Đề tài Kinh nghiệm quốc tế - Chính sách công nghiệp của Nhật Bản và Trung Quốc

Sự phân tích về cả phương diện lý thuyết và thực tiễn của CSCN đã tạo điều kiện cho tác giả đề xuất một số kiến nghị đối với CSCN Việt nam trong bối cảnh mới. Bối cảnh mới của CSCN Việt Nam được cấu thành bởi các xu hướng quốc tế và các nền tảng kinh tế trong nước. Trong đó, xu hướng toàn cầu hoá và xuất phát điểm của các ngành của Việt Nam là hai nhân tố quan trọng nhất tác động đến việc hoạch định và thực hiện CSCN. Nội dung của kiến nghị tập trung vào việc xây dựng CSCN của Việt Nam trong thời gian tới và một số biện pháp hỗ trợ để có thể thực hiện thành công các chính sách này. Đối với CSCN Việt Nam, việc lựa chọn các ngành để thúc đẩy cần đảm bảo các nguyên tắc của chính sách là nguyên tắc cạnh tranh, phụ thuộc thị trường, lợi thế so sánh đồng thời phù hợp với năng lực của Nhà nước. Bên cạnh đó, để nâng cao sức cạnh tranh, khắc phục khuynh hướng phản xuất khẩu và những yếu kém của một nền kinh tế đang phát triển, CSCN cần đặt trọng tâm vào hai chương trình: thúc đẩy các ngành xuất khẩu và phát triển một số ngành then chốt tạo đà tăng trưởng trong tương lai

doc81 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1031 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kinh nghiệm quốc tế - Chính sách công nghiệp của Nhật Bản và Trung Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
từ chính sách công nghiệp của Nhật Bản và Trung Quốc. Từ những phân tích CSCN của các nước Nhật Bản và Trung Quốc, ta có thể rút ra một số bài học trong việc hoạch định và thực hiện CSCN như sau: - Thứ nhất, Chính sách công nghiệp phải thể hiện một cách hợp lý vai trò của Nhà nước đối với quá trình phát triển kinh tế nói chung và phát triển các ngành công nghiệp nói riêng trong từng thời kỳ nhất định. Sự thể hiện vai trò này phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường trong mối tương quan với năng lực điều tiết của Nhà nước. Nói chung, khi thị trường chưa phát triển, Nhà nước cần đứng ra đảm trách việc phát triển kinh tế thông qua điều chỉnh phân bổ nguồn lực hoặc tham gia trực tiếp nhờ hệ thống doanh nghiệp Nhà nước. Nhưng khi thị trường phát triển, Nhà nước cần phải giảm dần sự can thiệp của mình vì suy cho cùng thị trường là cơ chế điều chỉnh hiệu quả nhất còn Nhà nước mặc dù quan trọng cũng chỉ là giải pháp bổ sung. Khi đó CSCN thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ cơ chế thị trường hoặc tạo điều kiện cho thị trường hoạt động một cách có hiệu quả. Trong trường hợp Nhật Bản hay Trung Quốc ta có thể thấy trong giai đoạn đầu khi mới tái thiết hay cải cách kinh tế, sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh tế rất mạnh mẽ và trực tiếp đó là do thị trường chưa phát triển, nền kinh tế còn mang những di sản của thời kỳ trước. Nhà nước đã sử dụng những công cụ kế hoạch, những biện pháp khuyến khích về thuế, về vốn... để tập trung ưu tiên cho một số ngành công nghiệp trọng điểm. Sau khi có sự phát triển ổn định, Chính phủ các nước này đã giảm dần sự can thiệp đó bằng việc sử dụng chủ yếu các công cụ gián tiếp, ít gây méo mó và mang tính hỗ trợ hơn trong phân bổ nguồn lực như chính sách tín dụng, chính sách thông tin... - Thứ hai, hoạch định chính sách công nghiệp phải dựa trên hai nguyên tắc cạnh tranh và lợi thế so sánh của quốc gia mình. Cạnh tranh là động lực của sự phát triển, sự gia tăng cạnh tranh khiến các doanh nghiệp phải hoạt động hiệu quả hơn. Khi đó, sự phát triển của thị trường và khu vực tư nhân sẽ khiến phạm vi của CSCN hẹp hơn và do đó CSCN sẽ khả thi và có hiệu quả cao hơn. Kinh nghiệm cho thấy CSCN của Nhật Bản rất chú trọng tới việc tạo ra cạnh tranh trên thị trường nội địa. Các doanh nghiệp phải đảm bảo cạnh tranh được trên thị trường nội địa mới thử sức trên thị trường thế giới. Đây là một nguyên nhân chính cho sự phát triển kinh tế thần kỳ của Nhật Bản, đồng thời nó cho phép Nhà nước có thể rút khỏi vai trò hỗ trợ phát triển ngành nào đó mà không gây ra cú sốc nào.Vì vậy, sự cạnh tranh mạnh mẽ của thị trường nội địa là một biện pháp hữu hiệu cho sự giảm dần can thiệp của CSCN. Ngoài ra, việc hoạch định CSCN xác định những ngành được lựa chọn cần phải dựa trên lợi thế so sánh của quốc gia. Mặc dù thất bại thị trường là lý do chính để biện hộ cho sự can thiệp của CSCN nhưng nếu quốc gia muốn phát triển một ngành mũi nhọn nào đó nhất định phải xem ngành đó có lợi thế cạnh tranh không. Kinh nghiệm từ hoạt động thực tiễn của CSCN được phân tích trong chương này cho thấy: việc thúc đẩy những ngành không có lợi thế so sánh có thể gây ra sự lãng phí nguồn lực to lớn cũng như các tổn thất hiệu quả khác còn trong trường hợp ngược lại, khả năng có được một CSCN tốt là cao hơn. - Thứ ba, chính sách công nghiệp phải được thực hiện trên nền tảng cơ chế thị trường và bộ máy hành chính hoạt động trong sáng, hiệu quả. CSCN ra đời nhằm phát triển nền kinh tế thị trường. Sự phát triển giúp cho việc đưa ra và thực thi CSCN được tốt hơn, dễ kiểm soát hơn mà nhờ vậy CSCN mới có thể ngày càng phát huy tác dụng. Bên cạnh đó, việc xây dựng CSCN hợp lý còn phải dựa vào một bộ máy hành chính hoạt động trong sáng, hiệu quả. Nếu hệ thống này còn thiếu thống nhất, thủ tục hành chính còn phức tạp hoặc không vì mục đích vì dân thì việc hoạch định và thực thi các chính sách sẽ gặp nhiều vướng mắc, nhất là sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất, kinh doanh - Thứ tư, luôn sáng tạo những biện pháp và công cụ của chính sách công nghiệp. Kinh nghiệm từ Trung Quốc cho thấy khi không có điều kiện để phát triển tổng thể toàn bộ nền kinh tế, ta có thể thay đổi các điều kiện ban đầu để tạo ra một môi trường mới phù hợp cho sự phát triển hơn. Với việc thành lập các ĐKKT, Chính phủ Trung Quốc đã tạo ra một khu vực có khả năng thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước. Vì vậy, nó đã khiến những ngành được lựa chọn trong khu vực này có khả năng phát triển cao hơn mà nhờ đó kéo theo sự phát triển của các ngành khác trong nền kinh tế. - Thứ năm, chính sách công nghiệp cần phải linh hoạt phù hợp với các bối cảnh mới. Việc hoạch định và thực thi CSCN của Nhật Bản và Trung Quốc đã cho thấy CSCN của các nước này đã thay đổi theo từng thời kỳ, phù hợp với xu thế hội nhập nền kinh tế khu vực và nền kinh tế thế giới. Các CSCN thời kỳ đầu mặc dù là hướng nội nhưng chỉ là điều kiện để chuẩn bị cho việc tham gia cạnh tranh toàn cầu khi thực hiện chính sách hướng về xuất khẩu trong thời gian sau. Với những CSCN như vậy, Chính phủ các nước đã chú trọng tới vấn đề lợi thế so sánh của mình trong từng giai đoạn phát triển. Trong những giai đoạn đầu, các nước chủ yếu là tận dụng những lợi thế so sánh tĩnh như tài nguyên, lao động để phát triển các ngành công nghiệp của mình. Sau đó, các nước này đã có những chính sách thích hợp để tạo ra những lợi thế so sánh động, phát triển các ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học và công nghệ cao với trình độ đi từ thấp đến cao, đi từ nhập khẩu công nghệ đến cải tiến và tạo ra công nghệ mới. Các Chính phủ cũng đã tận dụng các nguồn đầu tư nước ngoài để phát triển các ngành công nghiệp nhưng bao giờ cũng có sự kiểm soát chặt chẽ để vừa tăng được năng lực sản xuất của các ngành công nghiệp mà không bị phụ thuộc nhiều vào nước ngoài. Chương 3: Một số kiến nghị nhằm góp phần xây dựng và hoàn thiện chính sách công nghiệp Việt nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2020. 3.1. Bối cảnh mới và ảnh hưởng của nó tới chính sách công nghiệp Việt Nam. Sau hơn một thập kỷ thực hiện “đổi mới”, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong quá trình phát triển kinh tế. Những thành tựu đó cùng với các xu hướng quốc tế đang nổi lên đã tạo ra một bối cảnh mới cho việc hoạch định và thực thi các chính sách kinh tế - xã hội. Sau đây ta sẽ xem xét các nhân tố trong bối cảnh mới trong việc tác động tới các chính sách phát triển kinh tế nói chung cũng như các chính sách công nghiệp nói riêng. 3.1.1. Các xu hướng quốc tế. 3.1.1.1. Xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá Toàn cầu hoá và khu vực hoá là xu thế khách quan ngày càng tác động mạnh, thậm chí chi phối sự phát triển kinh tế của các nước. Xu thế này được thể hiện rõ thông qua quá trình tự do hoá thương mại, đầu tư và tài chính. - Thứ nhất, thực hiện tự do hoá thương mại có nghĩa là các quốc gia sẽ phải tuân thủ một lịch trình giảm thuế và các hàng rào phi thuế quan. Điều đó cũng có nghĩa là các doanh nghiệp trong nước sẽ không nhận được những ưu thế từ các chính sách bảo hộ của Chính phủ. Do đó, nếu những doanh nghiệp nào không có đủ sức cạnh tranh thì không thể hoạt động trong môi trường này. Đối với Việt Nam, việc tham gia vào AFTA (khu vực mậu dịch tự do ASEAN), nộp đơn xin làm thành viên của APEC và WTO, thực hiện ký kết Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ thể hiện là một bước đi dứt khoát tham gia vào quá trình tự do hoá thương mại. Bên cạnh những thuận lợi to lớn có thể đạt được, Việt Nam sẽ phải đối diện với những thách thức về năng lực và thời gian để thực hiện các cam kết quốc tế. Đến thời điểm thực hiện AFTA vào năm 2006, Việt Nam phải xoá bỏ các hàng rào phi thuế (NTBs) và giảm thuế suất nhập khẩu của hầu hết các mặt hàng nhập khẩu xuống tới 0 - 5%. Trong một môi trường như vậy, rất có khả năng nhiều doanh nghiệp của Việt Nam sẽ không thể cạnh tranh được so với các doanh nghiệp của các nước trong khu vực. Chính vì vậy, Việt Nam cần nhanh chóng xúc tiến những CSCN nhằm tăng cường sức cạnh tranh cho các ngành cũng như các doanh nghiệp của mình. Những chính sách này một mặt phải đáp ứng các yêu cầu của quá trình tự do hoá, còn mặt kia phải đảm bảo tận dụng tối đa các lợi ích mà tự do hoá đem lại. Các biện pháp tài chính và các khuyến khích như tín dụng thương mại, chuyển giao thông tin, công nghệ và xây dựng cơ sở hạ tầnglà những công cụ chính sách chủ yếu, trong khi việc sử dụng các công cụ bảo hộ sẽ phải rất hạn chế trong môi trường tự do hoá hiện nay. - Thứ hai, hiện nay, trong các luồng vốn quốc tế, vai trò của FDI là rất lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp, các ngành nói riêng. Do đó, sự cạnh tranh thu hút FDI là rất gay gắt không chỉ giữa các quốc gia mà còn giữa các ngành trong một nền kinh tế. Những ngành nào hoạt động hiệu quả, có ưu thế cạnh tranh sẽ thu hút được nhiều FDI. Đối với Việt Nam hiện nay, sự cạnh tranh thu hút FDI là rất quyết liệt, nhất là sau khi Trung Quốc gia nhập WTO và trở thành một cực lớn thu hút FDI. Vì vậy, CSCN nhất định phải tính tới những đặc điểm đó. CSCN phải được định hướng trên cơ sở đảm bảo việc thu hút và sử dụng nguồn vốn này đạt hiệu quả cao nhất bên cạnh vẫn thu hút các luồng vốn khác. 3.1.1.2. Tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trên thế giới Cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI này, cách mạng khoa học công nghệ có những bước nhảy vọt khó lường. Trong những điều kiện đó, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cần phải được triển khai theo tư duy mới, phù hợp với giai đoạn mới. Việc thúc đẩy những ngành công nghiệp mũi nhọn phải dựa trên cơ sở các lợi thế cũ và mới trong qua trình phát triển. Nhờ vậy, Việt Nam có thể sẽ tiếp nhận được những thành tựu khoa học và công nghệ, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, chủ động tạo ra những lợi thế mới trong quá trình hội nhập quốc tế để vươn lên, đạt trình độ phát triển cao hơn trong khu vực và thế giới. 3.1.1.3. Những biến đổi môi trường và yêu cầu phát triển bền vững toàn cầu. Hiện nay, sự ô nhiễm môi trường là vấn đề hàng đầu không chỉ ở mức độ quốc gia mà còn ở cấp độ toàn cầu. Vì vậy, các quốc gia không thể chỉ đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, phát triển công nghiệp mà không tính các yêu cầu bảo vệ môi trường. Nói cách khác, hiện nay chính sách phát triển kinh tế nói chung hay CSCN nói riêng cần phải chú trọng đến phát triển bền vững hơn rất nhiều so với trước kia. Mặc dù là một nước chưa rơi vào tình trạng nguy cấp của ô nhiễm môi trường, bởi nguyên nhân chính là nền công nghiệp chưa phát triển, nhưng với mức tăng GDP của nền kinh tế Việt Nam như hiện nay khoảng 7 - 8%/ năm, nếu không có những biện pháp bảo vệ môi trường thì mức độ ô nhiễm môi trường vào 2020 có thể gấp 4 - 5 lần mức độ hiện nay, vượt quá mức độ cho phép. Do đó, việc lựa chọn trong CSCN của Việt Nam cần cân nhắc một cách thận trọng các chi phí - lợi ích của sự can thiệp, trong đó sự trả giá cho ô nhiễm môi trường phải được tính đến. 3.1.2. Các nhân tố trong nước. 3.1.2.1. Nền tảng kinh tế vĩ mô. Xét theo hầu hết các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô và các chỉ tiêu xã hội, Việt Nam đã đạt được những thành tựu hết sức nổi bật đối với một nền kinh tế đang chuyển đổi. Từ sau khi đổi mới, tốc độ tăng trưởng GDP trung bình hàng năm của Việt Nam là trên 7%, mức thâm hụt ngân sách thấp và tỷ lệ lạm phát chỉ ở một con số, tỷ lệ tích lũy, đầu tư của Việt Nam tăng lên hai lần. Sự tăng trưởng trên còn là kết quả của các yếu tố nước ngoài. Trong thời kỳ này, ngoại thương được mở rộng nhanh chóng và trở nên đa dạng. Trong thời gian từ năm 1991 đến 1997, kim ngạch ngoại thương bình quân tăng khoảng 20%/ năm và đóng góp một phần rất quan trọng vào tốc độ tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, nền kinh tế đã thu hút một khối lượng lớn các nguồn vốn nước ngoài để phát triển kinh tế, quan trọng nhất là các nguồn vốn từ FDI và ODA. Cho đến năm 1997, nguồn vốn nước ngoài đã chiếm 1/3 tổng vốn đầu tư xã hội. Cùng với quá trình phát triển kinh tế, cơ cấu ngành kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trong đó, công nghiệp, dịch vụ ngày càng đóng vai trò chủ đạo đối với quá trình phát triển kinh tế. (Bảng 3.1). Sự chuyển dịch cơ cấu ngành dẫn đến sự hình thành các vùng kinh tế trọng điểm, chuyên môn hóa thúc đẩy phát triển kinh tế của cả nước. Bảng 3.1. Cơ cấu GDP theo 3 nhóm ngành trong năm 1986-2002. Đơn vị: % 1986 1990 1995 2000 2001 2002 Nông nghiệp 38,06 38,74 27,18 24,53 23 23,0 Công nghiệp 28,88 22,67 28,76 36,73 38 38,5 Dịch vụ 33,06 38,59 44,06 38,74 39 38,5 Nguồn: - Niên giám thống kê năm 1989, 1994, 2001. Nxb Thống kê, năm 1990-2002. - Niên giám thống kê, Nxb Thống kê, năm 2002. Mặc dù đạt được những thành tựu kể trên nhưng Việt Nam vẫn gặp phải nhiều khó khăn và thách thức nghiêm trọng: Việt Nam vẫn là một trong những nước có mức thu nhập bình quân thấp nhất trên thế giới với 400USD (năm 2000). Nền kinh tế Việt Nam đang nằm ở giữa giai đoạn chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Vì vậy, các thể chế quan trọng như hệ thống pháp lý, ngân hàng, các thị trường vốn, lao động, bất động sản và tài sản trí tuệ còn chưa phát triển đầy đủ. Môi trường kinh doanh ở Việt Nam chưa hấp dẫn vì chưa có tính cạnh tranh cao, hiệu quả của nền kinh tế còn thấp. Các doanh nghiệp Việt Nam phần lớn hoạt động thiếu hiệu quả và không đủ khả năng cạnh tranh quốc tế. Chất lượng đầu tư còn thấp, hệ thống cơ sở hạ tầng cứng và mềm còn nhiều yếu kém, các thủ tục hành chính còn rườm ràBộ máy hành chính còn quan liêu, kỹ năng chuyên môn chưa đủ và vẫn đang hoạt động trong một môi trường thiếu sự nhất quán và minh bạchNhững xu hướng nội tại trong bản thân nền kinh tế đã cho thấy năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam là rất thấp và chưa có triển vọng cải thiện nhanh. (xem bảng 3.2). [64, 24]. Bảng 3.2. Xếp hạng năng lực cạnh tranh trong 60 nước chọn lọc. Nước 1996 1998 2000 Hàn Quốc 21 22 26 Thái Lan 18 30 27 Malaysia 9 16 32 ấn Độ 45 53 45 Trung Quốc 29 32 46 Việt Nam 49 48 52 Nguồn: Trích World Competitiveness Report and EIU, 2000. 3.1.2.2. Thực trạng phát triển các ngành kinh tế Việt Nam trong thời gian qua. Như đã đề cập ở trên, sự phát triển các ngành của Việt Nam trong thời gian qua đã có những dấu hiệu tích cực, xu thế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong lĩnh vực nông nghiệp nói chung, cơ cấu kinh tế nông, lâm, ngư nghiệp có những bước phát triển quan trọng đảm bảo được an ninh lương thực đồng thời tạo tiền đề cơ bản cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Các sản phẩm xuất khẩu ở khu vực nông nghiệp có sức cạnh tranh khá như gạo, cà phê, hạt điều đã có chỗ đứng trên thị trường quốc tế. Ngành thủy, hải sản có xu hướng phát triển ổn định với tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng. Trong lĩnh vực công nghiệp - xây dựng, qua hơn 10 năm đổi mới, tốc độ tăng trưởng của khu vực này đã tăng rất nhanh. Bảng 3.3 cho thấy tăng trưởng của khu vực II trong các năm 1986-1990 là 4,7%, 1991-1995 là 12% và 1996-2000 là 10,6%. Về cơ cấu công nghiệp, có sự biến đổi theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo và giảm dần tỷ trọng công nghiệp khai thác. [27]. Trong đó, sự phát triển của các ngành công nghiệp chế biến, các ngành sử dụng nhiều lao động như: dệt may, da giày, điện tử, chế biến nông lâm hải sản đã đóng góp một phần rất quan trọng vào kim ngạch xuất khẩu, giải quyết việc làm và qua đó đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, có sự gia tăng mạnh mẽ của các ngành quan trọng như: điện, sắt thép, phân bón, dầu thô, xi măng, than, đường, các sản phẩm lắp ráp... ( Bảng 3.4 ) [74, 24]. Đây là những ngành thuộc nhóm ngành thay thế nhập khẩu nên đã tạo cơ sở quan trọng cho sự phát triển của các ngành khác. Ngoài ra, trong thời gian qua, cơ cấu công nghiệp theo vùng bước đầu đã có sự điều chỉnh theo hướng khai thác thế mạnh từng vùng, hình thành các vùng phát triển trọng điểm. Các vùng sâu, vùng xa cũng có những tiến bộ đáng khích lệ, nhờ vào các chương trình hỗ trợ đầu tư của Chính phủ. Khu vực dịch vụ, thương mại có sự phát triển mạnh, sự đóng góp của khu vực này trong GDP ngày càng quan trọng, không kém gì so với khu vực công nghiệp. Nền kinh tế đã bắt đầu hình thành và phát triển một số ngành quan trọng như ngành bưu điện, viễn thông và công nghệ thông tin. Bên cạnh đó, các ngành du lịch, kinh doanh khách sạntiếp tục khẳng định vị trí của chúng trong sự phát triển kinh tế của đất nước. Bảng 3.3. Tăng trưởng và cơ cấu các ngành khu vực II từ năm 1986-2000. Đơn vị tính: % Năm 1986 1991 1995 2000 86-90 91-95 96-2000 Tăng trưởng GDP 10,9 5,8 9,5 6,7 5,2 8,2 6,9 KVII 19,4 7,7 13,6 10,1 4,7 12 10,6 CN khai thác mỏ 12,6 26 13,5 4,5 39,4 17,6 11,7 CN chế biến 11,5 5,6 13,6 13,2 1,8 10,3 11,4 Sx, pp điện, nước 5,8 -4,5 18,5 10,5 6,8 10,1 12,4 Xây dựng -- 5,2 12,7 7,5 2,3 12,7 7,2 Cơ cấu GDP 100 100 100 100 100 100 100 KV II 28,9 23,8 28,8 36,6 25,4 27,5 33,1 CN khai thác mỏ 1,84 5,4 4,81 9,5 2,62 5,01 7,31 CN chế biến 22,4 13,1 15,0 18,7 18,0 14,7 17,0 Sx, pp điện, nước 1,84 1,3 2,05 2,9 1,52 1,56 2,77 Xây dựng 2,84 4,0 6,90 5,5 3,18 6,27 5,96 Nguồn: Tổng cục thống kê: Kinh tế Việt Nam trong những năm đổi mới, Hà Nội 2001. Song nhìn chung, sự phát triển các ngành kinh tế trong thời gian qua vẫn còn tồn tại những hạn chế sau: - Các ngành sản xuất trong nông nghiệp vẫn cơ bản phát triển theo chiều rộng, năng suất lao động và hiệu quả thấp. Sản phẩm hàng hoá tuy đa dạng nhưng manh mún, có tính thời vụ và chưa tương thích với nhu cầu thị trường. Chất lượng nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu hiện vẫn còn kém sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Bên cạnh đó, sự phát triển một số ngành dịch vụ chưa thích ứng với quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường như các ngành trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, còn thiếu sức cạnh tranh như lĩnh vực bưu chính viễn thông và rất hạn chế đối với các ngành tư vấn pháp lý, quản lý doanh nghiệp. [105, 4]. - Cơ cấu công nghiệp của Việt Nam còn rất đáng ngại, sự thay đổi của công nghiệp chế biến, chế tạo theo hướng xuất khẩu chưa đủ mạnh để làm chuyển biến cơ cấu ngoại thương tạo động lực cho sự phát triển. Bảng 3.4 cho thấy đa số các ngành tăng trưởng nhanh là những ngành đòi hỏi vốn đầu tư lớn và có xu hướng tiêu dùng trên thị trường nội địa như thép, mía đường, xi măng. Trong khi đó, loại ngành công nghiệp có tỷ lệ xuất khẩu cao và sử dụng nhiều lao động như dệt - may, một trong số ít những ngành có sức cạnh tranh khả dĩ trên thị trường quốc tế, có tốc độ phát triển vào mức trung bình thấp. Các ngành điện - điện tử và một số ngành cơ khí (chế tạo ô tô, xe máy) những ngành đại diện cho triển vọng phát triển, có hàm lượng công nghệ - kỹ thuật và lao động cao từ chưa đủ sức cạnh tranh quốc tế. Các ngành công nghiệp đóng vai trò then chốt với nền kinh tế là các ngành công nghiệp nặng sản xuất máy móc, các ngành công nghiệp hoá chất như hoá dầu, lọc dầu, phân đạm chưa phát triển và chiếm tỷ trọng thấp trong tổng giá trị sản lượng công nghiệp. Bảng 3.4. Tốc độ tăng trưởng của các sản phẩm công nghiệp chủ yếu (1990-2000). Đơn vị: % 1995/1990 1999/1995 1999/1990 2000/1999 Nhóm sản phẩm hướng nội Thép 465,3 260,4 1.211,9 17,2 Xi măng 230,0 178,1 409,7 27,3 Gạch 198,3 116,5 231,0 24,5 Giấy bìa 274,1 156,5 428,9 10,2 Dầu thực phẩm 133,1 266,3 354,5 --- Đường tinh luyện 344,4 158,1 544,4 24,2 Bia 465,0 139,3 648,0 6,5 Xe máy lắp ráp 154,9 --- 65,4 Ti vi lắp ráp 546,1 86,0 469,5 13,0 Xà phòng 234,5 179,1 420,0 19,1 Nhóm sản phẩm hướng nội Dầu thô 282,2 196,8 555,5 6,9 Quần áo may sẵn 137,5 177,4 243,9 15,1 Giày dép da 176,1 --- --- Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam: động thái và thực trạng kinh tế - xã hội Việt Nam 10 năm đổi mới ( 1986- 1995); Niên giám thống kê 1999; Tình hình kinh tế xã hội năm 2000). Sự phát triển của các ngành công nghiệp còn được biểu hiện rõ rệt qua cơ cấu xuất khẩu. Qua hơn 10 năm thực hiện đổi mới, cơ cấu xuất khẩu gần như không thay đổi, chủ yếu vẫn xuất khẩu các sản phẩm “ thô ” (khoáng sản, nông lâm, hải sản ) như dầu thô, than, gạo, cà phê còn các sản phẩm có triển vọng cho việc nâng cấp công nghệ kỹ thuật và tạo ra năng lực cạnh tranh quốc tế hiện vẫn chưa hoặc chỉ tham gia không đáng kể. Tuy nhiên, có thể thấy các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam có chất lượng rất thấp, chưa được chế biến với công nghệ cao, các hàng dệt may, điện tử sử dụng nguyên liệu ngoại nhập và trình độ chỉ ở mức gia công lắp ráp. (Bảng 3.5). Bảng 3.5: Tỷ trọng trong kim ngạch xuất khẩu của một số sản phẩm chính (1998 - 2001) Đơn vị: % 1998 1999 2000 2001 Tổng kim ngạch xuất khẩu (triệu USD) 9.145,9 9.338,6 11.520,2 14.308 Dầu thô 15,4 13,2 18,2 25,0 Than đá 1,2 1,1 0,8 0,4 Dệt may 14,7 14,5 15,2 12,7 Giày dép 10,5 10,7 12,1 9,8 Hàng điện tử, máy vi tính và linh kiện 5,1 5,1 5,5 Sản phẩm thủ công mỹ nghệ 1,3 1,2 1,5 1,6 Gạo 9,5 11,0 9,0 4,7 Cà phê + Cao su + Hạt tiêu + Hạt điều 9,6 9,7 8,5 6,5 Rau quả 0,7 0,6 0,9 1,4 Thuỷ sản 8,5 8,8 8,3 1,3 Nguồn: Tổng cục Thống kê: Tình hình kinh tế - xã hội năm 2001. Thực trạng phát triển kinh tế nói chung và phát triển các ngành nói riêng trong thời gian qua đã phản ánh phần nào việc thực hiện CSCN ở Việt Nam. Nói chung, các chính sách đã tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất định cho sự phát triển của các ngành mà chủ yếu là các ngành công nghiệp của Việt Nam. Tuy nhiên, những yếu kém trong những phân tích trên còn cho thấy có nhiều bất cập trong việc thực hiện CSCN. Các chính sách bảo hộ tỏ ra không rõ ràng. Phương châm bảo hộ có chọn lọc, có thời hạn vẫn chỉ dừng lại ở nguyên tắc chung. Việc ưu tiên phát triển các ngành then chốt, các ngành xuất khẩu không đạt hiệu quả đã khiến Việt Nam hiện vẫn chưa có những ngành mũi nhọn tạo đà cho sự phát triển kinh tế. Các chính sách thúc đẩy công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến, những ngành sản xuất các sản phẩm chủ yếu cho tiêu dùng và xuất khẩu, chưa đủ mạnh, chưa có trọng tâm để các ngành này đạt được tốc độ tăng trưởng cao và có sức cạnh tranh quốc tế. Bên cạnh đó, các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ không được thực hiện bài bản cũng như tầm quan trọng của chúng không được đánh giá đúng mức đã khiến lực lượng này không đáp ứng được các yêu cầu phát triển của bản thân cũng như phối hợp cùng các hãng lớn phát huy toàn bộ tiềm lực của nền kinh tế. Các chính sách ưu đãi không hợp lý đối với các ngành thay thế nhập khẩu đã dẫn đến sự gia tăng sản lượng quá mức, tình trạng đầu tư tràn lan, không qui hoạch như các ngành mía đường, thép, xi măngmà hậu quả của nó là gây ra lãng phí đầu tư, mất cân đối cơ cấu ngành và nền kinh tế không thể phát triển bền vững. Ngoài ra, các công cụ bảo hộ như các biện pháp kiểm soát giá, các hàng rào thuế và phi thuế đã gây ra sự méo mó trong hệ thống giá cả, hạn chế cạnh tranh và phát triển nền kinh tế thị trường. Mặt khác, sự lạc hậu và chênh lệch lớn về trình độ công nghệ của nhiều ngành cũng như các khu vực kinh tế cho thấy sự thiếu thốn các chính sách hỗ trợ và ứng dụng R&D, các biện pháp chuyển giao công nghệ đồng thời các chính sách này không gắn liền với sản xuất cũng như không đáp ứng được các yêu cầu của sản xuất. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực đáp ứng cho yêu cầu phát triển các ngành công nghệ cao cũng còn thiếu, hạn chế về trình độ cũng như trong việc chủ động tiếp nhận chuyển giao công nghệ của nước ngoài. 3.2. Một số kiến nghị nhằm góp phần xây dựng và hoàn thiện chính sách công nghiệp Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2020. Những phân tích về bối cảnh mới của nền kinh tế cho thấy có những thách thức và khó khăn to lớn đặt ra đối với quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam nói chung cũng như khả năng hoàn thành mục tiêu “ đưa đất nước Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 ” như Đảng và Nhà nước ta đề ra nói riêng. Những thách thức này cùng với các thất bại thị trường của một nền kinh tế đang chuyển đổi đã biện minh cho sự cần thiết phải có của chính sách công nghiệp của Việt Nam trong thời gian tới. Dưới đây là một số kiến nghị của tác giả nhằm xây dựng và hoàn thiện CSCN của Việt Nam trong giai đoạn tới. Nó tập trung vào hai nội dung, bao gồm: những vấn đề của CSCN Việt Nam, những biện pháp và chính sách hỗ trợ CSCN trên. 3.2.1. Những vấn đề của chính sách công nghiệp Việt Nam trong giai đoạn tới. 3.2.1.1. Nguyên tắc của chính sách công nghiệp. Nguyên tắc của CSCN của Việt Nam được được bắt nguồn từ những yêu cầu của quá trình hoạch định và thực thi CSCN trong bối cảnh mới. Trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn của CSCN, có thể thấy rằng CSCN của Việt Nam cần phải đảm bảo những nguyên tắc sau: - Chính sách công nghiệp phải được thực hiện nhằm phát triển thị trường (nguyên tắc phụ thuộc thị trường ): nguyên tắc này cho rằng Nhà nước không cần thiết phải là những gì mà thị trường có thể tự làm được và sự can thiệp của Nhà nước cần phải tuân theo các yêu cầu phát triển của thị trường. CSCN chỉ có hiệu quả khi nó tạo ra được các điều kiện cơ bản cho các lực lượng thị trường xuất hiện và cho phép khắc phục thất bại thị trường. ở Việt Nam hiện nay, nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường nên CSCN phải được xác định theo hướng tạo ra các động lực để phát triển kinh tế thị trường. - Chính sách công nghiệp không được hạn chế cạnh tranh (nguyên tắc cạnh tranh ): Cạnh tranh là động lực của sự phát triển, vì vậy, mặc dù Nhà nước có thể thúc đẩy một số ngành phát triển khiến nó trở thành đầu tàu của nền kinh tế nhưng vẫn phải duy trì tính cạnh tranh của thị trường nội địa. Điều này đã được minh chứng qua kinh nghiệm về CSCN của các nước Nhật Bản, Trung Quốc - Chính sách công nghiệp phải phù hợp với năng lực của Nhà nước: như trong chương một đã phân tích mặc dù có thất bại thị trường nhưng việc can thiệp của Nhà nước rất có khả năng sẽ thất bại. Tình hình hiện nay cho thấy rằng, Nhà nước cần tạo điều kiện cho thị trường hoạt động nhiều hơn chứ không chỉ cố gắng sửa chữa các trục trặc của thị trường. Do đó, việc thực hiện CSCN phải có trọng điểm, có lựa chọn. - Chính sách công nghiệp được thực hiện trên cơ sở sự chuyển dịch lợi thế so sánh. Nguyên tắc này có nghĩa là, việc xác định những ngành được lựa chọn cần dựa trên sự thay đổi về lợi thế so sánh. Chính sách công nghiệp cần hướng tới những ngành có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường thế giới. Ví dụ, việc thúc đẩy những ngành công nghệ cao rất có lợi cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam vì những ngành này có giá trị gia tăng rất cao và có hiệu ứng lan toả kích thích các ngành khác phát triển. Tuy nhiên, nếu lợi thế so sánh hiện thời của Việt Nam mới chỉ là các ngành sử dụng nhiều khoáng sản hay lao động thì việc tập trung thúc đẩy các ngành công nghệ cao sẽ không có hiệu quả. Rõ ràng, CSCN cần phải được thực hiện từng bước một cho phù hợp với các lợi thế so sánh và không nhất thiết phải phát triển tất cả những ngành hay tạo ra một cơ cấu ngành hoàn chỉnh trong bối cảnh hiện nay. Ngoài các nguyên tắc cơ bản được đề cập ở trên, CSCN còn phải đảm bảo các nguyên tắc chung của một chính sách kinh tế như phát triển bền vững, phát huy sức mạnh toàn dân 3.2.1.2. Nội dung của chính sách công nghiệp Việt Nam. Căn cứ vào hàm lượng các yếu tố sản xuất trong sản phẩm của một ngành có thể chia các ngành trong nền kinh tế thành ba loại: các ngành sử dụng nhiều lao động và tài nguyên, các ngành sử dụng nhiều vốn và các ngành có hàm lượng công nghệ cao. Sự phân loại này cũng thể hiện trình độ phát triển của các ngành, từ nhóm ngành loại một đến nhóm ngành loại ba có sự gia tăng dần hàm lượng chất xám hay trình độ lao động. Việc lựa chọn các ngành để ưu tiên thúc đẩy phải căn cứ vào các nguyên tắc của CSCN được đề cập ở trên. Đối với Việt Nam hiện nay, cần tiếp tục đẩy mạnh phát triển những ngành sử dụng nhiều lao động và tài nguyên theo hướng hiện đại hơn để tận dụng lợi thế so sánh của đất nước. Cụ thể là: - Trong nông nghiệp, phát triển các ngành có triển vọng trên thị trường, có giá trị gia tăng cao và thúc đẩy sự phát triển công nghiệp nông thôn như thuỷ sản, rau hoa quả nhiệt đới, gạo và cà phê có chất lượng cao - Trong công nghiệp, lĩnh vực chủ chốt của nền kinh tế, trong thời gian tới vẫn phát triển những ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản như dầu, gạo, cà phê và các ngành khai khoáng như khai thác than, dầu thô, quặng kim loạiNhững ngành này mặc dù có giá trị gia tăng thấp nhưng lại là những ngành có khả năng cạnh tranh của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, vì vậy, chúng vẫn được đưa vào xem xét trong CSCN nhưng sự ưu tiên phát triển sẽ giảm dần. Bên cạnh đó, việc chuyển dần sang các ngành công nghiệp sử dụng nhiều vốn và lao động có trình độ như ngành điện tử, thiết bị điện, dệt may, cơ khí cần phải được ưu tiên hơn nữa vì các ngành này sẽ phát huy được lợi thế tương đối về nguồn nhân lực có chất lượng trong các công việc đòi hỏi kỹ năng cao. Việc xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn này sẽ tạo điều kiện để toàn bộ ngành công nghiệp phát triển và nó tăng cường khả năng thu hút vốn, tiếp nhận chuyển giao công nghệ cũng như giúp nền kinh tế của đất nước đối phó được với các tác động từ bên ngoài. Để thực hiện mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào 2020 thì chắc chắn trong thời gian tới phải chuẩn bị điều kiện cho việc phát triển các ngành thuộc nhóm ba như các ngành công nghiệp nặng, hoá chất và công nghệ cao như vi tính, lắp ráp, những ngành có khả năng phát triển và tận dụng hiệu quả nguồn vốn và công nghệ. Việc phát triển các ngành công nghiệp này ở nước ta chỉ có thể thực hiện khi mà nền công nghiệp đã có những tiến bộ nhất định và lúc đó cũng nên chỉ chọn một hoặc một vài ngành để ưu tiên phát triển để có hiệu quả cao nhất. Vì vậy, giải pháp hữu hiệu nhất hiện nay là phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt chú ý đào tạo lĩnh vực công nghệ thông tin. Song song với việc xác định những ngành cần ưu tiên, CSCN trong thời gian tới cần xây dựng các chương trình như sau: - Xúc tiến những ngành xuất khẩu: chương trình này không chỉ dừng lại ở thúc đẩy những ngành xuất khẩu trực tiếp mà nó còn phải phát triển những ngành công nghiệp cơ cở, ngành công nghiệp hỗ trợ. Trước hết, tập trung xuất khẩu những sản phẩm truyền thống, những sản phẩm mà nước ta có lợi thế cạnh tranh. Đó là các sản phẩm thuộc các ngành công nghiệp chế biến hàng nông sản, khoáng sản Một số giải pháp chính là xúc tiến các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc các ngành đó tham gia tích cực vào hoạt động này; thành lập các trung tâm xúc tiến xuất khẩu cung cấp, tư vấn về thông tin, công nghệ; coi việc tăng cường áp dụng công nghệ là nội dung quan trọng trong việc phát triển ngành đồng thời sử dụng tối đa FDI bằng cách chuyển hướng đầu tư từ những ngành thay thế nhập khẩu, vốn được thực hiện một cách tràn lan, sang các ngành này ... Bên cạnh đó, kết hợp bổ sung các sản phẩm mới vào danh mục xuất khẩu. Quá trình này phải được thực hiện từng bước chắc chắn. - Phát triển các ngành then chốt: những ngành này hiện nay nước ta chưa có khả năng sản xuất vì vậy phải tiến hành các biện pháp bảo hộ. Tuy nhiên, lịch trình bảo hộ phải hợp lý, các tiêu chuẩn đưa ra phải được giả trình phù hợp với các qui định quốc tế. Bên cạnh đó, thực hiện các biện pháp như tích lũy vốn, tăng cường chuyển giao công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, thiết lập các tiêu chuẩn hỗ trợ vốn và cung cấp tín dụng thương mại chặt chẽvà đặc biệt là cải cách các DNNN. Tóm lại, các ngành được lựa chọn để thúc đẩy trong phạm vi CSCN chỉ nên tập trung vào một số ngành để tạo ra ưu thế cạnh tranh cho Việt Nam. Điều này phù hợp với năng lực, ngân sách của Nhà nước Việt Nam và các qui định của quốc tế. Ngoài ra, bên cạnh các biện pháp thúc đẩy từ phía Nhà nước thì mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp phải có kế hoạch phát triển riêng để phát huy tối đa hiệu quả hoạt động. 3.2.1.3. Về các công cụ của chính sách công nghiệp: Với các nguyên tắc của CSCN được xác định như trên, trong bối cảnh mới hiện nay, các công cụ chính sách được sử dụng chủ yếu là các công can thiệp gián tiếp. Vì vậy, sẽ là hợp lý nếu khi thực hiện CSCN, chúng ta loại bỏ được những công cụ như hạn ngạch, các giấy phép xuất nhập khẩu cũng như việc đưa ra các biện pháp hành chính luật pháp không dựa trên cơ chế thị trường để phân bổ nguồn lực. Đối với công cụ trợ cấp, trợ giá cần tránh lạm dụng để giảm thiểu nguy cơ lạm phát cao vì các công cụ này thường dẫn đến tình trạng ngân sách phình lên và sự mất ổn định của giá cả. Nói chung, các công cụ chủ yếu của CSCN trong thời gian tới là thuế, tín dụng thương mại, các biện pháp phát triển cơ sở hạ tầng và thu hút đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, bên cạnh việc thực hiện các công cụ này phải thực hiện các công việc sau: + Phải cải cách hệ thống thuế một cách mạnh mẽ hơn nữa trên phương diện xem xét lại toàn bộ các loại thuế để huy động nguồn lực một cách hiệu quả. Có những biện pháp hợp lý để phát huy tối đa lợi thế của hệ thống khấu hao. + Đối với việc cung cấp tín dụng, phải cải cách hệ thống ngân hàng triệt để theo hướng tổ chức lại các ngân hàng hoạt động không hiệu quả để tăng cường năng lực cho các ngân hàng trong vai trò người trung gian. + Đối với nguồn vốn nước ngoài, đặc biệt là FDI, Nhà nước tăng cường thu hút và sử dụng hiệu quả trong các ngành công nghiệp thông qua việc cải thiện môi trường đầu tư hấp dẫn hơn. Các biện pháp chủ yếu là xây dựng hệ thống pháp lý chính sách minh bạch, ổn định, đẩy mạnh phát triển và hoàn thiện cơ sở hạ tầng cứng cũng như mềm đồng thời tăng cường các chính sách ưu đãi cho các khu chế xuất, khu công nghiệp. Ngoài ra, một số công cụ như cung cấp thông tin, xúc tiến chuyển giao thông tin cần được tăng cường. Các định hướng kế hoạch phát triển phải rõ ràng có cơ sở khoa học để hướng cho các doanh nghiệp đầu tư và ra quyết định một cách hợp lý, có hiệu quả. 3.2.2. Những biện pháp, chính sách hỗ trợ chính sách công nghiệp. 3.2.2.1. Nâng cao vai trò và hiệu lực hoạt động của Nhà nước. Nhà nước cần phải tạo ra một khuôn khổ kinh tế vĩ mô thật tốt đảm bảo cho sự phát triển. Đó là một môi trường chính trị, xã hội và một chính sách kinh tế vĩ mô ổn định kéo theo nền tài chính vững mạnh có sự tăng trưởng hợp lý về tiền tệ và tín dụng, một mức nợ có thể kiểm soát được, lạm phát tương đối thấp cùng với sự mở cửa với các thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, để thị trường hoạt động hiệu quả Nhà nước cần nhanh chóng xây dựng hệ thống pháp lý vững chắc, không chỉ là một hệ thống luật lệ và quy định, mà còn là các định chế cần thiết để thực hiện và cưỡng chế việc thi hành pháp luật và giải quyết tranh chấp thực hiện trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. 3.2.2.2. Xây dựng chính sách cạnh tranh. Nhà nước cần nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện chính sách cạnh tranh song song với CSCN vì hai chính sách này có mối quan hệ chặt chẽ bổ sung cho nhau. Chính sách cạnh tranh sẽ giúp cho việc thực hiện CSCN có hiệu quả hơn khi tạo ra một sân chơi bình đẳng, giúp các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả và khắc phục các hậu quả của CSCN. Trong thời gian tới, chính sách cạnh tranh cần được tập trung vào những hướng sau: xử lý các quy định hạn chế cạnh tranh, kiểm soát độc quyền kể cả độc quyền tự nhiên, ban hành luật cạnh tranh. 3.2.2.3. Hoàn thiện các biện pháp chống tham nhũng. Việc lựa chọn và thúc đẩy ngành thường được quyết định bởi cơ cấu chính trị. Do đó, CSCN có thể gặp phải những sự ích kỷ mà có thể dẫn đến các lựa chọn sai lầm. Trong nhiều trường hợp, sự ích kỷ là một kết quả của tệ nạn tham nhũng. Vì vậy, Nhà nước cần phải có những phương thức, biện pháp hạn chế tình trạng này để tăng cường hiệu quả của CSCN. Đối với Việt Nam hiện nay, khi mà năng lực quản lý Nhà nước còn nhiều yếu kém thì hạn chế tham nhũng trỏ thành một vấn đề cấp thiết. ở đây, những biện pháp chủ yếu để khắc phục tình trạng này là xây dựng hệ thống pháp luật chặt chẽ, nghiêm minh; ban hành các quy định về kiểm soát tài chính đối với công chức, cải cách tiền lương 3.2.2.4. Chính sách đối với doanh nghiệp: Các chính sách đối với doanh nghiệp phải tạo điều kiện cho khu vực tư nhân phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Đây là điều kiện tiên quyết để phát triển cho bất cứ một nền kinh tế nào. Các biện pháp chủ yếu là việc tháo bỏ những rào cản phân biệt đối với khu vực này, tổ chức các hiệp hội doanh nghiệp, hỗ trợ R&DBên cạnh đó, tiếp tục đẩy mạnh cải cách các DNNN. Tuy nhiên, việc đơn giản trước hết mà Nhà nước có thể làm là tách bộ máy hành chính ra khỏi hoạt động kinh doanh, đưa DNNN vào thị trườngNgoài ra, Nhà nước cần phải thực hiện chính sách khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ để phát huy tối đa vai trò của lực lượng này. Các chính sách đối với SMEs nên tập trung vào những vấn đề sau: thiết lập các tiêu chuẩn để phân loại hợp lý từng quy mô của doanh nghiệp và các chính sách ưu đãi tương ứng, các biện pháp sửa chữa những bất lợi trong kinh doanh của SMEs liên quan đến hoạt động tài chính kế toán, thị trường tiêu thụ, các vấn đề cạnh tranh 3.2.2.5. Chính sách công nghệ: Tăng cường áp dụng các tiến bộ công nghệ trong các ngành công nghiệp, trong hoạt động sản xuất kinh doanh và đảm bảo rằng sự lựa chọn đó là quyết định của doanh nghiệp chứ không phải của các quan chức chính phủ. Tuy nhiên cần phải thiết lập các tiêu chuẩn công nghệ để sự lựa chọn này lành mạnh và bền vững. Đồng thời, đẩy mạnh các biện pháp chuyển giao công nghệ kết hợp với việc tăng cường hỗ trợ nghiên cứu, triển khai và thực hiện nghiêm ngặt vấn đề sở hữu trí tuệ. 3.2.2.6. Phát triển nguồn nhân lực. Phát triển nguồn nhân lực là một yếu tố quyết định then chốt đối với quá trình tăng trưởng cũng như tăng cường khả năng cạnh tranh cho ngành và các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Ngoài ra, nó cũng là điều kiện tiên quyết để Việt Nam có thể phát triển kinh tế một cách nhanh chóng và bền vững. Các chính sách phát triển nguồn nhân lực cần được triển khai theo hai hướng sau: + Đổi mới hệ thống giáo dục, đặc biệt là hệ đại học, đồng thời phát triển các loại hình đào tạo nghề. Để có nguồn nhân lực chất lượng cao, cải cách từ dưới lên là hướng đi cần thiết. + Xây dựng các chính sách thu hút và sử dụng nhân tài hợp lý, hiệu quả và nghiêm túc, tránh tình trạng lãng phí nhân tài, chảy máu chất xám Các chính sách này sẽ khiến nguồn nhân lực của nước ta dồi dào, chất lượng và có khả năng phát triển cao. Kết luận Trong hệ thống chính sách phát triển kinh tế của các quốc gia hiện nay, CSCN là một chính sách quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp, các ngành nói riêng. Sự phát triển này đạt được dựa trên việc CSCN đã tạo ra sự phân bổ nguồn lực hợp lý, có hiệu quả đối với các ngành được lựa chọn. Một số công cụ chủ yếu để CSCN thực hiện mục tiêu là thuế, thuế quan, trợ cấp, tín dụng chính sách, các biện pháp phát triển cơ sở hạ tầngXét về lý thuyết kinh tế, các thất bại của thị trường nội địa là sự biện minh chính đáng cho sự cần thiết phải có CSCN trong một số lĩnh vực như công nghệ, lĩnh vực đòi hỏi kinh tế quy mô Bên cạnh đó, các tiêu chuẩn mang tính thực tế như thúc đẩy các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao, có tính liên kết, có triển vọnglà những tiêu chuẩn hữu ích khi nghiên cứu và hoạch định CSCN cho các nước đang phát triển. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, trong bất cứ trường hợp nào CSCN cũng tiềm ẩn khả năng thất bại. Những phân tích trong chương một đã chỉ ra rằng, có những giới hạn đối với CSCN. Đó là các điều kiện, bao gồm: các ngành, các lĩnh vực có những thất bại thị trường kể trên kết hợp với một Nhà nước có năng lực, có sự nhất trí về mục tiêu với khả năng sử dụng công cụ rộng rãi, các chi phí quản lý, tuân thủ nhỏ CSCN sẽ khả thi và có hiệu quả khi được thực hiện trong giới hạn này. Tuy nhiên, vấn đề sẽ rất phức tạp để chỉ ra giới hạn của CSCN khi nghiên cứu thất bại thị trường trên bình diện thế giới với sự thay đổi các điều kiện khung ban đầu, sự liên kết giữa các ngành của các nước khác nhau. Đây là hạn chế về mặt lý thuyết của đề tài. Xem xét trong thực tiễn với đối tượng nghiên cứu là Nhật Bản và Trung Quốc, có thể thấy mặc dù các nền kinh tế đều thành công nhưng thành công đó bắt nguồn chủ yếu từ sự phát triển của khu vực tư nhân trong một môi trường cạnh tranh cao. Vì vậy, nếu cho rằng sự phát triển kinh tế của hai nước đạt được trong thời kỳ tương ứng là kết quả của việc thực hiện CSCN thì có thể kết luận nhận định này đã thổi phồng quá mức vai trò của CSCN. Những phân tích trong chương hai cho thấy các CSCN của Nhật Bản và Trung Quốc đều có những dấu hiệu tích cực và tiêu cực nhất định. Vấn đề quan trọng ở đây là xem những chính sách nào đã thành công, mức độ thành công và những điều kiện quyết định thành công đó. Một cách tương tự đối với các trường hợp CSCN thất bại. Điều đó sẽ giúp chúng ta có được những bài học kinh nghiệm quan trọng cho quá trình hoạch định và thực thi CSCN. Đối với Nhật Bản, có thể thấy rằng một số CSCN đã thành công trong giai đoạn trước những năm 1970 như chính sách tái thiết (1945 –1949), chính sách hợp lý hoá ngành (1950 - 1955) khi nó được xem xét trên cơ sở có thất bại thị trường và trong những điều kiện hết sức đặc biệt của nền kinh tế sau chiến tranh. Còn sau những năm 1970, tầm quan trọng của các CSCN Nhật Bản đối với nền kinh tế là không lớn. Điều này được lý giải bởi số ngành được CSCN hướng đích là một bộ phận rất nhỏ trong tổng thể nền kinh tế và sự phát triển của các ngành khác trong nền kinh tế mà không cần sự trợ giúp của CSCNSo với Nhật Bản, Trung Quốc có hệ thống CSCN kém rõ ràng hơn rất nhiều và mức độ thành công cũng không bằng. Các CSCN thành công của Trung Quốc được thể hiện chủ yếu qua các biện pháp thúc đẩy sự phát triển của các XNHT, các biện pháp định hướng đầu tư, đặc biệt đối với FDI vào các khu vực như ĐKKT có hiệu quả cao trong giai đoạn đầu của nền kinh tế đang chuyển đổi. Ngoài ra, đa số các CSCN Trung Quốc đều tỏ ra không hiệu quả. Đến nay, Trung Quốc chưa có những ngành mũi nhọn thực sự, cơ cấu ngành vẫn mất cân đối, trình độ công nghệ lạc hậu và các nhà sản xuất Trung Quốc mới chỉ là các nhà sản xuất hạng hai, hạng ba trên thị trường thế giới. Những phân tích về CSCN của hai nước Nhật Bản và Trung Quốc trong chương hai đã cho thấy có những bài học kinh nghiệm trong quá trình hoạch định và thực thi CSCN. Đó là: - Chính sách công nghiệp phải thể hiện một cách hợp lý vai trò của Nhà nước đối với quá trình phát triển kinh tế nói chung và phát triển các ngành công nghiệp nói riêng trong từng thời kỳ nhất định. - Hoạch định chính sách công nghiệp phải dựa trên nguyên tắc cạnh tranh và lợi thế so sánh của quốc gia mình. - Chính sách công nghiệp phải được thực hiện trên nền tảng cơ chế thị trường và bộ máy hành chính hoạt động trong sáng, hiệu quả. - Luôn sáng tạo những biện pháp mới cho chính sách công nghiệp . - Chính sách công nghiệp cần phải linh hoạt phù hợp với các bối cảnh mới. Sự phân tích về cả phương diện lý thuyết và thực tiễn của CSCN đã tạo điều kiện cho tác giả đề xuất một số kiến nghị đối với CSCN Việt nam trong bối cảnh mới. Bối cảnh mới của CSCN Việt Nam được cấu thành bởi các xu hướng quốc tế và các nền tảng kinh tế trong nước. Trong đó, xu hướng toàn cầu hoá và xuất phát điểm của các ngành của Việt Nam là hai nhân tố quan trọng nhất tác động đến việc hoạch định và thực hiện CSCN. Nội dung của kiến nghị tập trung vào việc xây dựng CSCN của Việt Nam trong thời gian tới và một số biện pháp hỗ trợ để có thể thực hiện thành công các chính sách này. Đối với CSCN Việt Nam, việc lựa chọn các ngành để thúc đẩy cần đảm bảo các nguyên tắc của chính sách là nguyên tắc cạnh tranh, phụ thuộc thị trường, lợi thế so sánh đồng thời phù hợp với năng lực của Nhà nước. Bên cạnh đó, để nâng cao sức cạnh tranh, khắc phục khuynh hướng phản xuất khẩu và những yếu kém của một nền kinh tế đang phát triển, CSCN cần đặt trọng tâm vào hai chương trình: thúc đẩy các ngành xuất khẩu và phát triển một số ngành then chốt tạo đà tăng trưởng trong tương lai. Đối với các biện pháp hỗ trợ, cần phải đảm bảo một môi trường vĩ mô thuận lợi, hành lang pháp lý minh bạch, chặt chẽ, xây dựng được các chính sách cạnh tranh, chống tham nhũng, phát triển nguồn nhân lực một cách có hiệu quả. Những chính sách này không chỉ góp phần đảm bảo thành công cho CSCN mà còn tạo ra môi trường thuận lợi đối với sự phát triển kinh tế nói chung của nước ta. Tài liệu tham khảo David Begg: Kinh tế học, Tập 1 - NXB Giáo dục, 1995. Bộ Kế hoạch Đầu tư - Viện Nghiên cứu Chiến lược Phát triển: Lựa chọn và thực hiện chính sách phát triển kinh tế ở Việt Nam - NXB Chính trị QG, 1998. Bạch Thụ Cường: Bàn về cạnh tranh toàn cầu - NXB Thông tin Hà nội, 2002. TS. Nguyễn Duy Dũng: Một số định hướng để đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hoá ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010 - NXB Khoa học Xã hội, 2002. Chủ biên Ts. Đỗ Đức Định - Một số vấn đề về chiến lược công nghiệp hoá và lý thuyết phát triển - NXB Thế giới, 1999. Francois Gipouloux: Trung Quốc đi tới kinh tế thị trường? Cuộc Trường chinh sau Mao - NXB Thế giới, 1998. Chủ biên TS. Đoàn Thị Thu Hà và TS. Nguyễn Thị Ngọc Huyền: Giáo trình Chính sách Kinh tế - Xã hội - NXB Khoa học và Kỹ thuật, 2000. Chủ biên GS.TS Dương Phú Hiệp và TS. Nguyễn Duy Dũng: Điều chỉnh chính sách kinh tế của Nhật Bản - NXB Chính trị Quốc gia, 2002. TS. Phạm Thái Quốc: Trung Quốc - Quá trình công nghiệp hoá trong 20 năm cuối thế kỷ XX - NXB Khoa học Xã hội Hà nội, 2001. 10. Chủ biên Ryuichiro Inoue, Hirohisa Kohama và Shujiro Urata: Chính sách công nghiệp ở Đông á - Trung tâm Kinh tế Châu á - Thái Bình Dương - NXB Khoa học Xã hội Hà nội,1997. P. Kgrucman: Kinh tế học quốc tế - Lý thuyết và chính sách, Tập 1. NXB Chính trị quốc gia, 1996. Lưu Lực: Toàn cầu hoá kinh tế lối thoát của Trung Quốc là ở đâu - NXB Khoa học Xã hội, 2001 Chủ biên TS. Võ Đại Lược: Chính sách phát triển công nghiệp của Việt Nam trong quá trình đổi mới - NXB Khoa học Xã hội Hà nội, 1994. Trần Quang Minh: Lý thuyết về lợi thế so sánh: Sự vận dụng trong chính sách công nghiệp và thương mại của Nhật Bản 1955-1990 - NXB Khoa học Xã hội Hà nội, 2000. NXB Chính trị Quốc gia: Chính sách công nghiệp của Nhật Bản - 1999. Ts. Hoàng Thị Thanh Nhàn: Công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu - Kinh nghiệm của các NIEs - NXB thế giới, 2000. 17. Kim Ngọc - Ngọc Trịnh: Chính sách công nghiệp trong các nền kinh tế thị trường phát triển: Những cách tiếp cận mới - NXB Khoa học Xã hội Hà nội, 1994. 18. Gs. Goro Ono: Chính sách công nghiệp cho công cuộc đổi mới - Một số kinh nghiệm của Nhật Bản, 1998. 19. Bradley R. Schiller: Kinh tế ngày nay - NXB Đại học quốc gia Hà Nội. Biên tập Joseph E. Stiglitz và Shahid Yusuf: Suy ngẫm lại sự thần kỳ Đông á - NXB Chính trị Quốc gia, 2002. Đồng chủ biên GS.TS. Lê Hữu Tầng - GS. Lưu Hàm Nhạc: Nghiên cứu so sánh đổi mới kinh tế ở Việt Nam và cải cách kinh tế ở Trung Quốc - NXB Chính trị Quốc gia, 2002 Bùi Tất Thắng: Các nhân tố ảnh hưởng tới sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hoá ở Việt Nam - NXB Khoa học xã hội, 1997. Chủ biên TS. Nguyễn Minh Tú - ThS. Vũ Xuân Nguyệt Hồng: Chính sách công nghiệp và các công cụ chính sách công nghiệp: Kinh nghiệm của Nhật Bản và bài học kinh nghiệm rút cho công nghiệp hoá của Việt Nam - NXB Lao động, 2001. Chủ biên TS. Trần Đình Thiên: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam: Phác thảo lộ trình - NXB Chính trị Quốc gia, 2002 UNDP - MPI/DSI: Tổng quan về cạnh tranh công nghiệp Việt Nam - NXB Chính trị quốc gia, 1999. UNDP - MPI/DSI: Việt Nam hướng tới 2010 - tập 1, tập 2 - NXB Chính trị Quốc gia, 2001. Một số báo cáo về chủ đề công nghiệp, thương mại tại Hội thảo - JICA và Bộ Thương mại - 12/2000. Các bản tin, tạp chí và thông tin kinh tế Danh mục chữ viết tắt Afta Khu vực mậu dịch tự do ASEAN Apec Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương Cscn Chính sách công nghiệp Dnnn Doanh nghiệp Nhà nước đkkt Đặc khu kinh tế đtnn Đầu tư nước ngoài Fdi Đầu tư trực tiếp nước ngoài Imf Quỹ tiền tệ quốc tế Nies Các nền kinh tế công nghiệp mới Miti Bộ Công nghiệp và Thương mại Quốc tế Nhật Bản Ntbs Hàng rào phi thuế quan Oda Tài trợ chính thức R&D Nghiên cứu và triển khai Smes Doanh nghiệp vừa và nhỏ Xnht Xí nghiệp Hưng trấn Wb Ngân hàng thế giới Wto Tổ chức thương mại thế giới mục lục Tài liệu tham khảo Bảng 16: Tình hình thay đổi tỷ trọng vốn và giá trị sản phẩm của các ngành công nghiệp chủ yếu ở Trung Quốc Giá tài sản và tỷ trọng vốn lu động (%) Vị trí Tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp (%) Vị trí Năm 1995 1985 1995 1985 1995 1985 1995 1985 Khai thác than 6.4 3.5 7 11 2.6 2.0 17 18 Khai thác dầu khí 3.7 3.9 10 10 2.3 2.1 18 17 Công nghiệp rừng 2.4 1.5 13 19 2.1 1.7 19 19 Thực phẩm, đồ uống, thuốc lá 6.0 8.3 8 4 12.0 10.9 2 1 Dệt 7.7 6.8 4 6 12.1 8.2 1 4 May mặc, giày da 1.9 3.0 17 13 3.2 5.3 12 8 Chế tạo, giấy, in ấn 2.3 2.5 16 17 2.8 2.9 14 15 Chế tạo dầu khí 1.5 2.5 19 16 2.7 3.2 16 14 Hoá học 7.2 6.2 5 7 6.3 6.6 6 6 Thuốc y học 1.0 1.6 21 18 1.4 1.5 20 20 Sợi hoá học 1.1 1.5 20 20 0.9 1.3 21 21 Cao su và sản phẩm nhựa 2.3 2.8 15 15 3.3 3.6 11 13 Vật liệu xây dựng 7.1 6.0 5 69 7.7 5.0 5 5 Luyện kim 10.6 11.0 2 2 8.6 9.5 4 2 Sản phẩm kim loại 2.3 2.8 14 14 3.0 3.9 13 12 Máy móc 13.2 8.7 1 3 10.9 8.2 3 3 Thiết bị giao thông vận tải 4.8 5.3 9 8 4.1 5.3 7 7 Máy móc khí tài điện khí 2.8 4.0 11 9 3.8 4.7 8 9 Điện tử và thiết bị thông tin 2.5 3.5 12 12 2.7 4.5 15 11 Thiết bị đo lờng 1.0 0.9 22 22 0.8 0.7 22 22 Điện lực, khí đốt 10.4 11.2 3 1 3.7 4.0 10 10 Các ngành khác 1.8 1.4 18 21 3.8 2.4 9 16 Nguồn: Niên giám thống kê Trung Quốc 1995

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0005.doc
Tài liệu liên quan