• Việc kiểm toán được thực hiện phù hợp với các chuẩn mực kiểm toán, quy trình kiểm toán, phương pháp chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán và các quy chế, quy định khác trong hoạt động kiểm toán;
• Các thành viên của đoàn kiểm toán hiểu rõ và nhất quán về kế hoạch kiểm toán, tổ chức thực hiện kiểm toán, lập báo cáo kết quả kiểm toán.
• Các ý kiến đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị kiểm toán có đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp, phù hợp với các chuẩn mực đã được quy định. Tất cả các lỗi, thiếu sót và các vấn đề không bình thường phải được nhận biết, ghi lại bằng văn bản và giải quyết đúng đắn hoặc báo cáo cho người có thẩm quyền cao hơn xem xét, xử lý.
• Đạt được các mục tiêu kiểm toán đã đặt ra; báo cáo kiểm toán phải bao gồm đầy đủ các ý kiến đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị kiểm toán liên quan đến cuộc kiểm toán;
• Rút ra những kinh nghiệm nhằm cải thiện hoạt động kiểm toán trong tương lai. Những kinh nghiệm đó cần phải được nhận biết, ghi chép và phải được đưa vào kế hoạch kiểm toán kỳ sau và trong các hoạt động phát triển nhân sự.
44 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1021 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kiểm soát chất lượng kiểm toán độc lập Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa các nhân viên này cần được xem xét không những trong quá trình thực hiện mà còn phải xem xét qua cả quá trình đào tạo và tuyển dụng nhân viên. Thiết lập các tiêu chuẩn cho từng cấp bậc, chức danh, và xác định cơ hội thăng tiến nghề nghiệp cho từng nhân viên là cách thức hiệu quả để tăng động lực cho các kiểm toán viên không ngừng nâng cao khả năng chuyên môn. Hơn nữa, để góp phần nâng cao năng lực và kỹ năng cho các nhân viên, các công ty kiểm toán cần tiến hành đánh giá kết quả công tác và định kỳ thông báo cho họ triển vọng và cơ hội thăng tiến nghề nghiệp cho từng cá nhân.
Thứ ba, công việc kiểm toán phải được hướng dẫn và giám sát thực hiện đầy đủ ở tất cả các cấp cán bộ, nhân viên. Đối với mỗi cuộc kiểm toán, thành phần trong nhóm kiểm toán bao giờ cũng được xác định cụ thể, phù hợp với đối tượng kiểm toán và yêu cầu pháp lý của cuộc kiểm toán, cơ cấu bao gồm: giám đốc (partner), chủ nhiệm kiểm toán (manager), giám sát kiểm toán (supervisor), kiểm toán viên chính (senior auditor) và các trợ lý kiểm toán. Cấp độ giám sát kiểm toán sẽ tăng dần lên theo phạm vi của đối tượng và tính chất pháp lý của cuộc kiểm toán. Bên cạnh việc tuân thủ các quy định trong việc soát xét công việc kiểm toán của công ty trong từng nhóm kiểm toán, việc giám sát có thể do các kiểm toán viên trong các nhóm kiểm toán khác thực hiện.
Thứ tư, các công ty kiểm toán khi cần thiết có thể tham khảo ý kiến của các chuyên gia tư vấn. Việc tham khảo ý kiến tư vấn của chuyên gia sẽ tăng mức độ tin cậy của ý kiến kiểm toán về các lĩnh vực chuyên môn phức tạp, những ngành nghề kinh doanh phức tạp. Tuy nhiên, khi tham khảo ý kiến của chuyên gia, công ty kiểm toán luôn luôn phải xem xét đến năng lực chuyên môn và tính độc lập, khách quan của chuyên gia tư vấn
Thứ năm, việc cân nhắc đến khả năng phục vụ khách hàng của công ty kiểm toán và tính chính trực của nhà quản lý công ty khách hàng, là nhân tố quan trọng quyết định đến chất lượng kiểm toán. Nếu công ty kiểm toán không có những nhân viên chuyên nghiệp, am hiểu về lĩnh vực kinh doanh của khách hàng thì họ nên nghĩ đến quyết định không thực hiện kiểm toán toán đối với khách hàng đó. Nếu những nghi ngại về tính chính trực của nhà quản trị quá nghiêm trọng, công ty kiểm toán cũng có thể từ chối kiểm toán đối với khách hàng đó.
Thứ sáu, công ty kiểm toán phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra quá trình thực hiện các chính sách và thủ tục kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán của công ty.
1.3. Kinh nghiệm kiểm soát chất lượng kiểm toán độc lập trên thế giới
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều hiệp hội quản lý, giám sát, cấp chứng chỉ cho hoạt động kiểm toán. Ví dụ như Liên đoàn Kế toán Quốc tế- IFAC- một tổ chức nghề nghiệp có uy tín hàng đầu về kế toán và kiểm toán hiện nay trên thế giới. Được thành lập năm 1977, đến nay IFAC có 160 tổ chức thành viên tại 120 quốc gia đại diện cho hơn 2,5 triệu kế toán viên và kiểm toán viên chuyên nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực công cộng, giáo dục, dịch vụ quản lý, công nghiệp và thương mại. Mọi hoạt động của IFAC nhằm thúc đẩy sự phát triển của nghề nghiệp kế toán và kiểm toán trên toàn thế giới và góp phần vào sự phát triển lớn mạnh của kinh tế thế giới thông qua việc thiết lập và thúc đẩy việc tuân thủ các chuẩn mực nghề nghiệp chất lượng cao, hướng tới sự thống nhất trên toàn thế giới về chuẩn mực này. Để đạt mục tiêu này, IFAC đã có sự phối hợp chặt chẽ cùng với tổ chức thành viên, các tổ chức kế toán khu vực và tiếp thu ý kiến tham gia của các hội thành viên và cơ quan chính phủ của các nước. IFAC đã ban hành các chuẩn mực kiểm toán quốc tế, chuẩn mực quốc tế về kiểm soát chất lượng, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp,và để có sự hỗ trợ tốt hơn cho các tổ chức thành viên và các kiểm toán viên, kế toán viên chuyên nghiệp, Liên đoàn đã và đang soạn thảo nhiều tài liệu hướng dẫn nhằm hỗ trợ các kế toán viên và kiểm toán viên chuyên nghiệp trong việc nghiên cứu và cập nhật kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ phục vụ tốt hơn trong công việc của mình, thành lập tổ công tác chuyên trách về các doanh nghiệp và doanh nghiệp kiểm toán vừa và nhỏ, về các quốc gia đang phát triển để nghiên cứu, giải quyết các vấn đề có liên quan bởi vì đây là những nhân tố quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế toàn cầu.Ngoài ra còn có các hiệp hội tương đối có uy tín cao như Hiệp hội Kế toán công chứng Anh ACCA ( The Association of Chartered Certified Accountants) với hơn 100 năm phát triển cùng sự phát triển ngày càng cao của chất lượng kế toán tài chính, ACCA có truyền thống lịch sử lâu dài và ngày càng được phát huy với những đổi mới tư duy hiện đại và hơn 115.000 thành viên trên 170 quốc gia trên thế giới, với mục tiêu chất lượng luôn đặt lên hàng đầu trong việc đào tạo những người có năng lực muốn đi sâu trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán, tài chính và quản lý trên khắp thế giới. AASB( Auditing and Assurance Standards Board) bao gồm 15 thành viên, là những thành viên tự nguyện từ AASOC( Auditing and Assurance Standards Oversight Council),
Chương 2: Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán độc lập Việt Nam.
2.1. Kiểm soát chất lượng kiểm toán độc lập ở Việt Nam: thực trạng và những vấn đề đặt ra.
Kiểm toán độc lập là dịch vụ chuyên nghiệp, trình độ cao của kinh tế thị trường, càng quan trọng hơn khi Nhà nước khuyến khích phát triển đa thành phần kinh tế, đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN, phát triển thị trường chứng khoán, mở cửa hội nhập quốc tế. Doanh nghiệp muốn phát triển, phát hành cổ phiếu, thu hút vốn đầu tư thì không thể không công bố báo cáo tài chính đã được kiểm toán. Kiểm tra, giám sát và nâng cao chất lượng dịch vụ hoạt động kiểm toán luôn luôn là mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia trên toàn thế giới. Công tác này cũng đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tính minh bạch và bền vững của nền kinh tế thị trường.
Kể từ khi thành lập công ty kiểm toán đầu tiên ở Việt Nam năm 1991 cho đến nay, công tác kiểm tra và giám sát chất lượng dịch vụ kiểm toán đều do Bộ Tài chính thực hiện. Tính từ cuộc kiểm tra đầu tiên thực hiện vào năm 1998, đến năm 2005 các đoàn kiểm tra do Bộ Tài chính chủ trì đã thực hiện được 8 đợt kiểm tra, và đã kiểm tra được 55 công ty trong tổng số 105 công ty có đăng ký kinh doanh hoạt động kiểm toán. Các cuộc kiểm tra đã phát hiện kịp thời nhiều vấn đề nổi cộm có ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng công tác kiểm toán và uy tín nghề nghiệp, như:
Nhiều công ty chưa có chương trình đào tạo toàn diện và liên tục cho các cấp nhân viên.
Còn tình trạng cho thuê hay cho mượn chứng chỉ kiểm toán viên.
Quy trình soát xét hồ sơ kiểm toán và giấy tờ làm việc chưa được thực hiện và tuân thủ đầy đủ, có trường hợp chỉ 1 - 2 cấp soát xét.
Cho đến nay, ở Việt Nam chưa có một vụ kiện về trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên và công ty kiểm toán. Không vì thế mà chúng ta có thể xem nhẹ việc kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán. Quá trình kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán hiện nay vẫn không tránh khỏi những bất cập.
Kinh nghiệm hành nghề, năng lực quản lí của nhiều doanh nghiệp kiểm toán còn hạn chế. Nhiều công ty kiểm toán đã cố gắng tăng sức cạnh tranh bằng cách hạ giá phí kiểm toán và đương nhiên, điều này sẽ làm giảm thời gian, giảm số lượng các thủ tục kiểm toán và làm giảm chất lượng của bằng chứng kiểm toán thu thập, nếu sự cắt giảm giá phí là quá mức. Hơn nữa, sức ép với các công ty kiểm toán ngày càng tăng trong điều kiện hiện nay, khi mà bản thân các khách hàng thường quá chú trọng vào tiêu thức giá phí thấp để lựa chọn công ty kiểm toán.
Một số ít các công ty kiểm toán để có thể tiếp tục tồn tại và hoạt động có lãi, họ đã cố gắng chiều theo ý khách hàng. Điều này sẽ trở nên đặc biệt nghiêm trọng khi kiểm toán viên không có bản lĩnh, yếu kém về trình độ chuyên môn dẫn đến việc bỏ qua sai sót cần điều chỉnh, thậm chí có thể thay đổi ý kiến kiểm toán.
Bên cạnh những nhân tố chủ quan trên, còn không ít những nhân tố khách quan làm ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động kiểm toán. Hiện nay, chúng ta chưa có quy định bắt buộc mua bảo hiểm nghề nghiệp đối với hoạt động kiểm toán. Năm 2003 đã ban hành chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 220 về kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán, nhưng hệ thống chế tài đánh giá chất lượng kiểm toán và giải quyết tranh chấp, kiện tụng khi xảy ra rủi ro chưa được hoàn thiện. ở Việt Nam vẫn chưa có cơ quan chuyên trách việc đánh giá chất lượng đối với hoạt động kiểm toán độc lập. (Trong bộ máy Kiểm toán Nhà nước hiện nay đã có một bộ phận chuyên trách thực hiện kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán). Các tổ chức hiệp hội nghề nghiệp đã hình thành, nhưng chưa hoạt động hiệu quả. Cho đến nay, Việt Nam đã xây dựng đuợc hai hiệp hội là Hiệp hội kế toán và Hiệp hội kiểm toán nhưng hoạt động của các Hiệp hội mới chỉ dừng lại ở việc nâng cao năng lực chuyên môn, chứ chưa đưa ra các giải pháp kiểm soát về đạo đức nghề nghiệp đối với những người hành nghề kế toán, kiểm toán.
Dựa trên những vấn đề đã phát hiện, các đoàn kiểm tra đều tổng kết, đưa ra kết luận, và kiến nghị các biện pháp xử lý, khắc phục để giúp các công ty kiểm toán nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm toán. Từ những phát hiện, đề xuất và kiến nghị của các đoàn kiểm tra, Bộ Tài chính cũng đã nghiên cứu, đánh giá, tổng kết và thể chế hóa những bài học này trong các văn bản pháp lý về quản lý hoạt động kế toán, kiểm toán. Các kiến nghị của các đoàn kiểm tra và các điều chỉnh trong hệ thống văn bản pháp lý của Chính phủ và Bộ Tài chính đã dần dần đem lại các kết quả tích cực, giúp các công ty khắc phục dần các sai sót, cải tiến các quy trình kiểm toán, nâng cao chất lượng và uy tín của hoạt động kế toán và kiểm toán.
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực và thành tựu trong công tác kiểm tra, có thể nhận thấy công tác kiểm tra, giám sát và nâng cao chất lượng hoạt động dịch vụ kế toán, kiểm toán vẫn còn khá nhiều tồn tại như:
Nội dung kiểm tra chưa đi vào thực chất, còn mang tính hình thức hành chính, như nặng về kiểm tra các loại giấy phép, chứng chỉ;
Việc kiểm tra chưa có tính chuyên nghiệp cao do những người thực hiện không chuyên sâu về nghề nghiệp;
Quy trình và nội dung kiểm tra chưa nhất quán do chưa có văn bản về quy chế và quy trình kiểm soát chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán;
Việc kiểm tra có thể gây xung đột về lợi ích do trong thành phần đoàn kiểm tra có sự tham gia của các công ty cạnh tranh, hay có thể làm tiết lộ bí mật thông tin của khách hàng
Gần đây, các tổ chức quốc tế đều yêu cầu Nhà nước chuyển giao công việc quản lý hành nghề kế toán, kiểm toán cho Hội nghề nghiệp.Để tạo dựng Hội nghề nghiệp đảm trách chức năng quản lý hành nghề kế toán, kiểm toán, theo đề nghị của Bộ Tài chính, được phép của Bộ nội vụ, ngày 15/4/2005, Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) đã được thành lập tại Hà Nội và chính thức đi vào hoạt động từ 1/1/2006. Ngày 14/07/2005, tại Quyết định số 47/2005/QĐ-BTC, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã chính thức chuyển giao chức năng quản lý hành nghề kế toán, kiểm toán cho VACPA. Từ ngày 01/01/2007 VACPA đã triển khai toàn bộ chức năng được giao. Đây là mốc lịch sử quan trọng đánh dấu một giai đoạn mới cho nghề nghiệp kiểm toán độc lập ở Việt Nam. Kể từ đây, những người hành nghề kiểm toán độc lập ở Việt Nam đã có một tổ chức nghề nghiệp độc lập, tự cân đối và tự quản riêng. Hội sẽ hỗ trợ, đào tạo, cập nhật chuyên môn, kiểm soát chất lượng dịch vụ, đạo đức nghề nghiệp, trao đổi vướng mắc, kinh nghiệm góp phần nâng cao chất lượng và uy tín Hội viên, duy trì và phát triển nghề nghiệp kế toán, kiểm toán ở Việt Nam sánh vai với bè bạn trong khu vực và quốc tế.
Ngay sau ngày thành lập 15 tháng 4 năm 2005, Hội Kiểm toán viên Hành nghề Việt Nam (viết tắt là VACPA) đã nhanh chóng kiện toàn tổ chức, lập ra bốn Ban chuyên môn để giúp thực hiện mục tiêu của Hội là góp phần duy trì và phát triển nghề nghiệp, nâng cao chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn tài chính của Việt Nam thông qua hoạt động đào tạo, cập nhật kiến thức, trao đổi và thông tin quản lý đạo đức nghề nghiệp, và kiểm soát chất lượng dịch vụ của Hội. Các thành viên trong các Ban chuyên trách và BCH của VACPA đã dành phần lớn thời gian cho công việc xây dựng các qui chế và chương trình hoạt động của VACPA, củng cố tổ chức, quản lý và phát triển Hội viên. Theo các kế hoạch và chương trình hoạt động này, bắt đầu từ năm 2006 các Hội viên của VACPA có thể phát triển năng lực chuyên môn thông qua các chương trình đào tạo, cập nhật kiến thức hàng năm sẽ do Ban đào tạo - VACPA kết hợp với Bộ Tài chính tổ chức. Những vướng mắc trong quá trình hành nghề của Hội viên sẽ được tháo gỡ thông qua chương trình hoạt động của Ban Tư Vấn - VACPA. Hội viên VACPA có thể gửi các vướng mắc trong quá trình hành nghề của mình qua Email về các văn phòng của VACPA tại khu vực, nơi mà Hội viên đang hoạt động để được Ban Tư vấn-VACPA nghiên cứu và trả lời chung cho các Hội viên bằng văn bản chính thức qua Email, hoặc trên Website của Hội. Ngoài ra VACPA có thể hỗ trợ Hội viên thông qua các cuộc hội thảo chuyên đề hoặc các cuộc giao lưu do Hội tổ chức tại các khu vực.
Ban Kiểm tra là một trong số bốn Ban chuyên môn thay mặt Hội thực hiện chức năng kiểm tra giám sát nghề nghiệp Kế toán, Kiểm toán được chuyển giao từ Bộ Tài chính sang Hội theo Quyết định số 47/2005/QĐ-BTC ngày 14/7/2005 của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Đây là một nét mới trong công tác quản lý nhà nước ở Việt Nam, khi chúng ta đang đi theo mô hình của thế giới đó là hội nghề nghiệp đóng vai trò của một cơ quan quản lý chất lượng hành nghề chuyên môn, và trong trường hợp này là nghề kế toán và kiểm toán. Việc kiểm soát chất lượng hành nghề kế toán và kiểm toán định kỳ của Ban Kiểm tra-VACPA có tác dụng: nhắc nhở Hội viên tuân thủ các Chuẩn mực chuyên môn của người hành nghề, nhằm giảm thiểu rủi ro cho nghề nghiệp, tránh thiệt hại về kinh tế và uy tín cho Hội viên trong tương lai; nhắc nhở các Hội viên tuân thủ Đạo đức nghề nghiệp (tính độc lập, chính trực, khách quan, năng lực chuyên môn, tính bảo mật và tuân thủ Chuẩn mực chuyên môn) trong quá trình hành nghề; giúp Hội viên thiết lập một kỷ cương trong việc không ngừng phát triển các nguyên tắc nghề nghiệp và khuôn khổ kỷ luật cá nhân; giúp đỡ Hội viên xác định những điểm yếu, kém trong quá trình hành nghề. Ngoài ra Ban Kiểm tra - VACPA sẽ phối hợp với các ban chuyên trách khác và các văn phòng của VACPA lập kế hoạch trợ giúp kỹ thuật cho Hội viên có đủ năng lực trong việc tiếp tục hành nghề.
Thực hiện Quyết định số 47/2005/QĐ-BTC ngày 14/7/2005 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc chuyển giao cho Hội nghề nghiệp thực hiện một số nội dung công việc quản lý hành nghề kế toán, kiểm toán. Năm 2005, Vụ Chế độ kế toán và kiểm toán Bộ Tài Chính đã mời VACPA tham gia thực hiện kiểm tra chất lượng hành nghề kế toán và kiểm toán tại 14 công ty kiểm toán đang hoạt động ở Việt Nam; đã kết hợp với VACPA tổ chức các lớp cập nhật kiến thức cho Kiểm toán viên, bồi dưỡng và tham gia thi tuyển kiểm toán viên từ năm 2006. Sắp tới đây, việc cấp chứng chỉ CPA cũng sẽ được chuyển giao cho VACPA, từ đó góp phần nâng cao năng lực kiểm soát chất lượng kiểm toán của Hội.
2.2. Sự tất yếu phải nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán ở Việt Nam.
Sở dĩ chất lượng kiểm toán trong nước chưa cao là do người sử dụng báo cáo kiểm toán chưa yêu cầu cao. Người sử dụng phải đòi hỏi cao thì người làm kiểm toán mới cung cấp những sản phẩm chất lượng cao. Kiểm toán viên tạo ra sản phẩm chất lượng cao nhưng người sử dụng không đánh giá được hết “tầm” của sản phẩm, nên họ chưa thực sự bỏ công sức ra làm tốt Trước khi doanh nghiệp nộp báo cáo tài chính cho cơ quan thuế phải qua kiểm toán nhưng nhiều khi doanh nghiệp không chấp nhận quy định này mà cơ quan thuế vẫn chấp nhận. Đây cũng là một lý do quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán độc lập. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế đang phát triển mạnh mẽ đòi hỏi tính chính xác, đầy đủ đối với báo cáo kiểm toán từ phía người sử dụng. Đặc biệt là xu hướng phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam, trong thời gian tới, số lượng các tổ chức phát hành, niêm yết, và kinh doanh chứng khoán Việt Nam sẽ ngày càng gia tăng, đòi hỏi các dịch vụ kiểm toán trong lĩnh vực này phải tăng cả về số lượng và chất lượng.
Vừa qua, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức Thương mại lớn nhất thế giới WTO. Theo cam kết, khi Việt Nam là thành viên chính thức của WTO, dịch vụ kiểm toán phải được mở rộng cho các đối tác nước ngoài tham gia. Đây là một thách thức lớn khi kế toán, kiểm toán Việt Nam chưa được quốc tế thừa nhận. Trên thực tế, các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế của chúng ta thường thuê các công ty kiểm toán nước ngoài hoặc công ty là thành viên kiểm toán quốc tế do tâm lý chưa tin tưởng vào chất lượng, uy tín của các công ty kiểm toán trong nước và cũng do các công ty này còn khá non trẻ trong khi dịch vụ kiểm toán ở các nước không chỉ giàu kinh nghiệm mà còn mang tính chuyên nghiệp cao. Trước tình cảnh đó, kiểm toán độc lập Việt Nam cần tạo lập một phong cách hoạt động chuyên nghiệp, theo các chuẩn mực quốc tế là điều mà kiểm toán viên cần hướng đến, nếu không muốn bị loại khỏi “cuộc chơi”.
Một yếu tố khác cần được quan tâm là cạnh tranh. Cạnh tranh có vai trò rất to lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và kiểm toán nói riêng. Trong nền kinh tế thị trường, mỗi công ty kiểm toán dù muốn hay không vẫn phải chấp nhận cạnh tranh. Cạnh tranh là điều kiện thuận lợi để mỗi công ty tự khẳng định vị trí của mình trên thị trường, tự hoàn thiện bản thân để vươn lên giành ưu thế so với các đối thủ cạnh tranh khác. Trên thị trường, cạnh tranh giữa các công ty là cuộc cạnh tranh khốc liệt nhằm giành giật khách hàng, chiếm lĩnh thị trường, tạo ưu thế về mọi mặt kinh doanh nhằm thu được lợi nhuận. Xu thế cạnh tranh ngày nay là cạnh tranh về chất lượng sản phẩm dịch vụ, giá cả
Trong bối cảnh như vậy, nâng cao chất lượng kiểm toán độc lập Việt Nam là yêu cầu tất yếu
2.3. Phương hướng nâng cao chất lượng kiểm toán độc lập Việt Nam
Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, kinh nghiệm của thế giới, khi xác lập và thực hiện việc nâng cao chất lượng kiểm toán độc lập chúng ta cần có những phương hướng cụ thể, rõ ràng.
Dưới đây là một số đề xuất hướng nâng cao chất lượng cho chất lượng kiểm toán độc lập của Việt Nam:
Đảm bảo thực hiện và phát huy vai trò quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán nói chung và kiểm toán độc lập nói riêng.
Vai trò của Nhà nước (Bộ Tài chính) trong lĩnh vực quản lý nhà nước về kiểm toán là tất yếu trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Vai trò này xuyên suốt trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta. Đối với lĩnh vực kiểm toán, Bộ Tài chính và các Bộ, Ngành chức năng của Nhà nước có vai trò quan trọng, đặc biệt là trong giai đoạn các tổ chức, hội nghề nghiệp kế toán, kiểm toán vẫn chưa thực sự phát triển mạnh.
Tăng cường vai trò của các tổ chức nghề nghiệp kế toán và kiểm toán.
Muốn nâng cao chất lượng kiểm toán độc lập cần nâng cao cơ chế kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập đặt trong mối quan hệ giữa yếu tố pháp lý và yếu tố nghề nghiệp.Về lâu dài Nhà nước sẽ phải dần dần chuyển giao chức năng quản lý ngành kiểm toán cho các tổ chức nghề nghiệp theo đúng thông lệ Quốc tế như việc hướng dẫn chuẩn mực, nghiệp vụ kiểm toán, quản lý độ ngũ hành nghề, quản lý và kiểm soát đạo đức nghề nghiệp cuả kiểm toán viên, quản lý và kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán,
Học tập kinh nghiệm quốc tế và phù hợp với đặc thù thực tế phát triển kiểm toán độc lập ở Việt Nam.
Trong khi chúng ta có thể khai thác và tiếp thu kinh nghiệm thế giới cũng phải hết sức cân nhắc về cơ chế, mô hình tổ chức hoạt động chất lượng, tuyển chọn và đào tạo kiểm toán viên, tài trợ các hoạt động kiểm tra, kiểm soát chất lượng, tài trợ các chương trình cập nhật kiến thức, nghiên cứu đưa ra quy trình kiểm soát hợp lý, sao cho phù hợp với thực trạng và có khả năng phát triển chất lượng tốt hơn trong tương lai.
2.4. Giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán độc lập Việt Nam.
2.4.1. Quan tâm đến chất lượng đào tạo tại các cơ sở đào tạo.
Ở nước ta hiện nay có rất nhiều Học viện, Trường đại học, cao đẳng đào tạo chuyên nghành kế toán – kiểm toán, nhưng những cơ sở đào tạo đội ngũ kế toán – kiểm toán hệ chính quy từng có “thâm niên” chỉ có thể kể tới Học viện tài chính, Đại học kinh tế quốc dân và Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. Thế nhưng tại các cơ sở đào tạo này thì câu hỏi đặt ra là kết thúc quá trình đào tạo thì bằng cấp này đã được tổ chức nào trong khu vực nói riêng và trên thế giới nói chung công nhận? Xin được trả lời là chưa.
Vậy làm thế nào để những chương trình, nội dung và bằng cấp này có được sự thừa nhận rộng rãi của quốc tế?
Thứ nhất, chuẩn hóa hơn nữa khung chương trình đào tạo từ phía cơ quan chức năng ban hành
Theo Điều 39 Luật giáo dục quy định về mục tiêu, nội dung và yêu cầu đào tạo ở trình độ Đại học là “Đào tạo trình độ đại học giúp Sinh viên nắm vững kiến thức chuyên môn và có kỹ năng thực hành thành thạo, có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo và giải quyết những vấn đề thuộc chuyên nghành được đào tạo”. Như vậy, bên cạnh kiến thức về lý thuyết thì khung chương trình ban hành nhất thiết phải có những yêu cầu về việc thực hành. Thực tế hiện nay là các cơ sở đào tạo căn cứ vào quy chế đào tạo của Bộ giáo dục ban hành để xây dựng chương trình đào tạo cho phù hợp. Tuy nhiên, khi xây dựng chương trình theo từng chuyên nghành thì lại phụ thuộc vào các Tiểu ban xây dựng đưa ra những môn học, thời lượng những môn học, thứ tự môn học...Do đó, trong tiểu ban này cần phải mời những chuyên gia, những nhà khoa học có kinh nghiệm, những thành viên của cơ quan chức năng liên quan cùng xây dựng để có được cái nhìn toàn diện hơn về yêu cầu đào tạo, xu hướng phát triển của tương lai, khả năng tiếp cận khu vực và thế giới để mà đi tắt đón đầu, tránh tình trạng “bình mới, rượu cũ” đổi đi đổi lại thứ tự, thời lượng các môn học. Và khi xây dựng chương trình phải coi trọng phần kiến thức chuyên nghành, ngoại ngữ.
Thứ hai, Xây dựng lộ trình tiếp cận với các chương trình đào tạo tiên tiến của thế giới
Hiệp hội kế toán công chứng Anh (ACCA) đã và đang tiến hành làm việc với những cơ sở đào đạo nhằm hướng tới đưa những chương trình đào tạo kế toán – kiểm toán chuẩn quốc tế vào các trường. Vì thực tế hiện nay khi xem xét kết quả đào tạo trong các cơ sở đào tạo thì việc miễn các môn thi theo chương trình của ACCA, CAT... là không có. Như vậy, người học của chúng ta rất thiệt thời cho nên cần thiết và cấp bách các cơ sở đào tạo phải đặt mục tiêu và thái độ sẵn sàng hơn nữa trong việc tiếp cận các chương trình tiến tiến trong khu vực nói riêng, trên thế giới nói chung để dần các bằng cấp này sẽ được thừa nhận rộng rãi.
Thứ ba, Coi trọng hơn nữa việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ Giảng viên tại các cơ sở đào tạo
Khẳng định rằng để đào tạo ra những sản phẩm trí tuệ có chất lượng cho xã hội và đáp ứng yêu cầu hội nhập thì đội ngũ Giảng viên có vai trò vô cùng quan trọng. Thực tế có thể nhận thấy rằng, đội ngũ Giảng viên được hình thành chủ yếu từ đào tạo trong nước và nước ngoài. Nếu được đào tạo trong nước thì trình độ ngoại ngữ sẽ không cao, phương pháp nghiên cứu khoa học cũng vẫn chưa có nhiều thay đổi, và đặc biệt là việc tiếp cận với những thay đổi của khu vực, thế giới còn rất hạn chế do yếu tố môi trường, ngoại ngữ - cho nên kiến thức bổ sung cũng như truyền đạt cho sinh viên chỉ mang tính chất “lối mòn”. Phần còn lại đội ngũ Giảng viên được đào tạo từ nước ngoài thì họ có một trình độ ngoại ngữ nhất định, phương pháp làm việc khoa học hơn nhưng để ứng dụng của những cái mới này vào các bài giảng thì vẫn còn gặp những khó khăn vì các chương trình trong nước và nước ngoài vẫn có những điểm chưa tương đồng và phương pháp tiếp cận môn học cũng khác nhau. Như vậy, ta thấy rằng để có những sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế thì trước hết người làm ra nó – đội ngũ Giảng viên phải đạt tiêu chuẩn quốc tế. Do đó, cần từng bước đào tạo và đào tạo lại đội ngũ Giảng viên tiếp cận dần với những nội dung, phương pháp tiên tiến trên thế giới.
Thứ tư, Đối tượng học phải có cơ hội tiếp cận nhiều hơn nữa với các nội dung, chương trình mới
Cơ sở đào tạo và các Tổ chức, các Hiệp hội cần thiết phải phối hợp với nhau để tổ chức nhiều các buổi giới thiệu, hội thảo những chương trình mới, nội dung mới với Sinh viên. Một sinh viên tốt nghiệp ra trường sẽ có nhiều cơ hội việc làm hơn nếu như ngoài những kiến thức thu được họ có thêm có thêm các chứng chỉ quốc tế. Bên cạnh đó, trình độ ngoại ngữ, tin học phải được xem là vấn đề thiết yếu, vô cùng quan trọng. Chúng ta đặt câu hỏi tại sao các Tổ chức, các Hiệp hội không dần tiếp cận với các cơ sở đào tạo để cùng xây dựng chương trình với mục đích vừa nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu thực tế. Vừa đạt được trình độ chuẩn để khi Sinh viên tốt ngiệp sẽ được miễn các môn thi nếu như muốn có các chứng hành nghề? Nếu có sự kết hợp này thì ngay từ khi đang còn ngồi trên ghế nhà trường Sinh viên đã có những sự năng động, định hướng nhất định rồi.
Thứ năm, Tạo nên sự gắn kết hơn nữa giữa Cơ quan chủ quản, các Hiệp hội nghề nghiệp với các cơ sở đào tạo và giữa các cơ sở đào tạo với nhau
Sự gắn kết giữa các cơ quan chủ quản, các Hiệp hội nghề nghiệp là hoàn toàn cần thiết bởi vì: Về phía các cơ sở đào tạo sẽ tạo ra được một kênh thông tin giữa yêu cầu thực tế và vấn đề đang đào tạo để mà điều chỉnh chương trình, nội dung cho phù hợp. Về phía Giảng viên sẽ có môi trường, có điều kiện cập nhật, nắm bắt được những thay đổi của những quy định – đặc biệt là những thay đổi quốc tế mà nhiều lúc muốn học vẫn không biết tìm tài liệu này ở đâu. Về phía Sinh viên sẽ được hưởng thụ những mặt tích cực này. Chính vì thế, thời gian tới cần tích cực hơn nữa việc triển khai mối quan hệ hai chiều này bằng những cuộc hội thảo, những buổi tọa đàm trao đổi. Bên cạnh đó các tổ chức, các Hiệp hội nếu có tổ các buổi hội thảo, cập nhật kiến thức mới cần ưu tiên mời nhiều hơn đội ngũ Giảng viên viết bài, tham dự và ngược lại
Có thể thấy rằng tại các cơ sở đào tạo sẽ xây dựng chương trình đạo cho phù hợp với truyền thống, thế mạnh của mình. Do đó cần thiết phải có giao lưu nhiều hơn nữa giữa các cơ sở đào tạo nhằm trao đổi, chuẩn hóa, học tập kinh nghiệm lẫn nhau. Để làm được điều này trong giai đoạn hiện nay ngoài nỗ lực cố gắng của các trường, thì vai trò cầu nối của ACCA là vô cùng quan trọng.
2.4.2. Cần đổi mới công tác thi thi tuyển cấp chứng chỉ Kiểm toán viên hành nghề hướng đến sự thừa nhận của các nước đối với chứng chỉ Kiểm toán viên của Việt Nam.
Mười lăm năm hình thành và phát triển kiểm toán độc lập cũng là 15 năm hình thành và phát triển của hoạt động đào tạo và thi tuyển Kiểm toán viên Việt Nam, đã góp phần hình thành một đội ngũ đông đảo những người hành nghề kế toán, kiểm toán đáp ứng nhu cầu phát triển ngày càng cao, càng nhanh về quy mô và chất lượng của hoạt động kiểm toán độc lập.
Việc tổ chức ôn, thi và cấp Chứng chỉ Kiểm toán viên Việt Nam hiện nay có những ưu điểm nhất định nhưng vẫn còn một số tồn tại:
- Số lượng 8 môn thi được quy định từ năm 1992 hiện nay không phù hợp.
- Đối tượng được tham dự vẫn còn hẹp.
- Thời gian hướng dẫn ôn thi các môn còn quá ngắn, mới chỉ phục vụ cho việc thi chứ chưa nhằm mục đích trang bị kiến thức và nâng cao nghề nghiệp sau này.
Về tài liệu học, chỉ đến năm 2006, Hội đồng thi mới biên soạn và phát hành được tài liệu học thi còn trước đó chỉ có đề cương ôn thi và tài liệu tham khảo.
- Việc tổ chức một kỳ thi gồm 8 môn liên tục trong vòng 1 tuần gâp áp lực lớn cho người thi.
Trong điều kiện hiện nay Việt Nam đang đàm phán gia nhập các Hiệp định hội nhập kinh tế khu vực, trong đó có lĩnh vực dịch vụ tài chính, kế toán, kiểm toán với các nước ASEAN và trong tương lai là với các nước khác. Nếu chúng ta tiếp tục kéo dài thực trạng trên sẽ là cản trở lớn đến sự phát triển nghề nghiệp kế toán, kiểm toán, kiểm toán và quá trình hội nhập.
Để khắc phục những tồn tại trên với mục tiêu đẩy nhanh sự phát triển thị trường dịch vụ kế toán, kiểm toán theo xu hướng hội nhập và hướng đến sự thừa nhận của các nước đối với Chứng chỉ Kiểm toán viên Việt Nam, trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm một số nước, tôi cho rằng Việt Nam cần phải thực hiện đổi mới chương trình và cách thức tổ chức thi cấp Chứng chỉ Kiểm toán viên Việt Nam. Trong qúa trình tìm hiểu về quy chế thi tuyển cấp chứng chỉ kiểm toán viên hành nghề, em có được tiếp cận với một bài viết của một tác giả trong đó đã đề xuất ra một phương án để nâng cao chất lượng và hiệu quả của cuộc thi tuyển. E
Giai đoạn 1: Bước chuẩn bị
- Trong 2-3 năm tới: Bộ Tài chính vẫn là cơ quan ra quyết định thành lập Hội đồng thi tuyển Kiểm toán viên với cơ cấu thành viên do Bộ Tài chính quyết định, nhưng Chủ tịch Hội đồng thì nên giao cho Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) cử người đảm trách. Hội đồng thi hoạt động dưới sự kiểm tra, giám sát bằng hệ thống quy chế do Bộ Tài chính ban hành. Hội đồng thi chịu trách nhiệm tổ chức và quản lý các kỳ thi, biên soạn và phát hành tài liệu học thi. Số lượng môn thi trước mắt vẫn giữ 8 môn như hiện nay nhưng tài liệu học thi cần được biên soạn thành một cuốn sách với đầy đủ nội dung cần học và bài tập thực hành. Chứng chỉ Kiểm toán viên do Bộ Tài chính và VACPA cùng ký.
- Việc tổ chức học ôn: Thời lượng ôn từng môn nhiều hơn và thời gian học dài hơn, học dãn cách ngoài giờ hành chính và tận dụng những ngày nghỉ.
- Về đối tượng được dự thi: Cần mở rộng đối tượng dự thi cho những người tốt nghiệp Đại học chuyên ngành Quản trị kinh doanh hoặc kinh tế có thời lượng học các môn chuyên ngành (kế toán, kiểm toán, tài chính, phân tích hoạt động kinh tế) chiếm tỉ lệ lớn. Những người tốt nghiệp chuyên ngành khác có thời lượng học các môn chuyên ngành thấp thì cho học chuyển đổi thêm 4 môn (Kế toán tài chính, kế toán quản trị, tài chính doanh nghiệp, phân tích hoạt động tài chính) để có đủ điều kiện dự thi.
Giai đoạn 2: Bước quá độ chuyển đổi
Trong giai đoạn này, chúng ta cần học tập kinh nghiệm của một số nước, đặc biệt là của Hiệp hội Kế toán Công chứng Anh (ACCA), Hội kế toán công chứng Singapore, Hội CPA Australia. Bước quá độ chuyển đổi này gồm những nội dung cơ bản dưới đây:
- Việc tổ chức và quản lý thi tuyển và cấp chứng chỉ KTV: Cần được Bộ Tài chính chuyển giao hoàn toàn cho Hội Kiểm toán viên hành nghề đảm trách. Tham gia thành viên Hội đồng thi vẫn có đại diện của Bộ Tài chính, trường Đại học, Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam. Bộ Tài chính thực hiện kiểm tra, giám sát hoạt động của Hội đồng thi bằng hệ thống văn bản pháp lý và các quy chế.
- Số lượng các môn thi: Cần cơ cấu lại số lượng và nội dung các môn thi và phân chia thành 3 cấp bậc: Đại cương, Trung cấp, Nâng cao. Chúng tôi đề xuất học thi KTV Việt Nam gồm 12 môn được cơ cấu như sau:
1) Phần Đại cương (2 môn):
Kế toán tài chính (chuẩn mực cơ bản)
Kế toán quản trị
(2) Phần Trung cấp (6 môn)
Kế toán tài chính trung cấp (chuẩn mực phức tạp hơn)
Kiểm toán (chuẩn mực cơ bản kể ra chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp)
Quản trị tài chính doanh nghiệp
Luật Thuế
Pháp luật về Kinh tế
Tiếng Anh chuyên ngành
(3) Phần nâng cao
Bắt buộc (2 môn)
Quản trị tài chính doanh nghiệp nâng cao
Quản trị Doanh nghiệp và lập chiến lược
Tự chọn (chọn 2 trong 7 môn)
Kế toán tài chính nâng cao (chuẩn mực phức tạp)
Kiểm toán nâng cao (chuẩn mực phức tạp)
Quản lý hiệu quả hoạt động
Thuế nâng cao
Quản trị rủi ro
Quản lý danh mục đầu tư
Phá sản, chia cách, sác nhập và mua lại doanh nghiệp
Về đối tượng dự thi: Mở rộng đối tượng dự thi cho tất cả những người tốt nghiệp Đại học có 2 năm kinh nghiệm đã có thể bắt đầu học và dự thi phần 1, phần 2 nhưng phải đủ bốn hoặc năm năm kinh nghiệm mới được thi phần Nâng cao.
Người tốt nghiệp Đại học chuyên ngành Kế toán, Kiểm toán, tài chính, ngân hàng thì được miễn thi 2 môn ở phần Đại cương. Điểm thi các môn được bảo lưu 5 năm.
- Về kỳ thi và thứ tự thi: Nên tổ chức hai kỳ thi vào tháng 4 và tháng 10 hàng năm. Không bắt buộc theo thứ tự các môn thi trong cùng một phần. Thí sinh có thể học và thi đồng thời các môn thi trong phần Đại cương và Trung cấp, nhưng phải thi đạt tất cả các môn phần đại cương và Trung cấp thì mới được thi phần Nâng cao.
- Về biên soạn tài liệu học: Phải lựa chọn một cơ sở đào tạo đảm trách việc biên soạn và xuất bản tài liệu học thi KTV. Bộ Tài chính hoặc VACPA đưa ra chương trình học và yêu cầu giảng dạy từng môn. Chương trình học phải gắn liền với thực tế và hướng dẫn tới phần thực hành nhiều hơn.
- Việc tổ chức học thi và phương pháp giảng dạy: VACPA trực tiếp tổ chức học hoặc lựa chọn một số trường hoặc trung tâm đủ điều kiện. Việc tổ chức học thi có thể học ngoài giờ hành chính, học trải dài trong năm để người học không bị ảnh hưởng lớn đến công việc.
- Về đề ra đề thi, coi thi và chấm thi: Về cách thức ra đề thi nên đổi mới vừa có thi trắc nghiệm vừa có thi viết. Riêng phần nâng cao thì 100% bài viết.
- Lộ trình thực hiện bước chuyển đổi: Bước chuyển đổi sẽ được thực hiện trong khoảng thời gian từ 4 đến 6 năm bao trùm các nội dung (trong tài liệu):
Thành lập Ban nghiên cứu, phân tích cơ chế và nội dung, chương trình học và thi của một số Hiệp hội các nước phát triển và đã có quan hệ với VACPA như ACCA, CPA Australia, CPA Singapore.
Tiến hành lấy ý kiến của các cơ quan chức năng, các trường Đại học, các công ty kiểm toán, kế toán và các doanh nghiệp về Dự án đổi mới đào tạo, thi tuyển Kiểm toán viên.
Nghiên cứu thay đổi nội dung các môn học mới. Xây dựng và phê chuẩn mục lục và đề cương cho các môn.
Thành lập Hội đồng viết tài liệu hoặc hợp đồng với một hoặc hai trung tâm viết tài liệu.
Triển khai viết tài liệu học và soạn đề thi mẫu.
Thành lập Hội đồng thẩm định để thẩm định tài liệu và đề thi mẫu.
Tiến hành thi thử để đánh giá và rút kinh nghiệm.
Tổ chức thi luật theo chương trình mới.
Tất cả các bước sẽ được triển khai theo hình thức cuốn chiếu qua các năm đảm bảo quá trình chuyển đổi nhịp nhàng, hiệu quả.
Giai đoạn 3: Chính thức chuyển đổi
- Bắt đầu từ Giai đoạn 3, tất cả các môn sẽ được tổ chức thi hai lần một năm vào tháng 4 và tháng 10.
- Khả năng kết nối đào tạo với trường Đại học cũng cần được xem xét, nghiên cứu.
- Về nội dung, chương trình và cách thức tổ chức học, thi và cấp Chứng chỉ hành nghề kế toán cần được nghiên cứu, vận dụng các đề xuất nêu trên để thực hiện sự đổi mới phù hợp.
Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, thi tuyển và cấp Chứng chỉ Kiểm toán viên Việt Nam theo định hướng nêu trên có ý nghĩa hết sức to lớn vì kết quả đổi mới là để xác lập vị thế quan trọng của nghề nghiệp kế toán, kiểm toán, nâng cao giá trị ở tầm quốc gia và thừa nhận quốc tế đối với Chứng chỉ Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam, nâng cao chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán, góp phần làm tăng tính công khai, minh bạch và lành mạnh hoá nền tài chính nước nhà.
Tuy nhiên công cuộc đổi mới này chỉ có thể được tiến hành thuận lợi khi được Bộ Tài chính chấp thuận, quan tâm, chỉ đạo, chuyển giao và tạo điều kiện thuận lợi cho Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam triển khai thực hiện. Hội phải có đủ nhân lực có trình độ chuyên môn và khả năng quản lý để đảm trách quá trình triển khai, thực hiện Dự án một cách hiệu quả.
Dự án này nếu được triển khai sẽ đòi hỏi nguồn lực không nhỏ về tài chính và hỗ trợ về chuyên gia. Chúng ta có thể đề xuất với các tổ chức tài chính Quốc tế như Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu á (ADB) tài trợ ngân sách và đề nghị sự trợ giúp về chuyên gia của các tổ chức nghề nghiệp mà VACPA đã có quan hệ hợp tác như ACCA, CPA Australia, CPA Singapore. Bằng việc thực hịên dự án này, chúng ta tin tưởng vào mục tiêu từ năm 2010 sẽ được một số nước thừa nhận Chứng chỉ Kiểm toán Việt Nam.
2.4.3. Nâng cao đạo đức nghề nghiệp của Kiểm toán viên.
Trong mọi nghề nghiệp, để người hành nghề có thể thực hiện công việc với chất lượng cao, tuân thủ pháp luật và phục vụ tốt nhất cho khách hàng, các cơ quan chức năng, phải thiết lập các quy định cho người hành nghề. Kế toán, kiểm toán là nghề mang tính chuyên nghiệp cao, vì vậy, càng cần phải chịu sự chi phối bởi các quy định có liên quan.
Trong những năm gần đây, việc nhiều công ty bị phá sản do lỗi của công ty kiểm toán không còn xa lạ. Sở dĩ có tình trạng này là một nguyên nhân hết sức quan trọng, không giải quyết được các xung đột lợi ích trong quá trình hành nghề, một vấn đề thuộc lĩnh vực đạo đức của người hành nghề kiểm toán. Để khôi phục lòng tin của công chúng, IFAC cũng như hội nghề nghiệp kiểm toán ở nhiều quốc gia trên thế giới đã hiệu đính chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp và đưa ra nhiều biện pháp nhằm tăng cường giám sát việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp. Bên cạnh đó, nhiều quốc gia cũng đã có những thay đổi về luật pháp để điều chỉnh hoạt động kiểm toán nhằm bảo vệ cho lợi ích của công chúng và nền kinh tế.
Nều chuẩn mực kiểm toán là những quy định và hướng dẫn về các nguyên tắc và thủ tục kiểm toán làm cơ sở để kiểm toán viên thực hiện công việc và là cơ sở để kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán, thì chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp là những quy tắc để hướng dẫn cho các thành viên ứng xử và hoạt động một cách trung thực, phục vụ cho lợi ích của nghề nghiệp và xã hội. Nói cách khác, chinh các quy định về đạo đức nghề nghiệp sẽ giúp nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán. Khi thị trường chứng khoán phát triển và trở thành một nguồn cung cấp vốn quan trọng của nền kinh tế, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp là một phương thức để nâng cao sự tín nhiệm của công chúng vào nghề nghiệp, là một phương tiện giúp tăng cường lòng tin của công chúng vào các thông tin niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình hội nhập vào kinh tế thế giới, thị trường chứng khoán đã hình thành và phát triển đòi hỏi Việt Nam phải tiêu chuẩn hoá các dịch vụ theo thông lệ quốc tế, trong đó, có chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. Tháng 12/2005, Bộ Tài chính đã ban hành chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp cho người hành nghề kế toán, kiểm toán. Nhìn chung, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp do Việt Nam ban hành đã phù hợp với thông lệ chung của quốc tế. Tuy vậy, việc đưa các quy định này vào thực tế để mang lại kết quả như ý muốn vẫn còn nhiều vấn đề cần phải giải quyết, bởi vì để chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp được các thành viên tôn trọng chấp hành đuúg đắn, không thể chỉ dựa trên ý chí của Nhà nước thông qua một văn bản pháp quy. Lịch sử phát triển hàng trăm năm đạo đức nghề nghiệp trên thế giới cho thấy đây là một hệ thống thể chế phức tạp, cần có sự kết hợp hài hoà giữa kỳ vọng của xã hội, vai trò của nhà nước, nỗ lực của tổ chức nghề nghiệp và ý chí của những người hành nghề. Do vậy, dù đã được ban hành hơn một năm, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp vẫn còn xa lạ với khá nhiều KTV và công ty kiểm toán, đặc biệt là một số là một số các công ty kế toán vừa và nhỏ. Nguyên nhân của tình trạng này trước hết là do nhận thức chưa đúng đắn về tầm quan trọng của chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. Bên cạnh đó, Việt Nam vẫn chưa thiết lập cơ chế giám sát việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp cũng như không có bộ phân xét xử kỷ luật với các hành vi vi phạm đạo đức của KTV.
Chính vì vậy, để các quy định đạo đức nghề nghiệp đi vào thực tế, cần phải thiết lập một cơ chế để giám sát việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp cũng như xét xử các hành vi vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Một hệ thống đầy đủ phải bao gồm tổ chức và quy chế, trong đó, tổ chức phải có khả năng hướng dẫn, giám sát, thu thập thông tin phản hồi và hoàn thiện các quy định.
Thành lập Ban đạo đức nghề nghiệp
Để hoàn thiện các quy định đạo đức nghề nghiệp và đưa ra những hướng dẫn chi tiết, cần thành lập một Uỷ ban phụ trách về đạo đức nghề nghiệp. Do nhiều nội dung của chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp không phải là vấn đề của luật pháp, vì vậy, việc ban hành và giám sát không nên giao phó cho các cơ quan nhà nước mà nên giao cho hội nghề nghiệp đảm nhận. Nhưng trong giai đoạn đầu, Uỷ ban này nên là bộ phận tư vấn cho Bộ Tài chính để hiệu đính chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. Khi hội nghề nghiệp đủ mạnh, sẽ đảm nhận vai trò cập nhật, sửa đổi các quy định đạo đức nghề nghiệp và lúc đó, Uỷ ban này sẽ trực thuộc Hội.
Thành lập Uỷ ban Kỷ luật.
Để giám sát việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp và xử lý kỷ luật, cần thành lập Ban phụ trách về kỷ luật. Về mô hình tổ chức, có thể dựa vào kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới. Đối với Hoa Kỳ, Uỷ ban Kỷ luật này trực thuộc Uỷ ban Đạo đức nghề nghiệp, tức thuộc hội nghề nghiệp. Còn ở Pháp, Uỷ ban Phụ trách kỷ luật trực thuộc Uỷ ban Kiểm toán cấp cao. Do Bộ Tài chính đã giao cho VACPA việc hướng dẫn và kiểm tra thực hiện chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp đối với người hành nghề, vì thế, Uỷ ban kỷ luật nên trực thuộc VACPA. Uỷ ban này sẽ có trách nhiệm điều tra về bất cứ trường hợp nào được cho là vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Các trường hợp này có thể được phát triển thông qua các cuộc kiểm soát chất lượng từ bên ngoài đối với hoạt động kiểm toán. Ngoài ra, Uỷ ban này cũng sẽ mở các cuộc điều tra riêng nếu nhận được các thông tin về vấn đề được cho là vi phạm đạo đức nghề nghiệp, chẳng hạn thông qua đơn khiếu nại hay các phương tiện thông tin đại chúng.
Uỷ ban Kỷ luật nên bao gồm các thành viên là những KTV hành nghề và các thành viên khác tuy không phải là người hành nghề nhưng là những người nổi bật về tính trung thực. Trong trường hợp có bằng chứng về sự vi phạm đạo đức nghề nghiệp, Uỷ ban sẽ đánh giá mức độ nghiêm trọng của vi phạm này và ấn định các biện pháp như:
Nếu những vi phạm không trọng yếu, Uỷ ban nhắc nhở sai phạm và chỉ rõ biện pháp sửa sai cho KTV có liên quan. Áp dụng các biện pháp kỷ luật như cảnh cáo (Không cho hành nghề trong một khoảng thời gian nào đó) hay khai trừ khỏi Hội đối với những sai phạm nghiêm trọng. Công bố các kết luận hay cách giải quyết của Uỷ ban kỷ luật trên các tạp chí chuyên ngành hay trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Trong quá trình điều tra, công ty kiểm toán (nơi KTV đăng ký hành nghề) cần áp dụng một trong các biện pháp đối với KTV bị điều tra như sau: Không cho KTV này tiếp tục thực hiện hợp đồng kiểm toán đối với khách hàng; đình chỉ công việc đối với KTV đang bị điều tra cho đến khi Uỷ ban kỷ luật có kết luận chính thức; cho thôi việc KTV vi phạm kỷ luật.
Thành lập Uỷ ban Kiểm soát chất lượng.
Thông thường, việc giám sát tuân thủ đạo đức nghề nghiệp được tiến hành đồng thời với kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán. Hiện nay, việc kiểm soát chất lượng từ bên ngoài đối với hoạt động kiểm toán độc lập đã trở thành bắt buộc tại nhiều nước phát triển.
Tại Pháp, việc kiểm soát chất lượng từ bên ngoài đối với hoạt động kiểm toán thường xuyên và định kỳ, vừa là nghĩa vụ pháp lý, vừa nhằm tuân thủ yêu cầu đạo đức nghề nghiệp.
Còn tại Hoa Kỳ, việc kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán được thực hiện thông qua cách thức kiểm tra chéo giữa (các công ty kiểm toán) kể từ thập niên 1960. Các công ty kiểm toán được tự nguyện chọn các công ty khác để kiểm tra cho công ty mình theo định kỳ 3 năm một lần. Đây là yêu cầu bắt buộc và được xem như là một phần trong chương trình tự kiểm soát của nghề nghiệp theo quy định của AICPA.
Đối với Việt Nam, việc kiểm tra tuân thủ đạo đức nghề nghiệp cũng nên được tiến hành đồng thời với kiểm soát chất lượng từ bên ngoài đối với hoạt động kiểm toán. Do Bộ Tài chính đã chuyển giao việc quản lý hoạt động nghề nghiệp cho Hội nghề nghiệp, Ban Kiểm soát chất lượng nên là một bộ phận trực thuộc hội và tiến hành kiểm tra các công ty kiểm toán theo chương trình do Hội đề ra có sự phê chuẩn của Bộ Tài chính.
Thành lập Uỷ ban Giám sát chất lượng kiểm toán đối với các công ty kiểm toán cho những công ty niêm yết.
Trên thế giới, nhiều quốc gia đã thành lập một Uỷ ban riêng để giám sát hoạt động của các công ty kiểm toán cho các công ty niêm yết. Uỷ ban này thường được thành lập do sự kết hợp giữa Hiệp hội nghề nghiệp và Uỷ ban Chứng khoán. Tại Hoa Kỳ, công ty kiểm toán cho các công ty niêm yết phải đăng ký với Ủy ban Giám sát. Các cuộc kiểm toán của họ sẽ được kiểm tra đều đặn bởi các kiểm tra viên của Uỷ ban Giám sát các công ty niêm yết. Uỷ ban giám sát không phải cơ quan chức năng của nhà nước, hoạt động dưới sự giám sát của Uỷ ban Chứng khoán (SEC) và Hội nghề nghiệp (AICPA)
Tại Pháp, từ năm 1985, việc kiểm tra các công ty niêm yết được tiến hành bởi Uỷ ban kiểm tra quốc gia về hoạt động kiểm toán trực thuộc CNCC. Đối với các công ty niêm yết, việc kiểm tra của CENA thường được thực hiện trong các chương trình kết hợp với Uỷ ban Chứng khoán. CENA chịu trách nhiệm kiểm soát tuân thủ đạo đức nghề nghiệp cùng với việc kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán.
Như vậy, dù theo mô hình nào, Việt Nam cũng cần thiết lập Uỷ ban giám sát chất lượng kiểm toán đối với các công ty kiểm toán cho những công ty niêm yết. Uỷ ban này phải liên kết với Uỷ ban Chứng khoán và thực hiện theo chương trình kiểm tra kết hợp giữa Hội nghề nghiệp và Uỷ ban Chứng khoán đối với các cuộc kiểm toán cho những công ty niêm yết.
Việc giám sát tuân thủ đạo đức nghề nghiệp tại Việt Nam nên được thực hiện đồng thời khi thực hiện kiểm soát từ bên ngoài đối với chất lượng hoạt động kiểm toán và được tiến hành như sau:
Đối với các công ty kiểm toán cho các công ty không niêm yết, cần có sự kiểm tra hoạt động kiểm toán đều đặn theo định kỳ ít nhất 3 năm một lần. Việc kiểm tra này chủ yếu sẽ do hội nghề nghiệp thực hiện nhưng do Bộ Tài chính phê chuẩn danh sách công ty được kiểm tra cũng như thành viên ban kiểm tra.
Đối với các công ty kiểm toán thực hiện kiểm toán cho các công ty niêm yết, cần có sự kiểm tra đều đặn theo định kỳ 3 năm 1 lần bởi một Uỷ ban có thành phần gồm đại diện của Hội nghề nghiệp và Uỷ ban chứng khoán theo quyết định của Bộ Tài chính.
Tuy nhiên, để thực hiện các chức năng này, cần kiền toàn tổ chức nghề nghiệp về kế toán và kiểm toán.
Để có thể giám sát việc tuân thủ đạo đức và xét xử kỷ luật về các vi phạm của KTV và công ty kiểm toán, Hội nghề nghiệp cần thực hiện các vấn đề sau:
Nghiên cứu để hoàn thiện cơ cấu tổ chức của hội nghề nghiệp, sao cho Hội phải là một tổ chức nghề nghiệp tự quản và độc lập.
Cần thành lập các Uỷ ban phụ trách những lĩnh vực hoạt động khác nhau, như là Uỷ ban Đạo đức nghề nghiệp, Uỷ ban Đào tạo, Uỷ ban Kiểm soát chất lượng, Uỷ ban Giám sát chất lượng kiểm toán đối với các công ty kiểm toán cho những công ty niêm yết, Uỷ ban Kỷ luật.
Hội cần phải có những nhân viên có chuyên môn nghiệp vụ đã có chứng chỉ KTV, chứng chỉ hành nghề kế toán có kinh nghiệm thực tế trong hoạt động dịch vụ kế toán, kiểm toán và có tâm huyết cho sự phát triển nghề nghiệp.
Trong tương lai, Hội nghề nghiệp cần được đóng vai trò chủ đạo trong việc thiết lập và ban hành các quy định đạo đức nghề nghiệp, trong việc giám sát tuân thủ đạo đức nghề nghiệp vì vấn đề này nên thuộc về nghề nghiệp chứ không phải là vấn đề của pháp luật.
Tuy vậy, cần phải thấy rằng, yêu cầu phải áp dụng đầy đủ nội dung của chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, cũng như tăng cường giám sát sự tuân thủ đạo đức nghề nghiệp sẽ dẫn đến sự sắp xếp lại thị trường kiểm toán. Lịch sử phát triển nghề nghiệp trên thế giới đã chứng minh điều này. Các công ty kiểm toán nhỏ sẽ phải liên minh để có thể trợ giúp chuyên môn cho nhau nhằm đảm bảo tuân thủ các quy định về đạo đức nghề nghiệp và nâng cao chất lượng kiểm toán. Việc sáp nhập hay biến mất của các công ty kiểm toán nhỏ xét trên góc độ từng công ty kiểm toán là bấtlợi, nhưng trên góc độ toàn nền kinh tế, làm lành mạnh hoá thị trường kiểm toán, mang lại nhiều lợi ích chung. Đó cũng là xu thế chung của quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế.
KẾT LUẬN
Kiểm toán độc lập là nhu cầu có tính khách quan của nền kinh tế thị trường. Nhưng để cung cấp được những dịch vụ có chất lượng cao, để kết quả của kiểm toán được sử dụng có hiệu quả, vấn đề đặc biệt quan trọng là phải kiểm soát được chất lượng hoạt động của các công ty kiểm toán.
“Kiểm soát chất lượng kiểm tóan độc lập Việt Nam” là đề tài nghiên cứu khoa học có ý nghĩa quan trọng tới hoạt động kiểm toán độc lập ở nước ta. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, kiểm toán độc lập đang rất phát triển, chất lượng kiểm toán đang nâng cao dần làm cho đề tài có ý nghĩa sâu sắc hơn.
Với phạm vi nghiên cứu chủ yếu là dịch vụ kiểm toán báo cáo tài chính do các công ty kiểm toán độc lập thực hiện; bằng những phương pháp nghiên cứu khảo sát, biện chứng, phân tích và tổng hợpđề tài đã tập chung nghiên cứu khái quát hoá và làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập Việt Nam. Những kết quả nghiên cứu đánh giá thực trạng ở Việt Nam và những bài học có được từ phân tích các vấn đề kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán là những căn cứ quan trọng và có tính thuyết phục để xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát cũng như nâng cao chất lượng kiểm toán độc lập Việt Nam.
Trên cơ sở phân tích lý luận về chất lượng kiểm toán độc lập Việt Nam, công trình nghiên cứu đã thực hiện được một số nhiệm vụ sau:
Phân tích được thực trạng chất lượng kiểm toán độc lập Việt Nam qua đó thấy mặt được và chưa được.
Phân tích hệ thống kiểm soát chất lượng kiểm toán Việt Nam nhằm đề ra phương hướng quản lý hiệu quả hơn.
Đưa ra được phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán độc lập Việt Nam.
Trên đây là những kết quả nghiên cứu cơ bản của đề tài. Tuy nhiên, đây là một đề tài rộng trong khi việc nghiên cứu bị hạn chế rât nhiều về thời gian, nguồn số liệu, và khả năng kiến thức còn có hạnnên công trình này không thể tránh khỏi những thiếu sót.Em rất mong nhận được sự phê bình, đóng góp của các thầy cô để bài nghiên cứu của em sẽ hoàn thiện và có giá trị thiết thực hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn TS. Phan Trung Kiên đã tận tình giúp đỡ hướng dãn em để em hoàn thành được bài viết này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
GS-TS. Nguyễn Quang Quynh, Lý thuyết Kiểm toán , NXB Tài chính 2005.
GS-TS. Nguyễn Quang Quynh - PGS-TS Ngô Trí Tuệ, Giáo trình Kiểm toán Tài chính, NXB Đại học Kinh tế quốc dân 2006.
Nguyễn Thu An, Đường vào nghề Kiểm toán, NXB Trẻ.
(Diễn đàn kiểm toán viên)
(Bộ Tài chính Việt Nam)
http:// www.vnexpress.net (Tin tức Việt Nam)
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6215.doc