Sự sụp đổ của hai nền kinh tế được coi là những hình mẫu tăng trưởng của châu Âu là những bài học nhãn tiền đối với tất cả các nước, bất kể là giàu hay nghèo. Mối đe dọa về khủng hoảng nợ công vẫn đang tiếp diễn và có nguy cơ lan rộng ra các quốc gia khác ở châu Âu (Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Italia ) cũng như ảnh hưởng đến các quốc gia khác trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Nghiên cứu về nợ công, những nguyên nhân, tác động và ảnh hưởng của nó để từ đó có được những giải pháp phù hợp trong việc quản lý nợ công và ngăn ngừa khủng hoảng nợ công là vấn đề cấp bách và cần được thực hiện ngay.
50 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1871 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khủng hoảng nợ công và những tác động đến tình hình tài chính tiền tệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phải đến cầu viện nước ngoài.
Vì vậy, khủng hoảng nợ của Ireland thực tế là do chính phủ phải đi cứu trợ cho hệ thống ngân hàng nước này, khiến nợ xấu từ khu vực tư nhân tạo thành gánh nặng nợ nần của chính phủ và cuối cùng chính phủ không đủ tiền trả nợ phải đi cầu viện EU và IMF để có tiền tiếp tục cứu giúp hệ thống ngân hàng của mình.
2.2.3. Tác động của nợ công đến tình hình tài chính tiền tệ:
2.2.3.1. Giá trái phiếu và lãi suất:
Ngày 11/11, lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm của Ireland đã tăng lên 8,929% - Số liệu mới nhất lãi suất của tháng 2/2011 đạt mức kỷ lục 9.06% - mức cao nhất kể từ khi châu Âu đưa vào lưu hành đồng euro vào năm 1999, đặt các thị trường trái phiếu châu Âu vào tình trạng căng thẳng cực độ. Lãi suất trái phiếu của Ireland thời gian gần đây tăng cao là do giới đầu tư ngày càng lo ngại về tình trạng nợ công của nước này.
Một nhà giao dịch trái phiếu tại một ngân hàng đầu tư của Mỹ thì cho biết, những nhà đầu tư mạnh tay gom mua trái phiếu của khu vực Eurozone trong tuần trước hiện đang ồ ạt bán ra trong tuần này. Gói cứu trợ trị giá khoảng 100 tỷ USD mà Liên minh châu Âu (EU) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cam kết sẽ dành cho Ireland dường như không đủ sức phục hồi niềm tin cho thị trường.
Với mức lãi suất hiện nay, Ireland gần như không thể phát hành trái phiếu mới.
Chi phí bảo lãnh cho trái phiếu của các nước này cũng tăng vọt. Hợp đồng bảo hiểm khả năng vỡ nợ (CDS) kỳ hạn 10 năm của trái phiếu chính phủ Ireland đã lên tới mức 595 điểm phần trăm. Như vậy, cứ 10 triệu Euro nợ dài hạn của Ireland sẽ mất 595.000 Euro phí bảo lãnh (cao nhất so với các nước trong khu vực).
Trái phiếu Ireland còn gặp khó vì một trong những trung tâm thanh toán lớn nhất châu Âu là LCH.Clearnet gần đây liên tục tăng phí đánh vào giao dịch trái phiếu của nước này, với lý do chi phí vay vốn của Ireland tăng. Điều này càng khiến các ngân hàng của Ireland, vốn sử dụng trái phiếu chính phủ để huy động vốn cho hoạt động, càng phụ thuộc vào nguồn vốn từ Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB).
Ireland hiện đang có kế hoạch phát hành 17,6 tỷ EUR trái phiếu trong năm 2011 và 4,9 tỷ EUR trái phiếu trong năm 2012.
Quỹ ổn định tài chính châu Âu (EFSF) đã huy động thành công 5 tỷ USD từ việc phát hành trái phiếu kì hạn 5 năm, lãi suất 2,89% hồi cuối tháng trước.
2.2.3.2. Cắt giảm chi tiêu:
Quốc hội Ireland tối 7/12 đã thông qua chính sách thắt lưng buộc bụng năm 2011 trong lúc chuẩn bị nhận viện trợ tài chính 85 tỉ euro từ EU và IMF.
Quốc hội Ireland tối ngày 7/12 đã thông qua chính sách thắt lưng buộc bụng năm 2011 trong lúc chuẩn bị nhận viện trợ tài chính 85 tỉ euro từ Liên minh châu Âu (EU) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF).
Theo Bộ trưởng Tài chính Ireland, nước này sẽ tăng thuế với tất cả người lao động và cắt giảm phúc lợi xã hội, nhằm tiết kiệm khoảng 6 tỷ euro vào năm tới.
Như vậy, một cặp vợ chồng ba đứa con có mức thu nhập trung bình 75.000 euro/năm đóng góp vào quỹ lương 4.500 euro/năm. Trong khi đó, trợ cấp cho trẻ em từ chính phủ sẽ giảm 40 euro/tháng, trợ cấp thất nghiệp giảm 8 euro/tuần.
Những người nhận lương hưu trên 12.000 euro/năm sẽ bị cắt giảm. Thuế đánh trên xăng dầu tăng. Tuy nhiên, thuế đối với phí du lịch giảm nhằm thu hút du khách. Ngoài ra, viên chức công bị cắt giảm lương. Thủ tướng bị giảm 14.000 euro/năm, các bộ trưởng sẽ bị cắt 10.000 euro/năm. Tổng thống nước này cũng tự nguyện giảm lương trong năm 2011 xuống mức như người mới được bổ nhiệm, khoảng 250.000 euro/năm.
Ngân sách năm 2011 là ngân sách hạn hẹp nhất trong kế hoạch thắt lưng buộc bụng 4 năm tới của Ireland nhằm tiết kiệm 15 tỉ bảng Anh, gần 10% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hàng năm của nước này, nhằm đưa thâm hụt ngân sách về giới hạn trần 3% GDP của EU vào năm 2014.
2.2.3.3. Đầu tư trực tiếp FDI:
2.2.3.4. Xếp hạng tín dụng bị hạ bậc:
Kinh tế Ireland tiếp tục đón nhận những tin xấu khi công ty xếp hạng tín nhiệm Fitch ngày 6/10 đã hạ mức tín nhiệm của Ireland từ A+ xuống AA- và chỉ số lòng tin của người tiêu dùng ở nước này tiếp tục giảm.
Người tiêu dùng giảm sút lòng tin đối với đồng nội tệ hay chính sách công của chính phủ thì hành vi tiêu dùng, hành vi tiết kiệm hay hành vi đầu tư của họ cũng bị ảnh hưởng theo chiều hướng tiêu cực.
Theo Fitch, việc hạ cấp tín nhiệm phản ánh chi phí tài chính ở Ireland đã vượt quá dự kiến cùng với nỗ lực tái huy động vốn của chính phủ đối với các ngân hàng Ireland, đặc biệt là Ngân hàng Anglo Irish.
Những đánh giá tiêu cực của Fitch được đưa ra một ngày sau khi hãng xếp hạng tín nhiệm Moody cho biết có thể cũng sẽ hạ cấp tín nhiệm của Ireland và nâng chi phí cho vay của nước này.
Cơ quan xếp hạng tín nhiệm Moody's ngày 19/07 cắt giảm một bậc xếp hạng của Ireland từ Aa1 xuống Aa2 nhưng nhận định triển vọng vẫn còn ổn định.
Đến tháng 11/2011, S&P hạ xếp hạng tín dụng dài hạn của Ireland 2 bậc từ mức A xuống AA-, triển vọng ngắn hạn bị điều chỉnh giảm xuống A-1 từ mức A-1+.
2.2.3.5. Tốc độ tăng trưởng GDP giảm:
Mặc dù mức tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người hàng năm của Ireland từ trước tới nay chỉ vào khoảng 3,5%, nhưng con số này đã vọt lên chừng 6% vào thập niên 1990.
Trên thực tế, một phần lý do cho sự “đại nhảy vọt” này là việc Ireland có cơ sở xuất phát thấp, nhưng lịch sử thế giới - ngay cả ở nước Mỹ trong thời kỳ cách mạng công nghiệp hồi thế kỷ 19 - cho thấy, mức tăng như vậy là “độc nhất vô nhị” đối với một nền kinh tế phát triển. Thậm chí, có thời điểm, tăng trưởng GDP của Ireland còn đạt mức 10%.
Tuy nhiên, vận đỏ của Ireland đã chuyển màu đen. Theo thời gian, mọi chi phí ở Ireland, từ tiền lương tới vật liệu đầu vào, cùng tăng. Cùng với đó, nền kinh tế này chuyển từ chỗ phát triển bùng nổ nhờ đầu tư nước ngoài và xuất khẩu sang phát triển bong bóng nhờ các giao dịch mua bán nhà đất và các dự án xây dựng.
Các ngân hàng cho vay không kiểm soát trong thời kỳ thị trường nhà đất tăng chóng mặt, và tới năm 2009, thua lỗ từ những khoản nợ xấu bắt đầu chất cao như núi, buộc Dublin phải chi hàng chục tỷ Euro để cứu các ngân hàng. Trong quý đầu tiên trong năm 2009, GDP đã giảm 8,5% so với cùng năm trước , và GNP giảm 12%. Tỷ lệ thất nghiệp lên 8,75% tới 11,4%. Nền kinh tế đã thoát suy thoái trong quý III năm 2009, với GDP tăng trưởng 0,3% trong quý này, nhưng GNP tiếp tục hợp đồng, bằng 1,4%.
Tăng trưởng GDP thực tế của Ireland đã giảm mạnh, dự báo chỉ đạt 2,75% mỗi năm trong thời gian từ năm 2011-2014.
2.2.3.6. Thất nghiệp và lạm phát:
Lạm phát
Thất nghiệp:
Các con số của những người đòi trợ cấp thất nghiệp ở Ireland đã tăng lên 326.000 vào tháng Giêng năm 2009, hàng tháng cao nhất kể từ năm 1967.
PHẦN 3: THỰC TRẠNG NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM
VÀ GIẢI PHÁP
3.1. Thực trạng nợ công ở Việt Nam:
3.1.1. Nợ công tăng liên tục trong những năm qua, tiềm ẩn nhiều rủi ro:
Nợ quốc gia hay còn gọi là nợ công, gần đây trở thành đề tài chú ý của dư luận khi cuộc khủng hoảng nợ công đang là “bóng ma” bao trùm nhiều quốc gia, nền kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên tiêu chí để đánh giá khi nào khoản nợ đó trở nên mất an toàn và khả năng trả nợ của một quốc gia nên căn cứ vào đâu còn chưa được làm rõ.
Để dễ hình dung quy mô của nợ công, người ta thường đo xem khoản nợ này bằng bao nhiêu % so với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Tuy nhiên số liệu về nợ công/GDP hiện nay vẫn chưa được công bố một cách rõ ràng. Các số liệu sau nhóm 9 lấy từ Bộ phận phân tích thông tin kinh tế thuộc tạp chí The Economist.
Bảng: Tỷ lệ nợ công/GDP từ năm 2001 đến năm 2010
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
%GDP
36
38.2
41.1
42.7
44
45.9
49.7
47.9
51
56.7
Nguồn: EIU
Nhận xét:
Theo bảng số liệu trên thì nợ công năm 2010 là 56.7%, và theo dự báo nợ công năm 2011 sẽ là 60% GDP. Như vậy có thể thấy rằng nợ công trong những năm qua ngày càng tăng cao. Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng về lý thuyết mức nợ công của Việt Nam vẫn nằm trong ngưỡng cho phép, nhưng Việt Nam phải tính tới phần chìm của tảng băng, tức là những khoản nợ ngầm bao gồm: các khoản nợ ngân hàng, tiền trợ cấp hưu trí, các khoản bảo hiểm xã hội mà chính phủ sẽ phải chi trả cho người lao động hay các khoản mà chính phủ sẽ phải chi trả khi đứng ra bảo lãnh các khoản vay cho những người có thu nhập thấp mà trong tương lai họ có thể không có khả năng thanh toán…. Đây là những yếu tố tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với kinh tế Việt Nam, nếu Việt Nam lơ là.
Việc đi vay nợ của chính phủ là nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên khi tính toán nợ chính phủ thường không lượng hóa được ảnh hưởng của yếu tố lạm phát trong chi tiêu của chính phủ, chỉ tính các khoản trả lãi vay theo lãi suất danh nghĩa, nhưng đáng lẽ ra chỉ tiêu này chỉ nên tính theo lãi suất thực tế. Do lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát, nên thâm hụt ngân sách đã bị phóng đại.
Nhiều nhà kinh tế cho rằng, khi tính toán nợ chính phủ cần phải trừ đi tổng giá trị tài sản của chính phủ. Thực ra điều này cũng đơn giản như khi xử lý tài sản của cá nhân. Khi một cá nhân vay tiền để mua nhà thì không thể tính anh ta đã thâm hụt ngân sách bằng số tiền đã vay mà phải trừ đi giá trị của căn nhà. Tuy nhiên, khi tính toán theo phương pháp này thường gặp phải vấn đề là những gì nên coi là tài sản của chính phủ và tính toán giá trị của chúng như thế nào, ví dụ: đường quốc lộ, kho vũ khí hay chi tiêu cho giáo dục…
Việc tính toán nợ công ở Việt Nam chưa thực hiện nguyên tắc quản lý thống nhất: nợ nước ngoài, nợ trong nước, nợ nước ngoài do doanh nghiệp và các địa phương tự đi vay khiến công tác quản lý nợ phân tán, không thống nhất, chi phí giao dịch, chi phí vay cao, thiếu sự phối hợp trong điều hành vĩ mô.
Mặt khác do Việt Nam đã thoát khỏi nhóm nước nghèo, gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình nên các khoản vay ưu đãi ODA cũng giảm dần mà thay vào đó là các khoản vay thương mại với lãi suất cao hơn.
Đồng tiền của Việt Nam mất giá khá nhiều so với tiền của những nước chúng ta vay vốn như: Nhật, EU… làm tăng thêm gánh nặng nợ công.
Hậu quả: Nợ công tăng cao gây ra nhiều hậu quả:
Nếu một quốc gia có nợ nước ngoài lớn thì quốc gia đó buộc phải tăng cường xuất khẩu để trả nợ nước ngoài và do đó khả năng tiêu dùng trong nước giảm sút
Nếu nợ trong nước lớn thì Chính phủ phải tăng thuế để trả nợ lãi vay gây ra tổn thất vô ích về phúc lợi xã hội. Tăng thuế còn làm giảm đầu tư, kìm hãm sự phục hồi của nền kinh tế, làm chậm tốc độ tăng trưởng.
Lạm phát khó kiềm chế ở mức thấp.
Nợ công tăng cao cũng làm cho nền kinh tế bị hạ bậc tín nhiệm, niềm tin của người dân và giới đầu tư bị lung lay, khi đó nền kinh tế dễ trở thành mục tiêu tấn công của các thế lực đầu cơ quốc tế.
3.1.2. Việt nam sử dụng nợ công chưa thật sự hiệu quả :
Theo Báo cáo Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2006 – 2010 của bộ Kế hoạch và đầu tư: Cũng giống như một gia đình nghèo đông con, không vay nợ thì lấy gì chi tiêu. Trong nhiều năm nay, cho dù thu ngân sách đã tăng đáng kể nhưng ngân sách nhà nước vẫn chỉ đáp ứng “khoảng 60% nhu cầu chi cần thiết tối thiểu”, theo báo cáo về tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2006 – 2010 của bộ Kế hoạch và đầu tư. Bộ này thừa nhận, ngoài mức thâm hụt ngân sách cao (từ 5 – 6,9% GDP trong những năm gần đây), còn có những khoản chi ngoài ngân sách mà nếu đưa hết vào chi ngân sách thì mức bội chi có thể lên đến trên 10%. “Đây là một tỷ lệ quá cao, dẫn đến rủi ro lớn về khả năng trả nợ trong tương lai”, bộ thừa nhận. Thâm hụt ngân sách gần đây được bù đắp bằng vay nợ trong và ngoài nước chủ yếu dưới hình thức phát hành trái phiếu, nhưng bộ này thừa nhận thực tế mà ít người dám nói ra: “Hiện nay vẫn chưa rõ nguồn kinh phí để chi trả khi các trái phiếu đến hạn thanh toán là gì”.????
Theo quy luật, có vay thì phải có trả. Để trả nợ gốc và lãi tính riêng cho các khoản vay ODA ưu đãi, ngân sách sẽ phải chi 70.250 tỉ đồng năm 2010, tăng cao so với 58.800 tỉ đồng năm 2009 và 51.200 tỉ đồng năm 2008, theo ủy ban Tài chính – ngân sách. Nguồn chi trả có thể sẽ không đáng lo, nếu những dự án đầu tư công được cấp vốn từ những nguồn vay nợ đó đạt hiệu quả, và sinh lời. Nhưng đây lại là một câu chuyện dài khác. Hệ số ICOR lên đến 8 trong năm 2009 là minh chứng rõ ràng nhất cho việc đầu tư công có hiệu quả như thế nào. Bổ sung cho hệ số ICOR cao là những khu công nghiệp, khu kinh tế ven biển, cảng biển,… đã quy hoạch hoặc đã khởi công nhưng còn dang dở và cần lượng vốn lớn nữa để hoàn thiện. Gần đây, khi được hỏi về việc có 5.000 dự án công ở Việt Nam bị chậm tiến độ theo công bố của bộ Tài chính, chuyên gia kinh tế trưởng của ngân hàng Thế giới tại Việt Nam Martin Rama đã trả lời là ông “không hề ngạc nhiên”. Ông giải thích: “Ngay cả những dự án ODA do chúng tôi tài trợ cũng bị chậm… Đó là tình hình chung với các dự án ở Việt Nam”.
Câu chuyện Vinashin là một ví dụ. Hàng trăm triệu USD vốn trái phiếu quốc tế được huy động và chuyển cho tập đoàn này vay lại. Tuy nhiên, việc sử dụng vốn chưa hiệu quả, sự vỡ nợ của Vinashin đã đặt ra câu hỏi về lòng tin của các nhà đầu tư quốc tế với môi trường kinh doanh Việt Nam. Cuối tháng 11 vừa qua, trang web của Bloomberg dẫn các nguồn tin từ công ty tư vấn tài chính Moody có trụ sở tại Mỹ cho biết, nợ xấu của Vinashin cũng ảnh hưởng xấu đến các ngân hàng Việt Nam.
Từ trường hợp đơn lẻ của Vinashin, chúng ta thấy được là chuyện quản trị nợ. Nợ không phải là xấu, nhưng cần phải tính toán đến hai yếu tố: hiệu quả từ những đồng vốn vay và hệ quả lâu dài nếu không giải quyết được dứt điểm vấn đề nợ. Những gì Hy Lạp, Ireland đang trải qua sẽ có thể xảy ra ở bất cứ quốc gia nào. Chủ nợ rất dễ biến thành con nợ nếu không kịp thời điều chỉnh lối “ứng xử” với công nợ và tầm nhìn trong đầu tư.
Với tình hình vay nợ và hiệu quả sử dụng như vậy, không có gì ngạc nhiên khi tại cuộc họp Ủy ban thường vụ Quốc hội vừa rồi không ít đại biểu đã tỏ ra lo ngại về nợ công và an ninh tài chính của đất nước.
3.1.3. Thâm hụt ngân sách ngày càng tăng dẫn đến tính bền vững của nợ công bị giảm sút:
Một xu thế rất đáng lo ngại là cũng trong giai đoạn 2001-2010, thâm hụt ngân sách (cả trong và ngoài dự toán) tăng từ 2,8%GDP (2001) GDP lên tới 7%GDP (2009) và 6.1%GDP (2010).
Nguồn: Tổng cục thống kê
Bội chi của Việt Nam đã luôn ở mức 5% GDP từ nhiều năm gần đây. Từ năm 2007 đến nay, do phải kích cầu đầu tư nên ngân sách nhà nước đã chi một lượng tiền lớn ra lưu thông nên tốc độ tăng bội chi ngân sách nhà nước tăng cao hơn rất nhiều so với giai đoạn trước.
Năm 2008, sự diễn biến phức tạp của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế, xã hội của nước ta. Trong khi tỷ lệ tăng trưởng của Việt Nam chỉ đạt 6,23%, thì tỷ lệ lạm phát lên tới 22,97%, tỷ lệ bội chi ngân sách ở mức 4,58% GDP.
Đứng trước tình hình khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới diễn biến ngày càng phức tạp, từ đầu năm 2009 Chính phủ đã đưa ra gói kích thích kinh tế có tổng giá trị gần 10% GDP. Về cơ bản nó đã đạt được mục tiêu đề ra là ngăn chặn được đà suy giảm kinh tế tuy nhiên nó cũng mang đến hệ lụy: thâm hụt ngân sách của Việt Nam lên đến 87,3 nghìn tỷ đồng (gần 7% so với GDP).
Năm 2010, thâm hụt ngân sách bằng 6,1% GDP.
Như vậy, trong khi nợ công tăng liên tục thì ngân sách lại ngày càng trở nên thâm hụt. Điều này vi phạm một nguyên tắc cơ bản của quản lý nợ công bền vững, đó là nợ công ngày hôm nay phải được tài trợ bằng thặng dư ngân sách ngày mai.
Hơn thế, thâm hụt ngân sách ở Việt Nam đã trở thành kinh niên và mức thâm hụt đã vượt xa ngưỡng báo động đỏ 5% theo thông lệ quốc tế, khiến tính bền vững của nợ công càng bị giảm sút. Trong khi đó, với nhu cầu tiếp tục đầu tư để phát triển, chắc chắn nợ công của Việt Nam sẽ còn tăng trong nhiều năm tới. Cụ thể là, với tỉ lệ tiết kiệm nội địa chỉ khoảng 27% GDP trong khi mức đầu tư toàn xã hội mỗi năm khoảng 42% GDP thì Chính phủ sẽ phải tiếp tục đi vay rất nhiều (bên cạnh vốn đầu tư nước ngoài) để bù đắp khoản thiếu hụt đầu tư.
3.1.4. Nợ công của Việt Nam xếp top cuối về tính minh bạch:
Các con số về khoản nợ công của Việt Nam được công bố không đồng nhất giữa Quốc hội, Bộ Tài chính, đồng thời con số này cũng không giống với con số tính toán của thế giới. Điều này khiến các chuyên gia nhận định, hiện những thông tin về vấn đề nợ công của Việt Nam chưa thực sự minh bạch. Hiện nay, Bộ Tài chính cũng đã bước đầu có những thông tin công khai về nợ công trên website của mình nhưng mới chỉ dừng lại ở nợ nước ngoài chứ chưa phải toàn bộ nợ công.
Theo PGS.TS Đặng Văn Thanh – Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam thì việc không thống nhất và gắn kết trong cách hiểu, cách giải thích cũng như cách quản lý vấn đề về nợ công là một trong những rủi ro của nợ công Việt Nam.
Cũng theo các chuyên gia, thống kê tài chính của Việt Nam hiện nay mới chỉ tập trung vào nợ Chính phủ, nên khó có thể thấy được toàn cảnh vấn đề tài chính công và nợ công vì khu vực doanh nghiệp nhà nước rất lớn và Chính phủ vẫn phải chịu trách nhiệm với khu vực này. Và đây cũng là một trong các nguyên nhân dẫn đến những sự việc như Vinashin.
Để thực thi được tính minh bạch, GS-TS Vương Đình Huệ cho rằng cần trao trách nhiệm quản lý nợ công cho 1 đầu mối, có thể là Bộ Tài chính. Theo đó, Bộ này cần xây dựng một chiến lược về nợ công; xác định ngưỡng, tỷ trọng nợ công là bao nhiêu so với GDP cho từng giai đoạn, từng thời kỳ dựa vào “sức khỏe” của nền kinh tế quốc dân.
3.2. Các giải pháp để Việt Nam không rơi vào khủng hoảng nợ công:
3.2.1. Tăng cường năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế:
Có rất nhiều biện pháp để cải thiện và tăng cường năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế. Tuy nhiên nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế có độ mở lớn với định hướng xuất khẩu và phụ thuộc đáng kể vào FDI, mà các nhân tố chính tác động đến chất lượng xuất khẩu và đầu tư của Việt Nam hiện nay là chất lượng sản phẩm; chi phí sản xuất; năng suất lao động; hàng rào thuế quan và phi thuế quan; việc tuân thủ các qui định vệ sinh và an toàn kiểm dịch
3.2.1.1. Tăng năng suất lao động:
Cải thiện năng suất lao động trong xã hội cần được xem là mục tiêu quan trọng. Hiện tại, năng suất lao động của Việt Nam nhìn chung vẫn khá thấp, chỉ bằng 1/5 năng suất trung bình trong khu vực ASEAN và khoảng 1/10 mức năng suất của Singapore.
Tăng cường khuôn khổ pháp lý và thể chế, tăng cường đối thoại xã hội, nâng cao năng lực và vai trò của đại diện công đoàn tại cấp cơ sở, phát huy được tiếng nói của mình trong các vụ tranh chấp, đình công của người lao động. Gần ¾ tổng số lao động ở nước ta vẫn có việc làm bấp bênh với tiền công và điều kiện lao động nghèo nàn, bảo trợ xã hội cũng như pháp lý còn hạn chế. Đây chính là nguyên nhân làm gia tăng các cuộc đình công, bãi công tại các doanh nghiệp, đặc biệt cao ở các doanh nghiệp FDI.
Nâng cao kiến thức, kỹ năng nghề cho người lao động để góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Theo thống kê, gần ¼ lao động chưa tốt nghiệp trung học phổ thông, 65,3% chưa qua đào tạo. Các chuyên gia cảnh báo, với tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp như vậy sẽ gây cản trở không nhỏ tới sự phát triển của nền kinh tế và mục tiêu tăng năng suất lao động lên 1,5 lần!
3.2.1.2. Tăng cường chất lượng và sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu và môi trường đầu tư:
Để tăng cường chất lượng và sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu và môi trường đầu tư của Việt Nam chúng ta cần tuân thủ tốt các quy tắc, các tiêu chuẩn quốc tế của WTO, của EU…như chất lượng sản phẩm; hàng rào thuế quan và phi thuế quan; tuân thủ các qui định vệ sinh và an toàn kiểm dịch…
3.2.2. Nhóm giải pháp liên quan đến việc vay và sử dụng nợ công hiệu quả:
3.2.2.1. Giảm thâm hụt ngân sách nhà nước (NSNN) nhằm hạn chế việc vay nợ:
Việc giảm thâm hụt ngân sách không phải càng nhiều càng tốt, mà cần phải giảm đến một mức độ hợp lý và chấp nhận được.
Tăng thu ngân sách nhà nước:
Mặc dù có nhiều nguồn thu khác để tăng thu ngân sách nhà nước và việc tăng thuế không phải là giải pháp tốt nhất, nhưng Việt Nam đang là một quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào thuế, thì việc làm này ít nhiều vẫn có cơ hội.
Cần xác định được mức thuế suất hợp lý để đạt được mức thuế tối ưu. Vì biện pháp tăng thu bằng việc ấn định tăng thuế suất có tác động hai chiều, nếu tăng với mức độ hợp lý, sẽ làm tăng nguồn thu, nhưng khi vượt quá giới hạn của nền kinh tế thì sẽ làm giảm tổng nguồn thu thuế. Trong các loại thuế, có thể nói thuế VAT là một trong những loại thuế ít bị chi phối và chịu tác động của các cam kết hiệp định có yếu tố nước ngoài. Chính vì vậy, nên chăng việc đầu tư nghiên cứu và phát triển loại thuế này để đạt được mức thuế thu cho ngân sách nhiều nhất.
Nâng cao hiệu quả công tác thu thuế, đồng thời nhanh chóng hoàn thiện các luật thuế; bãi bỏ những khoản phí, lệ phí không còn phù hợp.
Tăng thêm tuổi nghỉ hưu, qua đó sẽ tăng nguồn thu từ thuế (do người lao động làm việc trong thời gian dài).
Giảm chi ngân sách nhà nước:
Có thể nói việc cắt giảm chi tiêu để giảm thâm hụt ngân sách là một biện pháp không được ủng hộ nhiều. Tuy nhiên, nếu phân biệt rõ việc tiết kiệm những khoản chi cho những hoạt động lãng phí với khoản chi nhằm kích thích hoạt động kinh tế, nhằm nuôi dưỡng nguồn thu trong tương lai, thì đây cũng là một trong những giải pháp cần được quan tâm tới.
Bộ máy nhân sự khối hành chánh còn làm việc theo thủ công, cồng kềnh, không hiệu quả, vì vậy cần tinh giản và công nghệ hoá phục vụ quản lý hành chính nhằm giảm nhân sự, cải cách thủ tục hành chính.
Đầu tư công nên tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, điện, nước, chống ngập, cải thiện môi trường... Ngoài ra cũng nên xã hội hoá đầu tư, cho tư nhân tham gia vào. Chỉ đầu tư vào những dự án mang tính chủ đạo, hiệu quả nhằm tạo ra những đột phá cho sự phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt những dự án chưa hoặc không hiệu quả thì phải cắt giảm, thậm chí không đầu tư. Rà soát và cắt bỏ các hạng mục đầu tư kém hiệu quả của DNNN.
Tăng cường quản lý để các công trình đầu tư của nhà nước thực sự có hiệu quả tránh thất thoát, lãng phí nguồn vốn bằng cách: thứ nhất, cần có đội ngũ chuyên gia thẩm định để đánh giá tính hiệu quả kinh tế của các dự án xin đầu tư; thứ hai, cần có sự rà soát để chuyển vốn từ các công trình chưa khởi công, khởi công chậm hoặc thủ tục không đầy đủ sang cho các công trình chuyển tiếp, công trình cấp bách, công trình có hiệu quả kinh tế cao; thứ ba, xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát, chế tài đủ mạnh để ngăn ngừa nạn tham nhũng, rút ruột công trình.
3.2.2.2. Nâng cao hiệu quả huy động vốn và sử dụng vốn vay:
Nâng cao hiệu quả huy động vốn :
Đa dạng hoá cả hình thức vay lẫn biện pháp để tăng mức độ hấp dẫn người cho vay. Ngoài ra, còn phải triển khai các biện pháp khác để huy động tối đa nguồn tiền trong dân cư.
Tăng cường quảng bá, giới thiệu trái phiếu Chính phủ trên thị trường quốc tế. Nên xem xét tới việc tạo tính hấp dẫn cho trái phiếu chính phủ Việt Nam để các nhà đầu tư tiềm tàng sẽ thấy đó như một cách đầu tư. Chẳng hạn như Trái phiếu có một mức lãi cao, trả lãi hàng quý, có chính sách hoàn trả lãi cuối kỳ để giao dịch với nhà đầu tư một cách minh bạch nhất. Tăng tính thanh khoản cho trái phiếu bằng cách Chính phủ sẽ mua lại trái phiếu chính phủ bất cứ lúc nào từ người mua theo thời giá hiện tại…
Ngoài ra, kiều hối cũng là nguồn quan trọng có thể thu hút để trả nợ nước ngoài, và đây là lợi thế của Việt Nam. Để “dòng chảy kiều hối” phát huy được hiệu quả, việc hoạch định chính sách quản lý ngoại hối cần theo sát được diễn biến tình hình, tiến tới việc chủ động duy trì nguồn kiều hối góp phần giảm áp lực khan hiếm USD. Các chính sách kiều hối của Việt Nam cần thông thoáng cởi mở, đơn giản và hiệu quả hơn vì số lượng kiều hối thực tế chuyển về còn rất nhiều không qua ngân hàng vì lượng kiều hối này không qua các kênh chính thức như: xách tay, tư nhân, tổ chức khác...Ngoài ra, cần duy trì và tiếp tục kéo giảm chênh lệch giữa tỷ giá trong và ngoài ngân hàng để có thể thu hút người nhận kiều hối bán lại ngoại tệ cho ngân hàng.
Sử dụng vốn hợp lý, có hiệu quả:
Cần quan tâm nhiều hơn tới các khoản viện trợ theo chương trình, chứ không phải theo dự án. Bởi nếu thực hiện như hiện nay thì nguồn vốn này dễ bị xé lẻ, khó tạo tác động tổng thể. Một chương trình viện trợ tổng thể, có tầm nhìn xa rõ ràng bao giờ cũng mang lại hiệu ứng tích cực hơn, trên diện rộng hơn đối với phát triển.
Cần xây dựng lộ trình để nước ta không phụ thuộc vào nguồn vốn đầu tư và viện trợ, cần nhìn vào cơ cấu khoản vay và cách sử dụng nguồn vốn hơn là chỉ quan trọng việc vay được bao nhiêu. Hiện nay, nước ta đang có nhu cầu vốn lớn để hoàn thiện cơ sở hạ tầng, nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh. Việc tiếp tục huy động vốn vẫn rất cần thiết, nhưng cần phải cân nhắc để nguồn vốn này được sử dụng hiệu quả nhất.
Tuy nhiên, để không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cũng như đẩy nhanh việc giải ngân vốn trong thời gian tới, các cơ quan quản lý, các bộ, ngành cần nâng cao tính phối hợp trong công tác điều hành, quản lý và giám sát công việc. Kể cả ngay trong một bộ, một cơ quan quản lý cấp ngành, các bộ phận cũng cần có sự phối hợp cao hơn.
Cần nổ lực trở thành cơ quan quản lý dự án duy nhất, như vậy tiến độ và tính hiệu quả của dự án sẽ được cải thiện. Hiện nay, việc này đang được thực hiện theo hai cơ chế song song tại cả WB lẫn chính phủ Việt Nam. Cách quản lý như thế này đã làm cho tiến độ thực hiện dự án bị chậm lại.
3.2.3. Nhóm giải pháp liên quan đến việc quản lý nợ công:
3.2.3.1. Tiếp tục hoàn thiện các thể chế và xây dựng khung pháp lý:
Tôn trọng nguyên tắc cạnh tranh- Luật cạnh tranh:
Tiếp tục từng bước hình thành đồng bộ và hoàn thiện hơn các chính sách liên quan đến cạnh tranh.. Luật Cạnh tranh do Quốc Hội ban hành vào 14/12/2004 và có hiệu lực 01/07/2005 thể hiện quyết tâm của nhà nước khi xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh cho nền kinh tế. Tuy nhiên hơn năm năm thực hiện, đã cho thấy Luật cạnh tranh chưa đi vào cuộc sống, chưa phát huy được tác dụng rất quan trọng của nó đối với hoạt động kinh tế. Vì vậy, Luật cạnh tranh của ta cần:
Được xây dựng trên nền tảng triết lý pháp lý rõ ràng về Cạnh tranh.
Cụ thể hóa mục đích-ý nghĩa của Luật cạnh tranh bằng các điều luật.
Học hỏi cách viết luật của những nước có nền kinh tế phát triển, nâng cao kỹ thuật viết luật nhằm giúp việc hiểu và áp dụng điều luật được rõ ràng, thống nhất, phù hợp với tiêu chuẩn, tập quán quốc tế.
Tôn trọng và thực thi đầy đủ các cam kết thương mại đã ký kết với cộng đồng quốc tế. Trong quá trình hoạch định chính sách để xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh và nâng cao sức cạnh tranh cho nền kinh tế, nên lắng nghe các ý kiến khuyến nghị chân thành có giá trị của các chuyên gia từ nhiều phía.
Hoàn thiện Luật quản lý nợ công:
Cần hoàn thiện và đồng bộ hơn các văn bản pháp lý, tiến tới chuẩn mực theo thông lệ quốc tế. Luật Quản lý nợ công đã được ban hành, có hiệu lực sử dụng từ ngày 01 tháng 01 năm 2010. Tuy nhiên, một số nội dung của Luật vẫn còn chung chung, cần phải được làm rõ. Chẳng hạn như:
Về việc hoàn trả vốn vay, hiện chưa có quy định rõ về việc bàn giao nợ vay đối với các đối tượng vay nợ, đặc biệt ở chính quyền địa phương khi người quản lý hết nhiệm kỳ. Ví dụ, những nguồn vốn vay được sử dụng kém hiệu quả, vỡ nợ thì liệu người kế nhiệm có dám nhận việc trả nợ này hay không? Vì vậy đề nghị đưa vào luật để quy trách nhiệm khoản nợ sẽ giao cho ai và được thực hiện như thế nào.
Về các quy định nợ của chính quyền địa phương, hiện cũng chưa cụ thể, cần phải có quy định rõ hơn. Chẳng hạn, chính quyền địa phương không có khả năng trả nợ hoặc trả nợ chậm so với yêu cầu sẽ được xử lý như thế nào, xử lý chính quyền địa phương là xử lý ai? Chủ tịch tỉnh hay tập thể nào? Khi địa phương không có đủ khả năng trả nợ thì Chính phủ có bảo lãnh cho chính quyền địa phương hay không và bảo lãnh trong những điều kiện nào?
Về quản lý nợ địa phương, cần nghiên cứu quy định về trường hợp chính quyền địa phương sử dụng nguồn vốn vay không hiệu quả. Ví dụ, do thiên tai hay những yếu tố nào đó gây ra làm cho họ không đủ khả năng để chi trả, thì Luật phải quy định như thế nào? hoặc nếu những địa phương làm mất cân đối, sử dụng vốn vay sai mục đích thì làm cách nào xử lý chính quyền địa phương này, Chính phủ có bảo lãnh hay không?
Việc công bố công khai các thông tin về tình hình vay nợ. Dự thảo Luật hiện còn chung chung, chưa thể hiện rõ những vấn đề như thời gian công bố công khai, nội dung các thông tin công bố công khai gồm những vấn đề gì, chính quyền địa phương có phải công bố công khai tình hình vay nợ không? Để tránh tính hình thức, thì nên sửa Điều 50 theo hướng bổ sung quy định trách nhiệm của ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc thực hiện công khai thông tin về nợ công của địa phương.
Học hỏi kinh nghiệm quản lý và xây dựng chính sách từ các tổ chức quốc tế có uy tín, các quốc gia thành công trong công tác quản lý nợ.
3.2.3.2. Đảm bảo an toàn, bền vững nợ:
Thay đổi cách đánh giá về tiêu chí kiểm soát nợ công:
Nợ công/GDP:
Không nên đánh giá tình trạng nợ công hay năng lực thực sự của nền kinh tế chỉ căn cứ trên tỷ lệ nợ công/ GDP, mà còn nên xem xét các chỉ tiêu cán cân thương mại, dự trữ ngoại hối, dự trữ tài chính, quỹ tích lũy để trả nợ.
Vì GDP sau khi đã trừ đi phần chi trả sở hữu và cộng với phần thu nhập từ sở hữu được gọi là Tổng thu nhập Quốc gia (Gross National Income - GNI) đây mới là khoản mà một quốc gia có thể nhận được trong quá trình sản xuất và sở hữu. GNI sau khi được cộng thêm các khoản thu nhập từ chuyển nhượng như kiều hối, các khoản viện trợ không hoàn lại…và được trừ đi các khoản chi chuyển nhượng, lúc đó khoản còn lại mới là Thu nhập Quốc gia khả dụng (National Disposable Income - NDI). Đó là khoản tiền mà quốc gia có thể sử dụng thực tế sau khi đã bù trừ các giao dịch quốc tế qua lại.
Việc so sánh nợ công chỉ bằng GDP có thể gây ngộ nhận và gây ra tâm lý chủ quan khi sự khác biệt giữa GDP và GNI ngày càng tăng.
Cách cân đối ngân sách:
Nên thay đổi cách cân đối NSNN theo thông lệ quốc tế nhằm tạo thuận lợi khi so sánh mức bội chi của VN với các nước, và để xác định mức độ an toàn về nợ Chính phủ khi cân đối kinh tế vĩ mô. Việc áp dụng chuẩn mực quốc tế sẽ tạo lòng tin cho các nhà đầu tư nước ngoài về tính minh bạch trong quản lý kinh tế của VN.
Khi tính toán nợ công cần lượng hóa được ảnh hưởng của yếu tố lạm phát trong chi tiêu, bằng cách tính các khoản trả lãi vay theo lãi suất thực tế thay vì tính theo lãi suất danh nghĩa. Đồng thời, chính phủ cần quan tâm đến các khoản nợ tiềm tàng như tiền trợ cấp hưu trí, các khoản bảo hiểm xã hội…
Tăng cường quản lý giám sát chi tiêu công:
Cần tăng cường giám sát để đồng tiền ngân sách chi kịp thời, đúng đối tượng, đúng mục đích.
Cần từng bước hoàn thiện hệ thống luật pháp về quản lý tài chính - ngân sách Nhà nước. Kết quả kiểm soát và kiểm toán phải gắn với trách nhiệm cá nhân, những người đặt bút phê duyệt các khoản chi phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về quyết định của mình.
Cùng với việc nâng cao chất lượng kiểm toán, thì đòi hỏi tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của Chính phủ cần phải tăng lên. Đặc biệt, việc giám sát chi tiêu công của Quốc hội cần phải được thể chế hóa và bắt buộc thi hành.
Tăng cường công tác quản lý rủi ro:
Xây dựng quy chế quán lý rủi ro: theo dõi toàn diện các rủi ro: tỷ giá, lãi suất, tái cấp vốn, thanh khoản, tín dụng; nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về cách tính mức phí bảo lãnh và cho vay lại để phản ánh mức rủi ro tín dụng và thị trường của các khoản vay.
Theo dõi chặt chẽ, đảm bảo thanh toán đúng hạn, xây dựng các ngưỡng an toàn và hạn mức vay phù hợp.
Định kỳ báo cáo Chính phủ, hoặc báo cáo đột xuất khi dự đoán có nguy cơ mất an toàn nơ.
3.2.3.3. Công khai và minh bạch hóa thông tin về nợ công:
Nghĩa vụ nợ và các điều khoản vay nợ phải được công bố đầy đủ cho công chúng. Minh bạch tài khóa đòi hỏi cơ quan lập pháp phải xác định rõ các yêu cầu trong báo cáo hàng năm về dư nợ và dòng chu chuyển nợ, kể cả số liệu về bảo lãnh nợ của chính phủ trình cơ quan lập pháp và công khai cho công chúng.
Thông tin về nợ công phải bao quát cả trong quá khứ, hiện tại và dự tính cho tương lai. Điều này là hết sức cần thiết không chỉ để đảm bảo tính hệ thống của thông tin về nợ vì nợ đồng nghĩa với nghĩa vụ trả nợ trong tương lai mà quan trọng không kém là nhằm tăng cường khả năng can thiệp và phòng ngừa tình huống xấu xảy ra. Ví dụ: Nếu thông tin về Vinashin được cung cấp đầy đủ và kịp thời, Quốc hội, các phương tiện thông tin đại chúng và nhân dân tham gia ngay từ khi nó chưa bị lún sâu vào khủng hoảng và ngập ngụa trong nợ nần như hiện nay thì tình hình chắc chắn đã tốt đẹp hơn nhiều.
KẾT LUẬN
Sự sụp đổ của hai nền kinh tế được coi là những hình mẫu tăng trưởng của châu Âu là những bài học nhãn tiền đối với tất cả các nước, bất kể là giàu hay nghèo. Mối đe dọa về khủng hoảng nợ công vẫn đang tiếp diễn và có nguy cơ lan rộng ra các quốc gia khác ở châu Âu (Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Italia…) cũng như ảnh hưởng đến các quốc gia khác trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Nghiên cứu về nợ công, những nguyên nhân, tác động và ảnh hưởng của nó để từ đó có được những giải pháp phù hợp trong việc quản lý nợ công và ngăn ngừa khủng hoảng nợ công là vấn đề cấp bách và cần được thực hiện ngay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PGS.TS.Sử Đình Thành – TS. Vũ Thị Minh Hằng, “NHẬP MÔN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ”, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP.HCM 2006.
“LUẬT QUẢN LÝ NỢ CÔNG”, Số 29/2009/QH12 ngày 17/06/2009
“NGHỊ ĐỊNH VỀ NGHIỆP VỤ QUẢN LÝ NỢ CÔNG”, Số 79/2010/NĐ-CP ngày 14/07/2010
Các WEBSITE:
…
PHẦN CÂU HỎI THẢO LUẬN
Câu hỏi của bạn Nguyễn Hồng Anh:
1. Cơ cấu nợ công của Việt Nam gồm những nhóm nợ nào? Trong đó, nhóm nợ công nào đáng quan tâm nhất? Vì sao?
Trả lời:
Theo luật quản lý nợ công số 29/2009/QH12 ngày 17/06/2009 thì nợ công bao gồm: Nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương. Trong đó khoản nợ Chính phủ là khoản nợ chiếm tỷ trọng lớn nhất vì xét cho cùng việc đi vay chủ yếu xuất phát từ phía Chính phủ để bù đắp cho thâm hụt ngân sách hay chi cho đầu tư phát triển. Chính vì lý do đó mà nhiều quan niệm đã đồng nhất nợ công là nợ Chính phủ. Tuy nhiên, điều này chưa đúng vì cũng cần phải tính thêm các khoản nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương. Như vậy khoản nợ Chính phủ là khoản nợ đáng quan tâm nhất.
Bên cạnh đó, khoản nợ mà ta không được có thái độ lơ là, chính là nợ được Chính phủ bảo lãnh. Bảo lãnh Chính phủ (cho khoản vay) là cần thiết, nhằm tạo điều kiện huy động vốn cho nền kinh tế (mà cụ thể là cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng – gọi là người được bảo lãnh), qua đó thúc đẩy phát triển. Nhưng bảo lãnh như thế nào, cho đối tượng nào, quản lý sử dụng như thế nào, kiểm tra giám sát ra sao để đảm bảo sử dụng hiệu quả khoản vay được bảo lãnh, đảm bảo trả được nợ mới là điều quan trọng. Nếu nó không được chú ý một cách đúng mức thì Chính phủ cũng phải gánh trên vai những khoản nợ này. Đó là còn chưa kể đến những khoản “nợ ngầm”, như trường hợp nợ nần của Vinashin đã gây ra áp lực trả nợ nặng nề cho Chính phủ.
Ngoài ra, phân theo nguồn vay thì nợ công bao gồm: vay trong nước và vay nước ngoài. Trong đó đáng quan tâm là tỷ lệ nợ nước ngoài của quốc gia. Nếu nguồn vốn chủ yếu là vay nước ngoài thì nó là một biện pháp tài trợ ngân sách nhà nước hữu hiệu, có thể bù đắp được các khoản bội chi mà lại không gây sức ép lạm phát cho nền kinh tế. Đây cũng là một nguồn vốn quan trọng bổ sung cho nguồn vốn thiếu hụt trong nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, xét về trung và dài hạn, việc chính phủ phải cân đối nguồn ngoại tệ trả nợ gốc và lãi sẽ đẩy nhu cầu ngoại tệ tăng cao, làm giảm giá đồng nội tệ, tăng chi phí nhập khẩu máy móc thiết bị và nguyên liệu (thường chiếm tỷ trọng lớn ở các nước đang phát triển), tăng chi phí đầu vào của nền kinh tế, dẫn tới các nguy cơ lạm phát. Tỷ giá tăng cao sẽ làm chi phí thanh toán nợ trở nên đắt đỏ hơn, càng làm tăng nguy cơ vỡ nợ, nếu như quy mô nợ vượt quá sức chịu đựng của ngân sách nhà nước, tức nó sẽ khiến cho gánh nặng nợ nần, nghĩa vụ trả nợ tăng lên, giảm khả năng chi tiêu của chính phủ. Đồng thời, nó cũng dễ khiến cho nền kinh tế trở nên bị phụ thuộc vào nước ngoài. Thậm chí, nhiều khoản vay, khoản viện trợ còn đòi hỏi kèm theo đó là nhiều các điều khoản về chính trị, quân sự, kinh tế khiến cho các nước đi vay bị phụ thuộc nhiều.
à Cần có chính sách kiểm soát tốt đối với các khoản nợ để có thể phát huy hiệu quả sử dụng vốn của những đồng vốn vay, cũng như không để nền kinh tế bị phụ thuộc vào nước ngoài, không để những khoản nợ tư biến thành nợ công của quốc gia làm nợ công tăng lên, kìm hãm sự phát triển kinh tế.
2. Nợ công của Nhật Bản khoản 200% so với GDP, trong khi đó Hy Lạp và Ireland chưa bằng so với Nhật Bản, vậy tại sao Hy Lạp và Ireland dẫn tới khủng hoảng nợ công, còn Nhật Bản thì không?
Trả lời:
Như đã trình bày trong bài thì không thể dựa vào chỉ số nợ công/GDP để kết luận một cách toàn diện mức độ an toàn hay rủi ro của nợ công mà cần phải xem xét nợ công một cách toàn diện trong mối liên hệ với hệ thống các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế quốc dân, nhất là: tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế, năng suất lao động tổng hợp, hiệu quả sử dụng vốn (qua tiêu chí ICOR), tỉ lệ thâm hụt ngân sách, mức tiết kiệm nội địa và mức đầu tư toàn xã hội... Bên cạnh đó, những tiêu chí như: cơ cấu nợ công, tỷ trọng các loại nợ, cơ cấu lãi suất, thời gian trả nợ… cũng cần được phân tích kỹ lưỡng khi đánh giá tính bền vững nợ công.
Theo đó, ta cần phân tích có sự khác biệt rất lớn giữa nợ công của Nhật với nợ công của Hy Lạp, thể hiện ở chổ khỏang 95% trái phiếu chính phủ Nhật do nhà đầu tư trong nước nắm giữ, trong khi 70% nợ chính phủ Hy Lạp do người nước ngoài nắm giữ. Do đó các nhà đầu tư nước ngoài không có phương tiện gây áp lực buộc chính phủ Nhật phải tiến hành tu bổ ngành tài chính. Thế mạnh của Nhật Bản là tiết kiệm nội địa vẫn còn đủ sức bù đắp cho những chi tiêu hoang phí, đôi khi vì mục đích tranh cử của Chính quyền. Bên cạnh đó, Nhật còn tự chủ về tỷ giá hối đoái, dự trữ ngoại tệ của Nhật cũng ở mức rất cao (theo con số mà Bộ Tài chính Nhật Bản công bố ngày 12-5, tính đến cuối tháng 4-2010, dự trữ quốc gia của Nhật là 1.046,873 tỉ USD).
Riêng Ireland thì do các ngân hàng nước ngày phải gánh nhiều nợ xấu khi đã tăng cho vay quá mạnh trong thời kỳ kinh tế nước này tăng trưởng mạnh và “bong bóng” bất động sản phình to. Khi thị trường bất động sản sụp đổ, nhiều phần trong khoản vay bất động sản này trở thành nợ xấu và các ngân hàng đứng trước nguy cơ sụp đổ. Vì vậy, khủng hoảng Ireland thực tế là do chính phủ cứu trợ cho hệ thống ngân hàng nước này, khiến nợ xấu từ khu vực tư nhân tạo thành gánh nặng nợ nần của chính phủ và cuối cùng chính phủ không đủ tiền trả nợ phải đi cầu viện EU và IMF để tiếp tục cứu giúp hệ thống ngân hàng của mình.
3. Việt Nam có khả năng dẫn tới khủng hoảng nợ công không? có, thì những nguyên nhân chính là gì? Vì sao? Không, vì sao?
Trả lời:
Việt Nam có khả năng dẫn đến khủng hoảng nợ công về dài hạn nếu như ko kiểm soát tốt.
Lý do:
Chi tiêu công mở rộng gây sức ép lên thâm hụt ngân sách của Việt Nam. Trong thời gian gần đây, Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội đã đưa ra cảnh báo về mức dư nợ chính phủ và nợ quốc gia đã tăng sát mức trần cho phép. Thâm hụt thương mại của Việt Nam luôn duy trì ở mức cao và kéo dài. Một tỷ lệ khá lớn vốn tài trợ cho thâm hụt cũng đến từ bên ngoài, trong đó số tiền vay nợ qua ODA, vay thương mại, phát hành trái phiếu chính phủ quốc tế ngày càng lớn. Dù hiện tại tỷ lệ nợ công/GDP vẫn ở mức an toàn, nhưng tỷ lệ này đang ngày càng tăng nhanh và đã hơn mức giới hạn an toàn 50%.
Việt Nam cũng đã phải thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ và kích thích kinh tế để lấy lại đà tăng trưởng sau khủng hoảng. Áp lực thâm hụt ngân sách càng nặng hơn khi sắp tới Việt Nam đang có hàng loạt dự án quy mô rất lớn như mở rộng thủ đô Hà Nội, xây dựng nhà máy điện hạt nhân,,... Đây là những dự án tiêu tốn chi phí cao và phần lớn số tiền không phải là tiền tiết kiệm trong nước, mà đến từ nguồn vốn vay từ nước ngoài.
Mô hình tăng trưởng dựa quá nhiều vào nguồn vốn đầu tư bên ngoài sẽ dễ bị tổn thương nếu kinh tế thế giới ngưng trệ. Tỷ lệ đầu tư/GDP trong những năm gần đây đều ở mức trên 40%. Đây là một tỷ lệ rất cao so trung bình các nước trong khu vực và trên thế giới.
Trong số hơn 40% nói trên, khoảng 27-30% được tài trợ bởi nguồn vốn tiết kiệm trong nước. Hơn 10% còn lại là từ dòng vốn từ bên ngoài (FDI, FPI, ODA và các khoản vay khác), trong đó vốn vay chiếm một tỷ lệ không nhỏ. Với việc dòng vốn đầu tư nước ngoài chiếm một tỷ lệ quá lớn trong cơ cấu vốn đầu tư, nền kinh tế Việt Nam sẽ rất dễ bị tổn thương một khi kinh tế thế giới ngưng trệ.
à Tuy vậy, nhóm cho rằng một kịch bản xấu ít có khả năng xảy ra, và trong ngắn hạn Việt Nam chưa phải chịu áp lực quá nhiều từ việc suy giảm các dòng vốn đến từ bên ngoài. Xét về dài hạn, tình trạng phụ thuộc quá nhiều vào các dòng vốn đầu tư nước ngoài kéo dài sẽ khiến Việt Nam gặp phải nhiều rủi ro.
Kinh tế Việt Nam vẫn đạt được tốc độ tăng trưởng cao mà sẽ không phải phụ thuộc quá nhiều đến dòng vốn từ bên ngoài như hiện tại, nếu Việt Nam sử dụng vốn đầu tư một cách hiệu quả (ICOR khoảng 3.5-4, bằng mức trung bình các nước đang phát triển). Vì vậy, giải pháp dài hạn của Việt Nam vẫn là phải nâng cao hiệu quả đầu tư, giúp giảm được hàng loạt những rủi ro đối với nền kinh tế.
Tóm lại, từ cuộc khủng hoảng các nước khác một lần nữa cho chúng ta thấy kinh tế Việt Nam vẫn đang tiềm ẩn những rủi ro, khi tăng trưởng dựa quá nhiều vào dòng vốn đầu tư từ bên ngoài. Chỉ có tái cấu trúc nền kinh tế và cải thiện chất lượng tăng trưởng mới giúp Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng cao trong những năm sắp tới.
4. Hy Lạp và Ireland nằm trong khu vực eurozone và bị khủng hoảng nợ công, một số nước khác trong khu vực eurozone như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý,... cũng có nguy cơ bị khủng hoảng nợ công. Có phải các nước nằm trong khu vực eurozone dễ gây ra khủng hoảng nợ công? Nhóm bạn đánh giá như thế nào về điều này?
Trả lời:
Theo nhóm một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng nợ công trong khu vực sử dụng đồng tiền chung Euro là hầu như tất cả các nước tham gia khu vực tiền tệ này đã vi phạm các quy tắc riêng , do chính họ tự áp đặt. Theo đó nợ chính phủ không được vượt quá 60% GDP vào cuối mỗi năm tài chính và thâm hụt ngân sách hàng năm không quá 3% GDP. Tuy nhiên, chỉ có 2 trong số 16 quốc gia khu vực đồng Euro là Luxembourg và Phần Lan thực thi được cả 2 quy tắc đó. Sự vượt rào này là một trong những nguyên nhân chính khiến Châu Âu trở thành nợ như “chúa chổm”.
Ngoài ra, các món nợ của các nước Nam Âu là khổng lồ và chồng chéo với nhau. Trước hết là Hy Lạp đã được biết đến rộng rãi với món nợ 236 tỉ đô la Mỹ, trong đó nợ Pháp 75 tỉ, Đức 45 tỉ và Anh 15 tỉ. Tuy nhiên khối nợ này còn chưa thấm vào đâu so với hai nước láng giềng cũng đang trên bờ khủng hoảng là Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha.
Tây Ban Nha nợ tổng cộng 1.100 tỉ đô la Mỹ, tức hơn bốn lần món nợ của Hy Lạp, bao gồm 238 tỉ với Đức, 220 tỉ với Pháp và 114 tỉ với Anh. Nước này đang có tỷ lệ thất nghiệp là 20% và có nền kinh tế gần như yếu nhất châu lục.
Bồ Đào Nha nợ tổng cộng 286 tỉ đô la Mỹ, trong đó một phần ba là nợ Tây Ban Nha (86 tỉ), rồi đến nợ Đức 47 tỉ, Pháp 45 tỉ và Anh 24 tỉ; nhưng Tây Ban Nha cũng nợ chéo 28 tỉ. Hy Lạp cũng nợ Bồ Đào Nha gần 10 tỉ.
Ngoài ra cũng đáng để ý là Ý có món nợ lớn tới 1.400 tỉ đô la Mỹ và Ireland nợ 867 tỉ đô la Mỹ, và cả hai đều mang nợ lớn với ba nước đã kể là Đức, Pháp và Anh, dù hai nước chưa bị xếp vào tình trạng "báo động nợ".
Từ nỗ lực cứu Hy Lạp đã dấy lên một làn sóng sợ hãi cho rằng một cuộc khủng hoảng nợ công tương tự có thể xảy ra tại một số nước khác như Tây Ban Nha (như IMF vừa cảnh cáo) và Bồ Đào Nha, cũng như những hậu quả nghiêm trọng của nó đối với phục hồi kinh tế toàn cầu và thị trường tài chính thế giới.
Đặc biệt lúc này khó loại trừ trường hợp cơn khủng hoảng nợ các nước Nam Âu có thể lan rộng thành một cuộc khủng hoảng tài chính thế giới mới do sự vỡ nợ của thị trường tài chính châu Âu với các hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng (Credit Default Swap - CDS). Các hợp đồng này là các giấy tờ bảo hiểm có giá thường được mua bởi các nhà đầu tư tài chính cho trường hợp vỡ nợ của các trái phiếu, cũng sẽ xuống giá nặng nếu thị trường cho là các nước phát hành trái phiếu không đủ sức chi trả nợ công.
Sơ đồ nợ công chồng chéo tại Nam Âu
Như vậy những nước nằm trong khu vực Eurozone, đăc biệt là những nước có nợ chồng chéo nhau theo trình bày trên là những nước có nguy cơ dễ bị khủng hoảng nợ công nhất và có thể lây lan ra trên phạm vi toàn cầu nếu các nước không có giải pháp phù hợp để phòng tránh khủng hoảng.
Câu hỏi của bạn Huỳnh Anh Tuyên:
1. Các bạn có nêu ra 2 cuộc khủng hoảng nợ công của Hy Lạp và Ireland vậy bài học kinh nghiệm mà Việt Nam học được những gì từ cuôc khủng hoảng nợ công của 2 nước đó?
Trả lời:
Tình trạng khủng hoảng nợ công của Ireland bắt nguồn từ việc chính phủ đã không kịp thời khống chế hành vi cho vay thiếu trách nhiệm của một số ngân hàng khi nền kinh tế tăng trưởng nóng và nhà đất tạo thành bong bóng. Mặt khác, chính phủ đã buộc phải chọn lựa bao cấp các ngân hàng này khi họ thua lỗ.
Không chỉ đối với hệ thống ngân hàng mà đối với bất kỳ doanh nghiệp lớn nào trong nền kinh tế, Nhà nước cần có sự giám sát chặt chẽ và can thiệp kịp thời vì những tổ chức này khi đổ vỡ sẽ tạo ra những tác hại vô cùng lớn cho nền kinh tế. Khi các doanh nghiệp đó đổ vỡ rồi, vì lý do cứu vãn tăng trưởng kinh tế, nhà nước phải cứu trợ cho các doanh nghiệp đó với lý lẽ là phải cứu cả một ngành công nghiệp hay là cứu nền kinh tế khỏi suy thoái, bảo vệ việc làm cho người dân. Nhưng càng chi tiền cứu các ngân hàng thì càng phải chấp nhận bội chi ngân sách sẽ càng lớn và khi đó niềm tin của nhà đầu tư nước ngoài vào trái phiếu chính phủ và đồng nội tệ sẽ càng thấp.
Khi Hy Lạp và Ireland lâm vào khủng hoảng nợ, hạng mức tín nhiệm của trái phiếu các nước này bị hạ, chi phí lãi vay tăng lên cho các khoản vay mới và chi phí bảo hiểm các khoản tiền vay của những nước này tăng mạnh. Điều này tác động xấu đến tâm lý nhà đầu tư trong và ngoài nước, khiến cho kỳ vọng về sự hồi phục kinh tế sẽ tiếp tục thấp. Vì vậy nền kinh tế sẽ tiếp tục vật lộn với suy thoái kéo dài. Khi mà niềm tin đã bị mất đi thì rất khó có thể tạo dựng lại. Điển hình là trường hợp của Hy Lạp. Chi phí của một hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng của Hy Lạp trước khi được cứu trợ là khoảng 12%, sau đó giảm xuống xung quanh 7% sau khi được cứu trợ vào đầu năm, và bây giờ nó lại tăng trở lại lên trên 10% (nghĩa là phải tốn khoảng 1 triệu euro để bảo hiểm cho một khoản nợ 10 triệu euro).
Do đó, không thể chờ đến khi tổn thất xảy ra rồi mới tìm cách tháo gỡ. Niềm tin của nhà đầu tư nước ngoài (và cả trong nước nữa) đối với triển vọng nền kinh tế và độ tín nhiệm của một chính phủ một khi đã bị tổn hại thì khó có thể xây dựng lại nhanh chóng.
Vì vậy, ngay từ đầu, trong trường hợp của nước ta, rất cần sự giám sát chặt chẽ đối với hệ thống tài chính và các doanh nghiệp lớn trong nền kinh tế, giảm thiểu các khoản cho vay kém chất lượng và loại bỏ những doanh nghiệp nhà nước lớn kém hiệu quả càng sớm càng tốt để tránh đến khi một doanh nghiệp quá lớn để đổ vỡ bị lâm vào nguy cơ sụp đổ thì Nhà nước phải đứng ra bảo lãnh và cứu trợ. Trong tình huống đó, thâm hụt ngân sách và nợ công sẽ phải chịu một gánh nặng quá lớn và trường hợp của Ireland là một kinh nghiệm. Việt Nam có lợi thế là độc lập trong chính sách tiền tệ và đồng tiền của mình nên có nhiều công cụ để điều tiết nền kinh tế hơn so với Ireland đang nằm trong khối sử dụng đồng tiền chung.
2. Nhóm các bạn đưa ra 3 giải pháp để Việt Nam tránh khủng hoảng nợ công, vậy cho Tuyên hỏi giải pháp nào các bạn tâm đắc nhất, hay nhất và thực trạng nền kinh tế Việt Nam hiện tại cần giải pháp nào?
Trả lời:
Qua phân tích thực trang, có thể thấy Việt Nam hiện nay chưa rơi vào khủng hoảng nợ công, tuy nhiên, nếu tiếp tục tình trạng như vậy, mà không có hướng giải quyết kịp thời, Việt Nam sẽ rơi vào khủng hoảng nợ công trong một tương lai không xa.
Việc đánh giá biện pháp nào hay nhất thực sự là không có nghĩa cho lắm, vì các biện pháp có mối quan hệ tương tác hỗ trợ nhau, khó có thể thực hiện biện pháp nào đạt được hiệu quả trong khi các biện pháp khác chưa tốt. Nhóm xin được hiểu biện pháp “tâm đắc nhất”, “hay nhất” theo nghĩa là biện pháp có tác động tích cực và toàn diện nhất đối với nền kinh tế. Chính vì vậy, tăng cường năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế nói riêng, tăng cường hiệu quả và tối đa hóa tiềm năng nói chung, được đánh giá là một trong những giải pháp tốt nhất. Khi nền kinh tế đủ khỏe, sẽ có sức đề kháng để đương đầu với các rủi ro từ bản thân nền kinh tế và những ảnh hưởng biến động từ kinh tế thế giới, giúp Việt Nam né tránh được khủng hoảng nợ công.
Tuy nhiên như đã nói, cần đặt các biện pháp trong mối quan hệ tống thể với nhau. Với tình trạng nợ công Việt Nam như hiện nay, chúng ta cũng có thể phân ra các nhóm biện pháp để thực hiện trong ngắn hạn và dài hạn. Ví dụ trong ngắn hạn, thử thay đổi cách đánh giá về nợ công để coi đó như một cách nhìn nhận khác về tình trạng nợ công hiện nay liệu có nằm ở ngưỡng an toàn như nhiều chuyên gia đánh giá. Từ đó, cần rà soát lại các dự án đầu tư công, tăng cường quản ly giám sát chi tiêu, cắt giảm các khoản chi cho những hoạt động lãng phí, hoàn thiện nhanh chóng luật quản ly nợ công và Luật cạnh tranh, đốc thúc bộ ngành có liên quan về việc công khai-minh bạch hóa thông tin về nợ công để công chúng hiểu được trách nhiệm và nghĩa vụ, đồng thời theo dõi được quá trình sử dụng nợ công của quốc gia như thế nào. Các biện pháp về tăng cường quản ly rủi ro, nâng cao hiệu quả huy động vốn và sử dụng vốn vay cũng như tăng cường năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế cần được kết hợp và thực hiện đồng bộ trong dài hạn.
Một số biện pháp có tính hai mặt của nó như việc tăng thu ngân sách bằng thuế và giảm chi ngân sách,cho nên tùy vào mục tiêu của chính phủ trong từng năm, mục tiêu nào cần đạt trước sẽ gắn với việc ưu tiên thực hiện biệp pháp nào và hy sinh các biện pháp khác ra sao.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu luan.doc