Giới thiệu chung
1.1. Khái niệm FDI
Theo quỹ tiền tệ quốc tế IMF, FDI được định nghĩa là “một khoản đầu tư với nhưng quan hệ lâu dài, theo đó một tổ chứ trong một nền kinh thế (nhà đầu tư trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác. Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế khác đó
Hội nghị Liên Hợp Quốc về TM và Phát triển UNCTAD cũng đưa ra một doanh nghiệp về FDI. Theo đó, luồng vốn FDI bao gồm vốn được cung cấp (trực tiếp hoặc thông qua các công ty liên quan khác) bởi nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài cho các doanh nghiệp FDI, hoặc vốn mà nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài nhận được từ doanh nghiệp FDI. FDI gồm có ba bộ phận: vốn cở phần, thu nhập tái đầu tư và các khoản vay trong nội bộ công ty.
Các nhà kinh tế quốc tế định nghĩa : đầu tư trực tiếp nước ngoài là người sở hữu tại nước này mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của nước khác. Đó là một khoản tiền mà nhà đầu tư trả cho một thực thể kinh tế của nước ngoài để có ảnh hưởng quyết định đổi với thực thể kinh tế ấy hoặc tăng thêm quyền kiểm soát trong thực thể kinh tế ấy.
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đưa ra khái niệm: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoái hoặc bất kì tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của luật này”
36 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1783 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số nước từ đó rút ra bài học và giải pháp đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
anh nghiệp FDI đang trong thời kỳ hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, nhưng nguồn thu ngân sách từ khu vực FDI lien tục tăng, tính bình quân chiếm từ 7-8% nguồn thu ngân sách (nếu tính cả nguồn thu từ dầu khí, tỷ lệ này đạt gần 30% thu ngân sách).
Chỉ tính riêng trong 5 năm gần đây (2001-2005),các dự án ĐTNN đã đạt doanh thu khoảng 74,061USD.Xuất khẩu cảu khu vực doanh nghiệp có vốn FDI tăng bình quân 20%/năm, đã làm cho tỷ trọng của khu vực kinh tế này trong tổng giá trị xuất khẩu cả nước tăng lien tục trong các năm qua.So sánh giá trị xuất khẩu và đóng góp cho GDP như trên với tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội mới thấy hết hiệu quả của khu vưc kinh tế có vốn ĐTNN.Chính vì vậy, cần phải khuyến khích các dự án ĐTNN hoàn thành và đưa vào sử dụng, vì những dự án này sẽ mang lại lơiích lớn về kinh tế cho đất nước, đẩy mạnh chuyển giao công nghệ, rút ngắn được tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Hiện nay, các doanh nghiệp ĐTNN đang hoạt động có hiệu quả và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế đất nước.Chỉ tính riêng trong năm 2005 đã đạt tổng doanh thu khoảng 18 tỷ USD( không kể dầu khí), ngang bằng năm 2004. Hơn nữa cả vốn và lao động được bồi bổ them đáng kể.Cụ thể là trong năm 2005, khu vực kinh tế ĐTNN đã thực hiện được 6,338 tỷ USD vốn đầu tư , tăng trên 50% so với năm 2004.
Nhờ hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh được tăng cao hơn mà trong năm 2005, chủ đầu tư của 607 dự án trong khu vực ĐTNN đã đề nghị va được các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt cho tăng them vốn đầu tư để mở rộng quy mô hoạt động, với tổng vốn đầu tư tăng them 2,070 tỷ USD, tăng 3,5% so với năm trước. Điều đó cho thấy, nhiều nhà ĐTNN muốn làm ăn lâu dài tại Việt Nam.
Theo một báo cáo của Bộ KH&ĐT, trong 5 tháng đầu năm nay cả nước đã thu hút them hơn 2,412 tỷ USD vốn đầu tư đăng ký mới, bao gồm cả vốn bổ sung của những dự án cũ.Trong đó, riêng phần mới cấp phép có 281 dự án, với tổng vốn đăng ký trên 2 tỷ USD,tăng 8,5% về số dự án và tăng 19,5% về vốn so với cùng kỳ năm trước.Lĩnh vực công nghiệp và xây dưng chiếm 74,3% số dự án và 66,1% tổng số vốn đăng ký mới; lĩnh vực dịch vụ chiếm tương ứng là 21,1%và 33,4%; phần còn còn lại thuộc lĩnh vực nông-lâm- thuỷ sản. Đáng chú ý, trong số dự án cấp giấy phép không chỉ có một số dự án có quy mô vốn đầu tư lớn, và còn gắn liền với việc chuyển giao công nghệ cao, như tập đoàn Intel 605 triệu USD, Công ty Tây Hồ Tây 314 triệuUSD, Winvest Invesment 300 triệuUSD,công ty PanasonicCommution 76,36 triệu USD...
Cũng theo báo cáo trên,doanh thu (không kể dầu khí) cảu các doanh nghiệp FDI trong tháng 5/2006 ước đạt 2,55 tỷ USD, đưa tổng doanh thu của khu vực FDI trong năm tháng đầu năm 2006 lên 9,8 tỷ USD, tăng 14% so với cùng kỳ năm 2005.Trong năm tháng đầu năm 2006, giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực FDI tiếp tục tăng trưởng với nhịp độ cao, đạt 18% so với cùng kỳ năm trước, vượt trội so với mức tăng trưởng chung 15,9% của toàn ngành công nghiệp.Kim ngạch xuất khẩu hang hoá của các doanh nghiệp FDI trong 5 tháng đầu năm 2006 tăng 29,5% so với cùng kỳ năm trước, cũng vượt trội so với mức tăng trưởng chung của cả nước là 24,3%.
Sau một năm, kể từ tháng 5/2005 đến nay, không kể dầu khí, tỷ trọng của doanh nghiệp FDI trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước(theo giá sánh năm 1994) đã tăng từ 28,9% lên gần 30,3%; đồng thời trong tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước cũng tăng từ 32,76% lên gần 35,77%. Mặt khác, tổng số lao động trực tiếp trong khu vực FDI đã gia tăng từ 819.000 người ở thời điểm cuối tháng 5/2005 lên 1.057.000 người hiện nay.
Kể từ sau khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997, xu hưóng dòng vốn FDI vào Việt Nam tiếp tục phục hồi và tăng trưởng. Các vùng trọng điểm kinh tế vẫn là đầu tàu trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, làm động lực phát triển kinh tế của nước ta,tạo sức lan toả của đầu tư nước ngoài sang những vùng có điều kiện kinh tế khó khăn.Chỉ tính riêng trong năm 2005(tinh đến ngày 20/12/2005)trong tổng số 798 dự án được cấp phép, ngoại trừ 1 dự án dầu khí ngoài khơi thì 797 dự án còn lại được thực hiện trên 40 ỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.Dẫn đầu là TPHCM với 243 dự án được cấp phép,tỉnh Bình Dương với 140 dự án,tỉnh Đồng Nai với87 dự ánvà tỉnh Tây Ninh với 26 dự án .Tại khu vực phía bắc, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hưng Yên là các địa phương dẫn đầu vê số dự án FDI được cấp phép hoạt động, trong đó Hà Nội có 103 dự án,Vĩnh Phúc 24 dự án ,Hải Phòng có 21 dự án.Các tỉnh có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn cũng thu hút được các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài như Lào Cai 5 dự án,Cao Bằng 3 dự án, Đắc Nông 2 dự án…
Cơ cấu đầu tư nước ngoài trong năm nay đã có sự chuyển biến theo hướng tăng tỷ trọng của lĩnh vực dĩch vụ, chỉ tính riêng năm 2005(tính đến ngày 20/12/2005),số dự án ĐTNN đầu tư vào ngành dịch vụ cấp mới là 193 dự án chiếm 24,19% với tổng vốn đầu tư gần 1,5 tỷ USD và 50 dự án tăng vốn chiếm 9,77% với tổng vốn tăng thêm gần 228 triệu USD.
Theo Cục Đầu tư nước ngoài(Bộ Kế hoạch và Đầu tư), nhiều dự án lớn về đầu tư nước ngoài sẽ đổ vào Việt Nam trong thời gian tới.Dự kiến năm 2007 cả nước sẽ thu hút trên 12 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Trong tháng 2/2007 có 38 lượt dự án bổ sung thêm vốn với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 360 triệu USD gấp 3 lần tổng vốn tăng thêm so với cùng kỳ 2006
Thái Lan là nhà đầu tư có số vốn đăng ký lớn nhất trong 2 tháng đầu năm 2007, chiếm 33,8% tổng vốn đăng ký(dự án giấy Kraf Vina của tập đoàn SCG SamCement tại Bình Dương với số vốn 220 triệu USD).
Vốn đầu tư đăng ký tập trung vào lĩnh vực công nghiệpchiếm 49% dich vụ chiếm 45% số còn lại thuộc lĩnh vưc nông-lâm – ngư nghiệp.
Bình Dương là địa phương dẫn đầu cả nước về thu hút đầu tư nước ngoài với vốn đầu tư chiếm 35% tổng vốn đăng ký, tiêp theo là Bà Rịa Vũng Tàu 27% và Thái Nguyên 16%.
Bên cạnh đó, trong tháng 2/2007 các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã góp vốn thực hiện là 350 triệu USD tăng 34% so với cùng kỳ năm trước.Doanh thu của các doanh nghiệp ĐTNN trong tháng 2/2007 ước tính đạt 1.980 triệu USD tăng 25% so với cùng kỳ năm ngoái và thu hút thêm 9000 lao động đưa tổng số lao động trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài lên 1.145.000 người tăng 11% so với cùng kỳ năm trước.
Nhìn chung tình hình thu hút đầu tư nước ngoài 2 tháng đầu năm 2007 được đánh giá khả quan với vốn cấp mới và tăng thêm là 1,91 tỷ USD tăng 45% so với cùng kỳ năm trước.Nhiều người hy vọng 2007 là năm bội thu về thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam.
Theo ông Phan Hữu Thắng Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài, năm 2006 cả nước thu hút được 11 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và năm 2007 đang phấn đấu thu hút từ 12 tỷ trở lên.
Cũng theo ông Thắng hiện nay có nhiều nhà đầu tư lơn đang tìm kiếm cơ hội đầu tư tại Viêt Nam với các dự án lớn. Tại Hà Nội, Tập đoàn Gamuda(Malaixia) dự kiên đầu tư 1 tỷ USD xây dựng khách sạn,trung tâm hội nghị, văn phòng căn hộ cao cấp và Tập đoàn River(Nhật Bản) xin đầu tư xây dựng khách sạn 5 sao với vốn 500 triệu USD.
Tại Bắc Ninh và Bắc Giang, tập đoàn Foxcon(Đài Loan) dự kiến đầu tư 5 tỷ USD xây dựng thành phố công nghệ sản xuất các sản phẩm điện tử cao cấp, trong giai đoạn đầu (năm 2007) đầu tư 1 tỷ USD. Ngoài ra còn rất nhiều dự án lớn khác của tập đoàn Trung Quốc đầu tư vào Viêt Nam.
Thời gian tới Cục Đầu tư nước ngoài sẽ kết hợp với 14 tập đoàn truyền thong nước ngoài và trong nước tổ chức hội nghị về thu hút đầu tư nước ngoài tại TPHCM nhằm thong qua đó đẩy mạnh thu hút đầu tư vào Việt Nam.
2.2.Những thuận lợi của Việt Nam khi thu hút FDI
Thu hút đầu tư nước ngoài là một trong những thành tích ấn tượng của Việt Nam trong năm 2006, với con số kỉ lục 10,2 tỷ USD. Vượt xa kế hoạch và con số dự báo. Tuy nhiên, cũng xin lưu ý con số hơn 10 tỷ USD mới chỉ dừng lại ở cam kết. FDI và ODA cùng đạt mức kỉ lục trong năm là những dấu hiệu rất quan trọng và tích cực đối với Việt Nam. Điều này chứng tỏ các tổ chức quốc tế, các chính phủ và các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá tích cực hơn về môi trường đầu tư của Việt Nam.
Đạt được kết quả này phải kể đến nỗ lực của nhà nước Việt Nam nhằm cải thiện môi trường đầu tư và thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Đó là sự nỗ lực hết mình để đáp ứng nhà đầu tư.
Nỗ lực tích cực về phía nhà nước Việt Nam được xem như là các điều kiện cần và đủ-chủ yếu liên quan đến các vấn đề chính sách vĩ mô-được xây dựng một cách rõ ràng và nhất quán để chuyển biến những tiềm năng thành hiện thực.
2.2.1.Những nỗ lực nhằm cải thiện chất lượng môi trường bên trong:
2.2.1.1.Điều đầu tiên phải nhắc đến là hai thế mạnh của Việt Nam: sự ổn định chính trị và an toàn những yếu tố đã được các nhà đầu tư nước ngoài thừa nhận. Bên cạnh đó nhà nước đã có chủ trương tiếp tục cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, mở cửa thị trường theo các cam kết quốc tế. Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư chung và Luật Doanh nghiệp thống nhất, tạo ra “một sân chơi bình đẳng” và “có thể tiên đoán” được cho các nhà đầu tư và kinh doanh trong và ngoài nước.
Theo Luật Đầu tư mới, sẽ mở rộng phạm vi về ngành nghề, địa bàn, phương thức cho các nhà đầu tư lựa chọn. Từ đó, có thể tăng cường sức lan tỏa của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FIE) trong nền kinh tế, thực hiện chuyển giao công nghệ. Cũng vì thế, luật đầu tư được đánh giá là thực sự cởi mở và thông thoáng hơn các luật hiện hành.
2.2.1.2.Thực hiện chủ trương chung của Đảng và nhà nước ta trong quá trình đổi mới, việc phân công thực hiện đầu tư đã được tiến hành mạnh mẽ. Trong lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài, việc phân cấp này được giao trách nhiệm cho các địa phương, ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế.
Chẳng hạn, trước đây các nhà đầu tư có vốn đến 5 triệu USD được giao cho các địa phương cấp phép. Thì nay thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đã được quyết định các dự án đầu tư lớn hơn. Ban quản lý các khu công nghiệp được quyết định các dự án có vốn đầu tư lên đến 40 triệu USD. Nhờ vậy đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư. Thậm chí đã có những địa phương thí điểm cấp phép qua mạng, khiến việc cấp phép đầu tư được nhanh chóng hơn.
Trong luật đầu tư mới, phần lớn chỉ còn có đăng kí đầu tư với quy trình đơn giản và thời hạn ngắn, quy mô đầu tư phải xem xét được nâng lên mức cao. Chỉ với các dự án lớn, có vốn đến khoảng 200 triệu USD (300 tỉ đồng) chiếm chừng 2% doanh nghiệp mới cần phải thẩm định. Sẽ tăng cường khuyến khích đầu tư bằng biện pháp hậu kiểm cũng làm đơn giản hơn các thủ tục thẩm định. Các vấn đề tranh chấp cũng được xử lý theo thông lệ quốc tế.
2.2.1.3.Sự thay đổi lớn trong việc cải thiện môi trường đầu tư ở Việt Nam là sự lắng nghe và tôn trọng của chính phủ xung quanh các ý kiến từ các doanh nghiệp. Cầu nối này trước đây chỉ thể hiện ở cấp chính phủ thì nay hầu hết các địa phương trọng điểm như thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai… đều có.
Đây là điều mà không phải ở bất cứ quốc gia nào cũng có được. Khi một nhà đầu tư nước ngoài mang một số tiền lớn cùng với công nghệ và máy móc đến một nơi “đất khách quê người” làm ăn thì thái độ thiện chí của chủ nhà sẽ tạo nên sự an tâm cho họ.
Mặt khác, sự lắng nghe này còn có ý nghĩa quan trọng ở chỗ chính phủ đã biết vận dụng vào thực tế nhằm cải thiện môi trường đầu tư thông qua những điều chỉnh trong chính sách.
2.2.2.Chúng ta không chỉ phải lo tốt các điều kiện bên trong mà phải còn lo tốt hoạt động xúc tiến đầu tư, tiếp thị với nhà đầu tư bên ngoài và ngược lại. Bởi lẽ hai công việc này sẽ hỗ trợ, bổ sung cho nhau.
Hiện cục đầu tư nước ngoài đang triển khai thiết lập ba trung tâm xúc tiến đầu tư tại cả 3 miền Bắc Trung Nam. Mục tiêu là xây dựng nên những địa chỉ tin cậy của các nhà đầu tư, quan tâm đến tâm tư nguyện vọng của nhà đầu tư, cung cấp các dịch vụ miễn phí cho nhà đầu tư. Cục đầu tư nước ngoài cũng đang khảo sát và sẽ sớm tổng kết những vướng mắc, từ các loại hình dịch vụ cho đến hệ thống luật lệ, chính sách, quản lý điều hành… trình lên chính phủ để rà soát điều chỉnh lại, làm sao xây dựng cho được một môi trường đầu tư hết sức thông thoáng, thoải mái... Nếu chúng ta tạo điều kiện hỗ trợ, giúp đỡ các nhà đầu tư đang làm ăn phát đạt tại Việt Nam thành công, tức là làm tốt được “chân trong” sẽ tạo hiệu ứng tốt cho công tác xúc tiến đầu tư ra bên ngoài.
Lấy sự thành công của khu chế xuất Linh Trung làm ví dụ. Hiện công ty hạ tầng đã làm hoàn tất Khu chế xuất Linh Trung 1,2 và đang xây dựng Linh Trung 3 tại Tây Ninh. Sự thành công này có được là do đơn vị kinh doanh hạ tầng đã không bỏ mặc nhà đầu tư, không thực hiện theo kiểu cho thuê đất xong rồi thôi mà họ đã đồng hành hỗ trợ nhà đầu tư tất cả các khâu: cung cấp dịch vụ, làm visa, giải quyết các quan hệ lao động. Từ kinh nghiệm của Khu chế xuất Linh Trung có thể thấy rằng sau khi cấp phép chúng ta không thể để các nhà đầu tư phải tự xoay xở những vướng mắc nhỏ nhặt nhưng lại gây khó chịu, ảnh hưởng tâm lý nhà đầu tư…l
Những nỗ lực như trên thực sự đã được các nhà đầu tư nước ngoài công nhận, khi ông Norio Hattori, Đại sứ Nhật tại Việt Nam, ghi nhận Việt Nam hiện là Quốc gia có khả năng cạnh tranh cao về thu hút FDI trong khu vực. Trong khi chỉ cách đây 3 năm, môi trường đầu tư tại đây không có gì hấp dẫn so với các lân cận.Như vậy, thị trường Việt Nam thực sự sẽ tự do hơn, mở cửa hơn và tính cạnh tranh cũng cao hơn rất nhiều. Để các nhà đầu tư nước ngoài đã, đang, sẽ đến Việt Nam. Và sẽ tuyệt vời hơn khi Việt Nam giữ chân họ, khiến họ có thể kéo thêm những người khác “xếp hàng” đến đây.
2.3.Một số hạn chế trong thu hút FDI tại Việt Nam.
Mặc dù đã đạt mức tăng trưởng cao, nhưng kết quả thu hút đầu tư nước ngoài trong năm qua vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, vẫn thấp hơn mức đạt được của năm 1996 (8,8 tỷ USD). Môi trường đầu tư và kinh doanh tuy đã tiếp tục được cải thiện nhưng vẫn có những dự án vì những lý do nào đó, sau khi nhà đầu tư khảo sát tại Việt Nam đã thôi không đầu tư nữa hoặc chuyển sang đầu tư nước khác.
Việt Nam là một trong số rất ít các nước đang phát triển được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá cao về các lợi thế đầu tư, đặc biệt là trên 4 phương diện: sự ổn định chính trị, vị trí địa lý, khả năng khống chế tỷ lệ lạm phát và quản lý tỷ giá. Tuy nhiên, Việt Nam cũng là một trong các quốc gia còn yếu trong việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, hiệu quả của các dịch vụ hành chính, cơ sở hạ tầng, hệ thống thuế và khung pháp luật cho hoạt động đầu tư nước ngoài, một số nhà đầu tư có tâm lý chờ đợi các văn bản hướng dẫn thi hành các luật mới. Ngoài ra, các tình trạng đình công chưa được ngăn chặn kịp thời; tình trạng tranh chấp kéo dài và triển khai dự án chậm chưa được xử lý dứt điểm cũng gây ảnh hưởng xấu đối với môi trường đầu tư.
Một điều nữa là chính sách thu hút ĐTNN của các nước trong khu vực quả thật có những điểm hấp dẫn hơn. Nếu nhìn lại, có thể thấy trong vấn đề này Trung Quốc có lợi thế hơn ta khi thị trường trong nước của họ lớn hơn ta rất nhiều. Đấy cũng là lý do khiến một số nhà đầu tư rút khỏi Việt Nam để chuyển hướng sang Trung Quốc.
-Tỷ lệ các dự án đầu tư nước ngoài có sử dụng công nghệ cao, công nghệ nguồn còn thấp. Trong số các đối tác nước ngoài, thì Châu Âu và Hoa Kỳ đầu tư chưa lớn và chưa tương xứng với tiềm năng của họ.
-Nhìn chung, tiến độ thực hiện dự án còn chậm so với luận chứng kinh tế kỹ thuật của dự án. Những dự án được cấp trước thời kỳ khủng hoảng tài chính khu vực vẫn không triển khai hoặc mới chỉ triển khai một số ít hạng mục. Nhiều dự án bất động sản vẫn dậm chân tại chỗ do vướng cơ chế chính sách. Một số dự án gặp vướng mắc kéo dài chưa được xử lý dứt điểm gây ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư. Kết quả là chênh lệch giữa vốn đăng ký và vốn thực hiện còn lớn; tốc độ tăng vốn thực hiện chưa cao.
-Một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không thực hiện đúng những quy định của luật pháp về việc sử dụng lao động là người Việt Nam; như kéo dài thời gian học nghề, trả lương thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định, không thực hiện đúng chế độ bảo hiểm xã hội, kéo dài thời gian lao động trong ngày, thậm chí có những hành động xử phạt trái với pháp luật và đạo lý. Trong khi đó, nhiều người lao động không nắm được quy định của pháp luật, cộng thêm việc thiếu các tổ chức công đoàn, các cán bộ của Bên Việt Nam không bảo vệ được quyền lợi chính đáng của người lao động..., đó chính là những nguyên nhân chủ yếu xảy ra các tranh chấp về lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
-Tỷ lệ các dự án giải thể trước thời hạn vẫn còn ở mức cao, nhất là các dự án được cấp phép trong những năm trước khủng hoảng.
-Chủ trương phân cấp đầu tư trong thời gian qua đã cho thấy đây là một chính sách đúng đắn cần được phát huy và mở rộng, nhưng cũng đã bộc lộ những vấn đề mới, như việc ban hành văn bản vượt khuôn khổ pháp luật, việc quản lý về đầu tư nước ngoài tại các địa phương còn khác nhau, không được xử lý một cách thống nhất, cạnh tranh trong thu hút đầu tư giữa các địa phương đã ảnh hưởng đến lợi ích chung..
-Cơ sở hạ tầng yếu kém( thiếu sân bay, bến cảng hệ thống giao thông…), việc đi lại khó khăn.
-Chưa tạo ra được động lực để kích thích hướng dẫn cho các nhà đầu tư, môi trường cạnh tranh chưa có , quy mô các dự án còn nhỏ .
-Chưa xác định được rõ nơi đâu (nước nào ) và ai là những nhà đầu tư tiềm năng để đưa ra chiên lược thích ứng , có trọng điểm kêu gọi đầu tư. Vẫn chưa xác định những lợi thế đang có, để hoạch định chiến lược dài hạn ; còn rất nhiều lúng túng ,thiếu tự tin khi giới thiệu tiềm năng và nguồn nhân lực .
-Cơ cấu nghành nghề còn đơn điệu , chưa có những chương trình giới thiệu và quảng bá hình ảnh đất nước một cách thuyết phục , hệ thống thông tin dữ liệu còn nghèo nàn , chưa được quan tâm đúng mức .
-Hoạt động xúc tiến đầu tư phân tán , rời rạc , thiếu tính liên kết ; còn nặng về hình thức, nhưng thiếu tính chuyên nghiệp . Các giải pháp thu hút đầu tư thiên về ban phát , mời mọc ban đầu , nhẹ xây dựng thiết kế và tinh thần trách nhiệm của bộ máy .
-Thiếu thân thiện cởi mở với các nhà đầu tư, vẫ còn lắm thủ tục nhiễu khê, phiền phức trong việc đón tiếp ,làm việc với người nước ngoài
-Về nhận thức , mới chỉ thấy đầu tư nước ngoài là cần , nhưng vẫn chưa thấy đến mức phải tập trung chỉ đạo từ phân tích đánh giá đến xây dưng chương trình (đồng bộ ) và tổ chức thực hiện . Kinh nghiệm về thu hút vốn đầu tư nước ngoài còn thiếu
-Một yếu tố nữa cũng làm cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian qua là ĐTNN vẫn còn tập trung tại các vùng kinh tế trọng điểm . Tại các vùng kinh tế có lợi thế về điều kiện tự nhiên và kết cấu hạ tầng và thị trường tiêu thụ hấp dẫn các nhà đầu tư còn các vùng thứ yếu chưa được quan tâm . Điều này cho thấy các chính sách khuyến khích đầu tư vào các tỉnh miền núi , vùng sâu , vùng xa chưa mang lại kết quả . Điều này đòi hỏi trong thời gian tới cần có những giải pháp hữu hiệu hơn nữa nhằm hạn chế tình trạng mất cân đối về ĐTNN giữa các vùng kinh tế .
Chương 3
Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số nước từ đó rút ra bài học và giải pháp đối với Việt Nam
3.1. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc.
FDI là nhân tố đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng và phát triển ở nhiều quốc gia. Việc nghiên cứu và tổng kết kinh nghiệm quốc tế để rút ra bài học cho Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài phục vụ có hiệu quả công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá hiện nay là một việc có ý nghĩa cả về lí luận và thực tiễn.
Trong số các quốc gia đang phát triển ở khu vực Châu Á, Trung Quốc được coi là một quốc gia thành công trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài cho quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá; và đã đạt được những thành tựu đáng kể về thu hút FDI sau hơn 20 năm cải cách và mở cửa. So sánh với Việt Nam, Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng cơ bản về điều kiện phát triển và sự lựa chọn những mô hình kinh tế chuyển đổi.Hơn nữa, Việt Nam đã chậm hơn so với Trung Quốc gần 10 năm trong việc thu hút FDI. Vì vậy, việc xem xét, học tập kinh nghiệm thu hút FDI phục vụ quá trình hiện đại hoá ở Trung Quốc là rất bổ ích đối với nước ta.
3.1.1 Lựa chọn và qui định các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài hợp lí
Việc lựa chọn và qui định các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài hợp lí là một phương thức để thu hút có hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài. Hầu hết các nước đều chú trọng lựa chọn hình thức này và các nhà đầu tư cũng chú trọng lựa chọn hình thức đầu tư để nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của mình.
Kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế (1978) và đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, Trung Quốc đã đưa ra các qui định về các hình thức đầu tư mà nhà đầu tư nước ngoài được phép thực hiện tại Trung Quốc.Các hình thức đầu tư được Trung Quốc áp dụng khá đa dạng và liên tục được bổ sung, sửa đổi phù hợp với mục tiêu thu hút đầu tư của Trung Quốc.Các hình thức này bao gồm:
3.1.1.1 Xí nghiệp liên doanh:
Đây là hình thức đầu tư được thành lập giữa đối tác nước ngoài là công ty, cá nhân hoặc tổ chức kinh tế nước ngoài với đối tác Trung Quốc để tiến hành các hoạt động đầu tư.Các bên cùng góp vốn, cùng quản lý, cùng phân chia lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo mức độ góp vốn.Quyền lợi và nghĩa vụ của các bên được qui định trong hợp đồng liên doanh.
Đây là hình thức được Trung Quốc coi trọng thành lập và tạo điều kiện thuận lợi nhằm tranh thủ đầu tư nước ngoài để học tập kinh nghiệm quản lý, đào tạo tay nghề cho người lao động Trung Quốc, phát triển thị trường nội địa, mở rộng xuất khẩu, tiếp nhận công nghệ nước ngoài…
Trong giai đoạn đầu thu hút vốn đầu tư, hình thức này đã được hưởng khá nhiều chính sách ưu đãi hơn so với các hình thức đầu tư khác như: miễn thuế xuất nhập khẩu, thủ tục hải quan…và chỉ một số lĩnh vực thương mại và dịch vụ mới được phép thành lập xí nghiệp dưới hình thức liên doanh.
Tuy nhiên, hình thức đầu tư này cũng bộc lộ những hạn chế nhất định, như: phía Trung Quốc đễ bị thiệt hại do thiếu kinh nghiệm liên doanh, đặc biệt là những thua thiệt trong quá trình đàm phán để kí kết hợp đồng liên doanh.
3.1.1.2. Xí nghiệp liên doanh hợp tác:
Đây là hình thức đầu tư, trong đó bên nước ngoài đóng góp toàn bộ hoặc phần lớn tiền vốn và kĩ thuật, còn phía Trung Quốc góp vốn bằng đất đai, nhà xưởng hiện có và một phần nhỏ vốn đầu tư. Hai bên cùng phối hợp hoạt động hoặc cùng hợp tác sản xuất kinh doannh.Tỷ lệ và phương thức phân phối lợi nhuận giữa các bên hợp tác được áp dụng khá linh hoạt.
Xí nghiệp được thành lập theo hình thức này có thể là thực thể kinh tế độc lập có ban giám đốc điều hành, cũng có thể do các bên tiến hành hợp tác với tư cách là pháp nhân độc lập của từng bên thành thực thể kinh tế kết hợp mà các bên cùng phối hợp với nhau để thực hiện các hoạt động quản lí kinh doanh.Khi các bên không thành lập một pháp nhân mới, việc giám sát, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động của hình thức đầu tư này khá phức tạp, đặc biệt về các mặt tài chính.
Các giao dịch tài chính không rõ ràng, việc trốn thuế, thiếu trung thực trong các báo cáo tài chính, báo cáo thu nhập, lãi, lỗ…dễ xảy ra đối với hình thức đầu tư này.
3.1.1.3. Xí nghiệp sở hữu nước ngoài hoàn toàn:
Đây là hình thức đầu tư trong đó toàn bộ vốn góp thuộc sở hữu nhà đầu tư nước ngoài. Loại hình này thường được tổ chức theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn.
Việc thành lập loại hình xí nghiệp này được đánh giá là mang lại nhiều lợi ích cho phía Trung Quốc. Cụ thể là: Trung Quốc sẽ tiếp nhận được trình độ kĩ thuật khá cao; không phải quan tâm nhiều đến việc chuẩn bị vốn đầu tư để góp vốn vào dự án với nhà đầu tư nước ngoài; không phải chịu rủi ro từ hoạt động đầu tư, mà chỉ thu tiền thuế của các hoạt động kinh doanh của xí nghiệp loại này; không có những sự xung đột, tranh chấp về quản lý và điều hành kinh doanh trong xí nghiệp giữa phía Trung Quốc và phía nước ngoài.
Tuy nhiên, với hình thức đầu tư này, Trung Quốc cũng phải chịu những thua thiệt nhất định, cụ thể là: Trung Quốc không chủ động tiến hành cải tạo các doanh nghiệp hiện có; nhiều nhà đầu tư nước ngoài trốn thuế nghiêm trọng, thậm chí thay đổi cả mục tiêu dự án; khó đạt được mục tiêu tiếp nhận công nghệ nguồn của các công ty xuyên quốc gia.
3.1.1.4. Hình thức hợp tác phát triển:
Đây là cách rút gọn của hình thức hợp tác nghiên cứu và khai thác dầu khí trong đất liền và ngoài khơi. Hình thức này chủ yếu được áp dụng trong khai thác các nguồn khoáng sản tự nhiên.
Hình thức này chiếm tỉ trọng nhỏ trong các hình thức đầu tư, vì tuy lợi nhuận thu được khá cao nhung mức độ rủi ro cũng khá cao, và nguồn vốn đầu tư lớn.
3.1.1.5. Công ty cổ phần đầu tư nước ngoài:
Đây là hình thức đầu tư mà nhà đầu tư nước ngoài có thể thành lập công ty cổ phần ngay từ thời điểm thành lập hoặc lựa chọn các công ty trách nhiệm hữu hạn có vốn đầu tư nước ngoài để chuyển đổi thành công ty cổ phần.Qui định này tạo điều kiện để nhà đầu tư nước ngoài chuyển đổi hình thức đầu tư, thực hiện việc cổ phần hoá doanh nghiệp và tham gia thị trường chứng khoán.
Trên thực tế, hình thức đầu tư này chưa thật phát triển mạnh do hoạt động quản lí trên thị trường chứng khoán Trung Quốc còn khá phức tạp và kinh nghiệm quản lí của Trung Quốc trên lĩnh vực này chưa nhiều.
3.1.1.6. Hình thức công ty đầu tư
Đây là hình thức nhằm khuyến khích các công ty nước ngoài có quy mô lớn, đặc biệt là các công ty xuyên quốc gia có vốn đầu tư lớn, công nghệ nguồn, thương hiệu mạnh, kinh nghiệm quản lý tiên tiến và khả năng cạnh tranh cao tiến hành các hoạt động đầu tư.Các công ty xuyên quốc gia thông qua các công ty đầu tư thực hiện các dự án có quy mô lớn, kĩ thuật cao, phương thức quản lý khoa học và có hiệu quả. Đây là động lực và nền tảng cơ bản để nâng cao trình độ kĩ thuật của các xí nghiệp Trung Quốc, nâng cấp và đổi mới thế hệ sản phẩm, cải thiện cơ cấu ngành nghề.
3.1.1.7. Hình thức BOT:
Để mở rộng lĩnh vực đầu tư và thị trường đầu tư, Trung Quốc đã tích cực thực hiện các phương thức đầu tư mới như: BOT, BTO, BT nhằm khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các công trình kết cấu hạ tầng như đường sá, bến cảng, cơ sở năng lượng… Tuy nhiên hình thức này có thời hạn thu hồi vốn dài và tỷ lệ thu hồi vốn không cao.
3.1.1.8. Hình thức sát nhập và mua lại công ty:
Đây là việc Trung Quốc cho phép các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các công ty xuyên quốc gia được phép thực hiện các hoạt động sát nhập và mua lại các công ty Trung Quốc. Đồng thời thông qua hoạt động này, các nhà đầu tư trong nước có thể có được các bí quyết công nghệ và các qui trình sản xuất mà các hình thức khác khó thực hiện được.
Hình thức này đang được triển khai áp dụng ở Trung Quốc và gắn với các qui định pháp luật về cạnh tranh và các qui định chống độc quyền.
3.1.1.9. Một số hình thức khác
Ngoài các hình thức trên, Trung Quốc cũng đã áp dụng nhiều phương thức thu hút đầu tư nước ngoài khác có tính đặc thù như: thành lập các đặc khu kinh tế, thành phố mở cửa, khu công nghiệp chế xuất …
Đặc khu kinh tế là những khu vực kinh tế đặc biệt chuyên cung cấp những ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài nhưng vẫn chịu sự chỉ đạo của Nhà nước.Hoạt động kinh tế của nó chịu sự chi phối trực tiếp của thị trường thế giới. Sự phát triển kinh tế chủ yếu dựa vào thu hút và sử dụng vốn, công nghệ và kiến thức quản lí nước ngoài.
Thành phố mở cửa là những thành phố có hoạt động kinh doanh phát triển toàn diện, có truyền thống buôn bán lâu đời, có tiềm năng kinh doanh nguyên liệu, năng lượng, và các thành phố có cảng vận tải. Thành phố mở cửa bao gồm thành phố mở cửa ven biển và thành phố mở cửa ven biên giới.
Khu chế xuất, khu công nghiệp là các khu chuyên môn hoá sản xuất hàng công nghiệp để xuất khẩu hoặc tiêu thụ trên thị trường trong nước. Các xí nghiệp hoạt động trong các khu này được hưởng các ưu đãi về tài chính, cơ sở hạ tầng, dịch vụ kinh doanh và các điều kiện lao động…
3.1.2 Thực hiện chính sách mở cửa từng bước
Trong những năm qua, Trung Quốc đã thực hiện chính sách mở cửa từng bước, khuyến khích đầu tư nước ngoài theo quy hoạch phát triển vùng lãnh thổ phù hợp với từng giai đoạn phát triển:
Năm 1979, Đảng cộng sản và Quốc vụ viện Trung Quốc đã quyết định hai tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến thực hiện chính sách kinh tế đối ngoại đặc thù, nhằm tích cực thu hút nguồn vốn của Hoa Kiều và kinh nghiệm quản lý kĩ thuật tiên tiến của nước ngoài.
Năm 1980, Uỷ ban Thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân Trung Quốc thông qua “Điều lệ về Đặc khu kinh tế Quảng Đông” và quyết định thành lập 3 Đặc khu kinh tế: Thâm Quyến, Chu Hải, Sán Dầu, đồng thời quyết định cho tỉnh Phúc Kiến xây dựng Đặc khu kinh tế Hạ Môn.
Năm 1984, Trung Quốc thành lập tỉnh đảo Hải Nam và toàn tỉnh thành lập khu kinh tế thứ 5 (Đặc khu kinh tế Hải Nam)
Năm 1988, Trung Quốc mở cửa tiếp 14 thành phố ven biển với tổng diện tích 10 vạn km2, dân số khoảng 45,38 triệu người. 14 thành phố này đều là nơi có nền kinh tế phát triển.
Việc Trung Quốc mở cửa những thành phố này là nhằm mở rộng hơn việc hợp tác kĩ thuật và giao lưu kinh tế với nước ngoài, tận dụng FDI, nhằm đưa khoa học kĩ thuật tiên tiến vào Trung Quốc.
3.1.3 Phát triển và mở rộng hệ thống khuyến khích đầu tư đa dạng.
Trung Quốc chủ động sử dụng nguồn vốn nước ngoài một cách hợp lí và hiệu quả; coi đầu tư nước ngoài là một nguồn lực quan trọng trong quá trình phát triển của đất nước, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài ngày càng thông thoáng và hấp dẫn.
Trung Quốc khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các vùng khó khăn của Trung Quốc ( miền Trung và miền Tây) bằng cách: khi đầu tư vào các khu vực khó khăn, các nhà đâu tư sẽ được hưởng chính sách thuế ưu đãi hơn trong 10 năm sau khi bắt đầu thực hiện dự án.
Việc mở cửa các thị trường tài chính được thực hiện trên nguyên tắc tin cậy và thận trọng từng bước
Thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư vào các ngành, cụ thể là: Thời kì đầu thập kỉ 80 của thế kỉ XX, Trung Quốc đã mở cửa ngành công nghiệp nhẹ cho các nhà đầu tư nước ngoài là chủ yếu, sau đó từng bước mở rộng sang các lĩnh vực khác như: năng lượng, nguyên liệu thô, xây dựng cơ sở hạ tầng. Cuối những năm 80 của thế kỉ XX, Trung Quốc có sự điều chỉnh chính sách thu hút FDI hướng về xuất khẩu, nên cơ cấu FDI có những thay đổi lớn, các dự án công nghiệp chiếm hơn 90% tổng số dự án và trên 70% tổng số vốn FDI cam kết. Trong những năm 90 của thế kỉ XX, cơ cấu FDI được khuyến khích mở rộng, chuyển sang các hoạt động dịch vụ như kinh doanh tiền tệ, ngoại thương, tư vấn, bảo hiểm…
3.2. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Thái Lan và Malaysia
3.2.1. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Thái Lan
Về các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài, theo qui định pháp luật của Thái Lan, các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài được áp dụng tương tự như các hình thức đầu tư trực tiếp của Trung Quốc và mức độ đa dạng khá cao.Các hình thức này bao gồm: hợp tác kinh doanh trên cơ sỏ hợp đồng, liên doanh, doanh nghiệp nước ngoài sở hữu hoàn toàn, các hình thức BOT, BT, BTO, hình thức sáp nhập và mua lại và phương thức thành lập các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất.
Thái Lan không có giới hạn về thời hạn thuê đất đối với các dự án đầu tư nước ngoài và trong các liên doanh, bên nước ngoài chỉ được góp vốn tối đa là 49%.
Thái Lan chú trọng phát triển các dự án công nghệ cao, đặc biệt là các dự án công nghệ thông tin thông qua việc thành lập “ Thung lũng công nghệ cao” gắn với việc khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài, chủ yếu là các công ty xuyên quốc gia đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ và chuyên gia trong lĩnh vực công nghệ cao.
Thái Lan cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được tham gia giao dịch trên thị trường chứng khoán Bangkok với những qui định khá chặt chẽ để tránh tình trạng rơi vào khủng hoảng tài chính - tiền tệ như năm 1997. Tuy nhiên khả năng quản lí các hình thức đầu tư trên thị trường chứng khoán của Thái Lan còn khá hạn chế.
3.2.2. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Malaysia
Malaysia có khá nhiều điểm tương đồng với Thái Lan trong việc thực hiện các chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Pháp luật Malaysia cũng qui định các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm: hợp tác kinh doanh trên cơ sỏ hợp đồng, liên doanh, doanh nghiệp nước ngoài sở hữu hoàn toàn, các hình thức BOT, BT, BTO, hình thức sáp nhập và mua lại và phương thức thành lập các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất.
Cả hai nước đều chú trọng phát triển các dự án công nghệ cao, đặc biệt là các dự án công nghệ thông tin thông qua việc thành lập “ Thung lũng công nghệ cao” gắn với việc khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài, chủ yếu là các công ty xuyên quốc gia đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ và chuyên gia trong lĩnh vực công nghệ cao.
Malaysia cũng cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được tham gia giao dịch trên thị trường chứng khoán Kuala Lumpur. Chảng hạn, các nhà đầu tư nước ngoài có tài khoản tạo các công ty môi giới địa phương chỉ được đầu tư vào 3 quỹ đã niêm yết là Quỹ Kwang Hua Growth, Quỹ NITC Fuyuan và Quỹ Citizen.
Mailaysia coi trọng việc phát triển các liên doanh trong lĩnh vực công nghiệp nặng như công nghiệp ô tô, công nghiệp đóng tàu… để tiếp nhận công nghệ chế tạo nước ngoài, nâng cao trình độ quản lí của đội ngũ cán bộ … phù hợp với chiến lược phát triển ngành công nghiệp.
3.3. Bài học kinh nghiệm rút ra đối với Việt Nam
Nền kinh tế Việt Nam đang phát triển ở trình độ thấp cho nên nhiều giao dịch quốc tế, trong đó có các giao dịch về đầu tư chưa phát triển đủ mức định hình một cách rõ nét về các hình thức đầu tư để qui định chính thức trong các văn bản quy phạm pháp luật. Hơn nữa, việc khai thác, sử dụng và phát triển có hiệu quả các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài là một vấn đề rất quan trọng đối với việc thực hiện các chính sách phát triển của Việt Nam và chúng có tính nhạy cảm cao trong thu hút đầu tư nước ngoài. Đây vừa là một vấn đề có tính chất kinh tế kinh doanh, vừa là vấn đề chính trị có liên quan đến chủ quyền, an ninh quốc gia, mức độ độc lập, tự chủ… trong chính sách đối ngoại.
Bên cạnh đó, vấn đề này phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khác nhau như mục tiêu đặt ra trong chính sách của Chính phủ, chiến lược nhà đầu tư nước ngoài, bối cảnh kinh tế trong khu vực mà đặc biệt là năng lực kiểm soát, quản lí hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài ở nước sở tại và sự phát triển của tư duy pháp lí trong ban hành các qui định pháp luật về đầu tư nước ngoài của nước sở tại…
Từ thực tiễn áp dụng các hình thức đầu tư nước ngoài của các nước vừa nghiên cứu ở trên, có thể rút ra được một số bài học kinh nghiệm quan trọng cho Việt Nam.
3.3.1. Cần thống nhất về mặt nhận thức rằng việc qui định các hình thức FDI phù hợp là công cụ để kiểm soát và quản lí có hiệu quả các hoạt động FDI
Cần có phương thức sử dụng các hình thức đầu tư một cách có hiệu quả tương ứng với năng lực quản lí hoạt động đầu tư.
Cần sử dụng các công cụ này một cách linh hoạt, sang tạo, đa dạng, và mềm dẻo tuỳ thuộc vào điều kiện của từng giai đoạn và thậm chí của từng khu vực trong một đất nước nếu cần thiết, thông qua một hệ thống các qui định, chỉ dẫn và các biện pháp khuyến khích.
3.3.2. Cần đa dạng hoá hình thức đầu tư theo quan điểm lợi ích – chi phí phù hợp với xu hướng mở cửa thị trường đầu tư và tự do hoá đầu tư nước ngoài
Để tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư, cần đa dạng hoá các hình thức đầu tư với phương thức hợp lí gắn với điều kiện từng nước và từng giai đoạn. Đồng thời, để đạt được mục tiêu đặt ra lâu dài của chính sách đầu tư, trong nhiều trường hợp, các chính phủ phải chấp nhận sự thua thiệt ở mức độ nhất định các khoản lợi ích ngắn hạn.
Việc cho phép thành lập các xí nghiệp nước ngoài sở hữu hoàn toàn nhằm tăng khối lượng vốn đầu tư thu hút từ bên ngoài, cải tiến chất lượng sản phẩm, thu hút được công nghệ nguồn… nhưng đổi lại các lợi ích thu được là những thua thiệt về lợi ích của nước sơ tại do hoat động chuyển giá nội bộ công ty xuyên quốc gia, việc trốn lậu thuế và khả năng lũng đoạn thị trường của các xí nghiệp này.
Các hình thức đầu tư nên được tạo điều kiện phát triển mạnh hiện nay ở Việt Nam là sáp nhập và mua lại, phát triển hình thức quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ tương hỗ, quỹ bảo hiểm đầu tư… và các hình thức đầu tư khác trên thị trường chứng khoán.
3.3.3. Cần coi trọng việc bảo hộ lợi ích của các nhà đầu tư nước ngoài
Việc nhà đầu tư nước ngoài lựa chon một hình thức đầu tư nào đó là sự thể hiện đầy đủ quan điểm của nhà đầu tư mà trực tiếp là các khoản lợi ích thu được tối ưu của họ từ hoạt động đầu tư được tiến hành. Việc bảo hộ lợi ích, thể hiện ở việc cho phép nhà đầu tư có đủ các quyền năng để thực hiện các hình thức đầu tư hợp lí ở những lĩnh vực tạo lợi ích lớn nhất cho họ. Cụ thể là:
Đối với lĩnh vực khai thác, thăm dò đầu khí ngoài khơi - một lĩnh vực có nhiều rủi ro, hình thức hợp đồng phân chia sản phẩm là hình thức hợp lí.
Đối với lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng, các lĩnh vực cung ứng các dịch vụ, tiện ích công cộng, bảo vệ môi trường sinh thái, cung cấp nguồn nước, năng lượng… hìnht hức BOT, BTO, BT là những hình thức nên áp dụng
Đối với lĩnh vực có khả năng thu lợi nhuận độc quyền hoặc độc quyền nhóm trên một đoạn thị trường nhất định vốn là thế mạnh của các công ty xuyên quốc gia, có thể sử dụng được danh tiếng và thương hiệu mạnh của các tập đoàn này, khai thác năng lực cạnh tranh cao của chúng, bảo hộ được tài sản trí tuệ, bí quyết công nghệ, bí quyết thương mại… hình thức tổ chức kinh tế 100% vốn đầu tư nước ngoài là hợp lí.
Đối với lĩnh vực có khả năng phân chia thị trường, khó có khả năng thu lợi nhuận độc quyền mà chỉ có khả năng thu lợi nhuận bình quân, chia sẻ rủi ro hoặc để tận dụng kiến thức và kinh nghiệm của đối tác về thị trường, kĩ năng quản lí, chuyển giao công nghệ… hình thức liên doannh là hình thức bộc lộ những ưu thế cao hơn so với các hình thức khác.
Đối với lĩnh vực dịch vụ đặc thù như cung ứng dịch vụ tư vấn, nghiên cứu – phát triển… hình thức công ty hợp danh là sự lựa chọn tối ưu…
3.3.4. Việc qui định hình thức đầu tư cần gắn với các điều kiện thực hiện hình thức đó và cần có cơ chế điều tiết, kiểm soát thích hợp.
Các điều kiện thực hiện bao gồm điều kiện về tổ chức, biện pháp khuyến khích về tài chính, đội ngũ nhân sự bao gồm cán bộ quản lí và công nhân, mức độ ủng hộ của chính phủ thông qua việc cho phép các hoạt động đầu tư diễn ra ở các lĩnh vực nhất định… tức là mức độ mở cửa thị trường để đầu tư.
Đồng thời cần đào tạo và phát triển những nhân sự có đủ những phẩm chất, năng lực cần thiết để cùng tham gia điều hành hoạt động liên doanh, có khả năng để học hỏi kinh nghiệm của đối tác nước ngoài và phối hợp hữu hiệu trong việc ra quyết định.
Cần có cơ chế điều tiêt, kiểm soát các hình thức này một cách phù hợp để hướng hoạt động đầu tư theo đúng mục tiêu đặt ra theo từng ngành, từng khu vực…, tạo điều kiện để nhà đầu tư chuyển đổi hình thức đầu tư khi cần thiết, tránh tình trạng tuỳ tiện áp đặt các hình thức đầu tư không phù hợp, gây tốn kém chi phí để điều chỉnh trong tương lai.
Cần có đội ngũ cán bộ quản lí nhà nước có đủ năng lực thực hiện và bộ máy quản lí nhà nước ở cấp trung ương và địa phương có đủ hiệu lực thực hiện.
Cần thay đổi cơ bản nhận thức phổ biến hiện nay trong các nhà hoạch định chính sách đầu tư Việt Nam là “ khả năng quản lí đến đâu tạo điều kiện phát triển các hình thức đầu tư đến đó”.Chính nhận thức này làm ảnh hưởng rất lớn đến khả năng mở rộng và đa dạng hoá linh hoạt các hình thức đầu tư, làm tăng them mức độ trì trệ của bộ máy quản lí, khó đưa ra được những thay đổi có tính chất đột phá nhằm tạo chuyển biến cơ bản trong thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam hiện nay
3.3.5. Cần phát triển mạnh khoa học pháp lí về đầu tư nước ngoài để tăng tính chủ động và sang tạo của các nhà hoạch định chính sách trong việc đưa ra các hình thức đầu tư nước ngoài ohù hợp với điều kiện Việt Nam.
Việc phát triển khoa học pháp lí cần dựa trên thực tiễn hoạt động kinh tế và kinh doanh quốc tế có liên quan đến đầu tư tại Việt Nam, các chính sách kinh tế, tập quán kinh doanh, trình độ phát triển các giao dịch về đầu tư nước ngoài, thực tiễn đầu tư của các nước trên thế giới cũng như các qui định quốc tế về đầu tư được qui định trong các hiệp định quốc tế hoặc các thông lệ quốc tế. Vì thế, cần chú trọng đào tạo đội ngũ luật gia, trang bị kiến thức pháp luật, phương pháp luật tư duy pháp lí sang tạo, linh hoạt, hìnht hành tầm nhìn xa, khả năng trông rộng về tính chất pháp lí của các giao dịch kinh tế cho các nhà quản lí doanh nghiệp và quản lí nhà nước, đầu tư nhiều hơn vào phát triển khoa học pháp lí thông qua việc triển khai hệ thống các đề tài nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu triển khai và tổng kết thực tiễn, nghiên cứu tình huống có tính đặc thù về các vấn đề như quyền sở hữu, quyền hưởng lợi, quyền lựa chọn và chuyển đổi hình thức đầu tư tài sản, quyền tham gia thị trường chứng khoán, vấn đề bảo hộ đầu tư nước ngoài, các qui định về cạnh tranh, bản chất sinh lợi của các loại tài sản…
Cần đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm các nước về ban hành pháp luật, qui định về hinnhf thức đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các nước có nền khoa học pháp lí phát triển về lĩnh vực đầu tư để đón đầu trong việc đưa ra các qui định hợp lí, tiếp nhận có chọn lọc các kinh ngiệm quốc tế này để áp dụng vào Việt nam.
Cần có cơ chế giảm thiểu những rủi ro trong nghiên cứu và rút ngắn tối đa khoảng cách tụt hậu về tư duy khoa học pháp lí trong xây dựng, ban hành và áp dụng các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
3.4. Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới
Thời gian qua chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng đáng biểu dương song bên cạnh đó vẫn còn không ít mặt hạn chế mà chúng tôi đã trình bày trong những nội dung trước.Vì vậy trong thời gian tới để tăng cường lượng vốn FDI nên tiến hành các nhóm biện pháp lớn sau đây:
3.4.1.Về pháp luật chính sách:
Cần triển khai thực hiện tốt Luật doanh nghiệp và luật đầu tư chung, ban hành các Nghị định và thông tư hướng dẫn hai luật nói trên,tuyên truyền ,phổ biến nội dung của các luật mới;kịp thời hướng dẫn cụ thể về chuyển đổi thủ tục hành chính ,củng cố,hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý đầu tư nước ngoài phù hợp với quy định của luật mới.Coi trọng việc giữ vững sự ổn định,không làm ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp FDI khi áp dụng các luật mới .
Ban hành chính sách ưu đãi, khuyến khích mọi thành phần kinh tế,nhất là kinh tế tư nhân và đầu tư nước ngoài phát triển cơ sở hạ tầng, kinh doanh bất động sản đáp ứng nhu cầu và thực tế hội nhập kinh tế quốc tế.
Bổ sung cơ chế,chính sách xử lý các vấn đề pháp lý có liên quan đến việc thực hiện các cam kết của nước ta trong lộ trình AFTA và các cam kết đa phương và song phương trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,nhất là mở cửa trong lĩnh vực dịch vụ như:bưu chính viễn thông ,vận chuyển hàng hoá, y tế giáo dục đào tạo v.v…
Đẩy mạnh việc đa dạng hoá hình thức đầu tư để khai thác thêm các kênh đầu tư mới như cho phép thành lập công ty hợp danh, đầu tư nước ngoài theo hình thức mua lại và sáp nhập….Sớm ban hành quy chế công ty quản lý vốn để điều hành chung các dự án.Tổng kết việc thực hiện thí điểm cổ phần hoá các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài để nhân rộng.
3.4.2.Về quản lý nhà nước trong hoạt động đầu tư nước ngoài
Đối với các nhà đầu tư những ưu đãi về thuế,tiền thuê đất,về thời hạn thuê đất ,về thời hạn của dự án,về giá nhân công rẻ…vẫn rất quan trọng nhưng quan trọng hơn là hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước,từ Trung ương đến địa phương .Quản lý nhà nước còn bao gồm cả việc xử lý vi phạm pháp luật,nhưng cần tách bạch giữa vi phạm của cá nhân thực hiện dự án với ,hoặc liên quan đến dự án với chính lợi ích khi được triển khai của dự án sẽ mang lại .Cần coi việc xử lý vi phạm là bắt buộc chứ không phải là để đối phó với các nhà đầu tư,cản trở các hoạt động kinh doanh và đầu tư của doanh nghiệp.Cân nhận thức rõ,bản chất của vốn FDI là của tư nhân ,do đó họ có quyền trong việc lựa chọn địa điểm đầu tư.Chỉ cầc phải chờ đợi hoặc gặp trở ngại mà không rõ khi nào xử lý xong họ sẽ chuyển đầu tư của mình sang địa điểm khác .
Đẩy mạnh việc triển khai phân cấp quản lý nhà nước giữa chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; chú trọng vào công tác, hướng dẫn kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật của các đia phương tránh tình trạng ban hành chính sach ưu đãi vượt khung; giảm dần sự tham gia trực tiếp của cơ quan quản lý trung ương đến địa phương thong qua tổ chưc tập huấn, đào tạo ngắn hạn.
Tiếp tục thực hiện nghiêm túc chỉ thị 13 củ thủ tướng chính phủ,trong đó có việc tiến hành đều đặn chương trình giao ban vùng,duy trì,nâng cao chất lượng các cuộc đối thoại với cộng đồng các nhà đầu tư,kịp thời giải quyết các khó khăn vướng mắc trong hoạt động kinh doanh của nhà đầu tư.
Thực hiện có hiệu quả cơ chế một cửa và giải quyết kịp thời các vấn đề phát sinh giúp các doanh nghiệp triển khai dự án thuận lợi;khuyến khích họ đầu tư có chiều sâu,mở rộng sản xuất để đạt hiệu quả kinh tế-xã hội cao hơn. Đây là cách tốt nhất để chứng minh có sức thuyết phục về môi trường đầu tư nước ngoài ở Việt Nam đối với các nhà đầu tư tiềm năng .
Hỗ trợ, thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài bằng cơ chế chính sách khuyến khích, ưu đãi trong lập quỹ,vay vốn đầu tư, đơn giản hoá thủ tục hành chính trong việc cấp phép, mở rộng chế độ đăng ký cấp phép.
Tiếp tục mở rộng việc ứng dụng công nghệ tin học vào công tác quản lý nhằm nâng cao hiệu quả điều hành hoạt động đầu tư nước ngoài ở cả trung ương lẫn địa phương .
3.4.3.Đổi mới và đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư
Tiếp tục tăng cường và đổi mới công tác vận động và xúc tiến đầu tư chú trọng các đối tác chiến lược,cũng như tăng cường quảng bá hình ảnh của đất nước Việt Nam đối với các nhà đầu tư quốc tế.Cùng với việc tổ chức các cuộc hội thảo giới thiệu về môi trường đầu tư chung tại các địa bàn và đối tác đã được nghiên cứu,qua các kinh nghiệm đầu tư, cần tăng cườn vận động trực tiếp các tập đoàn lớn đầu tư vào các dự án cụ thể .Có thể nói hướng thu hút đầu tư có hiệu quả nhất của Việt Nam là tập trung vào các doanh nghiệp nhỏ và vừa,các ngành có sử dụng nhiều nhân công,các ngành chế biến và lắp ráp. Đặc biệt cần đẩy mạnh hơn nữa thu hút đầu tư của các ngành sử dụng nhiều nhân công vì giá nhân công thấp là điểm hấp dẫn nhất của Việt Nam (giá nhân công ở Trung Quốc cũng có xu hướng nâng lên và hiện đã cao hơn ở Việt Nam).Một số ngành có thể lưu ý là :dệt may, lắp ráp điện tử máy móc.Một khi thu hút được các nhà máy lắp ráp sẽ gián tiếp thu hút các nhà sản xuất và cung cấp.
Bên cạnh việc tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư trên các mặt chính sách và pháp luật,hạ tầng cơ sở, đào tạo nhân lực thì một yếu tố quyết định thành công là việc giải quyết kịp thời các vướng mắc của các nhà đầu tư.Vì sự hài long và thành công của các nhà đầu tư là một minh chứng sinh động nhất để tiếp tục thuyết phục và thu hút các nhà đầu tư khác vào Việt Nam
Ngoài việc có những ưu đãi đầu tư thuận lợi, Việt Nam cần có những chương trình xúc tiến phù hợp kể cả việc các nhà lãnh đạo cao cấp tiếp cận và gặp gỡ để bàn bạc trực tiếp,có thể kết hợp với những chuyến đi thăm,làm việc nước ngoài của những nhà lãnh đạo Đảng , chính phủ để tổ chức các cuộc hội thảo giới thiệu môi trường đầu tư,mời các nhà lãnh đạo Đảng ,Nhà nước phát biểu tại các cuộc hội thảo nhằm xây dựng hình ảnh tốt về sự quan tâm của chính phủ đối với đầu tư nước ngoài.Các cơ quan nhà nước phải coi xúc tiến đầu tư là chức năng đầu tiên của mình ,thành lập quỹ xúc tiến đầu tư chung trên phạm vi toàn quốc,với việc xúc tiến đầu tư theo từng thời kỳ,có từng địa chỉ cụ thể ,tập trung vào vận dụng các đối tác đầu tư phù hợp với mục tiêu đặt ra ,nhất là các đối tác có công nghệ cao ,công nghệ nguồn:
Đối với các đối tác lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản,EU…cần có các dự án lớn định hướng vào các tập đoàn xuyên quốc gia hang đầu của từng nước để trao đổi trực tiếp nhằm trong một thời gian ngắn các nhà đầu tư có thể đi đến quyết định đầu tư
Phối hợp triển khai đề án kết nối kinh tế Việt Nam-Singapore nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài
Nâng cao trang thông tin website về đầu tư nước ngoài .Biên soạn lại các tài liệu về đầu tư nước ngoài như:guidebook, in tờ gấp giới thiệu về cơ quan quản lý đầu tư, cập nhật các thông tin về chính sách, pháp luật liên quan đến đầu tư nước ngoài …
Nghiên cứu các địa bàn tiềm năng ở nước ngoài để hướng dẫn hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả .
3.4.4.Giải pháp về lao động tiền lương
Sớm xem xét bổ sung ban hành các chính sách về tiền lương,bảo hiểm, nhà ở và một số chính sách xã hội khác, đồng thời tăng cường công tác thanh tra việc thực hiện các chính sách đó để bảo vệ lợi ích chính đáng,cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho công nhân,lao động làm việc cho trong các doanh nghiệp FDI
3.4.5.Giải pháp về thuế
Chính sách và luật thuế phải đáp ứng được quá trình hội nhập và mở cửa thị trường.Chính sách pháp luật thuế hiện hành được sửa đổi bổ sung theo hướng giảm điều tiết nhưng mở rộng đối tượng chịu thuế, tiến gần đến mục tiêu đảm bảo nghĩa vụ thuế công bằng,bình đẳng hơn giữa các thành phần kinh tế, giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,giữa người trong nước và người nước ngoài, thực hiện đúng các cam kết hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế và lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu theo CEPT/AFTA, EU, Hoa Kỳ và đặc biệt là WTO.
Để đảm bảo chính sách nhất quán mở cửa thị trường nói chung và thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế, cần phải tiếp tục hoàn thiện hệ chính sách pháp luật thuế theo hướng đồng bộ, cơ cấu hợp lý,khuyến khích đầu tư,xuất khẩu, đổi mới công nghệ , đồng thời hiện đại hoá công tác quản lý thuế ,hải quan nhằm đảm bảo chính sách động viên FDI phù hợp với điều kiện Việt Nam và tiến dần tới thông lệ quốc tế.
Tóm lại quyết tâm xây dựng để tạo nên sự bền vững của dòng vốn FDI vào Việt Nam trong giai đoạn sắp tới còn rất nhiều việc phải làm. Dòng vốn đó nếu được đón nhận bằng môi trưòng thuận lợi về pháp lý và về quản lý nhà nứoc sẽ đảm bảo sự tăng trưởng với tốc độ cao và sự bền vững
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 69488.DOC