Đề tài Khủng hoảng thị trường cho vay dưới chuẩn ở Mỹ

Chương I: LÝ THUYẾT VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ VẬN HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG NỀN KINH TẾ MỸ I.- Lý thuyết về chính sách tiền tệ: 1. Khái niệm: Chính sách tiền tệ là tổng hòa những phương thức mà ngân hàng trung ương thông qua các hoạt động của mình tác động đến khối lượng tiền trong lưu thông, nhằm phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước trong một thời kỳ nhất định. Nó là một bộ phận quan trọng trong hệ thống các chính sách kinh tế - tài chính vĩ mô của Chính phủ. 2. Chính sách mở rộng tiền tệ: 2.1. Khái niệm: Chính sách mở rộng tiền tệ là việc ngân hàng trung ương của một nước quyết định giảm lãi suất cho vay và làm tăng tổng cầu thông qua việc tăng cung tiền nhằm kích thích đầu tư khu vực tư nhân, thúc đẩy GDP tăng nhanh hơn để làm giảm suy thoái nền kinh tế. Nếu nền kinh tế có tổng cầu (tăng trưởng GDP) yếu, việc thực hiện một chính sách tiền tệ mở rộng là hợp lý. Tuy nhiên, có quá nhiều tiền được đưa vào lưu hành có thể làm tăng các mức giá. Do đó, việc áp dụng chính sách tiền tệ phải được hạn chế sao cho lạm phát được giữ ở mức thấp, nhưng cũng phải mở rộng đủ để đảm bảo lượng tín dụng cần thiết cho các ngành sản xuất có hiệu quả của nền kinh tế.

doc34 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2621 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khủng hoảng thị trường cho vay dưới chuẩn ở Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khủng hoảng kinh tế mới chỉ bắt đầu. 2. Nguyên nhân khủng hoảng: 2.1. Nguyên nhân sâu xa: Sự bùng nổ của cho vay nợ dưới chuẩn bắt nguồn sâu xa từ sự bất cân đối về nguồn vốn tín dụng toàn cầu trong những năm gần đây. Trong khi nguồn vốn tín dụng gia tăng từ các chính sách tiền tệ mở thì nhu cầu huy động vốn của các doanh nghiệp sau các bê bối tài chính tại Mỹ như Enron, Worldcom và khủng hoảng các công ty công nghệ thông tin từ năm 2001 lại suy giảm. Các chính phủ cũng ngày càng kiểm soát thâm thâm hụt ngân sách để tránh việc vay nguồn vốn bên ngoài. Sự bất cân đối cung cầu về vốn dẫn đến việc thừa các nguồn vốn mà thị trường không sử dụng hiệu quả. Cho vay nợ dưới chuẩn là một giải pháp để giải quyết bài toán thừa vốn nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Việc cho vay nợ dưới chuẩn một cách thái quá trong một thời gian ngắn dẫn đến việc mất kiểm soát chất lượng tín dụng, chính là nguyên nhân tạo nên cuộc khủng hoảng tín dụng 2007. Cách thức tạo khủng hoảng: Cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn được thực hiện thông qua một công cụ tài chính hiện đại rất khá tinh vi được gọi là nghiệp vụ chứng khoán hóa (securitisation). Chứng khoán hóa có lịch sử phát triển từ năm 1977 tại Mỹ song thực sự phát triển mạnh từ thập kỷ 90. Về bản chất, chứng khoán hóa là một quá trình huy động vốn bằng cách sử dụng các tài sản sẵn có trên bảng cân đối kế toán làm tài sản đảm bảo cho việc phát hành các loại chứng khoán nợ. Nói một cách khác, chứng khoán hóa là quá trình phát hành chứng khoán nợ trên cơ sở đảm bảo bởi dòng tiền mặt tương lai sẽ thu được từ một nhóm tài sản tài chính sẵn có. Do đó, các nhà đầu tư mua chứng khoán nợ chấp nhận rủi ro liên quan tới danh mục tài sản đảm bảo được đem ra chứng khoán hóa. Ngày nay, các tài sản tài chính có thể dùng để chứng khoán hóa rất đa dạng bao gồm các khoản cho vay thế chấp mua nhà, các khoản cho vay thương mại, các khoản phải thu thương mại, danh mục các khoản cho vay thẻ tín dụng, danh mục nợ dưới chuẩn, các trái phiếu hạng đầu cơ (high-yield bond) hay các khoản cho vay bất động sản thương mại. Như vậy với nghiệp vụ chứng khoán hóa, người cho vay không nhất thiết phải nắm giữ rủi ro tín dụng mà có thể chuyển hóa sang cho người khác một cách dễ dàng thông qua việc phát hành chứng khoán nợ lấy danh mục tín dụng làm tài sản đảm bảo. Chính điều này là cơ sở để các ngân hàng đầu tư tự tin bơm vốn vào hoạt động cho vay nợ dưới chuẩn một cách dễ dàng. Quá trình này được thực hiện một cách cơ bản như sau: Trước tiên, ngân hàng đầu tư tạm ứng nguồn vốn cho các công ty tài chính chuyên về cho vay thế chấp mua nhà dưới chuẩn. Các công ty tài chính thực hiện cho vay mua nhà thông qua mạng lưới các đại lý cho vay. Các đại lý cho vay là người làm việc trực tiếp với khách hàng, thẩm định tín dụng theo các mẫu hồ sơ chuẩn của công ty tài chính và chuyển hồ sơ cho công ty tài chính phê duyệt. Sau khi phê duyệt, công ty tài chính sẽ làm thủ tục thế chấp nhà đất và tiến hành giải ngân. Các công ty tài chính sẽ gom các khoản cho vay lại thành một danh mục tín dụng gồm nhiều khoản vay và bán lại cho ngân hàng đầu tư mà thực chất là thanh toán số tiền ngân hàng đầu tư đã cung ứng trước cho công ty tài chính. Sau khi đã mua danh mục tín dụng dưới chuẩn, các ngân hàng đầu tư thực hiện chứng khoán hóa chúng. Danh mục tín dụng được bán sang cho một công ty có mục đích đặc biệt (special purpose vehicle) do ngân hàng đầu tư lập lên và công ty này phát hành chứng khoán nợ cho nhà đầu tư. Công ty đặc biệt này không có vốn, không có nhân viên mà chỉ có tài sản là danh mục cho vay và công nợ là các trái phiếu phát hành. Tất cả các hoạt động như theo dõi, thu đòi nợ và thanh toán gốc, lãi trái phiếu đều được thuê ngoài cho công ty dịch vụ (thường chính là công ty tài chính thực hiện cho vay). Trong điều kiện lý tưởng, khi các danh mục cho vay được thu hồi toàn bộ và thanh toán hết nợ trái phiếu cho nhà đầu tư thì công ty đặc biệt này hoàn thành nhiệm vụ và được giải thể. Chứng khoán nợ phát hành tạm gọi là trái phiếu được đảm bảo bởi danh mục cho vay thế chấp mua nhà (mortgage backed obligations). Trái phiếu được phân ra thành nhiều gói (tranche) được định mức tín nhiệm với các hệ số khác nhau, có mức độ rủi ro khác nhau và cuống lãi suất khác nhau, ví dụ gói A, gói B và gói Z. Gói A với hệ số tín dụng cao nhất được thanh toán toàn bộ gốc đầu tiên. Sau khi thanh toán hết gốc của gói A, sẽ đến lượt gói B và cuối cùng là gói Z. Gói Z là gói đặc biệt không được định mức tín nhiệm, có mức độ rủi ro tín dụng cao nhất do đó có tính chất như cổ phiếu. Nếu danh mục tín dụng hoạt động tốt, gói Z sẽ hưởng nhiều lợi nhuận nhất và ngược lại. Nguyên tắc phân chia dòng tiền cho các trái chủ được gọi là nguyên tắc thác nước tức là nước chảy từ trên xuống dưới. Như vậy các nhà đầu tư có rất nhiều sự lựa chọn gói trái phiếu hình thành từ chứng khoán hóa tùy theo sở thích rủi ro của mình. Đây cũng chính là động lực kích thích nhu cầu mua các loại trái phiếu hình thành từ chứng khoán hóa và làm bùng nổ cho vay dưới chuẩn. Diễn biến của tình trạng cho vay cầm cố nhà đất dưới chuẩn ở Mỹ: Trên thực tế là ở Mỹ, gần như hầu hết người dân khi mua nhà là phải vay tiền ngân hàng và trả lại lãi lẫn vốn trong một thời gian dài sau đó. Do đó, có một sự liên hệ rất chặt chẽ giữa tình hình lãi suất và tình trạng của thị trường bất động sản. Khi lãi suất thấp và dễ vay mượn thì người ta đổ xô đi mua nhà, đẩy giá nhà cửa lên cao; khi lãi suất cao thì thị trường giậm chân, người bán nhiều hơn người mua, đẩy giá nhà xuống thấp Có ba yếu tố chính đã khởi tạo nên bong bóng trong thị trường bất động sản. Thứ nhất là, bắt đầu từ năm 2001, để giúp nền kinh tế thoát khỏi trì trệ, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) đã liên tục hạ thấp lãi suất, dẫn đến việc các ngân hàng cũng hạ lãi suất cho vay tiền mua bất động sản (mặc dù những loại lãi suất cho vay tiền mua nhà do các ngân hàng thương mại ấn định bao giờ cũng cao hơn nhiều so với lãi suất cơ bản của FED, nhưng mức độ cao hay thấp của chúng bao giờ cũng phụ thuộc vào lãi suất cơ bản). Vào giữa năm 2000 thì lãi suất cơ bản của FED là trên 6% nhưng sau đó lãi suất này liên tục được cắt giảm, cho đến giữa năm 2003 thì chỉ còn 1%. Thứ hai, về phương diện sở hữu nhà cửa, chính sách chung của chính phủ lúc bấy giờ là khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo và các nhóm dân da màu được vay tiền dễ dàng hơn để mua nhà. Việc này phần lớn được thực hiện thông qua hai công ty được bảo trợ bởi chính phủ là Fannie Mae và Freddie Mac. Hai công ty này giúp đổ vốn vào thị trường bất động sản bằng cách mua lại các khoản cho vay của các ngân hàng thương mại, biến chúng thành các loại chứng từ được bảo đảm bằng các khoản vay thế chấp (mortgage-backed securities - MBS), rồi bán lại cho các nhà đầu tư ở Phố Wall, đặc biệt là các ngân hàng đầu tư khổng lồ như Bear Stearns và Merrill Lynch. Điều này được tiến hành cụ thể như sau: Fannie Mae, hoặc là một công ty tài chính khác như Lehman Brothers, bỏ tiền ra mua lại các khoản cho vay thế chấp từ các ngân hàng thương mại, tập trung chúng thành từng loại khác nhau, rồi phát hành MBS để bán lại cho các nhà đầu tư. Ví dụ, Fannie Mae mua 1.000 khoản vay thế chấp với các đặc điểm giống nhau với gốc là 200.000 USD cho mỗi khoản vay.Khi tập trung lại thì tổng trị giá các khoản vay này sẽ là 200.000.000 USD. Fannie Mae có thể biến khoản này thành 100.000 MBS, trị giá 2.000 USD một phần và bán lại cho các nhà đầu tư. Nếu nhà đầu tư A mua 10 MBS thì sẽ trả 20.000 USD. Sau khi mua các MBS thì các nhà đầu tư sẽ nhận lại khoản tiền vừa lãi vừa gốc được chuyển đến hằng tháng từ các người vay tiền (thông qua một công ty dịch vụ trung gian) trong một khoản thời gian nhất định nào đó Tóm lại, nếu không có gì trục trặc thì sau khi hết khoảng thời gian nhận lại tiền, thì tổng số tiền mà nhà đầu tư nhận được sẽ là trên 20.000 USD (Tiền vốn gốc bỏ ra đầu tư cộng với tiền lãi hằng năm). Các MBS dựa trên các khoản vay có tính chất rủi ro cao hơn thì tất nhiên sẽ đem lại lời nhiều hơn cho các nhà đầu tư. Thứ ba, như đã trình bày ở trên, bởi vì có sự biến đổi các khoản cho vay thành các công cụ đầu tư cho nên thị trường tín dụng để phục vụ cho thị trường bất động sản không còn là sân chơi duy nhất của các ngân hàng thương mại hoặc các công ty chuyên cho vay thế chấp bất động sản nữa. Nó đã trở nên một sân chơi mới cho các nhà đầu tư, có khả năng huy động dòng vốn từ khắp nơi đổ vào, kể cả dòng vốn ngoại quốc. Điểm đặc biệt ở đây là bởi vì việc hình thành, mua bán, và bảo hiểm MBS là vô cùng phức tạp cho nên nó diễn ra gần như là ngoài tầm kiểm soát thông thường của chính phủ. Bởi vì thiếu sự kiểm soát cần thiết cho nên lòng tham và tính mạo hiểm đã trở nên phổ biến ở các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, bởi vì có thể bán lại phần lớn các khoản vay để các công ty khác biến chúng thành MBS, các ngân hàng thương mại đã trở nên mạo hiểm hơn trong việc cho vay, bất chấp khả năng trả nợ của người vay. Và cũng vì có sự khác nhau về rủi ro của các loại MBS cho nên các công ty bảo hiểm và thẩm định rủi ro, chẳng hạn như AIG, cũng nhảy vào để bán bảo hiểm cho các nhà đầu tư MBS. Các bảo hiểm này được gọi là Credit Default Swap (CDS), với mục đích bảo đảm cho các nhà đầu tư MBS là trong trường hợp những người vay tiền mua nhà không trả được nợ và làm cho MBS mất giá thì sẽ được bồi thường. Sự việc này đã tạo nên một loạt chân rết mới, kéo thêm các thành phần khác nhảy vào cuộc chơi, bởi vì bán bảo hiểm loại này trong lúc thị trường bất động sản đang phất lên và ít người vỡ nợ thì rất có lời. Hiện tượng bong bóng bất động sản nảy sinh: Với ba lý do trên, thị trường bất động sản trở nên rất nhộn nhịp, có rất nhiều người thu nhập thấp hoặc không có tín dụng tốt nhưng vẫn đổ xô đi mua nhà. Để có thể được vay, nhóm người này thường phải trả lãi suất cao hơn và thường được cho mượn dưới hình thức lãi suất điều chỉnh theo thời gian (ví dụ, nếu thỏa thuận là được vay với lãi suất 6% và điều chỉnh sau 3 năm thì đúng ba năm sau lãi suất mới sẽ được ấn định theo thời điểm đó). Tóm lại, nhóm người này thuộc vào thành phần được cho vay với loại lãi suất dưới chuẩn (subprime rate). Bất kể khả năng trả được nợ của nhóm vay dưới chuẩn, khoản tiền cho vay dành cho nhóm này đã tăng vùn vụt. Theo các ước tính thì nó tăng từ 160 tỉ USD ở năm 2001 lên 540 tỉ vào năm 2004 và trên 1.300 tỉ vào năm 2007. Điều đó cho chúng ta thấy rằng khoản cho vay dưới chuẩn đã tăng lên một cách nhanh chóng. Cũng theo ước tính của nhiều chuyên gia (Thời Báo Kinh tế VN ngày 03/10/2008) trong 22.000 tỷ USD giá trị bất động sản tại Mỹ thì có tới hơn 12.000 tỷ USD là tiền đi vay, trong đó khoảng 4.000 tỷ USD là nợ xấu. Fannie Mae đã mạnh tay hơn trong việc mua lại các khoản cho vay đầy mạo hiểm do phải đối đầu với cạnh tranh nhiều hơn từ các công ty khác, chẳng hạn như Lehman Brothers. Bên cạnh đó, nhu cầu mua lại MBS của các nhà đầu tư vẫn cao bởi vì cho tới trước năm 2006 thì thị trường bất động sản vẫn chưa có dấu hiệu nổ bong bóng. Hơn nữa, họ cũng phần nào được trấn an khi vẫn có thể mua thong thả các hợp đồng bảo hiểm CDS từ các công ty bảo hiểm và đầu tư khác. Việc này dẫn đến các công ty bán bảo hiểm càng mạnh tay hơn trong việc bán CDS ra thị trường, bất chấp khả năng bảo đảm của mình. Vì dễ vay cho nên nhu cầu mua nhà lên rất cao, kéo theo việc lên giá bất động sản liên tục. Giá nhà bình quân đã tăng đến 54% chỉ trong vòng bốn năm từ 2001 (năm bắt đầu cắt mạnh lãi suất) đến 2005. Việc này cũng dẫn đến vấn đề đầu cơ và ỷ lại là giá nhà sẽ tiếp tục lên. Hệ quả là người ta sẵn sàng mua nhà với giá cao, bất kể giá trị thực và khả năng trả nợ sau này vì họ nghĩ nếu cần sẽ bán lại để trả nợ ngân hàng mà vẫn có lời. Do đó, một bong bóng đã thành hình trong thị trường bất động sản. Sự sụp đổ dây chuyền bất động sản – tài chính: Do lo lắng về diễn biến lạm phát, Cục Dự trữ liên bang (DTLB) bắt đầu tăng dần lãi suất, dẫn đến việc thị trường bất động sản (BĐS) bắt đầu chững lại vào đầu năm 2006.  Trong khi vào giữa năm 2003 lãi suất căn bản của FED chỉ có 1% thì vào giữa năm 2006 nó đã tăng lên đến 5,25%, bắt buộc các ngân hàng thương mại phải đẩy lãi suất cho vay tiền mua nhà lên cao hơn nhiều nữa. Tình hình lãi suất cao đã khiến cường độ vay để mua nhà giảm lại. Giá nhà bắt đầu trượt dốc vì cung vượt cầu. Nhiều người mua nhà giá cao trước đây bắt đầu thấy giá thị trường của căn nhà đang sở hữu thấp hơn khoản nợ mà mình đang vay. Bên cạnh đó, rất nhiều người trong nhóm vay tiền với lãi suất dưới chuẩn bắt đầu mất khả năng trả nợ khi lãi suất của họ bị điều chỉnh trở lại theo lãi suất mới hiện hành khá cao. Họ muốn bán nhà để trả nợ cũng không được vì giá nhà thấp hơn khoản nợ do thị trường tụt dốc. Hệ quả là họ đành bỏ nhà cho ngân hàng trưng thu lại. Việc ngày càng nhiều người không có khả năng trả nợ ngân hàng mỗi tháng dẫn đến việc trị giá của các MBS bị tụt dốc. Như đã nói lúc đầu, có rất nhiều nhà đầu tư ở Phố Wall đã mua MBS. Do đó, khi MBS mất giá thì đồng nghĩa với việc tài sản của họ cũng bị mất theo, dẫn đến việc thiếu hụt vốn. Bên cạnh đó, các công ty bảo hiểm MBS, chẳng hạn như AIG, cũng lâm vào cảnh khốn đốn khi phải đứng ra bảo lãnh ngày càng nhiều các khoản vay xấu. Ngoài ra, các ngân hàng thương mại hoặc các công ty cho vay thế chấp còn giữ lại phần lớn các khoản vay cho mình (thay vì bán lại cho Fannie Mae chẳng hạn) cũng nhìn dòng vốn và tín dụng của mình bị cạn kiệt khi phải đương đầu với tỷ lệ mất khả năng trả nợ ngày càng cao của người vay thuộc nhóm dưới chuẩn.  Tóm lại, bởi vì có nhiều mối liên hệ chằng chịt giữa người vay và nhiều thành phần cho vay trực tiếp cũng như gián tiếp, việc tụt dốc của thị trường bất động sản đã ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường tài chính nói chung. Mức độ lan tỏa và nghiêm trọng của vấn đề là do sự mua đi bán lại các công cụ tài chính phát sinh (các MBS và CDS) đã kéo quá nhiều các thành phần đầu tư, trong cũng như ngoài nước, vào cuộc chơi trong khi luật lệ của sân chơi thì vẫn thiếu sót hoặc không rõ ràng. Vấn đề mấu chốt hiện giờ là sự khan hiếm tín dụng đang hoành hành. Vấn đề này càng trở nên nghiêm trọng hơn khi các nhà đầu tư bắt đầu bán tháo bán đổ các công cụ đầu tư mạo hiểm để tìm cách bảo tồn vốn. Sự việc này dẫn đến niềm tin vào thị trường bị tụt dốc và "suy nghĩ và hành động bầy đàn" trở nên phổ biến, bắt buộc chính phủ phải xen vào thị trường một cách rộng lớn và táo bạo để khôi phục niềm tin. Khủng hoảng xảy ra: Khi nền kinh tế hoạt động không hiệu quả, lãi suất tăng tạo nên gánh nặng trả nợ với những người thu nhập thấp, thất nghiệp gia tăng thì rủi ro cho vay nợ dưới chuẩn bị ảnh hưởng nhanh nhất. Không trả được nợ, hàng loạt người mua nhà bị xiết nợ và phát mại tài sản. Cleveland (Ohio) là thành phố đầu tiên châm ngòi cho cuộc khủng hoảng lan rộng ra toàn nước Mỹ và thế giới. Theo số liệu thống kê, khoảng 1/10 số nhà tại Cleveland bị thu hồi để phát mại. Những người nhập cư với giấc mơ mua nhà lại trở về tay trắng. Giá nhà tại Mỹ giảm thảm hại trong Qúy 3 năm 2007, mức tồi tệ nhất từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 1930. Ngay lập tức, Cục dự trữ liên bang Mỹ và Ngân hàng Trung ương Châu Âu phải bơm số vốn khổng lồ vào thị trường. Từ tháng 9/2007, Cục dự trữ liên bang Mỹ đã liên tục 5 lần cắt giảm lãi suất chiết khấu đồng USD từ 5,25%/năm xuống mức hiện tại 3%/ năm. Đây là những biện pháp rất mạnh nhằm cứu vãn nền kinh tế Mỹ khỏi cuộc khủng hoảng này. 2.2 Những nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu: Sai lầm trong chính sách kinh tế vĩ mô: Các Ngân hàng trung ương của các nước phương Tây đã cắt giảm lãi suất quá sâu và duy trì mức lãi suất thấp trong thời gian quá dài, sau sự sụp đổ hàng loạt của các công ty công nghệ và những bê bối tài chính của các tập đoàn trong năm 2000 – 2002. Lãi suất cơ bản thấp và tín dụng rẻ, dễ tiếp cận trở thành nhân tố kích thích mạnh đầu tư vào tiêu dùng trong nền kinh tế. Niềm tự hào về 3/4 sự tăng trưởng của nền kinh tế Mỹ dựa vào tiêu dùng trong nước lại là nguyên nhân của những tích tụ khổng lồ nợ quá hạn ở các ngân hàng cũng như làm gia tăng tình trạng chứng khoán hoá các khoản nợ của các tín dụng cho vay, ngân hàng và đầu tư mất khả năng kiểm soát tình hình, dự trữ bắt buộc nằm mức dưới chuẩn và năng lực thanh khoản của các ngân hàng bị giảm sút. Do đó, khi "bong bóng" nhà đất bị nổ, sự suy sụp của các ngân hàng và các tập đoàn đầu tư lớn ở Mỹ sẽ tất yếu xảy ra. Ngân hàng trung ương ở các nước đang phát triển và các nước xuất khẩu dầu đã thêm vào sự dư thừa tiền tệ toàn cầu thông qua việc neo giữ tỷ giá ngoại tệ. Khiếm khuyết của hệ thống pháp luật Hệ thống pháp luật đã không theo kịp sự phát triển của các công cụ tài chính, đặc biệt là các công cụ tài chính phái sinh. Hệ thống pháp luật đã không phản ứng kịp thời với những ngân hàng tìm cách né tránh những quy định về vốn đối ứng bằng cách sử dụng những công cụ bên ngoài bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Hệ thống pháp luật đã không phản ứng kịp thời trước những lỗ hổng không ngừng gia tăng trong hệ thống ngân hàng. Sai lầm trong việc đánh giá và quản lý rủi ro: Sử dụng những công thức toán học dựa trên giá trị của những sản phẩm phái sinh hơn là dựa trên những số liệu thống kê trước đó để đánh giá khả năng vỡ nợ, từ đó dẫn đến các nhà đầu tư và các công ty định giá đánh giá thấp những rủi ro có thể đẫn đến việc định giá thấp những rủi ro. Hậu quả từ nghiệp vụ chứng khoán hóa các khoản vay: Chứng khoán hóa lảm rộng thêm và yếu thêm mối quan hệ giữa người vay và người cung cấp các khoản vay. Chứng khoán hóa dẫn đến việc không có đủ nguồn vốn để ứng phó với những rủi ro có thể xảy ra. Hậu quả từ lòng tham: Chứng khoán hóa làm giảm động lực đánh giá rủi ro một cách đầy đủ. Hệ thống lương thưởng của các công ty tài chính khuyến khích việc chấp nhận rủi ro. Hệ thống pháp luật một số tiểu bang ở Hoa Kỳ khuyến khích người cầm cố tài sản tuyên bố vỡ nợ khi số tiền vay vượt quá tài sản nhà đất cầm cố. Toàn cầu hóa đã làm gia tăng tính lan truyền dẫn tới khủng hoảng tài chính toàn cầu. 3. Hậu quả của cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn ở Mỹ và hiệu ứng Domino: Mỹ là một nền kinh tế khổng lồ chiếm trên ¼ GDP của thế giới nên một khi kinh tế Mỹ khó khăn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống kinh tế toàn cầu là điều dễ hiểu. Việc các đại gia ngân hàng Mỹ phá sản hay bị sát nhập, thôn tính đã ảnh hưởng trực tiếp đến các nhà đầu tư vào Mỹ từ thị trường châu Âu hay châu Á. 3.1. Hậu quả nặng nề của cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn xảy ra tại Mỹ: Hậu quả của cuộc khủng hoảng tín dụng cho nước Mỹ và thế giới là rất lớn. Tính đến nay đã có 33 ngân hàng hàng đầu của Mỹ đã phá sản. Trung tâm tài chính phố Wall chứng kiến một cảnh tượng chưa từng có là các nhà đầu tư đua nhau bán tháo cổ phiếu. Hàng loạt công ty phá sản hoặc nộp đơn xin bảo lãnh phá sản, trong đó có cả GM (hãng sản xuất ô tô hàng đầu thế giới); Casino ở Los Angeles (niềm tự hào về sự giàu sang của nước Mỹ). Đội quân thất nghiệp gia tăng nhanh chưa từng có ... Thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán bị ảnh hưởng nặng nề. Thị trường trái phiếu hình thành từ chứng khoán hóa bị mất khả năng thanh khoản. Ngành xây dựng Mỹ đóng góp 15% GDP có thể phải cắt giảm một nửa sản lượng và cắt 1-2 triệu công việc. Các khoản cho vay thế chấp không có khả năng thu hồi và giá trị tài sản đảm từ những ngôi nhà bị sụt giảm là nguyên nhân giá trị đánh giá lại (mark to market) của các gói trái phiếu phát hành bị giảm giá không phanh, đặc biệt là các gói trái phiếu có rủi ro cao (gói Z). Các nhà đầu tư nắm giữ trái phiếu hình thành từ chứng khoán hóa nợ dưới chuẩn là người chịu hậu quả nặng nề. Dự báo số tổn thất do giảm giá trị trái phiếu cho toàn thị trường lên tới khoảng 220 tỷ - 450 tỷ USD. Hàng loạt ngân hàng đầu tư trót nắm giữ các gói trái phiếu rủi ro mà chưa kịp chuyển giao cho thị trường đã phải ghi nhận các khoản tổn thất lên đến hàng trăm tỷ USD như Citi (21 tỷ USD), Merrill Lynch (25 tỷ USD), UBS (18 tỷ USD), Morgan Stanley (10 tỷ USD), JP Morgan (2,2 tỷ USD), Bear Stearns (2 tỷ USD), Lehman Brothers (1,5 tỷ USD), Goldman Sachs (1,3 tỷ USD). Tổng thiệt hại tài chính của các ngân hàng đầu tư trong năm 2007 ước tính lên tới gần trăm tỷ USD. Citi và Merrill Lynch phải cầu viện tăng vốn khẩn cấp từ các quỹ đầu tư Châu Á. Hàng ngàn nhân viên phố Wall bị sa thải. Không chỉ thiệt hại về giảm giá trái phiếu, mảng kinh doanh béo bở từ chứng khoán hóa của các ngân hàng đầu tư cũng bị tạm ngưng hoạt động. Cổ phiếu các ngân hàng đầu tư rớt thảm hại trong 6 tháng cuối năm 2007. Với tổn thất nặng nề này, các ông chủ phố Wall lần lượt phải ra đi, cụ thể là các ông chủ UBS, Citigroup, Merrill Lynch và Bear Stearns. Theo ghi nhận cho đến nay, những vụ phá sản, sáp nhập hay quyết định đối phó của chính phủ các nước trở thành cột mốc đáng nhớ trên hành trình "xuống đáy" của cuộc khủng hoảng kinh tế làm rung chuyển cả thế giới suốt thời gian qua. Cụ thể như sau: - Ngày 8/2/2007: Ngân hàng HSBC cảnh báo lỗ với hoạt động cho vay dưới chuẩn. Tập đoàn ngân hàng lớn thứ tư thế giới thông báo về việc Household Finance, công ty con chuyên cho vay thế chấp tại Mỹ lâm vào cảnh thua lỗ do sự đi xuống của thị trường nhà đất. HSBC cũng cảnh báo về ảnh hưởng của hiện tượng này đối với kinh tế toàn cầu. - Ngày 2/4/2007: New Century phá sản. Công ty hàng đầu trong hoạt động cho vay dưới chuẩn tại Mỹ, New Century Financial, buộc phải nộp đơn bảo hộ phá sản. Đây được coi là một trong những dấu hiệu bất ổn đầu tiên của thị trường cho vay thế chấp tại Mỹ. Cổ phiếu của các ngân hàng chuyên về hoạt động kinh doanh này như Countrywide cũng chịu nhiều sức ép. - Ngày 9/8/2007: Thị trường tín dụng đóng băng. Tín dụng rơi tự do sau khi BNP Paribas thông báo rằng 2 trong số những quỹ lớn nhất của họ "hoàn toàn mất thanh khoản" đối với những tài sản liên quan đến chứng khoán. Ngân hàng trung ương châu Âu buộc phải bơm khoảng 170 tỷ Euro vào thị trường ngân hàng trong khi FED cố gắng cắt giảm tỷ lệ lãi suất. Tuy nhiên, Ngân hàng trung ương Anh vẫn từ chối can thiệp vào thị trường tín dụng. - Ngày 15/9/2008: Lehman Brothers sụp đổ. Ngân hàng đầu tư nổi tiếng của Mỹ Lehman Brothers chính thức phá sản sau khi chính phủ nước này từ chối kế hoạch giải cứu tốn kém. Cùng lúc đó Merrill Lynch được mua lại bởi Bank of America sau khi đối mặt với những khoản lỗ khổng lồ. 24 giờ sau, đại gia bảo hiểm AIG cũng phải nhờ vào khoản vay khẩn cấp 85 tỷ USD từ Bộ Tài chính Mỹ để tồn tại. AIG lâm vào cảnh khốn đốn do tham gia bảo hiểm cho các khoản vay thế chấp. 3.2. Hiệu ứng Domino và nguy cơ lan tỏa: 3.2.1. Ảnh hưởng đến thị trường Châu Âu: Chính phủ các nước châu Âu đã phải tiến hành quốc hữu hóa một số ngân hàng lớn do ảnh hưởng của cơn bão tài chính Mỹ. Ở Anh: Anh là một trong những nước chịu ảnh hưởng trực tiếp và nặng nề nhất từ cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra tại Mỹ. Cụ thể là: . Ngày 28/9 Anh đã quốc hữu hóa ngân hàng Bradford & Bingley tốn kém 25 tỷ USD. . Ngày 14/9/2007: Nothern Rock thoi thóp. Khách hàng tại một trong những ngân hàng uy tín hàng đầu nước Anh ồ ạt rút tiền sau khi thông tin về việc Northern Rock đang phải sống nhờ nguồn gói tài chính khẩn cấp của Ngân hàng trung ương Anh. Vấn đề mà ngân hàng chính là phụ thuộc quá nhiều vào hoạt động kinh doanh tài chính quy mô lớn trong khi thị trường này đang đi xuống. . Ngày 17/9/2008: Lloyds mua lại HBOS. Ngân hàng Lloyds đồng ý mua lại Halifax Bank of Scotland (HBOS) với giá 12,2 tỷ Bảng. Ngân hàng cho vay thế chấp lớn nhất nước Anh lâm vào cảnh khó khăn sau khi cổ phiếu của HBOS mất giá mạnh do niềm tin của khách hàng. Sau khi sát nhập, ngân hàng này nắm khoảng 1/3 số tài sản được cầm cố tại Anh. . Ngày 13/10/2008: Chính phủ Anh can thiệp vào RBS và Lloyds-HBOS. Cả RBS và HBOS, hai ngân hàng hàng đầu tại Anh phải đối mặt với những vẫn đề nghiêm trọng khi thị trường tài chính sụp đổ. Sau khi sát nhập với HBOS, đến lượt Lloyds không chịu nổi những khoản nợ khổng lồ từ phía đối tác. Trong khi đó, RBS phải vật lộn trong cuộc sát nhập đầy tốn kém với ABN-AMRO. Tình cảnh đó buộc chính phủ Anh phải bơm khẩn cấp khoản tiền 37 tỷ Bảng cho cả hai ngân hàng. . Ngày 2/4/2009: Hội nghị thượng đỉnh G20 tại London. Tại hội nghị này, nhà lãnh đạo của các nền kinh tế lớn trên thế giới đã cam kết chi thêm tổng cộng hơn 1000 tỷ USD để giúp kinh tế toàn cầu vượt dốc. Thủ tướng Anh Gordon Brown coi đây là điểm nút của cuộc khủng hoàng kinh tế thế giới. Tuy nhiên, không phải mọi khoản tiền được chi ra đều mang lại hiệu quả. . Ngày 22/4/2009: Ngân sách nước Anh thâm hụt nặng. Những khoản chi tốn kém trong thời kỳ khủng hoảng đã khiến nước Anh phải chịu mức thâm hụt ngân sách nặng nề nhất trong lịch sử, khoảng 175 tỷ Bảng. Tổng số nợ của chính phủ nước này có thể lên tới gần 1.000 tỷ Bảng vào năm 2014. Các quan chức cao cấp cho rằng, nước Anh cần 10 năm để trở về với tình trạng ngân sách trước khủng hoảng. Tiếp đó là việc các nước Bỉ-Hà lan và Luxembourg đã phải cùng nhau quốc hữu hóa bộ phận tài chính của tập đoàn Fortis, ngân hàng lớn nhất Bỉ vào ngày 29/9. Ngày 6/10 thì ngân hàng BNP Parisbas của Pháp đã chính thức tiếp nhận kiểm soát cổ phần của Fortis ở Bỉ và Luxembourg. Chính phủ Iceland cũng đã chi 600 triệu euro để kiểm soát cổ phần của Glitnir Bank của nước này để tránh một sự phá sản. Nguy cơ lan rộng sang các ngân hàng của các nước khác đã buộc chính phủ các nước châu Âu phải tìm cách bảo vệ các khoản tiền gửi cho công dân của họ. Chính phủ Đức và Bundesbank đã phải bỏ ra 50 tỷ euro để cứu nguy cho Hypo Real Estate, một tổ chức cho vay thương mại lớn thứ hai ở Đức khỏi phá sản. Đây cũng là một ngân hàng thương mại chuyên cho vay trong lĩnh vực bất động sản. Bà Merkel - Thủ tướng Đức đã phải tuyên bố rằng Đức sẽ không để cho một công ty tài chính bị lụn bại vì sẽ gây ảnh hưởng xấu cho toàn hệ thống. Nguy cơ của hiệu ứng Domino trước cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ đang có khả năng lan rộng buộc các nước châu Âu phải cùng nhau tìm cách phòng ngừa. Ngày 4/10/2008 Lãnh đạo cấp cao 4 nước Anh, Đức, Pháp và Italia đã gặp nhau tại Paris theo đề xuất của Tổng thống Pháp và đã đồng ý ký một hiệp ước chính thức để hỗ trợ cho ngân hàng của mỗi nước. Thị trường chứng khoán nhiều nước tiếp tục giảm sút mạnh gây tâm lý hoang mang lo sợ cho các nhà đầu tư cũng như chính phủ nhiều nước về nguy cơ hiệu ứng Domino cơn bão tài chính Mỹ đổ ập đến. Việc Bộ trường Tài chính 27 nước EU phải ngồi lại với nhau ngày 7/10/2008 là một minh chứng rõ rệt cho điều đó. Quả vậy, ngày 5/10/2008 chứng khoán châu Âu đã có phiên giảm lịch sử, ngày 6/10/2008 chứng khoán đứng yên tại chỗ. Nhiều cổ phiếu của các đại gia ngân hàng châu Âu bị bán tháo ( Barklays, Royal Scotland & Deutsche Bank ). Kết thúc cuộc họp, 27 nước EU đã đi đến thống nhất là: . Thấy cần thiết phải cứu thị trường tài chính. . Nhất trí nâng mức bảo hiểm tiền gửi ngân hàng mặc dù chưa thống nhất được mức cụ thể. Pháp thì đề nghị nâng từ 20.000 lên 100.000. Các nước nghèo thì chỉ đồng ý ở mức 50.000. Trước đó thì Đức, Hy lạp và Ireland đã đồng ý nâng không hạn chế , còn Tây Ban Nha và Áo thì đã quyết định nâng ngay lên 100.000 USD từ 7/10/2008. Đồng ý “linh hoạt hóa” quy định kế toán, buộc các ngân hàng và các công ty bảo hiểm phải định giá lại thường xuyên tài sản theo giá thị trường. Tuy nhiên EU đã không thống nhất được về hành động, cụ thể là đề xuất một gói giải cứu 400 tỷ euro đã không được thông qua. Có thể nói cơn bão tài chính bắt nguồn từ khủng hoảng nợ ở Mỹ đang lan ra thế giới với tốc độ khó kiểm soát. 3.2.2. Ảnh hưởng đến thị trường Châu Á và một số nước khác trên thế giới: Ngay các nước mà không có liên quan gì đến cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn ở Mỹ như Nga, Brazil, Indonesia và Trung Đông,… thì cũng rất dễ bị tổn thương trước sự bất ngờ sụt giảm các dòng vốn chảy vào và điều đó làm cho chứng khoán ở các nước này cũng sụt giảm mạnh. Trong đó, thị trường Brazil và Hàn Quốc bị tác động mạnh nhất. Hiện tượng chỉ số chứng khoán có mức giảm lớn trong ngày trở thành phổ biến, chẳng hạn KOSPI giảm khoảng 7% chỉ trong 1 ngày. Khủng hoảng kinh tế đang đe dọa đến việc thực hiện các mục tiêu xóa đói giảm nghèo toàn cầu, theo một báo cáo mới của Ngân hàng Thế giới. Các nước rủi ro: ở vùng giữa là các nước có khả nẳng rủi ro về đói nghèo nhất: Số liệu cho 2009 cho thấy tăng trưởng kinh tế chậm sẽ làm khoảng 46 triệu người không thoát được nghèo (ở mức 1,25 đô la/ngày). Và khoảng 53 triệu người khác sẽ vẫn nằm dưới mức 2 đô la/ngày. Trong một báo cáo chính sách cho hội nghị Bộ trưởng Tài chính G7 vào thứ bảy này, Ngân hàng Thế giới cho rằng khoảng 40 trong số 107 nước đang phát triển có nguy cơ bị ảnh hưởng cao, và các nước còn lại có khả năng bị ảnh hưởng trung bình. Chỉ có 10% các nước bị ảnh hưởng nhẹ. Báo cáo này cho thấy nguy cơ không hoàn thành các Mục tiêu Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc, trong đó có mục tiêu giảm nghèo cụ thể cho năm 2015. Báo cáo mới cho thấy tăng trưởng chậm cũng làm tăng tỉ lệ tử vong trẻ sơ sinh, với khoảng từ 1,4 cho đến 2,8 triệu trẻ sơ sinh có thể tử vong trong khoảng từ nay đến năm 2015, nếu khủng hoảng này còn tiếp diễn. “Cuộc khủng hoảng kinh tế có thể sẽ biến thành cuộc khủng hoảng nhân đạo tại nhiều nước nếu không có các biện pháp bảo vệ người nghèo”,  ông Robert B. Zoellick, Chủ tịch Nhóm Ngân hàng Thế giới nói. “Trong khi toàn thế giới chỉ chú ý đến các gói kích thích tăng trưởng kinh tế, chúng ta không nên quên là người nghèo ở các nước đang phát triển còn rủi ro hơn nếu kinh tế ở các nước đó đi xuống. Cuộc khủng hoảng này đòi hỏi phải có những giải pháp toàn cầu. Cần phải thảo luận cả những nhu cầu của người nghèo ở các nước đang phát triển nữa.” Ở khu vực Châu Á: Trước hết, Châu Á chịu ảnh hưởng lớn nhất có lẽ là thị trường chứng khoán. Chứng khoán ở Mỹ tụt dốc gây nên tâm lý bất an giữa những nhà đầu tư tại Châu Á và thị trường chứng khoán của những nước này cũng suy sụp theo. Tài sản của các cá nhân đầu tư chứng khoán bị giảm sút làm giảm khả năng chi tiêu trong dân kéo theo sự đình đốn trong sản xuất. Tuy nhiên hiệu quả này chỉ mạnh trong các nền kinh tế tiên tiến trong đó thị trường chứng khoán đã phát triển đáng kể như Nhật, Hàn Quốc và Đài Loan. Về thị trường xuất khẩu của các nước Châu Á, do Mỹ còn chiếm vị trí khá cao nên xuất khẩu và sản xuất của những nước này sẽ bị đình trệ, tuy rằng những nền kinh tế lớn ở Châu Á như Nhật và Trung Quốc trong những năm gần đây đã giảm đáng kể độ tùy thuộc vào thị trường Mỹ. Chẳng hạn vào năm 2002 thị trường Mỹ chiếm tới 27% xuất khẩu của Nhật nhưng đến năm 2007 chỉ còn độ 20%. Hiện nay Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Nhật, không phải Mỹ. Đối với Trung Quốc từ năm 2007 thị trường xuất khẩu lớn nhất cũng đã chuyển từ Mỹ sang EU. Dĩ nhiên tuy đã giảm, vị trí của Mỹ vẫn còn cao và thị trường ở nước thứ ba (như Âu châu) bị ảnh hưởng của khủng hoảng ở Mỹ thì xuất khẩu từ Châu Á cũng gián tiếp bị ảnh hưởng. Trong tình hình đó, nội nhu sẽ đóng vai trò quan trọng hơn. Mỹ cũng sẽ yêu cầu các nền kinh tế lớn ở Châu Á như Nhật, Trung Quốc, Hàn Quốc chuyển hướng chính sách tăng nội nhu. Đồng tiền các nước này, nhất là đồng nhân dân tệ sẽ lên giá. Nội nhu có lẽ không tăng đủ để bù vào chỗ giảm sút trong xuất khẩu nên tăng trưởng kinh tế tại Châu Á sẽ giảm tốc. Tuy nhiên không thể có chuyện suy sụp như ở Mỹ. Nhìn ở một mặt khác, cuộc khủng hoảng ở Mỹ sẽ làm tăng tiếng nói và vị trí của các nước Châu Á trong quan hệ với Mỹ và trong các nỗ lực quốc tế nhằm ổn định thị trường tiền tệ và kinh tế thế giới. Với lượng dự trữ ngoại tệ rất lớn (Trung Quốc là 1.540 tỉ USD, đứng đầu thế giới; Nhật xếp vị trí thứ hai với 954 tỉ USD, Hàn Quốc 240 tỉ), các nước Châu Á này sẽ có thể dễ dàng mua nhiều trái phiếu chính phủ Mỹ, tham gia sở hữu nhiều công ty tài chính của Mỹ và tích cực xuất vốn cho các dự án giúp những nước gặp khó khăn về ngoại tệ. Hiện nay Nhật đã bắt đầu cho thấy vai trò đó. Tập đoàn tài chính Mitsubishi UFG của Nhật đã mua 21% cổ phiếu của Morgan Stanley, Tập đoàn Nomura đã mua một số cổ phiếu của các cơ sở hoạt động của Lehman Brothers tại châu Á, châu Âu và Trung Đông. Bộ trưởng Tài chính Nhật vừa đưa đề án yêu cầu IMF đứng ra lập quỹ hỗ trợ các nền kinh tế gặp khó khăn và hứa sẽ đóng góp tích cực. Ảnh hưởng đối với Việt Nam: Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng về mặt tiền tệ đối với Việt Nam có lẽ không đáng kể. Những loại chứng khoán mà hiện nay đang có vấn đề của những công ty chứng khoán và bảo hiểm của Mỹ chưa bán ở Việt Nam. Hệ thống tiền tệ và thị trường vốn, thị trường chứng khoán ở Việt Nam chưa lành mạnh, dễ tổn thương, dễ lâm vào bất ổn chủ yếu là do các yếu tố trong nội bộ Việt Nam như thiếu tính công khai, thiếu minh bạch, dân chúng khó tiếp cận, tồn tại giao dịch nội gián..., chứ không liên quan nhiều đến cuộc khủng hoảng ở Mỹ. Đầu tư trực tiếp (FDI) ở Việt Nam có lẽ cũng không bị ảnh hưởng nhiều từ cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Mỹ. Các nhà đầu tư chính ở Việt Nam là Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan... Ngay cả những công ty chế tạo của Mỹ nếu có kế hoạch đầu tư vào Việt Nam cũng sẽ không vì cuộc khủng hoảng này mà đình hoãn kế hoạch đó. Kinh nghiệm của thập niên 1990 cho thấy kinh tế Nhật suy thoái hầu như không ảnh hưởng gì đến FDI của họ ở Trung Quốc và  Việt Nam. Kinh nghiệm của Intel tại Việt Nam cũng cho thấy công ty này chậm triển khai kế hoạch đầu tư ở nước ta chủ yếu vì không bảo đảm được nguồn nhân lực có trình độ cao cần thiết. Thành ra, để tiếp tục tiếp nhận FDI từ Nhật, Mỹ và nhiều nước khác, Việt Nam cần hoàn thiện các điều kiện về nguồn nhân lực, cơ sở hậu cần, xây dựng công nghiệp phụ trợ... Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nhất từ cuộc suy thoái của Mỹ có lẽ là ở lĩnh vực xuất khẩu. Hiện nay Mỹ chiếm hơn 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nhưng phần lớn sản phẩm của ta xuất khẩu sang Mỹ là hàng may mặc, giày dép và hàng thủy sản nên trước mắt chỉ những mặt hàng này gặp khó khăn. Dù Mỹ không gặp khủng hoảng, việc tập trung xuất khẩu một số mặt hàng nhất định sang Mỹ dễ gây va chạm với các nhà sản xuất bản xứ. Vấn đề của Việt Nam là phải nỗ lực chuyển dịch cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu theo hướng cao cấp hơn, đa dạng hơn. Trong thời gian truớc mắt, Việt Nam nên củng cố sức cạnh tranh của các ngành công nghiệp để khi kinh tế Mỹ hồi phục sẽ triển khai chiến lược xuất khẩu với nhiều mặt hàng đa dạng hơn. Chương III: NHỮNG HÀNH ĐỘNG CỦA MỸ TRƯỚC CUỘC KHỦNG HOẢNG CHO VAY DƯỚI CHUẨN VÀ BÀI HỌC RÚT RA CHO VIỆT NAM I.- Những hành động của Mỹ trước cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn: 1. Hành động của Chính phủ Mỹ: Tháng 3/2008, trước những dấu hiệu của sự khan hiếm tín dụng và nguy cơ suy thoái kinh tế từ sự khan hiếm tín dụng gây ra, chính phủ đã đưa ra một khoản trợ cấp trị giá 168 tỷ nhằm chống lại suy thoái kinh tế. Ngày 30/07/08 chính phủ ban hành đạo luật nhà ở cho phép Fannie & Freddie được phép bảo hiểm các khoản vay cầm cố lên tới 625.000 USD thay vì 417.000 USD đồng thời chi 300 tỷ USD cho FHA (Federal Housing Administration) bảo lãnh cho những khoản vay nếu bên cho vay hạ giá trị khoản cho vay xuống còn 90% giá trị hiện tại, nghĩa là giúp những người sở hữu nhà đang gặp khó khăn. Và một điểm quan trọng trong kế hoạch này là cho phép hai công ty Fannie Mac và Freddie Mac tiếp cận nguồn tài chính không giới hạn của kho bạc Mỹ. Bất chấp những nỗ lực to lớn như vậy, tình hình vẫn trở nên xấu đi.Trước sự tụt dốc không phanh của thị trường BĐS và sự bất ổn của thị trường tài chính, Chính phủ Hoa Kỳ bắt buộc phải ra tay cứu nguy để ngăn chặn khủng hoảng kinh tế ở phương diện rộng lớn. Vào tháng 3/2008, để tránh cho Bear Stearns bị phá sản do đã đầu tư quá nhiều vào các MBS xấu, Cục Dự trữ liên bang (FED) đã đứng ra bảo lãnh 30 tỉ USD các khoản nợ phải trả của Bear để tạo điều kiện cho JP Morgan Chase mua lại Bear Stearns. Vào đầu tháng 9, Bộ Tài chính thông báo một gói cứu nguy khẩn lên đến 200 tỉ USD để giúp Fannie Mae và Freddi Mac (2 công ty đã đổ vốn rất nhiều vào thị trường BĐS như đã nói lúc đầu) tiếp tục hoạt động nhằm cố gắng bình ổn thị trường và ngay sau đó vài ngày chính phủ Mỹ đã quốc hữu hóa hai công ty này vì cho rằng chúng quá quan trọng đối với sự tồn tại của hệ thống tài chính. Tiếp đó, vào giữa tháng 9, để ngăn chặn khủng hoảng tràn lan, FED lại tiếp tục khẩn cấp cứu nguy cho AIG (công ty bảo hiểm tư nhân lớn nhất thế giới) bằng cách cho vay 85 tỉ USD để giúp AIG thoát khỏi phá sản.  Như đã đề cập ở phần trước, AIG đã bán quá nhiều bảo hiểm CDS cho các nhà đầu tư MBS cho nên khi thị trường BĐS bị vỡ nợ, AIG buộc phải chi ra rất nhiều để trả cho các hợp đồng bảo hiểm. Do AIG có quy mô hoạt động toàn cầu (bán bảo hiểm đủ loại trên 100 nước trên thế giới) cho nên nếu để nó bị phá sản thì sẽ ảnh hưởng xấu tràn lan khắp nơi. Do đó, động thái cứu nguy cho AIG được coi như là bắt buộc để ngăn chặn đà lan tỏa của cuộc khủng hoảng. Các động thái cứu nguy trên cho thấy chính phủ đã xen vào thị trường một cách hết sức mạnh tay. Tuy nhiên, vì tính chất phức tạp và các quan hệ đan xen của các nguyên nhân gây ra khủng hoảng, sự phục hồi niềm tin trong thị trường đã trở nên vô cùng khó khăn. Bên cạnh đó, việc chính phủ không cứu nguy để cho ngân hàng đầu tư khổng lồ Lehman Brothers bị phá sản (vào giữa tháng 9) cũng làm cho các nhà đầu tư lo sợ với suy nghĩ là công ty của mình cũng sẽ bị số phận tương tự. Việc tiếp tục mất niềm tin đã thể hiện qua việc thị trường chứng khoán liên tục bị tụt dốc khi các nhà đầu tư tranh nhau bán cổ phần để rút tiền ra khỏi thị trường nhằm tìm những bãi đáp an toàn hơn, chẳng hạn như trái phiếu ngắn hạn của chính phủ (T-bill). Trước sự hoang mang cao độ của thị trường tài chính và ảnh hưởng xấu của nó lên nền kinh tế nói chung, Chính phủ Mỹ bắt buộc phải ban hành Đạo luật Bình ổn kinh tế khẩn cấp vào ngày 3 tháng 10 năm 2008. Đạo luật này cho phép Bộ Tài chính sử dụng lên đến 700 tỉ USD để mua lại những cổ phần và tài sản có vấn đề của các công ty tài chính, đặc biệt là các MBS xấu. Mục đích chính là giảm bớt sự mất mát của các công ty này và trút vốn vào hệ thống tài chính để khôi phục niềm tin và đẩy lui cuộc khủng hoảng tín dụng có nguy cơ đẩy nền kinh tế lún sâu vào trì trệ. Một hành động nữa của chính phủ Mỹ trong nỗ lực giải cứu khủng hoảng kinh tế phải kể đến vai trò của Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Liên bang (FDIC).Cơ quan này đã nhanh chóng đưa ra chính sách bảo hiểm cho tất cả các khoản tiền gửi không hưởng lãi suất. Hành động này về thực chất là nhằm ngăn chặn sự tháo chạy ngân hàng, một điều khủng khiếp nhất vào lúc có nhiều ngân hàng bị phá sản vì nó sẽ nhanh chóng đưa đến sự sụp đổ hoàn toàn của hệ thống ngân hàng. Đồng thời cơ quan này liên tục rà soát các vấn đề thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại nhằm giám sát và tránh đổ vỡ vượt ngoài tầm kiểm soát, đồng thời xử lý kịp thời đối với ngân hàng vỡ nợ. Đến tháng 9/2008, Mỹ đã thông qua gói cứu trợ trị giá 700 tỷ USD. Chính phủ Mỹ ra tay cứu vớt là hai gã khổng lồ trong lĩnh vực cho vay cầm cố là Fannie Mae và Freddie Mac. Hai công ty này tạm thời được chuyển thành sở hữu công sau khi được trợ giúp nhằm thoát khỏi những khoản lỗ khổng lồ. Tất nhiên, để có được tiền cho những hành động giải cứu khổng lồ như trên, chính phủ Mỹ đã chấp nhận thâm hụt ngân sách nặng nề. Kho bạc Mỹ tuyên bố sẽ vay mức kỷ lục 550tỷ USD trong quý 3/2008 và sẽ vay thêm 368 tỷ trong 3 tháng đầu năm 2009 để tài trợ cho kế hoạch giải cứu tài chính.Thâm hụt ngân sách riêng trong năm 2008 lên tới 989 tỷ USD. Đó là mức thâm hụt ngân sách khủng lồ của Mỹ trong lịch sử. Trên thực tế là vào tháng 2/2009, gói kích thích kinh tế 787 tỷ USD được Mỹ thông qua. Phần lớn khoản tiền này được sử dụng nhằm tạo việc làm mới cũng như dành cho chi tiêu công, đầu tư vào hệ thống giao thông, trường học và năng lượng xanh. 2. Những hành động của FED: Với chức năng quản lý tiền tệ, ra chính sách lãi suất, Cục dự trữ liên bang Mỹ đã có những hành động lớn chưa từng thấy trong lịch sử hoạt động và có nhiều hành động vượt ra ngoài khuôn khổ truyền thống của FED. Về mặt lãi suất, nhằm chống lại nguy cơ suy thoái kinh tế kể từ khi thị trường bất động sản đổ vỡ, FED đã mạnh tay hạ lãi suất nhiều lần từ mức 5,25% (tháng 8/2007) xuống còn 1% (10/2008). FED còn cắt giảm lãi suất chiết khấu xuống còn 1,25%. Điểm nổi bật trong số những hành động chưa từng thấy trong lịch sử hoạt động của FED, đó là: Thứ nhất, FED đã bơm tiền vào hệ thống ngân hàng đang suy giảm thanh khoản bằng việc cho đấu thầu lãi suất các khoản tiền mà FED muốn cho các ngân hàng thương mại vay; Dự kiến FED sẽ bơm 900 tỷ USD vào hệ thống ngân hàng vào cuối năm 2008. Thứ hai, FED ra tay đỡ đầu cả những định chế tài chính phi ngân hàng, một hành động vượt ra ngoài khuôn khổ của FED vì FED về nguyên tắc và hành động từ trước đến nay chỉ được coi là người cho vay cuối cùng đối với các ngân hàng thương mại mà thôi. Nhưng tình thế hiện tại đã thay đổi khi việc chứng khoán hóa các khoản vay cầm cố đã làm cho các tổ chức ngân hàng thương mại và phi thương mại có quyền lợi gắn chặt với nhau đến mức không thể tách rời ra được. Ví dụ điển hình trong hành động này là FED đã cho JP Morgan vay 30tỷ USD để mua lại công ty tài chính khổng lồ Bear Stearn và cho AIG vay 85 tỷ USD khi tổ chức này lâm nguy. Thứ ba, khi tình hình tồi tệ lan rộng ra toàn thế giới, FED đã chi 247 tỷ USD cho chương trình hóa đổi tiền tệ quốc tế nhằm làm giảm bớt sự khan hiếm đô la trên các thị trường thế giới. Thứ tư, một hành động chưa có trong tiền lệ là FED chi tiền để mua các thương phiếu nhằm giúp đỡ trực tiếp khu vực công ty trong khi thị trường tín dụng chưa tan băng. Thông thường những thương phiếu này rất an toàn và có tính thanh khoản cao, rất dễ bán nhưng trong bối cảnh có nhiều công ty lớn phá sản nên các ngân hàng trở nên e ngại khi mua các loại thương phiếu này. Trước tình hình đó, FED đã lập một quỹ trị giá 540 tỷ USD cho chương trình mua thương phiếu nhằm hỗ trợ doanh nghiệp khi tín dụng chưa tan băng, một hành động mang tính lịch sử. Thứ năm, một hành động đáng kể nữa đó là vào tháng 12/2008 FED đã đưa lãi suất cơ bản về mốc 0%. Cục dự trữ liên bang Mỹ cắt giảm tỷ lệ lãi suất xuống còn từ 0 đến 0.25% trong nỗ lực tránh suy giảm sâu cho nền kinh tế. Đây là mức lãi suất thấp nhất mà FED từng công bố trong lịch sử của mình. Cơ quan này cũng bắt đầu kế hoạch bơm tiền vào nền kinh tế, giúp việc vay tiền của cá nhân và doanh nghiệp thuận lợi hơn Các nỗ lực nhằm giải cứu trên về thực chất là nhằm ngăn chặn sự sụp đổ của hệ thống tài chính, làm tan băng thị trường tín dụng và tiến tới kích thích nền kinh tế đi đến phục hồi.Cho tới nay, có thể nói những nỗ lực về cơ bản đã thành công trong việc ngăn chặn sự tháo chạy ngân hàng và thị trường tín dụng cũng được cải thiện. Tuy nhiên, để các chính sách phát huy tác dụng và phục hồi nền kinh tế đòi hỏi nhiều thời gian hơn nữa. II. Bài học rút ra cho Việt Nam: Việt Nam cũng cần rút ra các bài học từ cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ. Nếu để hệ thống tiền tệ phát triển tự phát với sự xuất hiện các công cụ tài chính càng tinh vi, phức tạp thì càng khó quản lý. Thị trường chứng khoán phải được phát triển từng bước và phải có đủ cơ chế công khai thông tin và việc thực thi các luật lệ phải có tính minh bạch. Phát triển thị trường tài chính một cách vội vàng sẽ dễ phát sinh khủng hoảng. Đối với Việt Nam hiện nay, mục tiêu tối thượng của hệ thống tiền tệ là phải làm sao góp phần tăng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu sản xuất và xuất khẩu, huy động vốn trong dân và giúp những doanh nghiệp tiếp cận với vốn. Thêm vào đó, hệ thống tiền tệ phải hoàn toàn nằm trong khả năng quản lý, giám sát của Nhà nước. Để được như vậy, phải ưu tiên củng cố hệ thống ngân hàng, làm cho ngân hàng trở thành nơi tin cậy và gần gũi với dân chúng là những người gửi tiết kiệm, là những nhà đầu tư. Phải tạo cơ chế để các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận được với vốn thì mới có thể xúc tiến đầu tư phát triển, tạo công ăn việc làm, góp phần tăng cường sức cạnh tranh của nền kinh tế. Bên cạnh đó, cần phải biết phát huy và tăng cường vai trò của các tổ chức định chế trung gian tài chính và vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước trong việc thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng, chống nguy cơ khủng hoảng có thể xảy ra. 1. Về phía các tổ chức định chế tài chính trung gian: Điểm lại nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ để khẳng định một điều rằng, cuộc khủng hoảng này không đơn thuần là một chấn động chu kỳ, tất yếu diễn ra sau gần một thập kỷ nền kinh tế Mỹ liên tục tăng trưởng cao, ở mức bình quân 4 - 5% (ngoại lệ có sự suy giảm của một số lĩnh vực công nghệ cao vào năm 2001) mà là sự biểu hiện của một cuộc khủng hoảng về thể chế tài chính. Cụ thể tự do hoá về tài chính đã đạt tới mức cao nhất ở Hoa Kỳ, các tổ chức tài chính độc lập và vượt hoàn toàn ra ngoài khả năng kiểm soát của Quỹ Dự trữ Liên bang, các ngân hàng say sưa đầu tư vào chứng khoán và trước tiên là chứng khoán trong lĩnh vực bất động sản, các ngân hàng tranh đua mở rộng dịch vụ bảo hiểm cho vay đầu tư bất động sản, các ngân hàng thương mại gia tăng năng lực "ảo" khi các tổ chức tài chính cho vay thế chấp dưới chuẩn... Điều đó cũng có nghĩa là, thể chế tài chính ở Mỹ đã lạc hậu tương đối so với yêu cầu giám sát các dịch vụ mới đầy mạo hiểm mà nền kinh tế Mỹ đang tạo ra.Thiếu công cụ giám sát, thiếu dự báo và các biện pháp phòng ngừa..., các hoạt động đầu tư loại này của Mỹ đã mặc nhiên được kích đẩy, trong khi chúng không gặp bất kỳ trở ngại hay cảnh báo nào từ phía điều hành của Chính phủ. Tuy các tổ chức định chế tài chính trung gian Việt Nam chưa chịu nhiều ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nhưng từ những nguyên nhân của của khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay cũng sẽ là những bài học rất hữu ích cho hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và hoạt động cho vay bất động sản nói riêng: Trước hết là, cần kiểm soát rủi ro của hoạt động cho vay bất động sản thông qua tỷ lệ cho vay bất động sản tối đa trên tổng dư nợ. Thứ hai là, cần có một tổ chức xếp hạng chuyên nghiệp và uy tín trong xếp hạng tín nhiệm các loại chứng khoán, bao gồm cả chứng khoán vốn và chứng khoán nợ. Thứ ba là, cần lưu ý nguyên tắc phân tích tín dụng là hướng vào rủi ro thấp thay vì tiềm năng cao. Nếu để hệ thống tiền tệ phát triển tự phát với sự xuất hiện các công cụ tài chính càng tinh vi, phức tạp thì càng khó quản lý. 2. Về mặt quản lý vĩ mô: Đứng trên góc độ quản lý hệ thống tài chính, chúng ta cần lưu ý những vấn đề vĩ mô rút ra từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay cũng như những cuộc khủng hoảng đã qua để tránh lặp lại sai lầm của các nước, cụ thể như sau: Không để thâm hụt tài khoản vãng lai quá lớn, đặc biệt là thâm hụt quá mức do tiêu dùng hoặc đầu tư vào khu vực phi thương mại. Tự do hóa thị trường tài chính mang lại cơ hội về nguồn vốn để phát triển và tài trợ thâm hụt tài khoản vãng lai. Tuy nhiên, việc tiếp nhận ồ ạt vượt quá cả năng hấp thụ một cách hiệu quả sẽ dẫn tới sự đỗ vỡ dễ dàng hơn. Vì vậy, tự do hóa thị trường vốn cần kết hợp với các quy định và giám sát chặt chẽ khu vực tài chính ngân hàng để ngăn chặn tình trạng bùng nổ tín dụng và tăng mạnh bất thường giá bất động sản và giá cổ phiếu. Minh bạch thông tin là điều tối quan trọng để đảm bảo niềm tin của nhà đầu tư và ngăn chặn các hành vi rủi ro đạo đức Thị trường chứng khoán phải được phát triển từng bước và phải có đủ cơ chế công khai thông tin và việc thực thi các luật lệ phải có tính minh bạch. Phát triển thị trường tài chính một cách vội vàng sẽ dễ phát sinh khủng hoảng; Đối với Việt Nam hiện nay, mục tiêu tối thượng của hệ thống tiền tệ là phải làm sao góp phần tăng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu sản xuất và xuất khẩu, huy động vốn trong dân và giúp những doanh nghiệp tiếp cận với vốn, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hệ thống tiền tệ phải hoàn toàn nằm trong khả năng quản lý, giám sát của Nhà nước. Để được như vậy, phải ưu tiên củng cố hệ thống ngân hàng, làm cho ngân hàng trở thành nơi tin cậy và gần gũi với dân chúng là những người gửi tiết kiệm, là những nhà đầu tư. Phải tạo cơ chế để các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận được với vốn thì mới có thể xúc tiến đầu tư phát triển, tạo công ăn việc làm, góp phần tăng cường sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tránh tỷ trọng nợ trên vốn ở các doanh nghiệp quá cao, khuyến khích tiết kiệm trong nước thay vì trông cậy quá nhiều vào đi vay nước ngoài, đặc biệt là những nguồn vốn vay nước ngoài ngắn hạn để tài trợ cho các dự án dài hạn. Đảm bảo tính kỷ luật của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ đúng như những cam kết ban đầu. Uy tín của chính phủ càng cao (thể hiện ở sự thống nhất giữa cam kết và thực hiện) thì kỳ vọng của nhà đầu tư sẽ theo hướng tích cực và khủng hoảng sẽ không xảy ra. Một chính sách tỷ giá cố định muốn vững bền rất cần sự nhất quán với các chính sách trong nước khác. Tăng cường liên kết giữa các nước trong khu vực để tạo ra tính bền vững về tài chính cho toàn khối. Một nước có thể vượt qua được khủng hoảng tiền tệ thông qua nguồn hỗ trợ tài chính từ các nước trong khu vực, và điều này quay ngược trở lại sẽ đảm bảo an toàn cho chính các nước này khỏi hiệu ứng lan truyền khủng hoảng. Các nước trong khu vực với những nét tương đồng cần tăng cường tính chủ động và hợp tác thay vì phụ thuộc quá nhiều vào IMF và các tổ chức của các nước phát triển như hiện nay. Để có thể sớm cảnh báo được nguy cơ khủng hoảng và có những chính sách phản ứng kịp thời, cần theo dõi sát sao các chỉ tiêu kinh tế sau: . Các biến tài khoản vãng lai: (i) tốc độ tăng trưởng xuất khẩu và nhập khẩu; (ii) tỷ số cán cân thương mại trên GDP; (iii) tỷ số tài khoản vãng lai trên GDP, (iv) thay đổi tỷ giá thương mại, (v) độ chệch của tỷ giá thực tế so với xu thế hoặc bình quân các thời kỳ trước. . Các biến tài khoản vốn: (i) chênh lệch lãi suất nội tệ và lãi suất đồng tiền nước ngoài neo theo; (ii) tỷ số nợ nước ngoài trên tổng nợ của các định chế tài chính, (iii) tỷ số nợ ngắn hạn trên dự trữ ngoại hối; (iv) tăng trường của tài khoản vốn. . Các biến tài chính: (i) lãi suất tiền gửi thực; (ii) chênh lệch lãi suất tiền gửi và tiền cho vay; (iii) thay đổi tỷ số M2 trên dự trữ ngoại hối; (iv) thay đổi tỷ số tín dụng trong nước trên GDP; (v) M1 thực tế dôi ra. . Các biến thực: (i) tỷ số cán cân tài khóa trên GDP; (ii) tỷ lệ lạm phát; (iii) tốc độ tăng trưởng GDP; (iv) biến động giá cổ phiếu.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTieu luan Tai Chinh Tien TeKHUNG HOANG DUOI CHUAN O MY.doc
Tài liệu liên quan