mất giá trong tương lai thì số thực nợ phải trả là không hề nhỏ, nó không thể lạc quan thái quá như việc một số quan chức Chính phủ cho rẳng tỉ lệ nợ vẫn ở mức an toàn? Vì nghĩa vụ thanh toán nợ bằng nguồn của ngân sách nhà nước (NSNN) đối với các khoản nợ của Chính phủ sẽ lớn dần khi các khoản vay đến hạn phải trả nợ gốc. Hiện nay, để giúp nền kinh tế sớm thoát ra khỏi khủng hoảng, Chính phủ đã vay nước ngoài để tung ra nhiều gói kích cầu. Nhưng Chính phủ  cũng phải hướng tới phát triển lâu dài, tuân thủ những nguyên tắc nhất quán: kích cầu nhưng đảm bảo nợ quốc gia  không quá 40% GDP…  Đối với nước ta, trong cơ cấu nợ Chính phủ là “con nợ” lớn nhất với tỉ trọng trung bình là 65,4%, kế đến là các DNNN và cuối cùng là các doanh nghiệp FDI.The problem with Argentine fixed exchange rate was it caused the peso to increase in value at the same rate as the dollar during the economic boom of the 1990's.  A rising currency value caused Argentina's exports to become more expensive relative to the country's imports.  Since Argentina's largest trading partners are Brazil and the European Union, whose currencies were valued much lower than the peso, the Argentine export market was stalled limiting the growth of the economy.Vậy dựa vào đâu để tin tưởng ở khả năng trả nợ nước ngoài của quốc gia? Bài học từ Argentina đã chỉ rõ chắc chắn là không thể dựa vào sự tín nhiệm của quốc tế, đơn giản là sự tín nhiệm này chỉ giúp Chính phủ dễ vay nợ mà thôi. Thậm chí khi các nhà tài trợ quốc tế chỉ mới “đánh hơi” thấy một chút bất ổn về kinh tế của con nợ, họ có thể ra tay thật mạnh để đẩy nhanh tiến trình khủng hoảng nợ. Xây dựng cơ chế giám sát hữu hiệu các khoản vay nước ngoài Những lo lắng nhất, chính “Bài học từ Argentina” đã chỉ ra. Đó là cơ chế giám sát hữu hiệu các khoản vay nợ nước ngoài. Thực tế ở nước ta, giám sát, kiểm tra, kiểm toán là khâu yếu, kể cả nơi có quyền giám sát cao nhất nước là Quốc hội. Trước hết, nước ta cần làm rõ chi ngân sách, vay nợ nước ngoài “Điều này giúp Việt Nam  tránh những mong đợi không có cơ sở, giúp các đối tác phát triển của Vịêt Nam nhận biết các lĩnh vực mà họ có thể hỗ trợ tốt nhất cho Chính phủ  vượt qua khó khăn, tạo sự minh bạch cho các sáng kiến chính sách, tránh việc sử dụng sai tiền ngân sách”. ( Trích lời của John  Hendra- Giám đốc  quốc gia  của LHQ  tại Việt Nam ) Thứ hai, chúng ta cần bảo đảm rằng số liệu nợ được kiểm chứng, thống nhất và cập nhật một cách nhất quán.Ngoài ra việc thu thập và lập báo cáo về nợ nước ngoài phải đảm bảo tính trung thực, khách quan, chính xác, đầy đủ, kịp thời. Các cơ quan cung cấp thông tin chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác của các thông tin đã cung cấp. Làm được như thế, nước ta mới chủ động thực hiện việc cơ cấu lại nợ, chúng ta cần tìm kiếm khả năng giảm được nợ hơn nữa thông qua việc chủ động cơ cấu lại nợ, đó là việc đi vay mới để trả các khoản nợ cũ, chuyển đổi nợ thành đầu tư trong nước, xin giãn nợ, xóa nợ, tăng khả năng thanh toán trả nợ bằng hàng... nhằm giảm nghĩa vụ trả nợ trong tương lai. Thứ ba, nâng cao năng lực và hiệu lực quản lý nhà nước, tăng cường kiểm tra giám sát và sự phối kết hợp giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước để kịp thời xử lý các vấn đề phát sinh, bổ sung và điều chỉnh chính sách, cơ chế, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện tốt chức năng giám sát kiểm tra và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn vay, kiểm toán các báo cáo tài chính. Thứ tư, cần quán triệt quan điểm, tư tưởng “vốn trong nước là quyết định, vốn ngoài nước là quan trọng” và “nguồn vốn ODA là vốn vay” (vì chỉ có khoảng 10 - 15% là viện trợ không hoàn lại). Vì vậy, việc quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này là hết sức cần thiết. Tuy vậy, trong nội bộ các cấp, các ngành và địa phương vẫn còn tồn tại những quan niệm và cách hiểu khác nhau về vốn ODA, cho rằng đây là khoản viện trợ, cho không, quà biếu, vật tặng... ; từ đó có quan niệm "vay là được" trong sử dụng vốn ODA, mà không tính đến khả năng trả nợ và hiệu quả sử dụng, dẫn đến tình trạng lãng phí, tham nhũng, gây hậu quả xấu cho việc tiếp nhận ODA. Và với những khoản viện trợ không hoàn lại cần được quản lý như đối với nguồn thu của NSNN dành cho đầu tư phát triển, phần vay ưu đãi được hạch toán bù đắp bội chi ngân sách để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ nước ngoài và ổn định chi NSNN, kiên quyết không vay cho chi thường xuyên. Thứ năm, cần xây dựng hạn mức vay nước ngoài, vì đó là giới hạn an toàn để sử dụng vốn vay nước ngoài có hiệu quả, ổn định, bền vững, bảo đảm nền kinh tế có khả năng hấp thụ vốn và có khả năng trả nợ khi đến hạn. Mặt khác, hạn mức nợ nước ngoài cũng chính là công cụ quan trọng để kiểm soát tình trạng nợ nước ngoài và bảo đảm an ninh tài chính quốc gia. Trong tình hình kinh tế nước ta hiện nay, khi hiệu quả đầu tư còn thấp, cân đối ngoại tệ còn khá bấp bênh, tỷ giá hối đoái chưa hoàn toàn ổn định thì việc quy định hạn mức vay nợ nước ngoài là rất cần thiết để giảm thiểu những rủi ro, nâng cao hệ số an toàn trong việc sử dụng vốn. Trong quá trình tổ chức vận động vốn cần xuất phát từ lợi ích tổng thể quốc gia, hiệu quả công việc trên cơ sở nâng cao tính chủ động của trong nước với bên nước ngoài, cần mạnh dạn chối bỏ các nguồn vốn không đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thứ sáu, quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn nước ngoài như lựa chọn dự án khả thi, dự án ưu tiên đầu tư. Sau đây là một số giải pháp: Phải có một chiến lược phát triển kinh tế tổng hợp và dài hạn. Phải có một môi trường pháp lý lành mạnh. Phải có khả năng cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Các chính sách về ngoại thương, ngoại hối phải hết sức linh hoạt. Phải quản lý và kiểm soát chặt chẽ luồng vốn ngắn hạn nước ngoài. Phải có một tỷ lệ vốn trong nước tương ứng và thích hợp, tránh lấy nguồn vốn nước ngoài làm chỗ dựa cơ bản cho sự phát triển kinh tế trong nước... Ngoài ra, phải tích cực tạo nguồn để trả nợ nước ngoài, duy trì khả năng chi trả các khoản nợ đến hạn, đặc biệt là cần có các giải pháp hữu hiệu để khuyến khích xuất khẩu nhằm tạo nguồn thu ngoại tệ ổn định. Trước mắt, cần xây dựng quy hoạch vùng nguyên liệu xuất khẩu, hạn chế xuất khẩu các nguyên liệu thô, tăng cường đầu tư chiều sâu cho các doanh nghiệp trực tiếp xuất khẩu ; có chính sách hỗ trợ mạnh mẽ cho xuất khẩu . Cải cách bộ máy quản lý: giải quyết tham nhũng, cổ phần hóa ồ ạt và thất thoát Nói ngắn gọn, cuộc khủng hoảng nợ của Argentina, suy cho cùng, nói lên những bất ổn trong hệ thống chính trị (tham nhũng, sự phân chia quyền lực giữa các địa phương trong việc điều tiết các nguồn thu thuế...). Có thể nói một hệ thống chính trị liên quan đến một chính phủ tham nhũng và lãng phí, đã làm thị trường mất niềm tin về khả năng trả nợ của quốc gia đối với những trái phiếu phát hành trước đây, cuộc khủng hoảng nợ được đúc kết đơn giản như thế. Về vấn đề tham nhũng của Việt Nam, theo chỉ số tham nhũng quốc tế mà Tổ chức Minh bạch quốc tế đã công bố thì Việt Nam là một trong những “thành viên” của nhóm nước có mức tham nhũng nặng nề nhất và khẳng định đây là “một trong những thách thức nghiêm trọng nhất mà Việt Nam phải đối mặt. Vì chống tham nhũng lẫn thực thi nhiệm vụ kế hoạch phải gắn kết thành một mục tiêu để đạt hiệu quả kinh tế - xã hội. Về vấn đề cổ phần hóa: Mỗi năm có hàng trăm doanh nghiệp quốc doanh trên cả nước tiến hành cổ phần hóa (CPH). Để ngăn chặn nhiều thủ đoạn tham nhũng “tinh tế” trong quá trình CPH, Nhà nước có đặt ra nhiều qui định.Thế nhưng từ một số sơ hở, quá trình CPH vừa qua là quá trình thất thoát tài sản nhà nước mà nếu không có điều chỉnh, rất có thể tài sản nhà nước sẽ tiếp tục bị mất. Việc thất thoát hiện nay theo kiểu truyền thống là định giá tài sản của doanh nghiệp thấp hơn nhiều giá thực tế.Mua với giá rẻ mạt nhưng được hưởng phần lợi ích từ những doanh nghiệp nay vô cùng lớn. Trong chính sách CPH có qui định phải bán một phần cổ phiếu với giá ưu đãi cho những người trong nội bộ doanh nghiệp, như giám đốc được mua đến 30% .Trong bối cảnh thị trường chứng khoán đang “nóng hôi hổi”, các nhà đầu tư sẵn sàng nộp trước tiền mua cổ phiếu, chỉ cần “nhận chỗ”, những kẻ có quyền mua đã “chớp” được một khoản chênh lệch không thể nói là nhỏ. Như vậy, đáng ra Nhà nước có thể bán thẳng cổ phiếu ra thị trường với giá cao, thì lại “tạo điều kiện” cho một số đối tượng mang danh người lao động “nẫng tay trên”. Tài sản nhà nước đang bị thất thoát với rất nhiều cách như vậy. Và dù là cách nào thì số tiền của quốc gia bị thất thoát trong quá trình CPH cũng không bao giờ nhỏ!... Vì vậy nhà nước ta cần nhanh chóng ban hành những quy định trong định giá tài sản doanh nghiệp được cổ phần hóa, trong quyền được mua cổ phiếu ưu đãi trong nội bộ doanh nghiệp… Tóm lại, cuộc khủng hoảng nợ của Argentina chính là bài học về sự ảo tưởng quá mức về những thành công trong tăng trưởng mà quên đi những vấn đề nội bộ. Các vấn đề nội bộ mà từ kinh nghiệm của Argentina, chúng ta cần phải chú ý giải quyết triệt để, đó là tình trạng tham nhũng, cổ phần hóa ào ạt và thất thoát, bộ máy hành thu thuế yếu kém, vay nợ nước ngoài thiếu tính toán. Nhưng vượt lên trên tất cả những điều này, nguyên nhân của mọi nguyên nhân, chính là việc quốc gia thiếu cơ chế giám sát hữu hiệu các khoản vay nợ nước ngoài. Chừng nào chưa có cơ chế giám sát hữu hiệu các khoản vay nợ nước ngoài của chính phủ, chừng đó nguy cơ về một cuộc khủng hoảng tài chính toàn diện cũng không phải là điều quá xa vời. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQTH (17).doc
Tài liệu liên quan