Xác định cơ cấu sản phẩm (cơ cấu ngành kinh tế) hợp lý theo hướng khai thác lợi thế đất nước phù hợp với tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hội nhập là vấn đề có tính phổ biến trên thế giới.
Về thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta, trong những năm qua có thể rút ra nhận xét tổng quát sau: Cả về định hướng thị trường lẫn cơ cấu sản phẩm ở nước ta hiện nay đang đan xen giữa các thời kỳ. Điều đó có lý do từ:
- Điểm xuất phát của quá trình phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta còn thấp, sức sản xuất (năng lực sản xuất) của các ngành và các nhóm ngành kinh tế quốc dân còn yếu kém lại phân bố phân tán.
- Sự tìm kiếm lợi thế của nước đi sau đối với thị trường "ngách" hay "phân đoạn thị trường phù hợp" còn nhiều lúng túng.
- Sự đào thải tự nhiên đối với sản phẩm, do quá trình đổi mới cơ cấu sản phẩm diễn ra chậm chạp.
- sự tiếp nhận thông tin thị trường, thông tin khoa học kỹ thuật, thông tin quản lý còn nhiều bất cập.
38 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1665 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của một số nước trong khu vực và vận dụng vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p luật hoàn chỉnh. Duy trì môi trường chính sách ôn hoà và ổn định. Đầu tư vào dân chúng và cơ cấu hạ tầng. Bảo vệ mọi người dân bằng nhiều chính sách xã hội.
- Xây dựng các thể chế cho các khu vực nhà nước có năng lực. Các thể chế bền vững được xây dựng dựa trên những biện pháp kiểm tra và cân đối gắn liền với các thể chế nhà nước nòng cót. Đó là nền tảng của một khu vực nhà nước có hiệu quả. Nhà nước cần phải có khả năng cao về xây dựng và phối hợop chính sách.
- Kiềm chế sự chuyên quyền độc đoán của Nhà nước trong hành động và bài trừ tham nhũng. Nhà nước muốn làm việc có hiệu quả cao thì cần phải thiết lập nuôi dưỡng những cơ chế mang lại cho cơ quan nhà nước sự mềm dẻo và sự hoạt động vì lợi ích chung, kiềm chế hành vi độc đoán tham nhũng trong những cách cư xử với doanh nghiệp và người dân.
- Đưa nhà nước tới gần dân hơn. Tạo điều kiện dễ dàng cho các hoạt động tập thể quốc tế nhằm phát triển nhu cầu hợp tác quốc tế, mở rộng thị trường, thu hút đầu tư đưa nền kinh tế phát triển.
- Nhà nước trong mô hình này phải có chiến lược của chính sách điều chỉnh. Trước hết là sự lựa chọn chính sách quyết định sự cân đối giữa chính sách đóng cửa và mở cửa tạo ra sự thay đổi rõ rệt đối với chính quá trình chuyển đổi về cơ cấu. Tiếp theo là sự xem xét môi trường và chính sách, thể hiện vai trò quan trọng của nhà nước trong quá trình thúc đẩy điều chỉnh cơ cấu kinh tế.
b. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo mô hình hướng ngoại.
Mô hình hướng ngoại là mô hình với chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế phát triển theo hướng phát triển nhiều hơn, có thể thúc đẩy thương mại và các luồng tư bản đổ vào khuyến khích lợi nhuận giữa việc sản xuất cho thị trường trong nước hay thị trong ngoài nước tạo ra khả năng sinh lãi cao hơn trong việc sản xuất hàng hoá xuất khẩu. Có hai loại hình của chiến lược kinh tế mở cửa đó là:
* Thứ nhất: Tạo ra các khuyến khíc về giá cả một cách tích cực theo hướng có lợi cho xuất khẩu.
* Thứ hai: Tạo ra sự trung lập thích hợp về giá cả giữa sản xuất cho thị trường trong nước và ngoài nước. Tức là chuyển các khuyến khích theo hướng có lợi cho sự mở cửa.
Đặc điểm của chính sách hướng ngoại ban đầu ở các nước đang phát triển là hướng vào xuất khẩu những hàng nông sản truyền thống và thực hiện chính sách thuế nhập khẩu vừa phải để tăng nguồn thu cho chính phủ, nhằm nâng cao cơ sở hạ tầng hỗ trợ cho xuất khẩu. Mô hình này được thực hiện với các chính sách thương mại thiên về ủng hộ sự thay thế nhập khẩu, tạo một biểu thuế nhập khẩu đem lại nguồn thu thích hợp mà không cần bảo hộ mạnh mẽ. Sau khi hoàn thành giai đoạn đầu của việc thay thế nhập khẩu các nước phát triển thường chuyển sang các chính sách hướng ngoại đối với các ngành chế tạo máy. Cách tốt nhất là quan tâm đến việc cung cấp các đầu vào cho các nhà xuất khẩu trong khi cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng đầy đủ.
Chuyển dịch cơ cấu theo mô hình hướng ngoại rất có ý nghĩa đối với thuế quan và các hình thức khác của chính sách bảo hộ mậu dịch, chính sách tỷ giá hối đoái và quản lý kinh tế vĩ mô trong nước. Ưu tiên của mô hình này là thúc đẩy quá trình đổi mới, tăng năng suất lao động nhanh, tạo ra khả năng thích nghi cho nền kinh tế, tác động tốt đến quá trình phát triển dài hạn, có tác dụng tốt với tăng GDP.
Tuy nhiên chiến ưlợcc này mang lại cho chính phủ nước sử dụng ít có khả năng hành động theo ý mình hơn, có tác dụng xấu đối với công nghệ trong nước do phải dựa vào tư liệu sản xuất và công nghệ nhập khẩu đặc biệt đối với các nước nhỏ có thu nhập thấp mà kinh tế nước họ có vị thế không thuận lợi. Khi điều kiện quốc tế không thuận lợi sẽ đem lại ảnh hưởng xấu cho kinh tế xã hội trong nước.
c. Chuyển cơ cấu kinh tế theo mô hình ưhớng nội.
Với mục tiêu là phát huy tính chủ động của chính phủ trong quản lý kinh tế, đảm bảo và duy trì sự phát triển của các ngành sản xuất truyền thống dân tộc, nhiều nước đã thực hiện chính sách chuyển dịch cơ cấu theo mô hình hướng nội.
Mô hình hướng nội là chínhh sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế có xu hướng hướng nội, có chiến lược đóng cửa nhiều hơn. Nó khuyến khích theio hướng sản xuất cho thị trường trong nước, nhấn mạnh thay thế nhập khẩu, tự túc về lương thực và có thể cả các mặt hàng phi mậu dịch.
Ban đầu chính phủ sẽ lựa chọn chính sách cơ cấu kinh tế nhằm thúc đẩy tính tự lực quốc gia, đặc biệt là tăng cường sản xuất lương thực, các nông sản, khoáng sản mà chúng không được nhập khẩu. Các biểu thuế nhập khẩu, quốc tế nhập khẩu lương thực được thực hiện, chính phủ cũng đánh thuế vào hàng xuất khẩu nhằm nâng cao nguồn thu.
Các chính trên sẽ đem tới sự mở rộng cho các ngành nông nghiệp nhỏ với sự trợ cấp thích hợp, dần dần khuyến khích nền công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu. Bên cạnh chính sách hỗ trợ chung họ còn thực hiện hỗ trợ có lựa chọn cho nền công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu.
Mô hình này thựcc hiện núp sau bức tường bảo hộ mậu dịch do đó tạo ra sức ép về cạnh tranh hơn, làm cho cơ cấu sản xuất ít nhạy bén hơn, gây sự trì trệ cho phát triển kinh tế, tăng trưởng GDP.
2.3. Những quan niệm về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Như chúng ta đã nêu phần trên về cơ cấu ngành kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế chúng ta thấy sức ép và nhu cầu của thị trươngf, yêu cầu phát triển kinh tế đòi hỏi phải thay thế, thay đổi cơ cấu ngành của nền kinh tế gọi là chuyển dịch cơ cấu ngành từ trạng thái này sang trạng thái khác, hợp lý hơn và hiệu quả hơn.
Chuyển dịch cơ cấu ngành phải được coi là điểm trọng yếu một nội dung cơ bản lâu dài trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nếu xác định phương hướng, giải pháp chuyển dịch đúng sẽ đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội cao trong sự phát triển. Ngược lại sẽ phải trả giá đặt cho những sự phát triển về sau.
Trong sự phát triển thời đại ngày nay, sự thay đổi nhanh chóng của nhu cầu thị trường và tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ ở các nước đều đặt ra vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành. Riêng ở các nước đang phát triển, chuyển dịch cơ cấu ngành phải luôn luôn gắn liền với công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tạo lập cơ cấu ngành phù hợp với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Yêu cầu đặt ra là phải định vị được một cơ cấu các ngành kinh tế, xác định hợp lý các ngành mũi nhọn, trong điểm cho phù hợp với mỗi giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thành công hay thất bại phụ thuộc rất nhiều vào khâu quyết định chủ trương chính sách chuyển dịch và tổ chức thực hiện mục tiêu nhiệm vụ đã xác định. ở đây nhà nước có vai trò quyết định trong việc hoạch định chủ trương và chính sách kinh tế vĩ mô, còn các doanh nghiệp thì có vai trò quyết định việc thực thi phương hướng nhiệm vụ chuyển dịch.
2.4. Những yếu tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế.
Đối với cơ cấu kinh tế thì nó chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhóm nhân tố, có thể kể ra đây gồm những nhóm như:
- Nhóm những nhân tố chính trị xã hội.
- Nhóm những nhân tố mang tích chất xu hướng vận động của các nền kinh tế.
- Nhóm những nhân tố thuộc về kinh nghiệm trong nước, quốc tế.
- Nhóm những nhân tố thuộc về những điều kiện thực hiện chính sách cơ cấu kinh tế.
- Nhóm những nhân tố thuộc về những thực trạng chính sách cơ cấu kinh tế.
Chính vì thế việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cũng phải chịu tác động của nhiều yếu tố từ các nhóm nhân tố trên: Thị trường tiến bộ khoa học công nghệ, các nguồn lực, định hướng phát triển c ủa chính phủ, kinh tế đối ngoại, điều kiện, môi trường lịch sử xã hội của sự phát triển kinh tế v.v. ở đây, xin được nhấn mạnh những yếu tố sau:
a. Thị trường, đặc biệt là nhu cầu tình hình cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đầu tiên tới cơ cấu ngành của nền kinh tế. Chính nhu cầu, cơ cấu nhu cầu và xu thế vận động của chúng đặt ra những mục tiêu cần vươn lên để thoả mãn, là cơ sở để đảm bảo tính thực thi và hiệu quả ngành của nền kinh tế.
b. Những định hướng chiến lược và vai trò quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước cũng có vai trò rất quan trọng đối với việc hình thành cơ cấu ngành. Trong trường hợp phó mặc cho sự tác động của thị trường thì sự hình thành cơ cấu ngành mong muốn sẽ quá chậm, nhất là những ngành bao gồm các doanh nghiệp hoạt động không vì mục đích lợi nhuận hoặc mức lãi thấp. Ngược lại, những định hướng thiếu cơ sở khách quan hoặc sự can thiệp quá sâu của nhà nước trong quá trình thực hiện đều dẫn tới chỗ hình thành cơ cấu ngành kém hiệu quả.
c. Tác động của tiến bộ khoa học nghệ có ảnh hưởng nhiều mặt đến cơ cấu ngành của nền kinh tế. ở nước ta, yếu tố này đã thúc đẩy sự ra đời và phát triển một số ngành như dầu khí, điện tử, làm thay đổi quy mô, tốc độ phát triển của các ngành chế biến, dịch vụ.
d. Các nguồnn lựcc và lợi thế so sánh của đất nước là cơ sở để hình thành và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế một cách bền vững, có hiệu quả.
Phần II
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
1. Những vấn đề chung về công nghiệp hoá, hiện đại hoá
1.1. Quan niệm về công nghiệp hoá
Để thủ tiêu tình trạng nghèo nàn lạc hậu, khai thác tối ưu các nguồn lực và lợi thế, bảo đảm nhịp độ tăng trưởng nhanh, ổn định, giải quyết cơ bản các vấn đề kinh tế xã hội bức bách, mỗi quốc gia phải xác định được cơ cấu kinh tế hợp lý, trang bị kỹ thuật hiện đại và ứng dụng rộng rãi các phương pháp sản xuất tiên tiến cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân. Quá trình ấy gắn với quá trình công nghiệp hoá, sự gắn bó ở đây là gắn bó hữu cơ, chặt chẽ.
Trong thực tế có nhiều quan niệm khác nhau về phạm trù công nghiệp hoá. Ta có thể rút ra nhận xét về công nghiệp hoá như sau:
- Quá trình công nghiệp hoá nhằm thực hiện hệ thống các mục tiêu chứ không phải nhằm mục tiêu kinh tế - kỹ thuật. Nội dung của quá trình công nghiệp hoá là đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, thực hiện cách mạng khoa học công nghệ và phân công lại lao động xã hội. Do vậy, nó động chạm đến tất cả các ngành kinh tế quốc dân chứ không chỉ riêng công nghiệp.
- Xét trong quan hệ với xây dựng xã hội chủ nghĩa, quá trình công nghiệp hoá gắn liền với thời kỳ quá độ nên khi kết thúc thời kỳ quá độ nhiệm vụ trọng tâm của phát triển kinh tế sẽ thay đổi. Tuy rằng các quốc gia cùng thực hiện công nghiệp hoá nhưng mục tiêu và quá trình thực hiện các quốc gia sẽ không giống nhau do điều kiện kinh tế - xã hội và quan điểm công nghiệp hoá khác nhau.
1.2. Bản chất công nghiệp hoá, hiện đại hoá:
Việc định nghĩa về công nghiệp hoá một cách khái quát không phải là điều dễ. Bởi thế chúng ta cần hiểu một cách thống nhất bản chất của quá trình công nghiệp hoá, trên cơ sở vận dụng phù hợp với điều kiện thực tế của mỗi quốc gia. Bản chất công nghiệp hoá bao hàm những mặt sau:
* Thứ nhất: Công nghiệp hoá là nhiệm vụ tất yếu, một quy luật có tính phổ biến đối với tất cả các quốc gia để chuyển từ trạng thái lạc hậu kém phát triển và phụ thuộc sang một xã hội phát triển và văn minh.
* Thứ hai: Mục tiêu của công nghiệp hoá là bảo đảm sự phát triển kinh tế - xã hội nhanh, ổn định và vững chắc, khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nước để nâng cao đời sống vật chất - tinh thần cho dân cư, xây dựng xã hội văn minh công nghiệp. Mục tiêu này được thực hiện dần từng bước trong mỗi giai đoạn có mục tiêu ưu tiên riêng.
* Thứ ba: Công nghiệp hoá gồm nhiều nội dung khác nhau, có quan hệ chặt chẽ với nhau. Những nội dung cơ bản có tính phổ biến là: ứng dụng kỹ thuật và công nghệ sản xuất hiện đại đối với tất cả các ngành kinh tế của nền kinh tế quốc dân trước hết là những ngành quan trọng nhất:
- Xây dựng những yếu tố cơ bản nhằm khai thác, bảo tồn tái tạo các nguồn lực. Đặc biệt là những nguồn lực tự nhiên mang lại.
- Xây dựng cơ cấu đa ngành. Sự cân đối giữa các ngành, các vùng được xem xét trong điều kiện kinh tế mở để phát huy lợi thế mỗi nước.
- Phân công lao động xã hội lại theo ngành và theo vùng.
* Thứ tư: Công nghiệp hoá là một quá trình mang tính quy luật gắn liền với quá trình phát triển của mỗi quốc gia. Để đánh dấu sự kết thúc của quá trình rộng lớn phức tạp lâu dài này cần có những tiêu chuẩn nhất định.
* Thứ năm: Công nghiệp hoá cũng chính là hiện đại hoá. Để thực hiện những mục tiêu và nội dung cơ bản ở trên cần có những bước đi điều kiện, giải pháp thích ứng.
1.3. Cơ sở khoa học việc thực hiện công nghiệp hoá
Ngày nay có nhiều học thuyết khác nhau về thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, muốn hoạch định chính sách, chiến lược chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng CNH, HĐH cần nghiên cứu vận dụng nhiều học thuyết kinh tế khác nhau. Có thể các học thuyết tiêu biểu là:
- Học thuyết Mác - Lênin
- Thuyết cất cánh của W.Rostow
- Học thuyết Keynes
2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá các ngành kinh tế quốc dân nước ta
2.1. Điều kiện và bối cảnh tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá các ngành kinh tế quốc dân
Trải qua nhiều năm khôi phục xây dựng, phát triển kinh tế xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng, bước đầu chúng ta đã tạo ra những tiền đề cần thiết quan trọng để tiếp tục quá trình công nghiệp hoá. Tiền đề đó không phải chỉ là đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý công nhân kỹ thuật, cơ sở vật chất kỹ thuật trong các ngành kinh tế quốc dân mà còn là hệ thống thể chế cần thiết đã được xác lập và sự ổn định chính trị xã hội.
Tiềm năng về tài nguyên, lao động của đất nước chưa được khai thác sử dụng tốt. Đất nước ta nằm ở khu vực có sự phát triển kinh tế năng dộng và nhanh hơn so với nhiều khu vực khác trên thế giới. Thêm vào đó cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới phát triển nhanh như vũ bão. Xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế diễn ra mạnh mẽ và cuốn hút các quốc gia vào guồng máy kinh tế chung và ảnh hưởng lẫn nhau. Cùng với những điều kiện thuận lợi đó chúng ta còn phải đối đầu với khó khăn như: tình hình thế giới khu vực diễn biến phức tạp, nhiều nhân tố không ổn định trong quan hệ quốc tế, nước ta còn ở trình độ thấp của phát triển kinh tế, phát triển khoa học kỹ thuật, mức sống. Vì thế quá trình công nghiệp hoá các ngành kinh tế của chúng ta sẽ là những thời cơ, điều kiện mới, và cả những thử thách gay gắt to lớn.
2.2. Phương hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá các ngành kinh tế quốc dân
Quán triệt những quan điểm chung về công nghiệp hoá cho phù hợp với yêu cầu đặc điểm của nền kinh tế quốc dân và mỗi ngành, phương hướng công nghiệp ở nước ta là:
a) Công nghiệp hoá là quá trình lâu dài gắn liền với quá trình các ngành kinh tế và quá trình phát triển ngày càng hiện đại nhằm thực hiện mục tiêu cuối cùng là thực hiện "dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh". Trong hoàn cảnh hiện nay công nghiệp hoá là con đường duy nhất đúng đắn để phát triển kinh tế xã hội nhanh, vững chắc, hiệu quả. Khi nào đất nước ta trở thành một nước giàu, hiện đại, phát triển thì khi đó nhiệm vụ công ngghiệ hoá mới được hoàn thành. Hiện nay, chúng ta đang ở trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá vì thế mục tiêu trước mắt là đưa nền kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao, bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc xã hội, bảo đảm an nhinh quốc phòng cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao tích lũy nội bộ nền kinh tế tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn ở giai đoạn sau.
b. Phát triển đồng thời cả ba lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ trong hệ thống mở với cơ cấu năng động có hiệu quả và chuyển dịch theio hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các ngành thuộc ba lĩnh vực trên có quan hệ hữu cơ ràng buộc lẫn nhau trong sự phát triển. Công nghiệp hoá các ngành kinh tế quốc dân cần thực hiện theo hướng:
- Phát triển nhanh và có hiệu quả các ngành sản xuất vật chất (công nghiệp, nông nghiệp) và dịch vụ trong một cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ, vừa khai thác tốt nguồn lực và lợi thế của đất nước, vừa tham gia tốt vào phân công, hợp tác quốc tế.
- Nông nghiệp phát triển theo hướng đa dạng hoá, có năng suất chất lượng, hiệu quả ngày càng cao, độ bền vững về kinh tế, sinh thái nhằm thực hiện mục tiêu trực tiếp: đảm bảo lương thực, thực phẩm cho tiêu dùng trong nước, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, sản phẩm cho xuất khẩu và tạo ra thị trường rộng lớn cho tiêu thụ sản phẩm của công nghiệp và dịch vụ. Theo hướng trên nông nghiệp cần tăng cả về chất và lượng.
- Phát triển công nghiệ chế biến gắn liền với nông lâm ngư nghiệp đáp ứng nhu cầu trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu, phát huy lợi thế so sánh, sinh thái, tài nguyên, giảm dần và tiến tới chấm dứt xuất khẩu sản phẩm dưới dạng nguyên liệu thô. Phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng thoả mãn nhu cầu về các loại hàng thông thường, tăng mức đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của nhân dân và đẩy mạnh xuất khẩu. Ưu tiên phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật như đường sá cầu cống, điện nước… Phục vụ cho sản xuất đời sống. Phát triển có trọng tâm các ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất, khai thác chế biến khoán sản việc phát triển công nghiệp nặng đòi hỏi phải cân nhắc đảm bảo phục vụ có hiệu quả sản xuất nông lâm ngư nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu, tài nguyên thiên nhiên. Quá trình phát triển các ngành này phải căn cứ vào hiệu quả, khả năng đầu tư, đặc biệt là khả năng tranh thủ vốn, kỹ thuật nước ngoài.
- Pht các ngnàh, hoạt động dịch vụ với một cơ cấu đa dạng chất lượng ngày càng cao, trình độ văn minh, hiện đại để khai thác tốt nhất mọi nguồn lực, gắn liền, phục vụ tốt nhất các ngành sản xuất vật chất và cùng nó thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế xã hội. Phát triển nhanh và đi thẳng vào hiện đại với một số hoạt động dịch vụ. Cần ưu tiên, tạo điều kiện phát triển các loại dịch vụ mang lại hiệu quả cao khuyến khích các htành phần kinh tế tham gia vào dịch vụ. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ trong cơ cấu chung của nền kinh tế quốc dân mà là phải tạo ra sự thay đổi về chất trong cơ cấu trình độ pot của mỗi ngành.
c. CNH các ngnàh kinh tế quốc dân phải dựa trên cơ sở áp dụng nhanh chóng và có hiệu quả tiến bộ khoa học và công nghệ vào tất cả các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ.
- Nâng cao trình độ trang bị kỹ thuật và đổi mới công nghệ trong tất cả các ngành, lĩnh vực nhằm tạo ra nhiều hàng hoá, dịch vụ tốt về chất lượng, chi phí giảm xuống, lợi nhuận cao hơn, mở rộng được sản xuất tăng việc làm.
- Kết hợp kỹ thuật và công nghệ nhiều trình độ theo hướng sử dụng tốt kỹ thuật và công nghệ hiện có chưa được khai thác sử dụng tốt, hiện đại hoá kỹ thuật và công nghệ truyền thống, tranh thủ đi thẳng vào công nghệ kỹ thuật hiện đại ở nơi có nhu cầu điều kiện.
- Chú trọng áp dụng công nghệ mà có hiệu quả về mặt kỹ thuật vừa có hiệu quả cao về mặt kinh tế, xã hội, môi trường. Đó là những công nghệ hao ít vốn đầu tư, tạo nhiều việc làm, không ảnh hưởng đến môi trường.
- Thực hiện phương pháp tổ cưức sản xuất và tổ chức lao động khoa học trong tổ chức quản lý quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Theo các mục tiêu phương hướng trên mỗi lĩnh vực, ngành đều phải nâng c ao trình độ kỹ thuật và công nghệ với nội dung, bước đi phương thức thực hiện thích hợp, tuỳ thuộc vào khả năng vai trò vị trí, đặc điểm của từng ngành, thậm chí từng sản phẩm. Thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, hoá học hoá, sinh học hoá là chủ yếu, đồng thời tranh thủ đi vào kỹ thuật công nghệ hiện đại đối với một số ngành, dây chuyền, sản phẩm có nhu cầu, điều kiện mang lại hiệu quả kinh tế quốc dân cao.
d. Công nghiệp hoá các ngành kinh tế quốc dân phải thúc đẩy phân công lao động xã hội theo hướng sản xuất hàng hoá quy mô lớn.
Quá tìnhh công nghiệp hoá ở nước ta cũng chính là quá trình thực hiện phân công lao động xã hội làm xuất hiện nhiều ngành nghề mới, làm cho cơ cấu ngành kinh tế càng sâu sắc, phong phú, tiến bộ hơn. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, của cuộc khoa học công nghệ và trong tình hình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới, sự phát triển của phân công lao động xã hội tất yếu phải diễn ra theo hướng hình thành và phát triển các ngành sản xuất hàng hoá quy mô lớn, thể hiện ở các mặt.
- Phát triển nền kinh tế nước ta theo hệ thống mới, làm cho kinh tế nước ta có thể hoà nhập vào kinh tế thế giới, tham gia vào phân công lao động quốc tế và hợp tác quốc tế. Chú trọng phát triển những ngành, sản phẩm xuất khẩu đồng thời tranh thủ lợi thế so sánh về tài nguyên, sức lao động, vị trí địa lý.
- Phát triển đa dạng ngành nghề để tận dụng khai thác tốt mọi nguồn lực. Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá dịch vụ ở thị trường trong nước và ngoài nước. Cần tiến hành phân công lại lao động tại chỗ. Đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn; phát triển toàn diện nông lâm ngư nghiệp hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Nâng cao cải tạo mở rộng xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng kinh tế.
2.3. Quan điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta.
- Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng một nền kinh tế mở, hợp nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả.
- Công ngiệp hoá, hiện đại hoá phải theo định hướng XHCN, quan điểm này xuất phát từ bản chất XHCN của nền kinh tế. Việt Nam đang trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường XHCN. Nền kinh tế thị trường dựa trên cơ sở chế độ công hữu nhằm mục tiêu phát triển. Quan điểm này chi phối tới việc lựa chọn các lợi hình cơ cấu kinh tế mà còn chi phối việc sử dụng các vấn đề như chính sách.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, tiến hành trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Qua điểm này khẳng định rõ hướng phát triển của nền kinh tế, của cơ cấu thành phần kinh tế và vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
- Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh, bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước, không ngừng tăng tích luỹ cho đầu tư phát triển. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hoá, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
- Khoa học kỹ thuật công nghệ là động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định.
- Lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ. Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực; sản xuất hiện có. Trong phát triển mới, ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh; đồng thời xây dựng một số công trình quy mô lớn, thật cần thiết có hiệu quả. Tạo ra những mũi nhọn trong từng bước phát triển. Tập trung thích đáng vào các lĩnh vực, ngành mũi nhọn.
- Hoàn thiện không ngừng cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, tận dụng mọi thời cơ trong nước, quốc tế. Quan điểm này đòi hỏi phải thúc đẩy sự chuyển dịch không ngừng cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ phù hợp với điều kiện mới, phát huy cao nhất mọi cơ hội.
2.4. Những điều kiện, biện pháp chủ yếu nhằm thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá các ngành kinh tế quốc dân ở nước ta.
a. Phát triển nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội các mối quan hệ liên kết giữa các ngành của nền kinh tế quốc dân.
Sự phát triển của phân công lao động, việc đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh cho các hộ gia đình và doanh nghiệp thuộc các ngành, thành phần kinh tế khác nhau, xu thế chuyên môn hoá và đạng hoá sản xuất kinh doanh, yêu cầu các doanh nghiệp phải tồn tại phát triển trong cạnh tranh đòi hỏi phải nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội các mối quan hệ liên kết kinh tế giữa các ngành thuộc các htành phần kinh tế trong quá trình tái sản xuất mở rộng…
b. Thúc đẩy nghiên cứu ứng dụng khoá học kỹ thuật công nghệ vào sản xuất và đời sống.
Công nghiệp hoá được thực hiện nhanh hay chậm có hay không hiệu quả kinh tế - xã hội cao là tuỳ thuộc rất nhiều vào phạm vi, nhịp độ, hiệu quả của ứng dụng khoa học công nghệ. Mỗi ngành cần lựa chọn cho mình phương hướng, nội dung tiến bộ khoa học công nghệ thích hợp, căn cứ vào mục tiêu phát triển sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế xã hội, vốn, lao động mình hiện có từ đó tính toán hiệu quả toàn diện kinh tế, kỹ thuật, xã hội, môi trường.
Phát triển sâu rộng quan hệ liên kết kinh tế giữa khoa học với sản xuất, đào tạo với nghiên cứu khoa học và sản xuất. Tổ chức lại các viện nghiên cứu các trường đại học theo hướng tập trung, kết hợp có hiệu quả các nguồn lực gắn khoa học với đào tạo, gắn nghiên cứu và đào tạo với thị trường.
c. Phân bổ, sử dụng đào tạo, bồi dưỡng lao động cho các ngành.
Lao động là yếu tố trung tâm, là nguồn lực lớn nhất, cơ bản nhất trong phát triển kinh tế xã hội ở nước ta. Sự nghiệp công nghiệp hoá các ngành không thể thành công nếu không có sự quan tâm tới sự phân bổ, sử dụng đào tạo lao động.
Có chương trình giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp dựa trên cơ sở các biện pháp phát triển đa ngành, có chiến lược, quy hoạch phát triển cách ngành, thực hiện chế độ tiền lương hoàn thiện hơn - xã hội hoá giáo dục đào tạo gắn giáo dục đào tạo với công nghiệp hoá, với chiến lược chú trọng giáo dục hướng nghiệp cho học sinh, sinh viên học nghề.
d. Huy động nhiều nguồn vốn và sử dụng vốn có hiệu quả.
Vốn là chìa khoá để công nghiệp hoá. Vốn cho việc công nghiệp hoá các ngành kinh tế quốc dân có thể nhiều hoặc ít tuỳ thuộc vào sự vận động cơ chế huy động, quản lý, hiệu quả sử dụng vốn.
- Giải quyết tốt quan hệ giữa phát triển với đầu tư, tiết kiệm, tiêu dùng. Tăng tỷ lệ đầu tư trong GNP lên tới 20% bằng các chính sách phát triển kinh tế. Huy động mọi nguồn vốn có thể huy động được. Khởi động mọi nguồn vốn trong nước, chú trọng tăng cả số lượng, tỷ trọng phần không phải là vốn ngân sách cấp. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua nhiều hình thức, xây dựng hoàn thiện luật đầu tư nước ngoài, tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư trong tất cả các khu: bố trí cơ cấu đầu tư, cơ chế cấp phát vdà cho vay vốn, xây dựng cơ bản, sử dụng vốn và tài sản. Cơ cấu đầu tư phải gắn phục vụ cơ cấu kinh tế, chú trọng đầu tư theo chiều sâu giảm đến mức thấp nhất bao cấp qua đầu tư.
e. Đổi mới cơ chế quản lý và nâng cao vai trò của nhà nước đối với sự nghiệp công nghiệp hoá nhanh và có hiệu quả.
Cơ chế quản lý của nhà nước và vai trò của nhà nước quyết định sự thành bại, kìm hãm hoặc thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá. Nhà nước cần phải đảm bảo quyền tự do kinh doanh cho các doanh nghiệp tư nhân trong khuôn khổ luật pháp. Đa dạng hoá các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh theo nguyên tắc hiệu quả, tự nguyện, đa dạng, đan kết các hình thức sở hữu. Tạo ra sự ổn định chính trị để tạo điều kiện cho phát triển kinh tế - xã hội. Phát huy vai trò định hướng, điều tiết, tạo ra môi trường, điều kiện cho sản xuất kinh doanh. Tạo sự nhất quán thống nhất trong các chính sách. Nhanh chóng đổi mới hệ thống bộ máy quản lý kinh tế xã hội cho phù hợp với kinh tế thị trường dựa trên cơ sở nâng cao quyến tự do kinh doanh cho các doanh nghiệp và người lao động, nâng cao vai trò của nhà nước pháp quyền phân định rõ chức năng quản lý nhà nước. Nhà nước trung ương xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển các ngành, địa phương cùng nhà nước quản lý đảm bảo các vấn đề xã hội, môi trường kết cấu hạ tầng cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh.
Phần III
kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
của một số nước trong khu vực
1. Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
1.1. Xuất phát từ tình hình, xu hướng chung của khu vực, thế giới.
Trong mấy thấp kỷ qua, các nước vùng Châu á - Thái Bình Dương đã tận dụng khá tốt những lợ thế so sánh để phát triển nền kinh tế của mình nên đã đạt tốc độ tăng trưởng khác cao, làm cho khu vực này trở thành khu vực phát triển kinh tế năng động nhất trên thế giới. Nờ đó, đã xuất hiện những nước công nghiệp hoá mới, có những nước đã đứng vào hàng ngũ các nước có tốc độ tăng trưởng cao. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế ở các nước này giá nhân công ngày càng tăng đã làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm do họ sản xuất ra bởi giá thành tăng. Các nước này vì thế phải tìm cách chuyển một phần cách lĩnh vực sản xuất khó cạnh tranh sang các nước khác dưới hình thức đâù tư, chuyển giao công nghệ. Các nước kém phát triển hơn lại có nhu cầu tiếp nhận các công nghệ có trình độ thấp để từng bước tham gia vào thị trường thế giới, tạo ra cơ may, tại điều chính hành vi và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị t rường thế giới. Sự gặp gỡ cung và cầu công nghệ trình độ thấp đã thúc đẩy nhanh quá trình chuyển giao công nghệ và đầu tư trực tiếp vaò các nước đang phát triển làm thay đổi cơ cấu kinh tế ở các nước này.
- Sự thay đổi nhanh chóng của khoa học công nghệ đã tạo ra nhữn lĩnh vực công nghệ mới, có hiệu quả cao đặc biệt là các công nghệ tiếp kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường. Việc thực hiện công nghệ này trước mắt chưa thu lợi nhuận, nhưng trong tương lai thì lại có cưo sở để tiành vị trí thống trị hoặc áp đảo thị trường khu vực và thế giới. Trước những biến đổi nhanh chóng trên thế giới đòi hỏi chúng ta phải nhận thức rõ để không bị lạc hậu, phải biết tận dụng những lợi thế của nước đi sau để phát triển, hội nhập mà không bị biến thành nơi tiếp nhận những công nghệ trình độ thấp, bị lệ thuộc vào các nước xuất khẩu công nghệ. Việt Nam là một trong những nước nghèo trên thế giới, dù chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế xã hội trong thời gian qua. Song so với các nước trong khu vực và trên thế giới chúng ta cần phải phấn đấu hơn nữa. Một trong những giải phpá quan trọng đó chính là phải điều chỉnh cơ cấu kinh tế đặc biệt là cơ cấu ngành cho phù hợp với tình hình kinh tế trong nước và khu vực, thế giới theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
1.2. Xuất phát từ yêu cầu trong nước.
Mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiên tiến, phù hợp với trình dodọ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Từ nay đến 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Với mục tiêu trên thì yêu cầu lực lượng sản xuất của chúng ta đến lúc đó sẽ đạt trình độ khá hiện đại, phần lớn lao động thủ công được thay thế bằng lao động sử dụng máy móc, điện khí hoá cơ bản được thực hiện trong cả nước, năng suất lao động xã hội và hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn so với hiện nay. Công nghiệp và dịch vụ sẽ phải chiếm tỷ trọng rất lớn trong GDP và lao động xã hội dù nông nghiệp vẫn tiếp tục phát triển mạnh… Muốn thực hiện được mục tieu đề ra chúng ta không còn cách nào khác buộc phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế đặt biệt là cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá.
- Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nhằm đáp ứng được sự phân công lao động quốc tế sớm đưa Việt Nam hội nhập vào khu vực và thế giới tạo cho chúng ta có được chỗ đứng và thế mạnh trong thời đại Châu á- Thái Bình Dương. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cũng nhằm khai thác, tận dụng hết những tiềm năng của Việt Nam. Thứ nhất đó chính là tiềm năng con người, còn người Việt Nam được đánh giá là thông minh cần cù, chăm chỉ, nhẫn nại, giới trẻ có óc cầu tiến, có năng lực hấp thụ cái mới, thích ứng với hoàn cảnh mới. Hơn nữa với dân số gần 80 triệu dân với cơ cấu dân số tỷ lệ thanh niên cao thuận lợi cho phát triển. Với tỷ lệ lao động nông thôn cao việc chuyển dịch cơ cấu ngành cũng tận dụng được nguồn lao động dồi dào này. Thứ hai là tài nguyên thiên nhiên, dù không phải là nước giàu tài nguyên nhưng với số lượng vừa đủ để có thể trở thành những tích luỹ ban đầu quan trọng nhằm khởi động quá trình công nghiệp hoá và cung cấp nguyên liệu cho những ngành công nghiệp giai đoạn sau. Với bờ biển dài 3000km và vị trí địa lý thuận lợi làm cho chúng ta dễ dàng tiếp cận được với thị trường thế giới.
- Việt Nam đã gia nhập AFTA, hướng tới gia nhập WTO, việc tham gia các tổ chức này về cơ bản sẽ mang lại cho chúng ta nhiều cơ hội, và cũng có nhiều thách thức. Việc tận dụng tốt các cơ hội và đối phó với những thách thức buộc chúng ta phải có chiến lược công ngiệp hoá đúng đắn, có sự chuyển dịch kinh tế mạnh mẽ nhằm thúc đẩy sự phát triển trong nước, đưa hàng hoá của chúng ta đủ sức cạnh tranh đối với hàng hoá của các nước khác. Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá hướng về xuất khẩu của chúng ta có được sức sống để phát triển lớn mạnh.
1.3. Xuất phát từ những yêu cầu khác
- Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế quốc dân mang lại nhiều cơ hội cho sự phát triển không công bằng. Như ta đã biết phát triển và xây dựng xã hội công bằng là hai mục tiêu nhiều lúc trái ngược nhau. Thế nào là phát triển không công bằng? có nhiều khái niệm nhưng ở đây có thể hiểu đó là sự rút ngắn khoảng cách về mức thu nhập giữa các tầng lớp, thành quả của sự phát triển sẽ được phân phối đến mọi người một cách thoả đáng, công bằng. Ta thấy chuyển dịch cơ cấu ngành sẽ mang lại điều này một cách tốt nhất, bởi nó tạo ra nhiều cơ hội làm việc và tạo điều kiện cho đông đảo tầng lớp dân chúng tiếp cận cơ hội đó. Chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng CNH đi liền với phát triển nông thôn nơi có đại bộ phận lao động, sinh sống tại đây làm cho mức sống của họ sẽ tăng lên.
- Việt Nam là một nước đi sau trong phát triển, muốn đuổi kịp các nước khác một cách nhanh chóng thì cần phải có chính sách đúng đắn để đốt giai đoạn muốn thế chúng ta cần phải có chính sách đúng đắn trong chiến lược công nghiệp hoá, đó chính là phải có một cơ cấu kinh tế hợp lý, phải có một cơ cấu ngành đủ mạnh sẵn sàng tham gia phân công lao động quốc tế và cạnh tranh trên thị trường thế giới.
2. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế một số nước trong khu vực:
2.1. Chuyển dịch cơ cấu và phát triển kinh tế ở Malaixia
Là một nước giành độc lập từ năm 1957, Malaixia bắt đầu bằng một nền kinh tế (từ chỗ phụ thuộc Anh Quốc) trong đó có hai mặt hàng chiếm ưu thế là thiếc và cao su. Liên tiếp từ đó, nền kinh tế của Malaixia liên tục thực hiện chính sách đa dạng hoá rộng rãi các mặt hàng sản xuất và đã đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, trung bình từ 7% đến 8% hàng năm. Sản lượng GNP bình quân theo đầu người là 2000USD năm 1984. Danh mục các mặt hàng xuất khẩu có thêm dầu cọ, gỗ, ca cao và hạt tiêu. Không những thế Malaixia còn là nước sản xuất đứng đầu thế giới về cao su, thiếc, dầu cọ và gỗ nhiệt đới và là nước có khối lượng xuất khẩu lớn về dầu mỏ và khí tự nhiên hoá lỏng.
Bằng những chính sách thiết thực nhằm thu hút đầu tư nước goài vào ngành công nghiệp, số lượng hàng xuất khẩu tăng nhanh, nhất là về các linh kiện điện tử, hàng tiêu dùng đồ điện, sản phẩm dệt và các mặt hàng công nghiệp khác, góp phần đáng kể tăng trưởng kinh tế.
Sau những năm 1981-1982 (suy thoái kinh tế trên khắp thế giới), các mặt hàng xuất khẩu truyền thống của Malaixia bị giảm giá, làm giảm thu nhập và đầu tư. Nhà nước Malaixia đã tìm cách kích thích nền kinh tế và đẩy nhanh tăng trưởng công nghiệp bằng việc đầu tư vào một số dự án cơ sở hạ tầng và công nghiệp nặng. Chi tieu Chính phủ tăng bằng cách đi vay nợ nước ngoài để mua các cổ phần của các công ty nước ngoài với mục đích có điều kiện kiểm soát các công ty lớn của nước ngoài. Do vậy mà nợ nước ngoài của Malaixia tính đến năm 1984 đã tăng tới 15 tỷ đô la. Năm 1985-1986, do ảnh hưởng của giá dầu mỏ và dầu cọ trên thế giới giảm nhanh, sản lượng GNP theo đầu người giảm xuống còn 1600 USD bình quân đầu người, thâm hụt lớn trong ngân sách nhà nước. Chính phủ đã phải thay đổi một số chính sách như bãi bỏ một vài mục tiêu và chi tiêu và tăng trưởng trong kế hoạch lần thứ 5 (1986-1990), chú trọng hơn về khu vực tư nhân, tư nhân hoá một số công ty quốc doanh và của chính phủ; Công ty vận tải biển quốc gia và hàng không quốc gia được bán một phần cho các nhà đầu tư thông qua thị trường chứng khoán.
Nền kinh tế Malaixia bắt đầu được phục hồi từ năm 1987 liên tục đến 1989 nhờ sự cải tiến về giá cả hàng hoá và tăng trưởng trong sản xuất công nghiệp. GDP thực tế tăng 4,7% năm 1987; 9,5% năm 1988 và 7,7% năm 1989. Hàng xuất khẩu chiếm hơn 3/4 tăng trưởng, dẫn tới cán cân thanh toán dư thừa, đầu tư nước ngoài tăng lên, nợ nước ngoài giảm. Vốn là nước có nguồn lực và đất đai dồi dào, lực lượng lao động có học vấn tốt và môi trường chính trị ổn định, tiết kiệm trong nước mạnh tạo đủ vốn cho đầu tư, ngoài ra với chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, khả năng tăng trưởng của Malaixia là có triển vọng tiếp tục và thịnh vượng. Tuy nhiên, chính phủ Malaixia vẫn luôn phải có những chính sách phù hợp để đề phòng những tổn thương do biến động từ bên ngoài.
2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển kinh tế xã hội ở Trung Quốc
Trung Quốc là nước rộng (thứ ba trên thế giới) và đông dân cư (lớn nhất thế giới). Năm 1949, nhà nước mới thành lập, nền kinh tế bị ảnh hưởng nghiêm trọng do hậu quả của chiến tranh kéo dài và lạm phát cao. Chính phủ đã định ra những chính sách nhằm củng cố quyền lực, khôi phục trật tự xã hội và khắc phục tình trạng thất nghiệp và nạn đói. Đến năm 1952, hầu hết những vấn đề trên đã được giải quyết. Sau đó Chính phủ quyết định sửa đổi cơ cấu nền kinh tế, áp dụng mô hình kế hoạch hoá tập trung của Liên Xô. Giảm mức đầu tư nước ngoài vào nông ngiệp, kế hoạch 5 năm lần thứ nhất tập trung vào xây dựng công nghiệp nặng, đặc biệt là công nghiệp quốc phòng, phần lớn trang thiết bị được nhập từ Liên Xô. Từ năm 1957, Trung Quốc đạt mức tăng trưởng đáng kể (5,7% hàng năm). Nhiều chương trình thử nghiệm của cuộc "đại nhảy vọt" (1958-1960) như tập thể hoá nông thôn, loại bỏ các hình thức khuyến khích về tiền lương, v.v.. đã đem lại hậu quả là một cuộc suy thoái vào đầu những năm 60. Thời kỳ này cũng là thời kỳ Liên Xô cắt viện trợ và rút chuyên gia về nước do xảy ra mối bất hoà giữa hai nước Xô - Trung. Trung Quốc đã nhấn mạnh chính sách tự lực tự cường và giành đầu tư lớn hơn cho nông nghiệp. Tiếp ngay sau đó là cuộc cách mạng văn hoá (1966-1976) và hậu quả của nó đã làm hại nền kinh tế, phá hoại nền ngoại thương và gần như đóng cửa các cơ sở giáo dục và đào tạo.
Năm 1975, Chính phủ Trung Quốc đã vạch ra một loạt các mục tiêu kinh tế mới nhằm đưa Trung Quốc lên vị trí hàng đầu về kinh tế năm 2000. Chương trình "Bốn hiện đại hoá" với mục tiêu tăng nhanh sản lượng trong nông nghiệp, công nghiệp, khoa học kỹ thuật và quốc phòng. Năm 1978, dưới chính quyền của Đặng Tiểu Bình, chương trình lại được khẳng định lại với kế hoạch 10 năm. Một loạt các nhà máy hoàn chỉnh được nhập từ phương Tây, với tiền đề cơ bản của chính sách kinh tế là lợi ích của người tiêu dùng, năng suất kinh tế và sự ổn định về chính trị là không thể tách rời được. Mục tiêu là tăng thu nhập và tiêu dùng cá nhân, áp dụng những hệ thống sản xuất, khuyến khích và quản lý mới. Kế hoạch 5 năm lần thứ sáu đã công bố những cuộc cải cách trong nông nghiệp, quyền tự quản, khuyến khích cạnh tranh trên thị trường, giảm thuế đối với các xí nghiệp ngoài quốc doanh, thúc đẩy giao dịch trực tiếp giữa hai doanh nghiệp Trung Quốc và nước ngoài.
Những cuộc cải cách đã đem lại nhiều thành tựu to lớn, thu nhập quốc dân, sản lượng nông nghiệp, công nghiệp tăng lên 10% trong những năm 80. Thu nhập thực tế bình quân đầu người của nông dân tăng gấp đôi, của người dân thành thị tăng 43%. Trung Quốc đã tự túc sản xuất được ngũ cốc, các ngành sản xuất ở nông thôn nở rộ và tăng 23% sản lượng nông nghiệp, thu hút lao động dư thừa ở nông thôn. Những cuộc cải cách công nghiệp đã làm đa dạng hoá các mặt hàng công nghiệp nhẹ và hàng tiêu dùng sẵn có. Đội ngũ lãnh đạo đã đổi mới trong phương thức quản lý thể hiện trong việc thực hiện các biện pháp tài chính và hành chính, sự kết hợp hài hoà giữa việc định hướng của trung ương và sáng kiến của địa phương đã tạo ra một nền kinh tế với hệ thống hàng hoá xã hội chủ nghĩa chịu ảnh hưởng của cơ chế thị trường. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng cần phải giải quyết một loạt các vấn đề như tham những, lạm phát, thất nghiệp thông qua các biện pháp, chính sách phù hợp để có thể tiếp tục tiến bước vững chắc trên con đường phát triển.
Phần IV
Các giải pháp chủ yếu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta theo hướng hội nhập với nền kinh tế
khu vực và thế giới.
1. Cần rà xét để điều chỉnh hoàn thiện và nâng cao chất lượng quy hoạch. Chiến lược phát triển các ngành, các vùng và các địa phương.
Từ đầu những năm 1990 đến nay, chúng ta đã tập trung xây dựng quy hoạch và chiến lược phát triển theo một số ngành trọng điểm như: Xi măng, sắt thép, dệt may, thuỷ sản, da giầy… cho một số vùng kinh tế trọng điểm như vùng đồng bằng Sông Hồng, đồng bằng Sông Cửu Long, vùng tam giác kinh tế trọng điểm miền Trung… Trên cơ sở các bản quy hoạch và chiến lược phát triển đó nhiều dự án lớn quy mô quốc gia đã được xây dựng và thực hiện: dự án 327, dự án quy hoạch hệ thống cảng biển, dự án phát triển các khu chế xuất và khu công nghiệp tập trung, dự án trồng 5 triệu ha rừng đến năm 2010…
Nhìn chung, các bản quy hoạch chiến lược và dự án này đã góp phần:
- Quán triệt tinh thần và triển khai thực hiện tốt hơn đường lối chủ trương, chính sách… của Đảng và Nhà nước theo tinh thần Nghị quyết các Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII và VIII vào điều kiện cụ thể của từng ngành, từng vùng và từng địa phương, đặc biệt là quan điểm kinh tế - xã hội nước ta đến năm 2000 do Đại hội toàn quốc lần thứ VII thông qua.
- Quán triệt các thay đổi của tình hình đất nước trong những năm đầu thực hiện chủ trương đổi mới và chuyển đổi nền kinh tế đất nước vận hành theo cơ chế thị trường.
- Quán triệt và có các điều chỉnh cần thiết trước các biến động lớn trong bối cảnh quốc tế và khu vực.
- Định hướng phát triển các nhóm ngành lớn của nền kinh tế và góp phần chuyển dịch cơ cấu nội bộ các nhóm ngành, cơ cấu thành phần và cơ cấu vùng theo hướng tích cực, trong quỹ đạo chung chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước.
- Quán triệt các tư tưởng, quan điểm định hướng và mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong thời kỳ 2001 - 2010. Trước mắt, trong các năm 1999, 2000 cần căn cứ vào kết quả thực hiện chiến lược 1991 - 2000, vào c ác yêu cầu và bối cảnh thực tế trong những năm cuối cùng của thời kỳ chiến lược và vào các kết quả phân tích, dự báo chuẩn bị xây dựng chiến lược đến năm 2010 mà thực hiện việc điều chỉnh các mục tiêu, chính sách và giải pháp thực thi chiến lược. Trong rà xét và điều chỉnh các chiến lược và quy hoạch đã có, cần chú trọng nội dung cốt lõi là phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân theo yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phù hợp với tiến trình hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới.
- Xác định lại trật tự và tốc độ phát triển của từng ngành kinh tế, từng vùng và thành phần kinh tế. Với mục tiêu dự kiến đến khoảng 2005 - 2010 cơ bản biến nước ta thành một nước công nghiệp.
- Điều chỉnh chiến lược và quy hoạch phát triển, phải chú trọng cả các quan hệ theo ngành kinh tế - kỹ thuật nhằm bảo đảm quản lý và phát triển theo ngành, cải biến cơ cấu nội bộ ngành và các quan hệ theo vùng và thành phần kinh tế cơ cấu loại hình doanh nghiệp trên lãnh thổ và theo ngành để khai thác tiềm năng bảo đảm tốc độ phát triển nhanh và yêu cầu của mô hình kinh tế hướng ngoại. Như vậy, mục tiêu điều chỉnh chiến lược và quy hoạch phải phục vụ chuyển dịch cả 3 loại cơ cấu trong giai đoạn sắp tới là cơ cấu ngành, cơ cấu vùng và cơ cấu thành phần kinh tế.
2. Xác định và tập trung sức phát triển các ngành trọng điểm mũi nhọn, các ngành cần ưu tiên phát triển trong thời kỳ sắp tới.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hội nhập trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đaịi hoá đòi hỏi phải xác định và phát triển các ngành trọng điểm, ngành mũi nhọn. Mục tiêu của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là cải biến cơ cấu hiện tại, tiến tới một cơ cấu hợp lý, đa ngành, trong đó hình thành các ngành trọng điểm, mũi nhọn, phát triển bền vững nhằm khai thác tốt nội lực, tham gia có hiệu quả vào phân công, hợp tác quốc tế.
Xuất phát từ thực tiễn và yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khi xác định các ngành mũi nhọn trọng điểm, ngành cần ưu tiên phát triển phải chú trọng các vấn đề sau:
Thứ nhất, cần hết sức coi trọng tính bền vững của sự phát triển.
Thứ hai, lựa chọn các ngành trọng điểm mũi nhọn phải dựa trên cơ sở hệ thống tiêu chuẩn phù hợp.
3. Tập trung nghiên cứu thị trường để xác định cơ cấu sản phẩm hợp lý.
Xác định cơ cấu sản phẩm (cơ cấu ngành kinh tế) hợp lý theo hướng khai thác lợi thế đất nước phù hợp với tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hội nhập là vấn đề có tính phổ biến trên thế giới.
Về thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta, trong những năm qua có thể rút ra nhận xét tổng quát sau: Cả về định hướng thị trường lẫn cơ cấu sản phẩm ở nước ta hiện nay đang đan xen giữa các thời kỳ. Điều đó có lý do từ:
- Điểm xuất phát của quá trình phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta còn thấp, sức sản xuất (năng lực sản xuất) của các ngành và các nhóm ngành kinh tế quốc dân còn yếu kém lại phân bố phân tán.
- Sự tìm kiếm lợi thế của nước đi sau đối với thị trường "ngách" hay "phân đoạn thị trường phù hợp" còn nhiều lúng túng.
- Sự đào thải tự nhiên đối với sản phẩm, do quá trình đổi mới cơ cấu sản phẩm diễn ra chậm chạp.
- sự tiếp nhận thông tin thị trường, thông tin khoa học kỹ thuật, thông tin quản lý còn nhiều bất cập.
4. Tăng cường một số điều kiện chủ yếu nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới.
Để thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo các quan điểm và phương hướng đã xác định cần phải tạo lập và hoàn thiện nhiều điều kiện. ở đây chỉ đi vào một số điều kiện chủ yếu:
- Đổi mới cơ cấu và chính sách đầu tư để thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới.
- Hoàn thiện một số chính sách tài chính tiền tệ, khắc phục quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Chuyển dịch cơ cấu lao động và nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
kết luận
Việt Nam đi vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trùng với với thời điểm thế giới đang diễn ra những thay đổi lớn về chính trị và kinh tế. Xu thế hoà hoà bình và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc; toàn cầu hoá và khu vực hoá đời sống kinh tế đã trở thành một trong những xu thế phát triển chủ yếu của quan hệ quốc tế hiện đại. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã và đang thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyên môn hoá và hợp tác giữa các quốc gia làm cho lực lượng sản xuất được quốc tế hoá ngày càng cao. Những tiến bộ của khoa học công nghệ, đặc biệt là ngành tin học, đã dân tới sự hình thành những mạng lưới toàn cầu như: "xa lô thông tin", "thương mại điện tử". Đặc điểm này đòi hỏi các nước đều phải nỗ lực hội nhậ vào xu thể chung, điều chỉnh chính sách theo hướng mở cửa. Chúng ta cũng nhận thức rõ hội nhập khu vực và quốc tế thực chất là cuộc đấu tranh phức tạp để góp phần phát triển kinh tế, củng cố an ninh chính trị , giữ gìn bản sắc dân tộc. Quán triệt đặc điểm này là yếu tố quan trọng để chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng và có hiệu quả.
tài liệu tham khảo
1. Chuyển dịch cơ cấu ngành và phát triển các ngành trọng điểm mũi nhọn ở Việt Nam - NXB khoa học xã hội - 1996
2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện của khu vực và thế giới - NXB chính trị quốc gia - 1999.
3. Giáo trình kinh tế chính trị - Đại học KTQD - NXB - Hà Nội - 2000
4. Các chuyển đề nghiên cứu quán triệt nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX - NXB Quân đội nhân dân.
mục lục
STT Trang
phần mở đầu 1
Phần I. Một số lý luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
quốc dân 2
1. Những khái niệm chung về cơ cấu kinh tế 2
1.1. Khái niệm cơ cấu 2
1.2. Khái niệm cơ cấu kinh tế 2
1.3. Phân loại cơ cấu kinh tế 3
1.4. Vai trò của cơ cấu kinh tế trong quá trình phát triển kinh tế 6
2. Những vấn đề chung về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế quốc dân 6
2.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế 6
2.2. Một số mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế 7
2.3. Những quan niệm về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 11
2.4. Những yếu tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu ngành của nền
kinh tế 12
Phần II. Chuyển dịch cơ cấu ngnàh kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá 14
1. Những vấn đề chung về công nghiệp hoá, hiện đại hoá 14
1.1. Quan niệm về công nghiệp hoá 14
1.2. Bản chất công nghiệp hoá, hiện đại hoá 14
1.3. Cơ sở khoa học việc thực hiện công nghiệp hoá 15
2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá các ngành kinh tế quốc dân nước ta 16
2.1. Điều kiện và bối cảnh tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá các ngành kinh tế quốc dân 16
2.2. Phương hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá các ngành kinh tế
quốc dân 16
2.3. Quan điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta 20
2.4. Những điều kiện, biện pháp chủ yếu nhằm thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá các ngành kinh tế quốc dân ở nước ta 21
Phần III. kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của một số nước trong khu vực 24
1. Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá 24
1.1. Xuất phát từ tình hình, xu hướng chung của khu vực, thế giới 24
1.2. Xuất phát từ yêu cầu trong nước 25
1.3. Xuất phát từ những yêu cầu khác 26
2. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế một số nước 27
2.1. Chuyển dịch cơ cấu và phát triển kinh tế ở Malaixia 27
2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển kinh tế xã hội ở Trung Quốc 28
Phần IV. Các giải pháp chủ yếu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta theo hướng hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới 31
1. Cần rà xét để điều chỉnh hoàn thiện và nâng cao chất lượng quy hoạch chiến lược phát triển các ngành, các vùng và các địa phương 31
2. Xác định và tập trung sức phát triển các ngành trọng điểm mũi nhọn, các ngành cần ưu tiên phát triển trong thời kỳ sắp tới 32
3. Tập trung nghiên cứu thị trường để xác định cơ cấu sản phẩm hợp lý 33
4. Tăng cường một số điều kiện chủ yếu nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới 34
Kết luận 35
Tài liệu tham khảo 36
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28162.doc