[SIZE="3"]TÓM TẮT
Mở đầu: Lứa tuổi cấp 2 (từ 11-15 tuổi) là lứa tuổi vừa bước vào tuổi dậy thì, các em còn bỡ ngỡ trước kiến thức rộng lớn về tình dục, rất dễ dẫn đến những hiểu biết không đúng, có thái độ không phù hợp và hình thành những hành vi ảnh hưởng đến sức khỏe.
Mục tiêu: Xác định tình trạng tìm hiểu thông tin, kiến thức, thái độ và nhu cầu giáo dục về giới tính của học sinh và các mối liên quan.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện tại trường THCS Ngô Tất Tố - Quận Phú Nhuận năm học 2007 – 2008. Mẫu nghiên cứu gồm 669 học sinh được chọn theo phương pháp lấy mẫu cụm.
Kết quả: Có 31,5% học sinh có kiến thức đúng về các vấn đề giới tính. Nam học sinh có thái độ đồng ý việc QHTD ở tuổi VTN cao gấp 2,87 lần so với nữ học sinh (PR = 2,87, KTC 95% là 2,02-4,10). Có 97% học sinh đồng ý việc GDGT và khối lớp bắt đầu GDGT là lớp 6 (35,7%). Có 36% học sinh nhận thông tin là từ bạn bè, 51,7% là từ sách, báo, tài liệu. Yếu tố cản trở việc tìm
KIẾN THỨC THÁI ĐỘ VÀ NHU CẦU GIÁO DỤC VỀ GIỚI TÍNH CỦA HỌC SINH TRƯỜNG[/SIZE]
24 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2014 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kiến thức thái độ và nhu cầu giáo dục về giới tính của học sinh trường THCS Ngô Tất Tố, quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh năm 2008, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KIẾN THỨC THÁI ĐỘ VÀ NHU CẦU GIÁO DỤC VỀ GIỚI TÍNH
CỦA HỌC SINH TRƯỜNG THCS NGÔ TẤT TỐ, Q.PHÚ NHUẬN,
TPHCM NĂM 2008
TÓM TẮT
Mở đầu: Lứa tuổi cấp 2 (từ 11-15 tuổi) là lứa tuổi vừa bước vào tuổi dậy thì,
các em còn bỡ ngỡ trước kiến thức rộng lớn về tình dục, rất dễ dẫn đến những
hiểu biết không đúng, có thái độ không phù hợp và hình thành những hành vi
ảnh hưởng đến sức khỏe.
Mục tiêu: Xác định tình trạng tìm hiểu thông tin, kiến thức, thái độ và nhu cầu
giáo dục về giới tính của học sinh và các mối liên quan.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện tại trường THCS
Ngô Tất Tố - Quận Phú Nhuận năm học 2007 – 2008. Mẫu nghiên cứu gồm
669 học sinh được chọn theo phương pháp lấy mẫu cụm.
Kết quả: Có 31,5% học sinh có kiến thức đúng về các vấn đề giới tính. Nam
học sinh có thái độ đồng ý việc QHTD ở tuổi VTN cao gấp 2,87 lần so với nữ
học sinh (PR = 2,87, KTC 95% là 2,02-4,10). Có 97% học sinh đồng ý việc
GDGT và khối lớp bắt đầu GDGT là lớp 6 (35,7%). Có 36% học sinh nhận
thông tin là từ bạn bè, 51,7% là từ sách, báo, tài liệu. Yếu tố cản trở việc tìm
hiểu thông tin về giới tính là sợ bị hiểu lầm là tìm hiểu thông tin không lành
mạnh (49,6%). Về nhu cầu GDGT, đối tượng cung cấp là bác sĩ/NVYT (44%),
nguồn cung cấp là sách, báo, tài liệu (48,4%). Học sinh có kiến thức đúng thì
có thái độ đồng ý “hành vi thủ dâm là bình thường” cao gấp 2,03 lần so với học
sinh có kiến thức không đúng (PR = 2,03, KTC 95% là 1,65-2,51). Học sinh
không được cung cấp thông tin về giới tính từ bất cứ nguồn nào có kiến thức
đúng chỉ bằng 0,29 lần so với những học sinh có nhận thông tin từ ít nhất một
nguồn (PR = 0,29, KTC 95% là 0,13-0,62).
Kết luận: Việc GDGT ở tuổi học sinh cấp 2 rất cần thiết. Vì vậy hiện nay các
em học sinh cần có một chương trình GDGT phù hợp với lứa tuổi của mình.
Từ khóa: Nhu cầu, giáo dục, giới tính.
ABSTRACT
KNOWLEDGE, ATTITUDES AND NEEDS OF SEX EDUCATION
AMONG STUDENTS OF NGO TAT TO SECONDARY SCHOOL, PHU
NHUAN DISTRICT, HCMC, IN 2008
Le Huynh Thi Cam Hong, Truong Trong Hung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol.14 - Suppl ement of No 1-2010: 204 - 210
Background: Secondary school students (from 11 to 15 years old) have just
reached the age of puberty. They are new to the wide knowledge of sex, easily
lead to the misunderstandings, the unsuitable attitudes and bad behaviours
which make harmful influences on their health
Objective: Estimate the finding out about sexual imformation, knowledge,
attitudes and needs of sex education among students and analyse the
associations
Method: A describing cross-sectional study was implemented at Ngo Tat To
high school in Phu Nhuan district in the 2007 - 2008 academic year. The study
sample comprised of 669 students whom were chosen by the cluster sampling
technique.
Results: The proportion of students having correct knowledge of sex was
31.5%. Agreeable attitude of having sexual activity in adolescent age of males
was more than females 2.87 times (with PR=2.87, 95% CI of PR = 2.02-4.10).
There was 97 percent of students agreed with sex education and 35.7 percent of
them thinked that sex education should be started in 6th grade. The proportion
of students receiving sex information from friends was 36%, from books,
newspapers, documents was 51.7%. 46.6 percent of students was afraid of
misunderstanding when they searched sex information. About needs of sex
education, sex information for students should be provided by doctors or health
staffs (44% students chosed), or by books, newspapers, documents (48.4%
student chosed). The students having correct knowledge of sex agreed with
“masturbation is ordinary” more than the students having incorrect knowledge
(with PR=2.03, 95% CI of PR = 1.65-2.51). The students who didn’t receive
sex information from any source of supply, had less correct knowledge than the
students received at least one source (with PR = 0.29, 95% CI of PR = 0.13-
0.62).
Conclusion: Sex education in secondary school age is very necessary. So now
it needs to have a suitable sex education program for this age
Keywords: Need, education, sex.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo thống kê của Hội kế hoạch hoá gia đình (2003), cả nước có đến 5% các
bạn gái sinh con trước tuổi 18 và 15% sinh con trước tuổi 20. Tỷ lệ nạo phá
thai ở Việt Nam là một trong những nước cao nhất Châu Á và đứng thứ 15
trên thế giới.[Error! Reference source not found.] Cho thấy tình hình sức
khỏe sinh sản ở lứa tuổi VTN đang ở tình trạng báo động, do đó các em cần
phải được cung cấp kiến thức đầy đủ để tự bảo vệ bản thân mình. Chính vì vậy,
GDGT đã trở nên rất quan trọng và cần thiết.
Những năm gần đây có không ít nghiên cứu về nhu cầu GDGT với mong muốn
tìm kiếm phương cách tốt nhất để bảo vệ sức khỏe cho Thanh thiếu niên.
Nhưng đa số nghiên cứu đều tập trung vào các đối tượng là học sinh cấp 3
hoặc sinh viên tức là đối tượng trong độ tuổi thanh niên, độ tuổi mà họ có
thể đã hình thành những hành vi nguy cơ. Trong khi đó, lứa tuổi cấp 2 (từ
11-15 tuổi) là lứa tuổi vừa bước vào tuổi dậy thì, các em còn bỡ ngỡ trước
một thế giới kiến thức về tình dục rộng lớn, rất dễ dẫn đến những hiểu biết
không đúng, có thái độ không phù hợp và hình thành những hành vi ảnh
hưởng không tốt đến sức khỏe. Vì vậy, một cuộc nghiên cứu tìm hiểu kiến
thức, thái độ và nhu cầu giáo dục về giới tính cho lứa tuổi cấp 2 là rất cần
thiết.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả (có phân tích)
Dân số mục tiêu
Tất cả học sinh của trường THCS Ngô Tất Tố - Quận Phú Nhuận năm học
2007 – 2008.
Cỡ mẫu
Ta áp dụng công thức tính cỡ mẫu n:
Với
c : hệ số thiết kế, c = 2 (do phương pháp chọn mẫu cụm)
α : xác suất sai lầm loại I, α = 0,05
Z : trị số từ phân phối chuẩn, với độ tin cậy 95%
d : sai số cho phép, d = 0,05
p : trị số ước đóan của tỉ lệ (dựa theo nghiên cứu “Kiến thức, thái độ và nhu cầu
về giáo dục giới tính ở học sinh PTTH Sương Nguyệt Ánh Quận 10 TPHCM
tháng 6/2006” của tác giả Nguyễn Thị Linh Đơn trên 517 học sinh(5), kết quả
54,93% có nhu cầu được GDGT), chọn p= 54,93% = 0,55
Sau đó hiệu chỉnh cỡ mẫu (nhc) theo công thức: (Error! Reference source not
found.) nhc = n x P
n + P
n : cỡ mẫu chưa hiệu chỉnh
P : dân số đích
hc : hiệu chỉnh
Đồng thời, dự trù mất mẫu là 10%. Tính được cỡ mẫu nghiên cứu sẽ là nhc =
661 mẫu
Kỹ thuật chọn mẫu
Dựa theo phương pháp lấy mẫu cụm, đánh số các lớp theo thứ tự từ lớp 6
đến lớp 9 (gồm 61 lớp). Học sinh trung bình mỗi lớp là 47. Số lớp cần tiến
hành nghiên cứu là 15 lớp. Khoảng cách mẫu là 61/15 ≈ 4. Chọn một số
ngẫu nhiên là 2. Bắt đầu từ lớp có số thứ tự thứ 2, tiếp tục chọn theo khoảng
cách mẫu cho đến được 15 lớp. Tất cả học sinh trong lớp được chọn sẽ được
mời tham gia nghiên cứu.
Kiểm soát sai lệch
Tổ chức nghiên cứu thử trên 40 học sinh của trường để chỉnh sửa bộ câu hỏi
phù hợp với đối tượng. Nghiên cứu không vi phạm các vấn đề y đức.
Phân tích số liệu
Dữ kiện được thu thập, sau đó nhập liệu và xử lý bằng Epidata 3.1 và Stata
10.0. Thống kê mô tả bằng bảng phân phối tần suất, tỷ lệ. Xác định mối liên
quan giữa 2 biến số bằng phép kiểm Chi bình phương (X2). Lượng hóa mối liên
quan bằng tỉ số tỉ lệ hiện mắc (PR) với KTC 95%. Sử dụng phân tích phân tầng
và hồi quy đa biến để khử tác động của các biến số gây nhiễu.
KẾT QUẢ
Đặc tính của mẫu nghiên cứu
Mẫu nghiên cứu gồm 669 học sinh, phân bố tương đối đồng đều giữa nam và
nữ, và giữa các khối lớp.
Bảng 1: Đặc tính của mẫu nghiên cứu (n = 669)
Đặc
tính
Tần
số
Tỷ lệ
(%)
Đặc
tính
Tần
số
Tỷ lệ
(%)
Giới
Nữ
Nam
334
335
49,9
50,1
Tuổi
10
12
13
1
123
181
0,1
18,4
27,1
Khối
lớp
129
19,3
14
15
16
178
185
1
26,6
27,7
0,1
6
7
8
9
183
172
185
27,4
25,7
27,6
Kiến thức về các vấn đề giới tính
Khảo sát kiến thức chung về các vấn đề giới tính thì có 31,5% học sinh tham
gia nghiên cứu có kiến thức đúng. Kiến thức chung được định nghĩa là đúng
khi đúng được 4/6 vấn đề giới tính nêu dưới đây
Bảng 2: Tỷ lệ học sinh có kiến thức đúng về các vấn đề giới tính (n = 669)
Các vấn đề giới tính Tần số
Tỷ lệ
(%)
Thay đổi bình thường ở
tuổi dậy thì
405 60,5
Hành vi thủ dâm 314 46,9
Tiếp xúc giữa con trai và
con gái có thể có thai
356 53,2
Biện pháp tránh thai 172 25,7
Các bệnh LTQĐTD 217 32,4
Ảnh hưởng xấu của nạo
phá thai đến sức khỏe
282 42,1
Thái độ về các vấn đề giới tính
Bảng 3: Tỷ lệ học sinh có thái độ đồng ý về các vấn đề giới tính (n = 669)
Các thái độ Tần
số
Tỷ lệ
(%)
“Việc quan hệ tình dục ở
tuổi vị thành niên (10-19
tuổi) là bình thường, miễn
là hai người yêu nhau”
136 20,3
“Nếu lỡ mang thai ở tuổi vị
thành niên (10-19 tuổi) thì
nên phá thai”
323 48,3
“Thủ dâm là hành động
bình thường, vô hại, miễn là
đừng quá độ”
230 34,4
Nên GDGT cho học sinh 649 97
Kết quả khảo sát thái độ về việc GDGT của học sinh cho thấy hầu hết học
sinh (97%) tham gia nghiên cứu đồng ý việc giáo dục giới tính (58% cho là
rất cần thiết, 33,8% cho là cần thiết và có hay không cũng được là 5,2%).
Trong số 97% học sinh đồng ý với việc giáo dục giới tính cho học sinh nêu
trên thì có 35,7% cho là nên bắt đầu từ lớp 6, chiếm tỷ lệ cao nhất.
Tình trạng tìm hiểu thông tin về giới tính
Bảng 4: Đối tượng và nguồn cung cấp thông tin về giới tính cho hoc sinh (n =
669)
Đối tượng
cung cấp
thông tin
Tần
số
Tỷ
lệ
Nguồn
cung cấp
thông tin
Tần
số
Tỷ
lệ
Bạn bè 241 36,0 Sách, báo,
tài liệu
346 51,7
Mẹ 230 34,4 Các buổi
giáo dục
sức khỏe do
nhà trường
tổ chức
266 39,8
Bác sĩ/
nhân viên
213 31,8 Internet 266 39,8
y tế
Cô giáo 121 18,1 Tivi 233 34,8
Cha 81 12,1 Các trung
tâm tư vấn
sức khỏe
143 20,4
Thầy giáo 62 9,3 Phim ảnh 140 20,9
Các yếu tố thúc đẩy học sinh tìm hiểu thông tin về giới tính như học sinh
muốn bổ sung kiến thức cho mình (45,7%) hoặc có những thắc mắc về giới
tính và muốn tìm câu trả lời (37,5%), cảm thấy cần thiết với họ (37,2%) và
31,5% cho là do tò mò.
Về các yếu tố cản trở học sinh tìm hiểu thông tin về giới tính, kết quả cho
thấy gần phân nửa học sinh tham gia nghiên cứu (49,6%) cho rằng là sợ sẽ
bị người khác hiểu lầm là tìm hiểu thông tin không lành mạnh.
Nhu cầu giáo dục giới tính
Các học sinh mong muốn người cung cấp thông tin về giới tính nên là bác sĩ/
nhân viên y tế (44%) hoặc mẹ (38,3%) hoặc bạn bè (31,8%). Các học sinh
muốn nhận thông tin về giới tính từ nguồn sách, báo, tài liệu (48,4%) và từ
các buổi giáo dục sức khỏe do nhà trường tổ chức (48,3%) hoặc Internet
(41,1%)
Bảng 5: Mối liên quan giữa kiến thức chung và thái độ về các vấn đề giới tính
với đặc tính của mẫu nghiên cứu (n = 669)
Kiến thức chung
Tần số (Tỷ lệ %)
Đặc tính
của mẫu
Đ KĐ
p
PR
(KTC=95%)
Nam
106
(31,6)
229
(68,4) Giới
tính
Nữ
105
(31,4)
229
(68,6)
0,0030,96
1,01 (0,81-
1,26)
6 9 (7,0)
120
(93,0)
1
7 30(16,4) 153(83,6) 0,018
2,35(1,56-
4,78)
Khối
lớp
8 85(49,4) 87 (50,6)
101,5
<0,0001
7,08(3,71-
13,54)
9 87(47,0) 98 (53,0) <0,0001
6,74(3,52-
12,89)
Thái độ về việc QHTD ở tuổi VTN
Nam
101
(30,2)
234
(69,8) Giới
tính
Nữ
35
(10,5)
299
(89,5)
39,95 <0,0001
2,87(2,02-
4,10)
6
35
(27,1)
94 (72,9) 1
7
44
(24,0)
139
(76,0)
0,54
0,89(0,60-
1,30)
8
38
(22,1)
134
(77,9)
0,31
0,81(0,55-
1,21)
Khối
lớp
9
19
(10,3)
166
(89,7)
17,13
<0,0001
0,38(0,23-
0,63)
Thái độ về hành vi thủ dâm
Nam
142
(42,4)
193
(57,6) Giới
tính
Nữ
88
(26,4)
246
(73,6)
19,08 <0,0001
1,61(1,29-
2,00)
6
24
(18,6)
105
(81,4)
1
7
46
(15,1)
137
(74,9)
0,18
1,35(0,87-
2,10)
8
83
(48,3)
89 (51,7) <0,0001
2,59(1,75-
3,84)
Khối
lớp
9
77
(41,6)
108
(58,4)
40,14
<0,0001
2,24(1,50-
3,34)
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) giữa kiến thức chung về các
vấn đề giới tính với khối lớp của học sinh. Lớp 7 thì có kiến thức chung
đúng cao hơn lớp 6 (Với PR=2,35, KTC 95% = 1,56-4,78); lớp 8 cao lớp 6
(Với PR=7,08, KTC 95% = 3,71-13,54); lớp 9 cao lớp 6 (Với PR=6,74,
KTC 95% = 3,52-12,89). Phân tích thái độ trong việc QHTD ở tuổi VTN kết
quả cho thấy nam có thái độ đồng ý cao hơn so với nữ (Với PR=2,87, KTC
95% = 2,02-4,10) và học sinh khối lớp 6 có thái độ đồng ý thấp hơn lớp 9
(Với PR=0,38, KTC 95% = 0,23-0,63). Tuy nhiên, ở học sinh lớp 7, 8 thì
không có sự khác biệt (p > 0,05) so với lớp 6. Kết quả phân tích thái độ về
hành vi thủ dâm cho thấy nam có thái độ đồng ý với hành vi này cao hơn so
với nữ (Với PR=1,61, KTC 95% = 1,29-2,00). Có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê (p < 0,05) giữa thái độ về hành vi thủ dâm với khối lớp của học
sinh. Lớp 8 có thái độ đồng cao hơn lớp 6 (Với PR=2,59, KTC 95% = 1,75-
3,84); Lớp 9 cao hơn lớp 6 (Với PR=2,24, KTC 95% là 1,50-3,34). Tuy
nhiên, không có sự khác biệt có giữa học sinh lớp 7 và lớp 6.
Bảng 6: Mối liên quan giữa đối tượng đã cung cấp thông tin với kiến thức
chung về các vấn đề giới tính (n = 669)
Kiến thức chung
(%) Đối tượng
Đ KĐ
p
PR
(KTC=95%)
Có 102(42,3) 139(57,7) Bạn
bè Không 109(25,5) 319(74,5)
20,29 <0,0001
1,66
(1,34-2,07)
Bảng 7: Mối liên quan giữa việc nhận thông tin về giới tính từ bạn bè với
kiến thức chung về các vấn đề giới tính có điều chỉnh theo đặc tính của mẫu
nghiên cứu (n = 669)
Biến số
gây nhiễu
tiềm tàng
PR P
PR
hiệu
chỉnh
PR
(%)
Kết
luận
Nam 1,47
Giới
tính Nữ 1,88
0,27
1,67
(1,34-
2,09)
0,6
Không
gây
nhiễu
6 2,43
7 1,19
8 1,33
Khối
lớp
9 1,40
0,80
1,37
(1,12-
1,68)
21,3
Gây
nhiễu
Xét mối liên quan giữa đối tượng cung cấp thông tin với kiến thức về các
vấn đề giới tính thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa việc nhận
thông tin từ bạn bè với kiến thức về giới tính, trong đó khối lớp là biến số
gây nhiễu. Kết quả sau khi khử nhiễu cho thấy những học sinh mà nhận
thông tin từ bạn bè thì có kiến thúc đúng cao gấp 1,37 lần so với không nhận
thông tin từ bạn bè (KTC 95% là 1,12-1,68).
Bảng 8: Mối liên quan giữa nguồn cung cấp thông tin về giới tính với kiến
thức chung về các vấn đề giới tính (n = 669)
Kiến thức chung
Tần số (%)
Nguồn đã
cung cấp
thông tin
Đ KĐ
p
PR
(KTC=95%)
Có 113(42,5) 153(57,5)
Internet
Không 98 (24,3) 305(75,7)
24,48 <0,0001
1,75
(1,40-2,18)
Có 146(42,2) 200(57,8) Sách,
báo, tài
liệu
Không 65(20,1) 258(79,9)
37,69 <0,0001
2,10
(1,63-2,69)
Có 89 (38,2) 144(61,8)
Tivi
Không 122(28,0) 314(72,0)
7,34 0,007
1,37
(1,09-1,71)
Có 60 (42,9) 80 (57,1) Phim
ảnh (từ
băng,
Không 151(28,5) 378(71,5)
10,50 0,001
1,50
(1,19-1,90)
đĩa, rạp
chiếu
phim)
Có 97 (36,5) 169(63,5) Các
buổi
GDSK
nhà
trường
tổ chức
Không 114(28,3) 289(71,7)
4,96 0,03
1,29
(1,03-1,61)
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) giữa kiến thức chung về các
vấn đề giới tính với việc nhận thông tin từ các nguồn như Internet, sách, báo,
tài liệu, tivi, phim ảnh và các buổi GDSK do nhà trường tổ chức.
BÀN LUẬN
Dân số nghiên cứu phân bố khá đồng đều giữa nam và nữ với tỷ lệ 50,1% và
49,9% (tỷ lệ giới là 1,00 nam/nữ) xấp xỉ với tỷ lệ giới của Việt Nam (năm
2004) là 0,98 nam/nữ. Tỷ lệ học sinh của các khối lớp tương đối bằng nhau,
cỡ mẫu đủ lớn vì vậy mẫu mang tính đại diện cao.
Kiến thức về các vấn đề giới tính
Nhìn chung, những kiến thức về những thay đổi bình thường ở tuổi dậy thì
và kiến thức về điều kiện tiếp xúc giữa nam và nữ có thể có thai là được biết
đến nhiều nhất vì đây là những kiến thức phổ thông và tương đối dễ tiếp cận
hơn so với một số chủ đề tế nhị khác như thủ dâm, nạo phá thai, các biện
pháp tránh thai và các bệnh lây truyền qua đường tình dục có ít học sinh có
kiến thức đúng. Tỷ lệ học sinh có kiến thức chung đúng về các vấn đề giới
tính không cao (31,5%). Điều này cho thấy việc cung cấp kiến thức cho các
em học sinh hiện nay là vô cùng cần thiết.
Thái độ về các vấn đề giới tính
Nhìn chung phần lớn học sinh không chấp nhận việc quan hệ tình dục trước
hôn nhân nhưng vẫn còn một tỷ lệ khá cao (20,3%) coi việc quan hệ tình dục
ở tuổi VTN là bình thường trong tình yêu. Cuộc khảo sát cũng cho thấy
những học sinh nam có thái độ đồng ý việc quan hệ tình dục ở tuổi vị thành
niên cao gấp 2,87 lần so với học sinh nữ. Kết quả này phù hợp với Điều tra
quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam khi tìm hiểu thái độ của
thanh thiếu niên về vấn đề tình dục trước hôn nhân, cho thấy nam thanh
thiếu niên có thái độ chủ động và chấp nhận đối với vấn đề này hơn là nữ
thanh thiếu niên (32,5% nam và 14,7% nữ đồng ý).(Error! Reference
source not found.)
Qua khảo sát có đến gần phân nửa số học sinh tham gia nghiên cứu (48,3%)
đồng ý với ý kiến “nếu lỡ mang thai ở tuổi vị thành niên (10-19 tuổi) thì nên
phá thai”. Kết quả này cao hơn so với cuộc nghiên cứu phỏng vấn 182 người
từ 15-20 tuổi tại tỉnh Thanh Hoá, Quảng Trị, Cần Thơ được thực hiện năm
1999 cho thấy khoảng 28% chọn nạo phá thai khi họ có thai trước hôn
nhân.(Error! Reference source not found.) Tỷ lệ khá cao này có thể là do
các em học sinh còn nhỏ, chưa hiểu rõ việc nguy hiểm của nạo phá thai đối
với sức khỏe.
Hầu hết học sinh (97%) tham gia nghiên cứu đồng ý việc giáo dục giới tính
cho học sinh. Tỷ lệ này ở nghiên cứu của Nguyễn Thị Linh Đơn thực hiên
năm 2006 là 95,2%.(5) Như vậy cho thấy GDGT ngày càng được các em
học sinh chấp nhận. Ngoài ra, nghiên cứu cũng thăm dò ý kiến về khối lớp
có thể bắt đầu giáo dục giới tính, nhiều nhất cho rằng nên bắt đầu từ lớp 6
(11 đến 12 tuổi). Kết quả này phù hợp với bài báo cáo của WHO có khuyên
rằng chương trình GDGT thông thường bắt đầu tốt nhất vào lứa tuổi
12.(Error! Reference source not found.) Đây là lứa tuổi vừa bước vào dậy
thì, có thể bắt đầu tiếp nhận những thông tin về giới tính một cách lành
mạnh.
Tình trạng tìm hiểu thông tin về giới tính
Về đối tượng cung cấp thông tin, có 36% nhận thông tin từ bạn bè, chiếm tỷ
lệ cao nhất. Cho thấy bạn bè là nguồn mà các em dễ dàng tiếp cận nhất. Tuy
nhiên kết quả nghiên cứu này thấp hơn nhiều so với Điều tra quốc gia vị
thành niên và thanh niên Việt Nam với 75,9% nhận thông tin từ bạn
bè.(Error! Reference source not found.)
Cuộc khảo sát cho thấy hơn phân nửa được nhận thông tin từ sách, báo, tài
liệu (51,7%), cho thấy đây là nguồn cung cấp thông tin dễ dàng tiếp cận với
các em. Vì vậy, việc đưa thông tin GDGT vào sách, báo sẽ là một giải pháp
hiệu quả cho việc cung cấp những thông tin tế nhị này. Hai nguồn cung cấp
quan trọng khác là tivi và internet chiếm tỷ lệ khá cao. Hầu hết các em đều
có khả năng tiếp cận những nguồn thông tin này hằng ngày. Trong tương lai
đây có thể là nguồn cung cấp thông tin nhanh và phù hợp với các em nhất.
Một cuộc nghiên cứu tiến hành xem Internet sử dụng có hiệu quả trong việc
cung cấp GDGT cho thanh thiếu niên ở Trung Quốc hay không, cho thấy có
tính khả thi và hiệu quả trong việc giúp gia tăng kiến thức về sức khỏe sinh
sản cho sinh viên một cách hiệu quả và làm thay đổi thái độ của họ về tình
dục.(Error! Reference source not found.)
Một điểm cần quan tâm là 49,6% cho rằng yếu tố cản trở họ tìm hiểu thông
tin về giới tính là sợ bị người khác hiểu lầm là tìm hiểu thông tin không lành
mạnh. Chính quan niệm về việc tìm hiểu thông tin về giới tính ở tuổi vị
thành niên của các em là không tốt, làm cho các em e ngại không dám tiếp
cận với những thông tin trên hoặc tìm hiểu một cách lén lút. Điều này thật sự
còn nguy hiểm hơn là cung cấp cho các em những thông tin khoa học để biết
tự bảo vệ bản thân.
Các mối liên quan
Kết quả phân tích cho thấy ở những học sinh có nhận thông tin về giới tính
từ bạn bè sẽ có kiến thức đúng cao hơn so với những học sinh không có
nhận thông tin từ bạn bè. Như vậy, chúng ta thấy các em khi trao đổi thông
tin với bạn bè thường sẽ nhận thông tin chính xác hơn. Bạn bè cũng là nguồn
mà các em dễ dàng tiếp cận nhất vì những người cùng trang lứa có thể dễ dàng
truyền cho nhau những kinh nghiệm.(Error! Reference source not found.) Từ
đó cho thấy việc giáo dục cùng trang lứa (bạn bè chia sẻ thông tin với nhau) là
một giải pháp tối ưu trong việc nâng cao kiến thức cho học sinh. Giải pháp này
được thực hiện phổ biến trong một số lĩnh vực như đồng đẳng HIV/AIDS, tuy
nhiên với giáo dục giới tính điều này còn chưa phổ biến và cần được phát triển.
Qua phân tích kết quả cũng cho thấy ở những học sinh có nhận thông tin từ
các nguồn như Internet, sách, báo, tài liệu, tivi, phim ảnh, các buổi giáo dục
sức khỏe do nhà trường tổ chức thì có kiến thức cao hơn so với những em
không có nhận thông tin từ các nguồn trên. Như vậy có thể thấy rằng các
nguồn này có tác dụng tốt trong việc nâng cao kiến thức về giới tính cho học
sinh.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu đã khảo sát được một số kết quả như: Tỷ lệ học sinh có kiến
thức đúng về các vấn đề giới tính là 31,5%. Tỷ lệ học sinh có thái độ đồng ý
với việc giáo dục giới tính là 97% và lớp bắt đầu GDGT nên là lớp 6
(35,7%). Nguồn cung cấp thông tin về giới tính chủ yếu là Bạn bè, sách, báo,
tài liệu. Yếu tố thúc đẩy học sinh tìm hiểu thông tin về giới tính là “Muốn bổ
sung kiến thức cho mình”. Nhưng vì “Sợ sẽ bị người khác hiểu lầm là tìm
hiểu thông tin không lành mạnh” đã làm cản trở việc tìm hiểu thông tin của
học sinh. Bác sĩ/ nhân viên y tế và Sách, báo, tài liệu là các nguồn cung cấp
thông tin mà các học sinh muốn nhận nhất. Kiến thức về giới tính càng tăng
cao theo khối lớp của học sinh. Và nam học sinh thái độ về việc QHTD ở
tuổi VTN cao hơn ở nữ. Việc có nhận thông tin về giới tính từ bạn bè sẽ
giúp học sinh có kiến thức về các vấn đề giới tính cao hơn. Các kết quả khảo
sát trên là những chỉ báo rất tốt cho việc nắm được tình trạng tìm hiểu thông
tin về giới tính của học sinh. Và giúp chúng ta định hướng trong việc lựa
chọn tập trung vào nguồn thông tin nào hay đối tượng nào cho hiệu quả khi
thiết kế các chương trình truyền thông về giới tính trong tương lai.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 198_725.pdf