Hoạt động kiểm toán nói chung và các kiểm toán viên nói riêng ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Tuy mới chỉ ở những bước đi ban đầu song trong 15 năm qua, hoạt động kiểm toán cùng với đội ngũ kiểm toán viên ở Việt Nam đã liên tục có những bước phát triển đáng mừng, góp phần vào việc lành mạnh hóa đời sống kinh tế, nâng cao tính minh bạch trong hoạt động kinh doanh.
Chính vì vậy, việc không ngừng hoàn thiện để có thể nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán và đội ngũ kiểm toán viên, để nó ngày càng phát huy được chức năng của mình nhất là trong giai đoạn đất nước ta đang tiến hành việc Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đát nước và hội nhập kinh tế thế giới là một yêu cầu tất yếu.
Chỉ qua một thời gian ngắn nghiên cứu, chúng em đã cố gắng đi sâu tìm hiểu về Kiểm toán viên và Đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam. Với những kiến thức đã học được tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân, kết hợp với những hiểu biết về thực tế ít ỏi, chúng em đã mạnh dạn nêu lên một số nhận xét, đề xuất nhằm đóng góp một phần nhỏ vào việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của công tác đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam. Song, do lượng kiến thức còn hạn chế và thời gian nghiên cứu không được nhiều nên Công trình nghiên cứu khoa học của chúng em không thể tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Chính vì vậy, em rất mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo của các thầy cô giáo để Công trình được hoàn thiện và sát hơn với thực tế.
53 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1583 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kiểm toán viên và Đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kế toán.
4.2.2. Các yêu cầu đối với phần mềm kế toán
Một khi phần mềm kế toán được lựa chọn thì nó phải đạt được những yêu cầu nhất định. Các nhà quản lý cần phải xây dựng hàng loạt các tiêu chí cấn đạt tới để sao cho sự ứng dụng của phần mềm phải hữu dụng cho nhiều bên liên quan. Các yếu tố cơ bản cần đạt tới đối với một phần mềm thông thường bao gồm:
- Báo cáo kế toán và báo cáo quản trị.
- Linh hoạt và dễ thích ứng.
- Khả năng kết hợp với các hệ thống khác.
- Dễ sử dụng.
- Yêu cầu về tính kịp thời.
- Truy cập dữ liệu: Dữ liệu có thể được kiểm soát và truy cập theo yêu cầu một cách đơn giản và thuận tiện.
- Khả năng cập nhật và mở rộng.
- Dữ liệu phải trung thực và đáng tin cậy.
- Giảm thiểu chi phí.
4.2.3. Khả năng kiểm toán đối với phần mềm kế toán
KTV cần phải cân nhắc xem phần mềm đó có cho phép KTV kiểm tra tính tin cậy của nó hay không. Cụ thể, KTV có khả năng kiểm tra một nghiệp vụ từ khi phát sinh cho tới khi lập báo cáo tài chính và ngược lại hay không. Phần mềm cho phép KTV đối chiếu các nghiệp vụ từ các Sổ cái, Sổ tổng hợp tới các Sổ chi tiết và các Nhật ký hoặc từ các Nhật ký tới các chứng từ gốc hay không…
4.2.4. Các hoạt động KSNB đối với phần mềm
KTV phải có hiểu biết về các hoạt động KSNB đối với phần mềm, chẳng hạn như việc sử dụng mật khẩu như thế nào. Mật khẩu riêng cho từng người sẽ tốt hơn so với mật khẩu chung. Hơn nữa, mật khẩu phải khó có thể đoán ra. Các hoạt động KSNB đối với dữ liệu đầu và hợp lý có thể phát hiện ra các sai sót của dữ liệu nhập. Ví dụ: có thể đặt ra việc kiểm soát mã số, kiểm soát số thập phân… Các hoạt động KSNB trong khi xử lý cũng có thể được thiết lập nhằm hướng dẫn người sử dụng trong việc ứng dụng đúng trình tự của hoạt động. Hay việc in ra các bản in trong quá trình xử lý để kiểm tra cũng là một hoạt động kiểm soát tốt. Rất nhiều các hoạt động kiểm soát khác như kiểm soát đầu ram kiểm soát về sự thay đổi đối với các tài khoản không có nghiệp vụ nào hoặc rất ít nghiệp vụ phát sinh, hoặc việc lưu trữ các bản sao trên đĩa mềm đều phải được xem xét kỹ lưỡng.
Internet kể từ khi xuất hiện đã làm các hoạt động kinh doanh chuyển dịch nhanh chóng từ cách thức hoạt động truyền thống sang cách thức hoạt động mới. Internet có thể là phương tiện trung gian nhằm cung cấp những thông tin trong hoạt động thương mại, truyền tải và các bản báo cáo và tài liệu, cũng như việc thiết kế các sản phẩm, dịch vụ trực tiếp trên mạng để đáp ứng các yêu cầu nhanh chóng của khách hàng đã trở nên phổ biến. Trên thực tế, các hoạt động mua bán và trao đổi thương mại trực tiếp qua mạng Internet đã trở một thách thức lớn đối với các công ty hoạt động kinh doanh thương mại theo cách truyền thống. Gần đây, có thể thấy các mặt hàng được trao đổi trên Internet đã rất thông dụng.
Để kiểm toán được hoạt động kinh doanh theo phương thức này đòi hỏi KTV am hiểu về quy trình diễn ra đối với hoạt động kinh doanh thương mại điện tử này.
Khi kiểm toán nghiệp vụ kinh doanh thương mại điện tử thì KTV thực hiện đánh giá hệ thống KSNB đối với chu trình diễn ra các nghiệp vụ; xác minh tính hiện hữu đối với khách hàng; tính hợp lệ của nghiệp vụ; và tính chính xác của các con số. Các vấn đề cần quan tâm chủ yếu trong môi trường điện tử là các hoạt động kiểm soát tín dụng, kiểm soát thanh toán và tính an toàn.
Mặc dù có rất nhiều ưu thế song thương mại điện tử cũng tồn tại không ít rủi ro tiềm tàng. Những rủi ro chủ yếu liên quan tới thương mại điện tử có thể bao gồm:
- Khi mà các thông tin và dữ liệu về sản phẩm, dịch vụ và hàng hoá liên quan được cập nhật và thay đổi thì các thủ tục kiểm soát thông thường có thể trở nên lạc hậu và không thể kiểm soát nổi. Do vậy các thủ tục kiểm soát luôn luôn phải được cập nhật và thực hiện.
- Các thông tin về khách hàng cũng như dữ liệu cần phải được bảo đảm sử dụng đúng mục đích, phù hợp với quy định của pháp luật. Nhiều khi các thông tin về khách hàng bị lạm dụng cho công việc marketing hoặc các hoạt động thị trường khác…
- Hệ thống hỗ trợ như chỉ dẫn, mật khẩu, địa chỉ… hoặc hệ thống giam sát có thể cũng là những vấn đề dễ bị trục trặc trong khi diễn ra hoạt động thương mại điện tử.
Hiện nay, trên thực tế đã có những tổ chức cung cấp một hệ thống đặc biệt cho khách hàng trên mạng nhằm giúp các khách hàng đạt được sự bảo đảm về tính có thật và sự an toàn thông tin của thông tin về kinh doanh của công ty đó. KTV có thể là người thực hiện cuộc kiểm toán về sự tuân thủ các chỉ tiêu chuẩn cho các khách hàng của mình.
4.3. Cơ hội và thách thức của ISO
ISO là viết tắt của International Organization for Standards, bao hàm một tập hợp các tiêu chuẩn về chất lượng quản lý được ban hành bởi Tổ chức chất lượng quốc tế. Các tiêu chuẩn này xây dựng một bộ khung bao gồm những yêu cầu tối thiểu cho việc triển khai một hệ thống chất lượng được sử dụng trong những trường hợp xác định. Các tiêu chuẩn đó được chấp nhận rộng rãi trên toàn cầu và việc đạt được các tiêu chuẩn ISO là một lợi thế lớn cho các đơn vị kinh doanh vì khi đó uy tín của công ty sẽ tăng lên, hiệu quả kinh doanh của công ty cũng tăng lên và rất nhiều các ưu thế khác có thể đạt được. Hệ thống các phiên bản ISO bao gồm:
- ISO 9001: Hệ thống chất lượng - là mô hình bảo đảm chất lượng trong thiết kế, phát triển sản phẩm, lắp đặt và dịch vụ.
- ISO 9002: Hệ thống chất lượng – là mô hình bảo đảm chất lượng trong sản xuất, lắp đặt và dịch vụ.
- ISO 9003: Hệ thống chất lượng – là mô hình bảo đảm chất lượng trong kiểm định và kiểm tra sản phẩm.
- ISO 9000-1: Quản trị chất lượng và các chuẩn mực bảo đảm chất lượng – hướng dẫn lựa chọn và sử dụng.
- ISO 9000-4: Quản trị chất lượng và các yếu tố của hệ thống chất lượng – hướng dẫn.
Các công ty kiểm toán ngày càng phải am hiều và quen thuộc đối với các yêu cầu của hệ thống chất lượng. Họ có cơ hội xây dựng các thủ tục và chương trình kiểm toán của mình để đáp ứng các yêu cầu mới trong việc cung cấp các dịch vụ liên quan tới lĩnh vực này. Đã có nhiều công ty kiểm toán lớn được quyền cung cấp chứng chie ISO hoặc thực hiện dịch vụ thẩm định các chuẩn mực cho khách hàng cũng như tư vấn cho khách hàng trong quá trình triển khai hệ thống quản trị chất lượng. Không còn lý do gì để nghi ngờ nữa, kiểm toán ngày càng trở nên quan trọng trong việc triển khai và ứng dụng hữu hiệu hệ thống chất lượng. Nó không chỉ khẳng định sự tuân thủ của tổ chức đối với quy trình, các tiêu chuẩn đã được thiết lập mà nó còn giúp tổ chức liên tục nâng cao, sáng tạo và nhanh chóng trong quá trình thực hiện hệ thống đó.
4.4. Thách thức từ kiểm toán môi trường
Vấn đề môi trường đang là vấn đề nhức nhối nhất trên phạm vi toàn cầu. Các tổ chức kinh doanh hiện nay phải đối mặt với việc xử lý các vấn đề ô nhiễm mối trường, ứng dụng công nghệ sạch, công nghệ khép kín… để thoả mãn các yêu cầu của Luật bảo vệ môi trường. Khi mà công chúng ngày càng nhận thức tầm quan trọng của môi trường thì việc các công ty áp dụng các hình thức để chứng tỏ mình là những người tuân thủ Luật bảo vệ môi trường. áp dụng công nghệ sạch có ý nghĩa rất quan trọng, nó sẽ giúp cho công ty tạo được một hình ảnh đẹp trong tâm trí công chúng và uy tín của công ty sẽ tăng lên. Chính vì vậy các cuộc kiểm toán về môi trường ngày càng trở nên phổ biến hơn. Các cuộc kiểm toán về môi trường có thể hướng vào việc kiểm tra nhiều mảng liên quan tới môi trường chẳng hạn như kiểm toán tuân thủ Luật bảo vệ môi trường, kiểm toán hệ thống quản trị môi trường, kiểm toán chất thải hay kiểm toán về an toàn sức khỏe cho người lao động…
Khi kiểm toán về lĩnh vực này, KTV cần tìm hiểu những chuẩn mực trong lĩnh vực quản lý môi trường. Để hình thành một hệ thống tiêu chuẩn nhằm đánh giá được vấn đề này, Tổ chức Chất lượng Quốc tế đã ban hành hàng loạt các phiên bản ISO 14000:
- ISO 14011-2: Hướng dẫn cho cuộc kiểm toán môi trường – các thủ tục kiểm toán. Trong đó KTV cần đặc biệt quan tâm đến:
+ Phần I : kiểm toán hệ thống quản trị môi trường.
+ Phần II: kiểm toán tuân thủ.
- ISO 14011-3: Hướng dẫn cho cuộc kiểm toán môi trường – các thủ tục kiểm toán với Phần III: kiểm toán báo cáo về môi trường.
Một cuộc kiểm toán về môi trường là nhằm xác định xem hệ thống quản trị môi trường của đơn vị được kiểm toán có tuân thủ các yêu cầu của ISO hay không, và nó có được thực hiện, duy trì một cách hợp lý hay không. Sự xuất hiện của kiểm toán môi trường tạo ra một dịch vụ mới trong hoạt động dịch vụ kiểm toán.
II. Khái quát chung về thực trạng đào tạo tại việt nam
1. Sự cần thiết phải đào tạo và cấp chứng chỉ đào tạo kiểm toán tại Việt Nam.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, cùng với chính sách khuyến khích đầu tư, đã phát sinh hàng loạt nhu cầu được cung cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán trong mọi lĩnh vực. Đến 31/10/2005, sau hơn 14 năm hình thành và phát triển, ở Việt Nam đã có 84 công ty dịch vụ kế toán và kiểm toán thuộc các thành phần kinh tế với hơn 100 văn phòng tại các địa phương. Theo hình thức sở hữu, các công ty dịch vụ kế toán và kiểm toán hoạt động ở Việt Nam, gồm: 3 công ty Nhà nước, 4 công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài, 14 công ty cổ phần, 51 công ty TNHH và 12 công ty hợp danh. Tổng số người làm trong các công ty kế toán và kiểm toán lên tới trên 5.000 người. Với số lượng công ty dịch vụ kế toán và kiểm toán tăng lên khá nhanh cũng như lực lượng làm dịch vụ kế toán, kiểm toán tăng lên khá lớn, việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng hành nghề kế toán, kiểm toán cũng như cấp chứng chỉ hành nghề kế toán, kiểm toán là công việc hết sức cần thiết và cấp bách.
Đặc biệt, trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, tiến trình mở cửa nền kinh tế của Việt Nam cũng cho thấy quá trình tự do hoá không chỉ dừng lại ở các quan hệ giao dịch thương mại hàng hoá mà còn mở rộng đối với các quan hệ cung cấp dịch vụ. Trong Hiệp định thương mại Việt – Mỹ, Việt Nam đã cam kết mở cửa 55 trong tổng số 155 phân ngành khác nhau (trong đó có dịch vụ kế toán, kiểm toán) trên cơ sở hiệp định vể dịch vụ của WTO. Quá trình hội nhập kế toán, kiểm toán tạo nên cơ hội lớn cho ngành kế toán và kiểm toán Việt Nam, đồng thời cũng đặt ra những thách thức đòi hỏi phải có giải pháp hữu hiệu để vượt qua và phát triển. Nền kinh tế thị trường toàn cầu hoá đòi hỏi và chỉ chấp nhận các dịch vụ kế toán, kiểm toán hoàn hảo có chất lượng cao, được cung cấp bởi các chuyên gia có đủ trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, bản lĩnh và có đạo đức nghề nghiệp. Chính vì vậy, việc đào tạo bồi dưỡng đội ngũ kế toán và kiểm toán nói chung và đào tạo kiểm toán viên có chất lượng cao nói riêng tại Việt Nam có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình quốc tế hoá đội ngũ chuyên môn và góp phần thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của các nước trong khu vực.
2. Phân loại đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam.
Kiểm toán được xem như hoạt động nghề nghiệp trong xã hội, đồng thời cũng được xem như môn khoa học nghiên cứu trong khối ngành kinh tế và quản trị kinh doanh. Theo đó, đào tạo kiểm toán có thể được phân chia thành hai hướng cơ bản sau đây:
Đào tạo nghề nghiệp lấy chứng chỉ nghề nghiệp.
Đào tạo lấy bằng cấp / học vị.
Bên cạnh những loại hình đào tạo cơ bản nêu trên, một xu hướng đang phát triển trong lĩnh vực đào tạo kế toán và kiểm toán là đào tạo hỗn hợp (theo hướng liên thông hoặc tích hợp các chương trình đào tạo) thể hiện sự hội tụ cao giữa đào tạo học vị và đào tạo nghề nghiệp.
Đào tạo học vị về kiểm toán do các trường Đại học, viện nghiên cứu thực hiện với các cấp học cử nhân, thạc sĩ (nghiên cứu hoặc thực hành) và tiến sĩ. Có rất nhiều trường Đại học trên thế giới thực hiện đào tạo kiểm toán theo mô hình kết hợp kế toán viên công chứng và kiểm soát quản lý. ở Việt Nam, hiện nay có 45 trường đại học có đào tạo chuyên ngành kế toán, kiểm toán, với số lượng tuyển sinh cho năm 2005 không dưới 6.000 sinh viên với các trường lớn như : Học viện tài chính, Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, Đại học Kinh tế TPHCM.. Số lượng sinh viên các chuyên ngành kế toán và kiểm toán sau khi ra trường đã bước đầu phát huy tác dụng và bổ sung đáng kể vào nguồn nhân lực cho các đơn vị và các tổ chức cung cấp dịch vụ kế toán và kiểm toán ở Việt Nam. ước tính theo Bộ Giáo dục và đào tạo (2005), Những điều cần biết về tuyển sinh đại học năm 2005.
Đào tạo nghề nghiệp về kiểm toán thường do các công ty kế toán và kiểm toán hay hiệp hội nghề nghiệp thực hiện với các cấp độ đào tạo khác nhau như đào tạo trên công việc, bồi dưỡng các khoá ngắn hạn theo các chuyên đề khác nhau do bộ phận chuyên trách (bộ phận đào tạo) của các công ty kế toán và kiểm toán thực hiện, đào tạo nâng cao kết hợp với luân chuyển nhân viên giữa các quốc gia trong các công ty lớn (Big four), đào tạo lấy chứng chỉ nghề nghiệp. Phần lớn các ấn phẩm được phát hành, về kế toán và kiểm toán là những quy định, những chuẩn mực, những hướng dẫn về nghiệp vụ.
Loại hình đào tạo quan trọng nhất trong các hình thức đào tạo nghề nghiệp là đào tạo lấy chứng chỉ nghề nghiệp. Hình thức đào tạo này thường do hiệp hội nghề nghiệp hoặc các tổ chức uỷ quyền thực hiện như đào tạo lấy chứng chỉ hội viên của Hội kế toán viên Công chứng Vương quốc Anh ACCA, chứng chỉ kiểm toán viên độc lập của Hoa Kỳ CPA, chứng chỉ CA và CPA của Australia…
Đào tạo về kiểm toán theo hình thức hỗn hợp thường thấy ở các nước mà các trường đại học và các hiệp hội nghề nghiệp công nhận chương trình đào tạo lẫn nhau. Có nhiều ví dụ trên thế giới cho thấy xu hướng đào tạo hỗn hợp này đang phát triển theo hai phương án: tích hợp và liên thông.
Theo hướng đào tạo tích hợp: Trường đại học và hội nghề nghiệp cùng thiết kế chương trình đào tạo tích hợp, để khi kết thúc khoá học, sinh viên đại học hoặc học viên cao học ra trường được nhận bằng đại học (hoặc bằng thạc sĩ) cùng với chứng chỉ nghề nghiệp CA hoặc CPA.
Theo hướng đào tạo liên thông: Người có bằng đại học có thể học trong thời gian ngắn để lấy chứng chỉ nghề nghiệp và ngược lại. Tại Châu Âu, Bắc Mỹ và nhiều nước khác nhau trên thế giới, người có bằng đại học hoặc thạc sĩ chuyên ngành kế toán kiểm toán được miễn trừ khá nhiều môn khi thi lấy chứng chỉ nghề nghiệp kiểm toán. ở Việt Nam, chương trình đào tạo bậc cử nhân đại học cho sinh viên Khoa kế toán Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội được Hội Kế toán viên Công chứng Vương quốc Anh ACCA công nhận và theo đó sinh viên được miễn thi 05 môn khi học chương trình ACCA tại Trường để thi lấy chứng chỉ ACCA.
Như vậy các loại hình đào tạo về kế toán và kiểm toán ở Việt Nam đã được thiết kế và vận hành theo kinh nghiệm quốc tế, phù hợp với điều kiện Việt Nam. Sản phẩm đầu ra của các loại hình này đã từng bước đáp ứng được nhu cầu về nguồn nhân lực cho các công ty kiểm toán độc lập, Cơ quan kiểm toán Nhà nước, các bộ phận kiểm soát, kế toán và kiểm toán nội bộ các Tổng Công ty, các đơn vị và tổ chức nhà nước và các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
3. Thực trạng các quy định pháp lý liên quan đến đào tạo kiểm toán tại Việt Nam.
Nghị định số 07/CP ngày 29/01/1994 của Chính phủ ban hành Quy chế về kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân đã tạo ra một hành lang pháp lý quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển hành nghề kế toán, kiểm toán nói chung cũng như kiểm toán nói riêng ở Việt Nam trong những năm đầu tiên. Nghị định này đã quy định khả năng và phạm vi cung cấp về dịch vụ kế toán, kiểm toán đối với các đơn vị, tổ chức dịch vụ kế toán, kiểm toán bên cạnh đó các văn bản pháp luật khác như Luật đầu tư nước ngoài, Luật Ngân hàng và các tổ chức tín dụng, Luật Bảo hiểm, Nghị định về cổ phần hoá doanh nghiệp đã quy định các doanh nghiệp, tổ chức trong nền kinh tế quốc dân phải được kiểm toán báo cáo tài chính đã tạo ra một lượng cầu ban đầu tăng dần đối với hoạt động dịch vụ kế toán, và kiểm toán.
Hoạt động dịch vụ kế toán, kiểm toán đã khẳng định rõ sự cần thiết và vai trò của nó trong nền kinh tế trong giai đoạn đổi mới và hội nhập. Để hoàn thiện các khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của các công ty dịch vụ kế toán, kiểm toán, Nhà nước đã tiếp tục ban hành các văn bản hướng dẫn: nghiệp vụ hành nghề kiểm toán, hệ thống chuẩn mực kế toán, kiểm toán Việt Nam…
Luật Kế toán được quốc tế thông qua năm 2003 đã khẳng định vị thế nghề nghiệp và tạo nền tảng pháp lý cho sự phát triển của hành nghề kế toán và kiểm toán, với việc quy định báo cáo tài chính của các doanh nghiệp phải được kiểm toán trước khi nộp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và trước khi công khai. Ngày 30/03/2004 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 105/2004/NĐ-CP về Kiểm toán độc lập thay thế cho Nghị định 07/CP. Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 64/2004/TT-Bộ Tài Chính ngày 29/06/2004 để hướng dẫn Nghị định này.
Nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và cấp chứng chỉ hành nghề kế toán và kiểm toán, ngày 09/07/2004 Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ký ban hành Quy chế thi tuyển và cấp chứng chỉ kiểm toán viên và chứng chỉ hành nghề kế toán kèm theo Quyết định 59/2004/QĐ- BTC.
4. Các tổ chức đào tạo tại Việt Nam.
4.1. Đào tạo lấy bằng và học vị .
Nền kinh tế thị trường toàn cầu hoá đòi hỏi và chỉ chấp nhận các dịch vụ kế toán, kiểm toán hoàn hảo có chất lượng cao, được cung cấp bởi các chuyên gia có đủ trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, bản lĩnh va có đạo đức nghề nghiệp. Hiện nay tại Việt Nam, chuyên ngành kiểm toán được đào tạo chính quy tại 3 trường là: Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội, Đại học Kinh tế quốc dân Thành phố Hồ Chí Minh, và Học viện Tài chính. Để có được một đội ngũ chuyên gia kiểm toán như vậy, đào tạo trong trường Đại học là một trong những nhân tố quyết định, tạo tiền đề và nền tảng cơ bản cho đào tạo kiểm toán tại Việt Nam.
4.1.1. Về nội dung chương trình đào tạo.
Chương trình đào tạo các môn học hiện nay tại các trường đào tạo chính quy tại Việt Nam hiện nay được phân chia theo hướng đào tạo cho các doanh nghiệp nói chung, không cụ thể cho các loại hình doanh nghiệp như trước đây, để phù hợp với cơ chế thị trường. Việc thay đổi đã tạo ra sự chuyển biến tích cực đối với đầu ra của sinh viên, vì sinh viên ra trường có thể làm việc ở các doanh nghiệp thuộc mọi ngành nghề kinh doanh khác nhau, nâng cao sức cạnh tranh của sinh viên khi ra trường.
Mặt khác, sự phát triển của nền kinh tế thị trường và sự giao lưu hội nhập quốc tế theo xu thế toàn cầu hoá đòi hỏi ngôn ngữ kiểm toán cũng phải toàn cầu hoá. Xuất phát từ quan điểm đó, nội dung chương trình các môn học chuyên ngành tại các trường Đại học hiện nay cũng được trang bị kiến thức toàn diện cả về lý luận và kỹ năng thực hành, tổ chức công tác kiểm toán trong các đơn vị.
Khối kiến thức bắt buộc của ngành kiểm toán theo khung của Bộ giáo dục và đào tạo bao gồm 4 môn học :
Nguyên lý kế toán
Kế toán tài chính
Kế toán quản trị
Lý thuyết kiểm toán
Mục đích của khối kiến thức này nhằm trang bị cho người học kiến thức lý luận mang tính hệ thống để có thể hoạch định chính sách kiểm toán cho một đơn vị kế toán. Khối kiến thức bắt buộc này cũng được áp dụng cho chuyên ngành kế toán.
Khối kiến thức chuyên ngành và bổ trợ chuyên ngành đối với chuyên ngành kiểm toán hiện nay đang được trang bị như sau:
Tổ chức hạch toán kế toán
Kế toán tài chính II
Kiểm toán tài chính I, II
Kiểm toán nghiệp vụ
Phân tích kinh doanh
Phân tích báo cáo tài chính
Kế toán công
Kiểm soát quản lý
Phân tích báo cáo tài chính
Ngoài ra, sinh viên còn được trang bị kiến thức các môn học bổ trợ chuyên ngành tài chính doanh nghiệp và tài chính công.
Đặc biệt, từ 6 khoá trở lại đây, khoa Kiểm toán tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, và 2 khoá đối với Học viện tài chính, đã thử nghiệm dạy môn Kiểm toán tài chính I, II bằng ngôn ngữ Tiếng Anh. Lớp học bằng tiếng Anh được học song song với lớp chuyên ngành học bằng tiếng Việt. Sinh viên được học tại lớp này vẫn được tham dự các tiết học bằng tiếng Việt, giúp sinh viên nắm bắt kiến thức được sâu và đầy đủ. Mặt khác, sinh viên được các giảng viên trong trường và cả các kiểm toán viên có kinh nghiệm dạy và trao đổi kiến thức toàn bộ thông qua ngôn ngữ tiếng Anh. Việc học như vậy sẽ giúp cho sinh viên vừa có thể nhanh chóng sử dụng từ chuyên ngành bằng tiếng Anh, lại có thể thường xuyên giao lưu với môi trường thực tế bên ngoài, giúp sinh viên bổ xung thêm kiến thức thực tế hơn về những phần hành đã học.
4.1.2. Về hệ thống giáo trình.
Hiện nay, hầu hết các môn học được giảng dạy đều có hệ thống giáo trình, bài giảng giúp cho sinh viên nghiên cứu sâu hơn môn học. Mặc dù hệ thống giáo trình còn riêng biệt giữa các trường Đại học, nhưng nhìn chung, trên cơ sở giáo trình tại các trường, sinh viên có thể tự học, và sau đó trao đổi tại lớp các chương trình mà giáo viên không giới thiệu.
4.1.3. Về phương pháp giảng dạy.
Do thống nhất được chương trình học, nên về cơ bản, phương pháp giảng dạy, kết cấu các trình học lý thuyết và học thực hành của các môn học kiểm toán hiện nay là thống nhất và khá phù hợp với yêu cầu đặt ra. Bên cạnh đó, việc giảng dạy tại các trường Đại học nói chung, cũng như các trường Đại học có đào tạo chuyên ngành kiểm toán nói riêng, có sự thay đổi và cải tiến về mặt phương pháp. Nếu những năm trước đây, phương pháp giảng dạy nặng nề độc thoại thầy nói trò ghi và ít chú ý đến thực hành do đó hạn chế việc mở rộng vấn đề, sinh viên ít động não dẫn đến hiệu quả thu nhận kiến thức chưa cao, không có tư duy mới và thiếu hiểu biết thực tế; thì trong những năm gần đây, phương pháp dạy và học đã có sự đổi mới. Cụ thể là khi trình bày các vấn đề mang tính lý luận, giảng viên đã phân tích diễn giải cơ sở khoa học của vấn đề, gợi mở các vấn đề để sinh viên chủ động suy nghĩ. Đồng thời giảng viên nêu câu hỏi tình huống, sinh viên trả lời và ngược lại. Như vậy, với phương pháp giảng dạy mới, đã có sự chủ động của cả 2 phía giảng viên và sinh viên. Cùng với sự kết hợp giữa thuyết trình với nêu vấn đề, giảng viên còn yêu cầu sinh viên đọc tài liệu (giáo trình, tài liệu tham khảo). Công việc này giảng viên giao cho sinh viên giờ học hôm trước, sinh viên chuẩn bị, nắm bắt những cốt lõi cơ bản để giờ học hôm sau thảo luận. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên có thể kết hợp hài hoà giảng các phương tiện giảng dạy hiện đại với truyền thống. Các phương tiện giảng dạy hiện đại cũng bước đầu được áp dụng.
4.2. Đào tạo nghề nghiệp lấy chứng chỉ nghề nghiệp
4.2.1. Sự cần thiết của chứng chỉ nghề nghiệp
Chức năng của kiểm toán là đưa ý kiến độc lập của báo cáo tài chính của doanh nghiệp hoặc thực hiện các dịch vụ xác nhận (assurance service) khác. Hoạt động này có tác động sâu sắc và mạnh mẽ đến các đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán để ra quyết định, qua đó có thể ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của một số nhóm người trong cộng đồng. Do vậy, công việc kiểm toán cần những người có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp tốt, năng lực chuyên môn giỏi và kinh nghiệm kế toán, kiểm toán. Tính đến nay, Bộ tài chính đã tổ chức 11 kỳ thi và cấp chứng chỉ cho 970 người (trong đó 615 người làm việc trong các công ty kế toán kiểm toán) trên tổng số hơn 5200 người hoạt động kế toán kiểm toán chuyên nghiệp tại Việt Nam.
Hoạt động của các chuyên gia nói trên cũng cần được giám sát, kiểm tra và quản lý một cách khoa học để giảm thiểu những tổn thất do hành vi thiếu khách quan, trung thực hoặc do hạn chế về năng lực chuyên môn gây ra. Phạm vi quản lý không chỉ dừng ở việc cấp chứng chỉ và theo dõi mà còn bao gồm cả việc hỗ trợ các thành viên, kiểm tra giám sát họ, xử phạt vi phạm và thu hồi chứng chỉ hành nghề nếu cần.
4.2.2. Chứng chỉ hành nghề kiểm toán viên tại Việt Nam
Trong những năm gần đây, với sự phát triển nhanh chóng của hoạt động kế toán, kiểm toán, khái niệm “Kế toán viên công chứng” (Certified Public Accountant – CPA) đã dần trở nên phổ biến trong cộng đồng doanh nghiệp và các đối tượng khác trong xã hội. CPA là chứng nhận về năng lực chuyên môn, kỹ năng, kinh nghiệm hành nghề và đạo đức nghề nghiệp của các kế toán, kiểm toán viên chuyên nghiệp. Chứng chỉ CPA thường được các tổ chức nghề nghiệp kế toán (như CA ở Anh, AICPA ở Mỹ, CPA Australia ở úc, ICPAS ở Singapore…) cấp và quản lý sau khi tiến hành các cuộc thi sát hạch, hỗ trợ, cập nhật, giám sát và kiểm tra đối với người hành nghề kế toán, kiểm toán.
ở Việt Nam, CPA được hiểu là “Chứng chỉ kiểm toán viên” dành cho kiểm toán và ở mức ít yêu cầu hơn là “Chứng chỉ hành nghề kế toán” dành cho những người hành nghề kế toán, kiểm toán chuyên nghiệp. Bộ Tài chính là cơ quan tổ chức các kỳ thi cấp chứng chỉ CPA hàng năm kể từ năm 1996. Người có nguyện vọng lấy “Chứng chỉ kiểm toán viên” phải có đủ các điều kiện về phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, không thuộc các đối tượng không được hành nghề kế toán, hành nghề kiểm toán theo quy định của pháp luật; có bằng cử nhân kinh tế về chuyên ngành liên quan, có thời gian công tác thực tế về tài chính, kế toán, kiểm toán từ 4 – 5 năm. Người đăng ký dự thi lấy chứng chỉ kiểm toán viên phải thi đủ 8 môn:
- Pháp luật về kinh tế
- Tài chính
- Tiền tệ, tín dụng
- Kế toán
- Kiểm toán
- Phân tích hoạt động tài chính
- Tin học (trình độ B)
- Ngoại ngữ (trình độ C)
4.2.3. Các tổ chức đào tạo nghề nghiệp kiểm toán viên tại Việt Nam
Ngoài kỳ thi chính thức gồm 8 môn để cấp chứng chỉ kiểm toán viên, trên phương diện quản lý Nhà nước trong 3 năm gần đây mới có chương trình, kế hoạch, bồi dưỡng thường xuyên, nâng cao trình độ nghiệp vụ, kinh nghiệm nghề nghiệp cho đội ngũ kiểm toán viên từ 25 – 50 giờ /năm. Các công ty kiểm toán lớn đã tự xây dựng được các chương trình bồi dưỡng thường xuyên, cập nhật kiến thức hoặc đào tạo cơ bản ở nước ngoài. Các công ty nhỏ hoặc mới thành lập chưa có chương trình đào tạo rõ ràng và còn thiếu năng lực vật chất, khả năng đào tạo nâng cao cũng còn yếu đối với hầu hết các công ty của Việt Nam. Có thể khái quát sơ qua các tổ chức đào tạo nghề nghiệp chính ở Việt Nam như sau:
4.2.3.1. Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam (VAA)
Bất kỳ một Hiệp hội nghề nghiệp nào, muốn tồn tại và phát triển cũng luôn nhắm vào tôn chỉ và mục đích là tập hợp đông đảo đội ngũ thành viên trong nghề, duy trì và phát triển chuyên môn, giữ gìn và tôn vinh các phẩm chất đạo đức nghề nghiệp. VAA cũng thế, hơn 10 năm hình thành và phát triển, VAA đã đạt được những thành quả cơ bản đặc biệt trong lĩnh vực đào tạo.
Công tác đào tạo của VAA được hình thành từ hai nguồn thị phần quan trọng là:
a) Từ chương trình bồi dưỡng KTT, luyện thi kiểm toán viên và hành nghề kiểm toán.
b) Từ nhu cầu thực tế các doanh nghiệp và đơn vị kế toán trên thị trường.
Từ lâu, phần lớn kế toán các doanh nghiệp Việt Nam thường tiếp nhận hướng dẫn nghiệp vụ trực tiếp từ cán bộ quản lý Nhà nước. Tuy nhiên gần đây, theo xu thế hội nhập quốc tế, họ chuyển sang tiếp nhận các dịch vụ tư vấn và đào tạo từ các công ty kiểm toán và VAA. Thực tiễn thời gian qua cho thấy, VAA đóng vai trò không nhỏ trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho công tác tự cập nhật kiến thức, chính sách, chế độ kế toán hiện hành cho kế toán doanh nghiệp của nền kinh tế quốc dân.
Với đội ngũ giảng viên có trình độ học thuật, bề dày kinh nghiệm giảng dạy, kết hợp với chương trình đào tạo bài bản và có hệ thống, các trường Đại học và cao đẳng chuyên ngành đã đào tạo cho sinh viên kiến thức cơ bản nhưng công tác cập nhật những thay đổi về kiến thức thuộc về chính sách tài chính, chế độ kế toán, kiểm toán cho sinh viên có khó khăn do khuôn khổ chương trình đào tạo không cho phép. Vì vậy, vai trò của VAA nổi lên như một tất yếu của thị trường đào tạo trong nền kinh tế quốc dân.
Là một kênh thông tin quan trọng để tiếp nhận và phổ biến chính sách chế độ kế toán kiểm toán, VAA đã quy tụ đội ngũ chuyên gia đào tạo, hình thành những chuyên đề huấn luyện thực tiễn, súc tích và hiệu quả. Qua việc chọn lọc và chiêu tập đội ngũ cán bộ giảng viên từ các trường Đại học, các cơ quan ban ngành, và từ các công ty kiểm toán độc lập, đặt ra yêu cầu cho lực lượng này về các đơn đặt hàng giảng dạy, VAA cũng chính là cầu nối quan trọng giúp đội ngũ giảng viên tài chính kế toán, kiểm toán, thuế… nắm bắt được nhu cầu đòi hỏi của thị trường lao động, từ đó họ cũng tự điều chỉnh, hoàn thiện định hướng nghiên cứu và giảng dạy của mình.
4.2.3.2. Hội Kiểm toán viên Việt Nam
Sau một thời gian chuẩn bị, vừa qua Hội Kiểm toán viên Việt Nam (VACPA) - Tổ chức nghề nghiệp của những người thực tế đang hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ kiểm toán - đã tổ chức ra mắt, đánh dấu mốc phát triển mới của lĩnh vực kiểm toán Việt Nam. Hội ra đời sẽ giữ vai trò quan trọng trong việc quản lý, giám sát chất lượng chuyên môn và đạo đức hành nghề của kiểm toán viên. Ngoài ra, Hội sẽ xúc tiến các quan hệ hợp tác quốc tế, hỗ trợ cho cơ quan Nhà nứơc trong việc xây dựng, bổ xung, sửa đổi chính sách, chế độ tài chính, chuẩn mực kiểm toán, kế toán... VACPA là một tổ chức thành viên của Hội Kế toán – Kiểm toán Việt Nam (VAA) , hoạt động trên phạm vi cả nước, có văn phòng tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, chịu sự quản lý của Bộ Tài chính về mặt chuyên môn.
Việc thành lập và đi vào hoạt động của VACPA là kịp thời và phù hợp với nhiều cam kết giữa Chính phủ và các tổ chức quốc tế như ADB, WB, IMF, IFAC gần đây. Theo đó, Bộ Tài chính sẽ chuyển giao một số chức năng quản lý hành nghề kế toán, kiểm toán cho các tổ chức hành nghề Việt Nam. Nghề kiểm toán độc lập ở Việt Nam đã hình thành và phát triển được 15 năm. Hiện cả nước có 84 doanh nghiệp kiểm toán với trên 5000 người làm việc, cung cấp khoảng 20 loại dịch vụ cho 10000 đối tượng khách hàng. Hầu hết mọi chỉ tiêu đã tăng hơn 2 lần so với năm 2001 và tăng vượt xa dự kiến của giai đoạn 2000 – 2010.
4.2.3.3. Trung tâm Khoa học và Bồi dưỡng cán bộ Kiểm toán Nhà nước (gọi tắt là Trung tâm khoa học):
Đây là đơn vị trực thuộc Kiểm toán Nhà nước có chức năng giúp Tổng Kiểm toán Nhà nước quản lý và tổ chức công tác nghiên cứu khoa học trong toàn ngành; tổ chức thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Trung tâm Khoa học là đơn vị hoạt động sự nghiệp có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng, được mở tài khoản tại Ngân hàng và Kho bạc Nhà nước. Trung tâm Khoa học được Kiểm toán Nhà nước cấp kinh phí hoạt động hàng năm theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước và các nguồn kinh phí khác theo quy định của pháp luật.
Đứng đầu Trung tâm Khoa học là Giám đốc trung tâm. Giúp việc cho Giám đốc có các phó giám đốc, Giám đốc và Phó Giám đốc đều do Tổng kiểm toán Nhà nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Giám đốc chịu trách nhiệm trước Tổng kiểm toán Nhà nước về hoạt động của Trung tâm, phó Giám đốc chịu trách nhiệm trước Giám đốc về nhiệm vụ được phân công.
Trong công tác đào tạo, Trung tâm có các nhiệm vụ sau:
- Tham gia xây dựng chương trình, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hàng năm và dài hạn của Kiểm toán Nhà nước.
- Triển khai thực hiện chương trình, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức do Tổng kiểm toán Nhà nước phê duyệt.
- Tổ chức biên soạn giáo trình, sách giáo khoa, tài liệu giảng dạy.
- Trực tiếp đảm nhận một phần khối lượng giảng dạy cho các lớp học của Kiểm toán Nhà nước.
- Tổ chức các lớp bồi dưỡng để thi tuyển, thi nâng ngạch theo quy định của pháp luật và của Tổng Kiểm toán Nhà nước.
- Tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ kiểm toán cho các tổ chức và cá nhân có nhu cầu.
- Phối hợp với văn phòng kiểm toán Nhà nước và Vụ tổ chức cán bộ để đảm bảo các điều kiện và cơ sở vật chất khi thực hiện nhiệm vụ bồi dưỡng cán bộ kiểm toán Nhà nước.
- Chịu trách nhiệm tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ về hợp tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ và nghiên cứu khoa học với các tổ chức quốc tế và nước ngoài theo quy định của pháp luật và của Tổng kiểm toán Nhà nước.
4.2.3.4. Hiệp hội kế toán viên công chứng Hoàng gia Anh (ACCA)
ACCA là tên viết tắt của Hiệp hội kế toán viên công chứng của Hoàng gia Anh. Đây là hiệp hội của các kế toán, kiểm toán, những người hoạch định tài chính rất có uy tín trên thế giới hiện nay. Được thành lập từ năm 1904 với hơn 345.000 học viên và hội viên tại 160 nước, ACCA chủ yếu tổ chức các kỳ thi quốc tế cấp bằng chuyên môn về kế toán, tài chính.
ACCA cấp bằng, chứng chỉ sau khi thí sinh đã vượt qua các kỳ thi về kiểm toán, kế toán. Bằng, chứng chỉ của Hiệp hội được chia làm các loại khác nhau:
Loại ACCA – CAT: là chứng chỉ “kế toán viên được xác nhận” ở mức thấp hơn kế toán, chủ yếu làm các công việc đơn giản hơn của một kế toán thông thường, công việc chính là ghi chép các thông tin kế toán để từ đó, kế toán tổng hợp và làm báo cáo.
Loại ACCA – Professional: thường được gọi tắt là ACCA. Đây là bằng “kế toán kiểm chứng” và được cấp bởi Hiệp hội kế toán Hoàng gia Anh. Những người đã học xong ACCA có đủ điều kiện đề làm việc trong ngành kế toán, kiểm toán và có được kiến thức kế toán ở mức độ cao nhất.
Loại Dip FM: là chứng chỉ về quản lý tài chính, dành cho những nhà quản lý nhưng chưa có nhiều kiến thức về kế toán cũng như quản lý tài chính ở doanh nghiệp. Tuy nhiên, đây chỉ là một khoá học ngắn hạn, chỉ trong một năm để giúp nhà quản lý có được những kiến thức cơ bản nhất.
ACCA tổ chức các kỳ thi để đánh giá trình độ của các thành viên và khi đã vượt qua được các kỳ thi thì sinh viên của ACCA mới được cấp chứng chỉ. Tuy nhiên, ACCA không cung cấp các khoá học về kế toán phục vụ cho các kỳ thi mà chỉ làm việc theo nguyên tắc “hợp tác” với các trường Đại học, Cao đẳng để cấp chứng chỉ ACCA. Học viên có thể học ở bất cứ trường nào họ muốn, miễn là họ đăng ký với ACCA để làm thành viên, được phép tham gia các kỳ thi do ACCA tổ chức và có kết quả ở mức độ ít nhất là qua thì sẽ được cấp bằng, chứng chỉ. Các kỳ thi này được tổ chức 2 lần trong năm.
Là tổ chức ra đề thi và cấp bằng chứng nhận, ACCA không tham gia vào việc giảng dạy để đảm bảo tính khách quan cho tất cả các thí sinh. Tuy nhiên, ACCA hỗ trợ học viên trong việc tìm những trung tâm giảng dạy phù hợp thông qua một chương trình đăng ký chất lượng giảng dạy (gọi tắt là UCRS). Những trung tâm đăng ký trong chương trình này phải đạt được những yêu cầu tối thiểu của ACCA về chất lượng giảng dạy và những hỗ trợ cần có cho học viên.
Hiện nay tại Việt Nam có bốn trung tâm có tên trong chương trình UCRS nêu trên. Đó là:
FTMS – FTMS Training Systems (Vietnam) Limited.
2. International Auditing and Financial Consulting Company Ltd.
3. PACE Vietnam.
4. Singapore Raffles Education Centre Ltd.
Ngoài việc học tại các trung tâm luyện thi, học viên cũng có thể ôn luyện, tự học qua mạng hoặc hàm thụ từ xa.
Tháng 5/2001, ACCA đã cấp chứng chỉ ACCA cho 9 người Việt Nam đầu tiên đã tốt nghiệp, đến nay Việt Nam đã có 106 người có chứng chỉ ACCA. Chương trình này sẽ được tiếp tục bên cạnh một chương trình mới với sự hợp tác của Bộ tài chính Việt Nam. Đó là từ năm 2006, Bộ tài chính và ACCA sẽ tổ chức các kỳ thi phối hợp, tức là thi theo chương trình và tiêu chuẩn của ACCA nhưng nội dung lại theo Luật của Việt Nam trong 2 môn thi là Thuế và Luật Doanh nghiệp. Như vậy, người Việt Nam nào đạt kết quả kỳ thi này thì sẽ được miễn các môn thi tương ứng trong kỳ thi của Việt Nam. Họ sẽ được cấp hầu như vừa chứng chỉ ACCA vừa chứng chỉ kiểm toán viên của Việt Nam.
4.2.3.5. Một số trung tâm đào tạo nước ngoài khác
Đối với người nước ngoài đang hành nghề kiểm toán ở Việt Nam, một số người chưa có chứng chỉ kiểm toán viên, hoặc những người đã có thì rất nhiều loại chứng chỉ khác nhau, do nhiều tổ chức khác nhau cấp. Có loại do các tổ chức nghề nghiệp là thành viên của IFAC cấp (như Viện kế toán viên công chứng Philippines, Hiệp hội kế toán viên công chứng Hàn quốc…) Song cũng có nhiều loại chứng chỉ không do các tổ chức thành viên IFAC cấp (như: Bộ tư pháp Luxembourg, Uỷ ban giám quản hành nghề chuyên nghiệp Manila, Philippines..) Do đó, trình độ và kinh nghiệm của kiểm toán viên người nước ngoài khi vào Việt nam, trong bối cảnh hành nghề còn thiếu, đã chưa hoàn toàn phát huy được khả năng của họ, hoặc chưa thật phù hợp với môi trường Việt Nam.
Chương III.
Nhận xét và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng
đào tạo kiểm toán viên tại Việt nam
I. Một số vấn đề còn tồn tại trong đào tạo kiểm toán viên tại việt Nam
1.1. Trong đào tạo lấy bằng - học vị
Ngoài những kết quả đã đạt được trong việc đổi mới nội dung chương trình, giáo trình và phương pháp giảng dạy cho phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế, hiện nay việc đào tạo các trường đại học và cao đẳng vẫn còn hạn chế và tồn tại trong từng khâu công việc như sau:
Chương trình khung đào tạo ngành kế toán, kiểm toán đã được đào tạo và ban hành xong chưa được thử nghiệm trong thực tế. Việc áp dụng để cụ thể hoá chương trình đào tạo còn có sự lúng túng nhất là đối với các chương trình song ngành (kế toán, kiểm toán). Việc kiểm tra thực hiện chương trình còn hạn chế.
Hiện nay khoa kế toán, kiểm toán tại các trường có xu hướng là chương trình, nội dung giảng dạy các môn học chuyên ngành kế toán, kiểm toán chạy theo các quy định, các chuẩn mực ban hành của Nhà nước. Mỗi khi Bộ ban hành thêm các Chuẩn mực thì nội dung các môn học kế toán, tài chính phải điều chỉnh và sửa đổi. Vấn đề vận dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế vào nội dung, chương trình các môn học còn hạn chế.
Mặc dù phương pháp giảng dạy đã có những cải tiến phù hợp tuy nhiên quá trình giảng dạy còn ít chú ý đến thực hành, nhất là thực hành trong các phòng thực hành kế toán.
Do có những hạn chế nhất định về nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy nên thực tế cho thấy những sinh viên sau khi tốt nghiệp thì kỹ năng thực hành, kỹ năng vận dụng và sự am hiểu các vấn đề thực tế thuộc nghiệp vụ chuyên môn chưa thật tốt, kỹ năng giao tiếp (viết và nói), kỹ năng phân tích và giải quyết vấn đề chưa được chú ý trong quá trình đào tạo; khả năng làm việc độc lập và theo nhóm của sinh viên khi học tập cũng như khi ra trường làm việc còn rất hạn chế.
Trình dộ ngoại ngữ, trình độ tin học và khả năng cập nhật khoa học, công nghệ thông tin còn nhiều bất cập so với yêu cầu của mục tiêu đào tạo.
1.2. Trong đào tạo lấy chứng chỉ
Đặc trưng cơ bản ở Việt Nam là do chuyển đổi từ cơ chế kinh tế tập trung nên hầu hết mọi nguồn cung ứng hoạt động hành chính hay chuyên môn, quản lý hay đào tạo ... trước đây đều do cơ quan Nhà nước đảm trách. Tình trạng đề cao bằng cấp do cơ quan công quyền chính thức phát hành là phổ biến và sẽ còn tồn tại lâu dài. Trong lĩnh vực đào tạo chuyên gia kế toán, kiểm toán cũng vậy.
Về công tác tổ chức thi lấy chứng chỉ hành nghề kiểm toán viên: Hiện nay thí sinh thi lấy chứng chỉ VN-CPA phải thi đủ và đạt điều kiện với 8 môn thi bắt buộc. Các môn thi này chủ yếu được thực hiện dưới hình thức thi viết (trừ tin học có 30 phút thực hành và ngoại ngữ có 30 phút vấn đáp). Tuy nhiên nội dung đề thi vẫn mang tính lý thuyết, chưa gắn liền với thực tế thực hiện công việc.
Đối với các tổ chức nghề nghiệp AFA và IFAC: Đây là các tổ chức nghề nghiệp có uy tín mà đội ngũ kiểm toán viên Việt Nam rất cần nhận được sự giúp đỡ về công tác đào tạo, nguồn cung cấp tài liệu, nhất là các tài liệu có liên quan đến kỹ năng về hành nghề kiểm toán, soát xét chất lượng kiểm toán và kỹ năng quản lý theo từng cấp độ khác nhau. Khó khăn nhất hiện nay trong công tác đào tạo là chưa có một giáo trình chuẩn cho công tác đào tạo kiểm toán viên nâng cao. Mặt khác Việt Nam cũng đang rất cần những chuyên gia giỏi trong công tác đào tạo.
Về tổ chức và quản lý công tác nghiên cứu khoa học về kế toán, kiểm toán: Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các hiệp hội kế toán, kiểm toán, các hãng cá nhân hành nghề với các trường đại học liên quan để cập nhật thực tiễn và hoàn thiện hệ thống lý thuyết kế toán, kiểm toán. Vì vậy các đề tài nghiên cứu khoa học vẫn còn tồn tại tình trạng dàn trải, trùng lặp nhưng lại không đáp ứng được nhu cầu thực tế của ngành.
II. Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam
2.1. Đào tạo lấy bằng - học vị
Đổi mới nội dung chương trình, giáo trình và phương pháp giảng dạy là yêu cầu khách quan luôn được quan tâm đặc biệt vì nó quyết định chất lượng đào tạo. Nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy là sự phản ánh yêu cầu đào tạo của xã hội đối với nhà trường. Mỗi giai đoạn phát triển kinh tế xã hội đặt ra cho công tác đào tạo một nội dung chương trình và phương pháp đào tạo khác nhau cho phù hợp với yêu cầu và mục tiêu đề ra. Chính vì vậy, việc đổi mới nội dung chương trình đào tạo là hoàn toàn cần thiết và là việc cần làm thường xuyên. Tuy nhiên việc đổi mới nội dung chương trình đào tạo cần phải đảm bảo yêu cầu cơ bản, đó là:
2.1.1. Đổi mới nội dung chương trình:
Chúng ta phải đổi mới trên những phương diện sau:
Một là, xây dựng chương trình đào tạo hợp lý về cấu trúc của từng chuyên ngành đào tạo. Hiện nay, cấu trúc của chương trình đào tạo ngành bao gồm kiến thức giáo dục đại cương tối thiểu và kiến thức giáo dục chuyên nghiệp tối thiểu là hợp lý đối với ngành đào tạo mà Bộ Giáo dục và đào tạo đã ban hành nhằm giúp Bộ quản lý Nhà nước về chất lượng đào tạo. Tuy nhiên các trường đại học sẽ phải xây dựng và hoàn thiện kết cấu hợp lý về cơ cấu các môn học, đặc biệt là phần kiến thức giáo dục chuyên nghiệp.
Mặt khác, tiếp tục chuẩn hóa chương trình, nội dung các môn học kế toán tài chính theo xu hướng: Một mặt phù hợp với chuẩn mực kế toán quốc tế và hội nhập quốc tế, đồng thời phải tương thích với quá trình phát triển của Việt Nam trong từng giai đoạn cụ thể; nhanh chóng nắm bắt nhu cầu thời đại, yêu cầu công khai thông tin kế toán trong quan hệ quốc tế, quan hệ đầu tư, thị trường chứng khoán để xây dựng chương trình, nội dung các môn học kế toán tài chính cho phù hợp. Đối với môn kế toán quản trị – là một môn rất quan trọng trong hệ thống các môn học chuyên ngành, cần thiết phải tăng thêm số tiết giảng dạy và bổ xung thêm một số chương chuyên sâu trong nội dung giảng dạy.
Hai là, xây dựng chương trình đào tạo hợp lý về khối lượng các phần kiến thức. Có thể thấy rằng, chỉ khi khối lượng kiến thức phù hợp với từng chuyên ngành đào tạo thì mới có thể đáp ứng được mục tiêu đào tạo và việc nâng cao chất lượng đào tạo. Các môn thuộc phần kiến thức cơ sở khối ngành và ngành cần được cải tiến và giảm tải chương trình đối với những môn đại cương và cơ sở, bổ trợ; nội dung cần cập nhật thường xuyên, gắn lý thuyết với thực tiễn; nâng cao tính ứng dụng, giảm tính hàn lâm lý thuyết.
Đặc biệt khi xác định các môn học thuộc phần kiến thức bổ trợ nên xuất phát từ mục tiêu đào tạo chứ không nên từ việc ổn định, bố trí công việc làm (đảm bảo số giờ lên lớp của các môn bổ trợ)
Ba là, nội dung chương trình cần được đổi mới theo hướng lý luận kết hợp chặt chẽ với thực tiễn. Nhà trường cần xây dựng các trung tâm thực hành với mô hình doanh nghiệp ảo làm cơ sở cho sinh viên thực tập nâng cao trình độ, kỹ năng chuyên môn; cần áp dụng tối đa công nghệ tin học vào việc ra các bài toán, các phương pháp xử lý thực hành nghiệp vụ của sinh viên.
2.1.2. Đổi mới giáo trình:
Đảm bảo tất cả các môn học giảng dạy của chuyên ngành đều có hệ thống giáo trình, bài tập ngân hàng câu hỏi; thường xuyên có sự bổ xung, cập nhật các kiến thức mới cho giáo trình. Tuy nhiên, giáo trình cũng không nên viết quá bám sát chế độ vì chế độ thường xuyên thay đổi thì giáo trình rất nhanh lạc hậu và phải sửa thường xuyên, viết giáo trình phải nâng tầm hơn là viết khái quát về chế độ. Mặt khác, do quỹ thời gian giảng dạy có hạn, trong khi khối lượng kiến thức, nội dung chi tiết chế độ ngày càng tăng, vì vậy cần phải cải tiến nội dung, giáo trình và bài giảng, kết hợp đổi mới phương pháp giảng dạy thì mới phù hợp.
2.1.3. Đổi mới phương pháp giảng dạy:
Bao gồm cả phương pháp giảng dạy và phương pháp học tập theo hướng tạo điều kiện để cả người dạy và người học có thể chủ động trong nghiên cứu, học tập, có thể cập nhật những kiến thức mới, chủ động vận dụng sáng tạo những kiến thức đó vào thực tiễn giảng dạy, thực hiện hoạt động quản lý, sản xuất kinh doanh. Gắn giảng dạy, nghiên cứu với thực tiễn bằng cách mở rộng liên kết với các đơn vị sản xuất kinh doanh, tổ chức, cá nhân làm công tác nghiên cứu, chỉ đạo thực tiễn nhằm bổ xung kiến thức thực tế, nâng cao trình độ xử lý những tình huống nảy sinh trong đời sống kinh tế xã hội.
Cần nhận thức rằng, đổi mới phương pháp giảng dạy không có nghĩa là bỏ phương pháp này, thay bằng phương pháp khác và cũng không có nghĩa là xây dựng một phương pháp giảng dạy cố định cho mỗi môn học, học phần; mà phải căn cứ vào đặc điểm của mỗi môn học, học phần để vận dụng linh hoạt các phương pháp theo hướng: Nâng cao năng lực và phương pháp tự học, tự nghiên cứu của sinh viên, tăng cường tính chủ động tích cực, sáng tạo của sinh viên.
Đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng thay vì dạy “chữ” nên dạy phương pháp tiếp cận kiến thức, thay vì học “chữ” nên học cách tìm hiểu kiến thức. Đảm bảo người thầy thực hiện tốt 3 nhiệm vụ trong quá trình giảng dạy Đại học là: Dạy nghề nghiệp, dạy phương pháp và dạy thái độ cho sinh viên.
2.2. Đào tạo lấy chứng chỉ nghề nghiệp
2.2.1. Đối với Nhà nước
Trong thời gian gần đây, Nhà nước đã tạo môi trường pháp lý thuận lợi, phù hợp cho hoạt động kiểm toán. Tuy nhiên, sự hỗ trợ về các nguồn lực chưa được nhiều, Nhà nước nên dành một phần một phần ngân sách hoặc thông qua các chương trình hợp tác quốc tế để hỗ trợ cho hoạt động đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam, và coi đó như một hình thức hỗ trợ đầu tư cho các doanh nghiệp. Việc làm này là rất cần thiết vì hầu hết các doanh nghiệp kiểm toán của Việt Nam hiện nay là doanh nghiệp vừa và nhỏ, tiềm lực về tài chính còn rất nhỏ bé. Việc Nhà nước hỗ trợ ngân sách cho công tác đào tạo kiểm toán viên của Việt Nam cả trong nước và ngoài nước là một trong những biện pháp thiết thực nhằm thực hiện chủ trương công khai, minh bạch về tài chính trong nền kinh tế quốc dân.
2.2.2. Đối với Hội kế toán và kiểm toán Việt Nam, Hội kiểm toán viên hành nghề và các tổ chức nghề nghiệp:
Trong xu thế hội nhập quốc tế, vai trò của hội ngày càng quan trọng mà đặc biệt là việc quản lý và đào tạo kiểm toán viên hành nghề. Tuy nhiên, các hội nghề nghiệp trên của Việt Nam còn non trẻ và chưa đủ sức để có thể thực hiện đầy đủ những chức năng của mình. Vì vậy hội phải hết sức năng động và phối kết hợp với các tổ chức nghề nghiệp khu vực và quốc tế, tranh thủ sự trợ giúp của Chính phủ để phát huy vai trò của mình. Đồng thời hội cần có kế hoạch để tập hợp được đội ngũ ngang tầm với nhiệm vụ được giao và làm việc chuyên trách về công tác hội để có thể gánh vác sứ mệnh nặng nề của hội trong thời gian tới. Hội cũng cần phải có kế hoạch đào tạo và việc đào tạo cần được thực hiện bởi các chuyên gia có uy tín cùng các chuyên gia nước ngoài có nhiều kinh nghiệm.
2.2.3. Đối với các công ty kiểm toán:
Lợi ích thiết thực nhất trong công tác đào tạo kiểm toán viên vẫn là cá nhân các kiểm toán viên và các công ty kiểm toán đang quản lý đội ngũ này. Do vậy các công ty kiểm toán phải cố gắng hơn nữa trong công tác đào tạo, phải xây dựng được đội ngũ kiểm toán viên trở thành các chuyên gia giỏi về nghiệp vụ, có kỹ năng hành nghề và có đạo đức nghề nghiệp. Cần thấy rõ được trách nhiệm nặng nề của công ty nếu để xảy ra rủi ro kiểm toán trong quá trình hoạt động. Mỗi kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải tự mình đặt ra mục tiêu phấn đấu trong những thời hạn nhất định để vượt qua chính mình trong quá trình hành nghề kiểm toán.
2.2.4. Đối với khách hàng và các bên thứ ba
Sự đòi hỏi của khách hàng và các bên thứ ba về chất lượng kiểm toán cũng góp phần nâng cao chất lượng kiểm toán viên. Khách hàng cần phải hiểu đúng về bản chất của dịch vụ kiểm toán độc lập. Cần sử dụng các dịch vụ này để góp phần thúc đẩy doanh nghiệp phát triển, phát hiện và ngăn ngừa những sai sót, gian lận; trên cơ sở đó hạn chế những rủi ro cho doanh nghiệp. Vì vậy, đòi hỏi trước hết của khách hàng đối với kiểm toán phải là chất lượng dịch vụ chứ không phải là sự thoả hiệp hoặc giá rẻ.
Đối với các bên thứ ba: Các chủ nợ, các nhà đầu tư, thuế và các cơ quan quản lý Nhà nước… cũng cần hiểu sâu sắc hơn đến dịch vụ kiểm toán để có thể sử dụng kết quả kiểm toán và đưa ra các quyết định quản lý thích hợp và có hiệu quả.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp trên đây sẽ góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ kiểm toán viên hành nghề của Việt Nam trong những năm tới, từng bước đạt được trình độ kiểm toán viên của các nước trong khu vực và thế giới theo lộ trình hội nhập quốc tế mà Việt Nam đã cam kết.
Kết luận
Hoạt động kiểm toán nói chung và các kiểm toán viên nói riêng ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Tuy mới chỉ ở những bước đi ban đầu song trong 15 năm qua, hoạt động kiểm toán cùng với đội ngũ kiểm toán viên ở Việt Nam đã liên tục có những bước phát triển đáng mừng, góp phần vào việc lành mạnh hóa đời sống kinh tế, nâng cao tính minh bạch trong hoạt động kinh doanh.
Chính vì vậy, việc không ngừng hoàn thiện để có thể nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán và đội ngũ kiểm toán viên, để nó ngày càng phát huy được chức năng của mình nhất là trong giai đoạn đất nước ta đang tiến hành việc Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đát nước và hội nhập kinh tế thế giới là một yêu cầu tất yếu.
Chỉ qua một thời gian ngắn nghiên cứu, chúng em đã cố gắng đi sâu tìm hiểu về Kiểm toán viên và Đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam. Với những kiến thức đã học được tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân, kết hợp với những hiểu biết về thực tế ít ỏi, chúng em đã mạnh dạn nêu lên một số nhận xét, đề xuất nhằm đóng góp một phần nhỏ vào việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của công tác đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam. Song, do lượng kiến thức còn hạn chế và thời gian nghiên cứu không được nhiều nên Công trình nghiên cứu khoa học của chúng em không thể tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Chính vì vậy, em rất mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo của các thầy cô giáo để Công trình được hoàn thiện và sát hơn với thực tế.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Kiểm toán tài chính/ GS.TS Nguyễn Quang Quynh/ NXB Tài chính – 2001
3. Kiểm toán/ Alvin A. Arens/ NXB. Thống kê - 2000
4. Kiểm toán nội bộ hiện đại. Victor Z.Brink and Herbert Witt/ NXB. Tài chính - 2000
5. VACO toàn tập / NXB. Tài chính – 1997
6. Phần mềm kế toán AS/2
7. Tạp chí kế toán các năm 2004, 2005, 2006
8. Tạp chí kiểm toán năm 2004, 2005, 2006
9. Tài liệu Kiểm toán nội bộ của Công ty Kiểm toán Việt Nam (VACO)
Mục lục
Trang
Các ký hiệu viết tắt
KTV : Kiểm toán viên
KTNN : Kiểm toán Nhà nước
KTĐL : Kiểm toán độc lập
KTNB : Kiểm toán nội bộ
KTVNN : Kiểm toán viên Nhà nước
KTVĐL : Kiểm toán viên độc lập
KTVNB : Kiểm toán viên nội bộ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35804.doc