Đề tài Kinh tế nhà nước trong nến kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Thăng trầm về chính trị, xã hội và kinh tế. -Từ 1960 đến 1975: Vẫn là cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, ở giai đoạn này Đảng ta chủ trương công nghiệp hoá hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa miền Bắc và đấu tranh giảu phóng miền Nam. Để tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, Đảng ta chủ trương “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý”, và do đó các xí nghiệp quốc doanh càng được đầu tư nhiều hơn và phát triển hơn cả về số lượng và quy mô, đặc biệt là trong ngành công nghiệp nặng. Một loạt các khu công nghiệp mới được hình thành như: Việt Trì, Thái Nguyên, Vinh, Đông Anh(Hà Nội) đây là cơ sở để kinh tế quốc doanh được mở rộng và phân bổ được khắp các vùng kinh tế lớn, nó sẽ làm hạt nhân, là đầu tàu thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các vùng. Kinh Tế quốc doanh trong giai đoạng này có vai trò vừa là công cụ quan trọng để nhà nước tiến hành công nghiệp hoá XHCN ở miền Bắc nhưng lại vừa là tấm gương phản ánh sự hành công của quá trình xây dựng CNXH ở nước ta, nó khẳng định con đường mà Đảng ta đã lựa chọn là đúng đắn.Trên phương diện chính trị xã hội, thì KTQD luôn là lực lượng tiến bộ xã hội, là đội quân tiên phong trong việc mở rộng QHSX XHCN.

doc21 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1141 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kinh tế nhà nước trong nến kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Việt nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) và theo lý luận của Lenin về nền kinh tế trong thời kỳ quá độ vận dụng vào kinh tế, có phải nó ý nghĩa là chế độ hiện nay có những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản (CNTB) lẫn CNXH không? Bất cứ ai cũng thừa nhận là có, song cũng không phải bất cứ ai cũng thừa nhận điểm ấy đều suy nghĩ xem các thành phần của kết cấu kinh tế - xã hội hiện có ở Nga là như thế nào mà tất cả then chốt cả vấn đề lại chính là ở đó. Áp dụng vào nền kinh tế Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương xây dựng một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đó là một chủ trương đúng đắn và phù hợp với quy luật phát triển khách quan, bởi thông qua chủ trương này một nền kinh tế mới được mở ra,các thành kinh tế mới hình thành được lập ra từ chính nguồn vốn trước đây nằm phân tán trong các tầng lớp dân cư,do đó mà huy động được tối đa của cải vật chất trong xã hội để xây dựng đất nước. Từ khi có chính sách đổi mới (1986) đến nay, các thành phần kinh tế đã đóng góp nhất định của mình vào xây dựng vào nền kinh tế quốc dân, thúc đẩy sự phát triển của đất nước,qua so sánh giữa hai thời kỳ kinh tế (Kinh tế cũ kế hoạch hoá tập trung và kinh tế hàng hóa) ta thấy một bước phát triển vượt bậc của nền kinh tế nước ta . Đảng và nhà nước ta đã xác định rằng thời kỳ quá độ lên CNXH đòi hỏi một thời gian rất lâu dài và sẽ gặp nhiều khó khăn thách thức đặc biệt Việt Nam lại đi lên từ chế độ phong kiến bỏ qua chế độ TBCN. Ta biết rằng “chính trị là tập trung của kinh tế”, do đó kinh tế là con đường để hình thành một thể chế chính trị. Ta định hướng xây dựng CNXH thì phải phát triển thành phần kinh tế nhà nước thật vững chắc ,làm sao để nó thể hiện vai trò chủ đạo của KTNN, nắm được quy luật vận động khách quan của kinh tế để từ đó có cách tác động để KTNN thể hiện được vai trò trọng yếu của nó, để đất nước ta đi đúng theo định hướng đã chọn. Chính v ì vậy em quyết định chọn đề tài : "Kinh tế nhà nước trong nến kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”.Em xin chân thành cảm ơn thấy giáo TÔ ĐỨC HẠNH đã hướng dẫn em thực hiện đề tài này Trong quá trình làm không tránh khỏi những thiếu sót mong thầy bỏ qua .Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 5 năm 200 8 NỘI DUNG I. Một số vấn đề lý luận về Kinh tế nhà nước(KTNN) Một số khái quát chung về KTNN: Khái niệm chung về thành phần KTNN: Để hiểu đầy đủ về thành phần KTNN, trước hết ta phải tìm hiểu thành phần kinh tế nhà nước là gì và thành phần KTNN xuất hiện ở nước ta khi nào. Là một nước đi sau trong tiến trình xây dựng CNXH, chúng ta được học hỏi rất nhiều kinh nghiệm từ những nước đi trước mà tiên phong là Nga (Liên Xô cũ). Từ luận điển Lenin về nền kinh tế trong thời kỳ quá độ - đó phải là nền kinh tế nhiều thành phần. Đảng và nhà nước ta đã áp dụng vào thực tiển ở nước ta và đưa ra chủ trương xây dựng một nền kinh tế đa phần mang tính đặc trưng của thời kỳ giao thời giữa kinh tế TBCN và XHCN. Trước hết ta hiểu thế nào là một thành phần kinh tế? Thành phần kinh tế hay đơn vị kinh tế hay đơn vị kinh tế cơ sở của nền kinh tế quốc dân là một kiểu tổ chức kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định có quan hệ quản lý và quan hệ phân phối riêng của nó. Trong nền kinh tế nước ta có ba hình thức sở hữu cơ bản là: Sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Từ đó mà hình thành nên các thành phần kinh tế khác nhau. Từ đó ta khái niệm được thành phần KTNN là gì? Đó là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu toàn dân (hay sở hữu nhà nước). Việc tổ chức kinh doanh tiến hành theo nguyên tắc hoạch toán kinh tế và thực hiện phân phối theo lao động. Như vậy, đặc điểm cơ bản của thành phần KTNN với các thành phần kinh tế khác đó là hình thức sở hữu và nguồn vốn hình thành. Có thể toàn bộ vốn đều thuộc sở hữu nhà nước hoặc có thể phần vốn đóng góp của nhà nước chiếm tỷ lệ khống chế (>50% vốn). 1.2 Phân loại KTNN: KTNN bao gồm ba thành phần cơ bản đó là: các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), các tổ chức nhà nước, những tài sản thuộc sở hữu toàn dân. *Về Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) Khái niệm: DNNN là doanh nghiệp 100% vốn của nhà nước hoặc Doanh nghiệp cổ phần trong đó vốn của nhà nước chiếm tỷ trọng chi phối. Trong ba nhân tố cấu thành KTNN ở trên thì DNNN là nhân tố (hay thành phần) giữ tỷ lệ cao nhất và vai trò quan trọng nhất trong việc đảm bảo cho KTNN giữ được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Bởi vậy khi đề cập đến vai trò chủ đạo của KTNN thì người ta thường đề cập đến DNNN là chủ yếu. Ngay trong nghị quyết hội nghị lần thứ ba ban chấp hành trung ương Đảng khóa IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN. Hội nghị đã khẳng định rõ quan điểm “KTNN có vai trò quan trọng trong việc giữ vững định hướng XHCN. DNNN giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần quan trọng để KTNN thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”. DNNN cũng được chia ra làm hai loại: Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh và hoạt động công ích. Cả hai loại doanh nghiệp này đều mang các đặc điểm của các thành phần của KTNN và thông thường chúng được chia làm hai loại nhỏ: các doanh nghiệp do nhà nước giữ 100% và một loại doanh nghiệp do nhà nước giữ cổ phần chi phối. Đối với các DNNN hoạt động kinh doanh: Mục tiêu là nhằm thu lợi nhuận.Nhà nước sẽ giữ 100% vốn đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực quan trọng đặc biệt và sẽ cổ phần chi phối hoặc 100% vốn đối với các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực kinh doanh mà nhà nước cần nắm nhằm bảo đảm ổn định nền kinh tế. Các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh thông thường là những doanh nghiệp có quy mô lớn có đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước, phải luôn luôn đi đầu trong ứng dụng kỹ thuật - công nghệ hiện đại, đảm bảo nhu cầu của đời sống nhân dân. Còn các doanh nghiệp hoạt động công ích là những doanh nghiệp hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, có thể không có thu mà nhà nước cấp kinh phí - đó là những doanh nghiệp cung cấp các hàng hoá công cộng, dịch vụ công như : An ninh, quốc phòng, giao thông, giáo dục, ytế.. *Về các tổ chức KTNN: Các tổ chức KTNN là các tổ chức hoạt động gắn với chức năng quản lý (kiểm tra, kiểm soát) như tài chính ngân hàng, bảo hiểm, kho bạc nhà nước, các quỹ dự trữ quốc giacác tổ chức này có thể do nhà nước cung cấp 100% vốn hoặc giữ một phần vốn cố định để đảm bảo sự hoạt động ổn định cho các tổ chức này. Thành phần này cũng có nột vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. *Về các tài sản thuộc sở hữu nhà nước: Các tài sản thuộc sở hữu toàn dân (hay sở hữu nhà nước) được xem là thành phần của kinh tế nhà nước. Khi Nhà nước nhận được lợi ích kinh tế do quuền sở mang lại như: đất đai, tài nguyên thiên nhiên, II. Sự hình thành kinh tế nhà nước 1. Các giai đoạn phát triển của kinh tế Nhà nước -Giai đoạn 1960 đến 1985: Đây là giai đoạn khá dài mà lịch sử đất nước đã trải qua những bước thăng trầm về chính trị, xã hội và kinh tế. -Từ 1960 đến 1975: Vẫn là cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, ở giai đoạn này Đảng ta chủ trương công nghiệp hoá hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa miền Bắc và đấu tranh giảu phóng miền Nam. Để tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, Đảng ta chủ trương “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý”, và do đó các xí nghiệp quốc doanh càng được đầu tư nhiều hơn và phát triển hơn cả về số lượng và quy mô, đặc biệt là trong ngành công nghiệp nặng. Một loạt các khu công nghiệp mới được hình thành như: Việt Trì, Thái Nguyên, Vinh, Đông Anh(Hà Nội) đây là cơ sở để kinh tế quốc doanh được mở rộng và phân bổ được khắp các vùng kinh tế lớn, nó sẽ làm hạt nhân, là đầu tàu thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các vùng. Kinh Tế quốc doanh trong giai đoạng này có vai trò vừa là công cụ quan trọng để nhà nước tiến hành công nghiệp hoá XHCN ở miền Bắc nhưng lại vừa là tấm gương phản ánh sự hành công của quá trình xây dựng CNXH ở nước ta, nó khẳng định con đường mà Đảng ta đã lựa chọn là đúng đắn.Trên phương diện chính trị xã hội, thì KTQD luôn là lực lượng tiến bộ xã hội, là đội quân tiên phong trong việc mở rộng QHSX XHCN. -Từ năm 1975 đến 1980: Cơ chế kế hoạch hoá tập trung thuần tuý vẫn được duy trị. Sau khi thống nhất đất nước. với định hướng đưa cả nước đi lên XHCN, nhưng có sự chênh lệch giữa hai miền Nam-Bắc, vì vậy Đảng ta chủ trương tiếp tục mở rộng QHSX XHCN và công nghiệp hoá XHCN ở miền Bắc, đồng thời tiến hành công cuộc cải tạo XHCN ở miền Nam. Thi hành chủ trương đó số lượng các XNQD trên tất cả các lĩnh vực kinh tế (Công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp) tăng lên một cách nhanh chóng trên khắp cả nước. Mặc dù so với giai đoạn trước đó sức đóng góp của KTQD trong giai đọan này đã giảm sút, song KTQD vẫn đóng vai trò chủ đạo, tuyệt đối quan trọng công cuộc xây dựng và phát triển QHSX mới CNXH. -Từ 1980-1985: Giai đoạn này nền kinh tế gặp rất nhiều khó khăn, năng lực sản xuất của KTQD không được sử dụng tối đa do thiếu vật tư một cách nghiêm trọng. Với quan điểm định hướng xây dựng CNXH nên KTQD vẫn được nhà nước rất chú trọng tìm giải pháp tháo gỡ giai đoạn này cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã cải tiến dần sang phi tập trung hoá trong quản lý kinh tế, tuy vậy KTQD vẫn giữ vai trò quan trọng tuyệt đối, trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thể hiện ở chỗ các XNQD vẫn nắm giữ các ngành then chốt như điện, hoá chất, luyện kim, xi măng -Giai đoạn từ1986 đến nay: Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã đưa ra chính sách kinh tế mới làm nên một bước ngoặt trong lịch sử phát triển kinh tế ở nước ta, đó là chính sách đổi mới cơ chế kinh tế : xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường định hướng XHCN. Trong quá trình hình thành cơ chế kinh tế mới, công tác quản lý KTQD vẫn còn tiếp tục được cải tiến theo hướng phi tập trung hoá, kế hoạch hoá và quản lý và quản lý đối với KTQD, đồng thời các thành phần kinh tế khác được hình thành và chú trọng phát triển, đó là kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và các thành phần khác. Từ đây KTQD mất vị trí độc tôn trong nền kinh tế quốc dân. Song không có nghĩa là nó không còn giữ vai trò chủ đạo nữa, mà ngược lại hơn bao giờ hết vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh – đã đổi thành kinh tế nhà nước - được xem là quan trọng và cần thiết nhất. Trên giác độ kinh tế thì KTNN luôn nắm giữ những lĩnh vực then chốt, những ngành trọng yếu của nền kinh tế như: CN năng lượng (dầu mỏ, than, điện), công nghiệp luyện kim, công nghiệp vật liệu xây dựng Như vậy cùng với tiến trình lịch sử xây dựng và phát triển QHSX mới XHCN của nước ta, KTNN đã khẳng định được vai trò chủ đạo mà chỉ có nó mới thực hiện được những nhiệm vụ mà lịch sử phát triển đưa ra KTNN đã nắm được những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân, đóng vai trò mở đường hướng dẫn nền kinh tế phát triển đúng định hướng đã chọn suốt cả một thời kỳ lịch sử phát triển kinh tế. 2. Kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN 2.1.Tại sao kinh tế nhà nước lại giữ vai trò chủ đạo Để hiểu đúng vai trò của một thành phần kinh tế trong một cơ chế kinh tế nhất định thì ta phải hiểu được cơ chế vận hành và đặc trưng cơ bản của cơ chế kinh tế đó. Vì vậy ở đây ta nghiên cứu về kinh tế nhà nước trong cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thì trước hết ta sẽ tìm hiểu qua về cơ chế kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Ta có thể hiểu cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hoá do sự tác động của các quy luật vốn có của nó (đó là quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tê), cơ chế đó giải quyết ba vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế là cái gì, như thế nào và cho ai. Cơ chế thị trường bao gồm các nhân tố cơ bản là cung, cầu và giá cả thị trường. Vậy nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN mà nước ta đang vận dụng là gì? Đó là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, tức là bất kể thành phần kinh tế nào (hay đơn vị kinh tế nào) của nền kinh tế cũng phải chịu sự điều tiết của cơ chế thị trường, nhưng đồng thời phải tuân thủ các nguyên tắc của chế độ XHCN dưới sự quản lý của nhà nước XHCN. Từ khái niệm này ta có thể hiểu nôm na rằng, xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN tức là xây đựng một nền kinh tế thị trường hướng tới chế độ XHCN, hướng tới thực hiện mục tiêu của XHCN đó là mục tiêu làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Đặc điểm cơ bản của cơ chế thị trường là cơ chế tự phát, các nhân tố kinh tế của cơ chế đó tự tác động qua lại theo quy luật kinh tế khách quan mà dẫn đến sự biến đổi, phát triển của nền kinh tế. Đặc điểm đó vừa là ưu điểm, vừa là hạn chế của cơ chế này. Nó có thể mang lại một nền kinh tế phát triển với tốc độ nhanh, nhưng đồng thời mang lại những khuyết tật về xã hội đó là phân biệt giàu nghèo, bất công, tệ nạn xã hội gia tăng Đảng và nhà nước ta chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường theo hướng XHCN dưới sự quản lý của nhà nước tức là muốn dựa trên ưu điểm của cơ chế thị trường để khắc phục những khó khăn của nền kinh tế kém phát triển của nước ta, đồng thời đảm bảo tiến được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ ,văn minh. Ở các phần trên ta đã rút ra được rằng để xây dựng một nền kinh tế theo chế độ XHCN thì nhất định kinh tế nhà nước phải luôn nắm vai trò chủ đạo, bởi nó là lực lượng kinh tế đại diện cho quan hệ sản xuất mới XHCN, nó là công cụ để nhà nước dẫn dắt toàn bộ nền kinh tế đi đúng hướng đã chọn, nó đóng vai trò quan trọng trong việc mở đường và hướng đẫn cho nền kinh tế phát triển. Còn trong cơ chế kinh tế thị trường thì sao? Nếu nền kinh tế thị trường được để phát triển một cách tự do, không sự quản lý của nhà nước thì sẽ bộc lộ rõ ngay những hạn chế, yếu kém, những khuyết tật vốn có của nó. Bởi vậy với định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước thì nền kinh tế thị trường của chúng ta đạt được thành quả cả về mặt xã hội và kinh tế. Muốn như vậy, mối quan hệ mới XHCN càng phải được củng cố và phát triển hơn nữa – mà đại diện của nó là thành phần kinh tế nhà nước phải được tổ chức làm sao ngày càng hoàn thiện và nắm được vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị trường. Đó là đòi hỏi khách quan do những đặc điểm của cơ chế kinh tế mới. Thứ nhất, kinh tế thị trường là một nền kinh tế mở, theo xu hướng hội nhập với khu vực và quốc tế, nhưng để có thể hội nhập vào nền kinh tế thế giới đòi hỏi các doanh nghiệp phải có cơ sở vật chất, kỹ thuật có quy mô, công nghệ hiện đại ngang tầm với các nước khác trên thế giới. Bởi có như vậy Việt Nam mới có thể phát huy được những lợi thế so sánh so với các nước khác và đứng vững để cạnh tranh được với nền kinh tế vốn lớn mạnh của các nước trong khu vực và thế giới. Nhưng một đặc điểm rất nổi bật của các thành phần kinh tế cá thể và tư bản tư nhân là quy mô sản xuất của chúng rất nhỏ bé, lượng vốn đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất ban đầu rất nhỏ chúng chỉ đủ khả năng tham gia vào một số ngành, lĩnh vực mà có khả năng tạo lợi nhuận nhiều nhất, đầu tư ít vốn nhưng chu kì quay vòng vốn nhanh và chỉ có thể cạnh trong nước, hơn một lý do rất đơn giản là quy mô quá nhỏ hep, vốn quá ít không đủ điều kiện để hội nhập với các nước bạn. Trong điều kiện đó thì kinh tế nhà nước với các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn và vừa mới có khả năng tham gia vào hoạt động kinh tế với các nước trên thế giới. Bởi chỉ có Nhà nước mới có đủ nguồn vốn để xây dựng được các doanh nghiệp nhà nước đủ lớn trong các ngành, lĩnh vực then chốt, các ngành kinh doanh mà Việt Nam có lợi thế so sánh so với các nước khác. Do đó mà kinh tế nhà nước trở thành lực lượng giữ vai trò dẫn dắt, làm hạt nhân để các danh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân dân có thể tham gia vào nền kinh tế hội nhập. Một lý do thứ hai khiến kinh tế nhà nước trở thành lực lượng đầu tàu trong việc dẫn dắt nền kinh tế nước ta hiện nay là vì trong nền kinh tế luôn luôn có những ngành, lĩnh vực rất khó có khả năng sinh lời hoặc còn rất nhiều vùng kinh tế có cơ sở hạ tầng thấp kém khó đầu tư sản cuất, do đó mà các thành phần kinh tế khác không muốn hoặc không có khả năng kinh doanh thì kinh tế nhà nước phải tham gia vào hoạt động trong các ngành kinh tế hay các vùng kinh tế để tạo dựng được những cơ sở vật chất ban đầu, thu hút dần các phần tử kinh tế khác cùng tham gia vào hoạt động. Có như thế thì mới hình thành nên một cơ chế kinh tế hợp lý trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đó là tạo nên một nề kinh tế có các ngành, lĩnh vực được đầu tư, phát triển một cách cân bằng, có các vùng kinh tế phát triển song song với nhau. Thứ ba, để xây dựng nền kinh tế phát triển đúng hướng XHCN thì đòi hỏi phải có sự quản lý của nhà nước đối với các hoạt động kinh tế bằng pháp luật. Những nhà hoạt động sản xuất kinh doanh luôn hướng tới mục tiêu quan trọng nhất đó là làm sao tối đa hoá được lợi nhuận. Nhưng tình hình nước ta hiện nay, các chủ thể kinh hoanh có thể có trình độ hiểu biết về ý thức, về quản trị kinh doanh rất khác nhau, có người tham gia vào kinh doanh chỉ vì họ có vốn nhưng lại thiếu hẳn các ý thức và kiến thức cần thiết, điều đó dễ dẫn đến những sai phạm về pháp luật và thường chỉ vì lợi nhuận các nhân mà quyên mất lợi ích của xã hội. Kinh tế nhà nước với lực lượng kinh tế luôn được nhà nước chú trọn về khâu đào tạo cán bộ có ý thức pháp luật, do đó trong giai đoạn hiện nay đương nhiên kinh tế nhà nước phải là thành phần gương mẫu để các thành phần kinh tế khác học tập để hoạt động có hiệu quả hơn. Từ ba lý do trên mà ta thấy kinh tế nhà nước đương nhiên phải là thành phần kinh tế nắm vai trò chủ đạo trong nền kinh tế với tư cách là lực lượng đi đầu trong quá trình hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, là đội quân mở đường cho các thành phần kinh tế khác cùng tham gia mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh tạo một cơ cấu kinh tế phát triển cân đối hợp lý, là lực lượng gương mẫu, đi đầu trong việc thực hiện pháp luật, hướng dẫn các thành phần kinh tế khác cùng thực hiện theo luật pháp trong cơ chế kinh tế mới đảm bảo phát triển một nền kinh tế thị trường lớn mạnh với một xã hội phát triển đúng định hướng đã chọn của Đảng. 2.2.Nội dung vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Để đảm bảo thực hiện được vai trò là thành phần kinh tế chủ lực của nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay thì kinh tế nhà nước phải thực hiện được bốn nội dung hay là bốn chức năng của nó trong kinh tế nhiều thành phần của nước ta hiện nay. * Thứ nhất, kinh tế nhà nước mà thành phần chính là các doanh nghiệp nhà nước, phải đi đầu trong việc nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất kinh doanh. Là lực lượng kinh tế được nhà nước chú trọng đầu tư, phát triển, do Nhà nước nắm giữ nguồn vốn chi phối do đó quy mô hoạt động của các kinh tế nhà nước và đặc biệt là thành phần doanh nghiệp nhà nước rất rộng lớn, và đang ngày càng được tổ chức sắp xếp lại theo hướng hiện đại nhằm hoạt động có hiệu quả hơn. Bởi nguồn vốn đầu tư lớn, chủ yếu trong các doanh nghiệp nhà nước có 100% vốn của nhà nước hoặc nhà nước giữ cổ phần chi phối) nên các doanh nghiệp nhà nước có điều kiện đầu tư trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Có khả năng tạo ra năng xuất, chất lượng các loại hàng hoá, dịch vụ cao, sử dụng tối đa và tận dụng được các nguyên nhiên vật liệu đầu vào, tiết kiệm được chi phí sản xuất nhưng mang lại hiệu quả sản xuất cao, đóng góp ngân sách lớn. Chỉ có doanh nghiệp nhà nước mới có khả năng đi đầu trong việc việc ứng dụng ác công nghệ mũi nhọn, công nghệ cao để có thể đưa kinh tế đất nước theo kịp với nền kinh tế thế giới. Kinh tế nhà nước phải tạo được động lực thúc đẩy, tạo đà và dẫn dắt các thành phần kinh tế khác mà cơ bản nhất là thành phần kinh tế tư bản tư nhân và thành phần kinh tế cá thể (mà chủ yếu là các doanh nghiệp dân doanh) cũng đóng góp phần vào việc tăng trưởng kinh tế. Muốn thực hiện được chức năng này thì kinh tế nhà nước phải cần được chú trọng tron các ngành lĩnh vực then chốt của nền kinh tế - bởi chỉ khi các ngành kinh tế này được phát triển thì mới đủ khả năng đưa nền kinh tế phát triển theo. Tuy nhiên, trong mỗi thời kỳ phát triển các lĩnh vực, ngành then chốt sẽ có sự thanh đổi, luân chuyển từ ngành này sang ngành khác, do đó việc xác định ngành lĩnh vực then chốt cho từng thời kỳ mà phải tính đến cả xu hướng hội nhập cũng như tiềm năng kinh tế của đất nước là quan trọng. Khi nhà nước đầu tư phát triển đúng hướng thì kinh tế nhà nước sẽ hoạt động có hiệu quả, thu hút dần các thành phần kinh tế khác cùng tham gia vào – như thế là kinh tế nhà nước đã tạo đà và dẫn dắt được các thành phần kinh tế phát triển, cùng góp phần vào việc tăng trưởng kinh tế. Để tạo động lực, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển thì kinh tế nhà nước phải đi đầu trong việc chuyển giao công nghệ, áp dụng công hiện đại và sản xuất kinh doanh, đặc biệt trong các lĩnh vực mà trước đây ít được đầu tư do ít có khả năng sinh lời, nhưng là lực lượng duy nhất có đủ điều kiện về vốn, lao động nên doanh nghiệp nhà nước phải đi đầu về cải tiến kỹ thuật công nghệ sản xuất để từđó mở đờng cho các doanh nghiệp dân doanh mạnh dạn cùng tham gia đầu tư phát triển. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngày nay còn gắn liền với việc bảo vệ môi trường hạn chế việc gây ô nhiễm môi trường, do đó đay cũng là mọt tiêu thức của phát triển mà doanh nghiệp nhà nước phải đi đầu, làm gương để các thành phần kinh té khác đi theo. Việc giảm thiểu ô nhiễm môi trườngcó liên quan đến vấn đề công nghệ và vấn đề lợi nhuận của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp dân doanh thường với số vốn ít ỏi thì công nghệ cũng lạc hậu, tuy nhiên vì mục đích tối đa hoá lợi nhuận mà các doanh nghiệp bỏ qua vấnđề môi trường. Doanh nghiệp nhà nước cũng phải thể hiện vai trò chủ đạo trong việc giải quyết vấn đề này đó là khi nhạp và cung cấp các thiết bị công nghệ cho các doanh nghiệp dân doanh thì doanh nghiệp nhà nước phải chú trọng đến các thiết bị bảo đảm chống ô nhiễm môi trường và doanh nghiệp nhà nước phải luôn đi đầu trong việc thực hiện luật bảo vệ môi trường để các doanh nghiệp khác đi theo. * Thứ hai, bằng nhiều hình thức, kinh tế nhà nước hỗ trợ các thành phần kinh tế phát triển theo định hướng XHCN. Muốn xây dựng nền kinh tế thị trường đinh hướng XHCN đương nhiên phải xây dựng một lực lượng kinh tế đóng vai trò chủ đạo, làm tâm điểm ảnh hưởng tới các lực lượng khác của nền kinh tế, hướng dẫn, hỗ trợ các lực lượng kinh tế khác cùng phát triển theo cùng một định hướng đã chọn và đó chính là KTNN. Trên cơ sở xác định, không một nền kinh tế nào phát triển mà chỉ dựa trên một thành phần kinh tế mà đó phải là sự phát triển đồng bộ của nhiều thành phần kinh tế có thể phát huy được mọi tiềm năng của đất nước. Tuy nhiên như đã phân tích ở các phần trên chúng ta biết rằng quy mô của các thành phần kinh tế tư nhân của nước ta còn rất nhỏ hẹp, mặt khác thời gian phát triển còn ngắn nên các doanh nghiệp dân doanh chưa thể tích luỹ để mở rộng quy mô lớn hơn đẻ làm nguồn cốt cho việc phát triển kinh tế nước ta. Trong điều kiện đó, chỉ các doanh nghiệp nhà nước có đủ điều kiện để trở thành lực lượng nguồn cốt, tạo choõ dạ cững chắc cho để dẫn dắt các doanh nghiệp dân doanh cùng phát triển. Muốn làm được điể đó thì kinh tế nhà nước phải xác định được cơ cấu thành phần kinh tế của mình một cách hợp lý. Luôn giữ được vị trí, vai trò xứng đáng, phát huy được lợi thế, khai thác được khả năng đóng gốp thiết thực vào sự phát triển của kinh tế đất nước, kinh tế nhà nước phải tích luỹ được vốn để phát triển trong các lĩnh vực then chốt, chi phối nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội, trở thành xương sống của nền kinh tế quốc dân, để từ đó các thành phân kinh tế khác có được chỗ dựa vững mà cùng phát triển, đi lên. Mặt khác, trong cơ chế thị trường, lợi nhuận luôn là mục tiêu mà các doanh nghiệp theo đuổi, do đó các thành phần khác thường tập trung kinh doanh ở những ngành kinh tế hoặc những vùng có khả năng đưa đến lợi nhuận cao một cách nhanh chóng mà ít rủi ro nhất, do đó sẽ tạo ra lỗ hổng là những ngành và vùng kinh tế kém tiềm năng hoặc đòi hỏi đầu tư lớn: đó là các vùng sâu, vùng xa, vùng kém phát triển có cơ sở hạ tầng thấp kém. Để khắc phục tình trạng đó, đồng hởi mở đường kích thích các thành phần khác cùng tham gia vào hoạt động sản xuất thì kinh tế nhà nước phải có mặt để xây dựng cơ sở hạ tầng ở các vùng sâu, vùng xa, vùng kém phát triển là điều kiện tiên đề tạo thuận lợi trước mắt thu hút đầu tư của các thành phần kinh tế. Đó cũng là một chức năng thể hiện vai trò chủ đạo, mở đường, hỗ trợ các thành phần kinh tế phát triển theo đúng đinh hướng XHCN, bởi nó cân bằng được trình độ phát triển giữa các vùng kinh tế, giảm bớt hố ngăn cách giữa thành thị và nông thôn. Phát triển theo đúng định hướng XHCN còn thể hiện ở việc tuân theo pháp luật mà nhà nước XHCN đã đề ra. Thực tế hiện nay cho thấy không ít chủ các doanh nghiệp dân doanh chỉ vì lợi nhuận cá nhân mà bất chấp cả pháp luật, hoặc cáo những hoạt động thiếu ý thức pháp luật. Tất yếu đấy là vấn đề mà nhà nước phải có biện pháp giải quyết, và DNNN là một trong những công cụ mà nhà nước dùng để hạn chế vấn đề này. Vì vậy, DNNN phải là tấm gương mẫu mực trong việc tuân theo phát luật để các doanh nghiệp khác cùng noi theo. * Thứ ba : KTNN là lực lượng vật chất để nhà nước điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đó là : các đơn vị kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường, nhà nước đóng vai trò điều tiết nền kinh tế theo định hướng XHCN. Các đơn vị kinh tế luôn phải giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản đó là sản xuất cái gì, cho ai và như thế nào theo mục tiêu là tối đa hoá lợi nhuận. Điều đó dẫn đến kết quả là các dơn vị kinh tế luôn chạy theo những loại hàng hoá và dịch vụ mang đến nhiều lợi nhuận và sẽ rút khỏi thị trường các loại hàng hoá không có lãi hoặc lỗ. Tuy nhiên không phải mọi doanh nghiệp đều luôn thu nhận được thông đầy đủ để quyết ịnh tham gia vào sản xuất mặt hàng nào, tất sẽ dẫn tới phát sinh những mâu thuẫn giữa cung cầu ở mọi lúc, mọi nơi đỗi với mọi mặt hàng. Để điều tiết được nền kinh tế đó thì nhà nước sử dụng KTNN là một lực lượng vật chất hay một công cụ điều tiết hiệu quả, là vì : Thứ nhất: KTNN từ khi được hình thành cho tới nay luôn được chú trọng đầu tư ở hầu khắp các kĩnh vực, ngày kinh té, vả ngành không có khả năng sinh lợi nhuận. (Các hàng hoá, dịch vụ công cộng) do đó nó làm cân đối giữa các ngành của nền kinh tế. Với tư cách là công cụ điều tiết, các DNNN được nhà nước đầu tư phát triển theo phương châm: “Ở đâu, khi nào nền kinh tế quốc dân đang cần mở rộng sản xuất kinh doanh một mặt hàng nào đó mà các thành phần kinh tế khác không muốn hoặc không có khả năng kinh doanh thì khi đó cần có sự có mặt của DNNN”, đến một lúc nào đó khi khả năng sinh lời tăng lên thì doanh nghiệp dân doanh nhày vào hoạt động và đủ khả năng cung cấp cho thị trường thì DNNN rút ra và tiếp tục hoạt động ở các lĩnh vực khác. Thứ hai : trong các vùng kinh té luôn có sự phát triển mất cân đối giữa các ngành kinh tế đặc biệt là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế kém phát triển. Nhà nước đã rất chú trọng đầu tư phát triển ở các vùng này từ rất lâu và hiện nay nó đã phát huy chức năng điều tiết cho kinh tế của các vùng đó tương tự như tạo ra sự cân bằng trong nền kinh tế vĩ mô của cả nước. Thứ tư : kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể tạo dẫn nền tảng kinh tế cho chế độ xã hội mới, XHCN. Theo luận điểm của Mác-Lenin thì chế độ XHCN phải được xây dựng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, tức là mọi tư liệu sản xuất đều thuộc sở hữu chung của tập thể, của toàn dân, không một cá nhân nào được biến TLSX thành tài sản riêng của mình. Đó được coi là chế độ sở hữu tiến bộ nhất trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Khi xem xét về nguồn gốc hình thành KTNN ta đã biết rằng KTNN được xây dựng dựa trên hình thức sở hữu toàn dân, còn kinh tế tập thể được xây dựng dựa trên hình thức sở hữu tập thể, trong thời kỳ quá độ lên CNXH của nước ta thì đây là hai hình thức sở hữu được xem là tiến bộ nhất, nó đại diện cho QHSX mới XHCN. Vì vậy để xây dựng nền kinh tế XHCN thì KTNN cùng kinh tế tập thể có vai trò là nền tảng cơ bản . III. Thực trạng KTNN và việc thực hiện vai trò chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN hiện nay. 1. Thành tựu đạt được Từ giai đoạn đầu thực hiện đổi mới cơ chế kinh tế, chuyển từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN (Giai đoạn 1986 – 1990), một nền kinh tế đa phần được hình thành, nhưng cũng ngay từ đây KTNN đã giữ vững và khẳng định được vai trò chủ đạo của nó. Năm 1990 KTNN tạo ra 66% tổng sản phẩm xã hội với số lượng DNNN là 1200 doanh nghiệp. Sang thập niên 90 – là giai đoạn Đảng và Nhà nước ta thực thi nhiều chính sách, biện pháp lớn mạnh nhằm cải tổ và sắp xếp lại cơ cấu lại các doanh nghiệp nhà nước để hoạt động hiệu quả hơn. Với các chính sách, cơ chế đổi mới để DNNN tự chủ trong cơ chế thị trường, về kế hoạch, các doanh nghiệp được chủ động xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho đó là kế hoạch sản xuất, cung ứng vật tư kỹ thuật, đầu tư xây dựng cơ bản, tài chính, lao động trên cơ sở tính toán nhu cầu thị trương về sản phẩm, dịch vụ của Doanh nghiệp mình. Về tài chính Doanh nghiệp được Nhà nước giao vốn, tự chủ sử dụng vốn và sử dụng quỹ khấu hao để đầu tư, đổi mới tài sản Về tổ chức bộ máy và nhân lực: Doanh Nghiệp có quyền tự chủ động tổ chức bộ máy quản lý và tổ chức kinh doanh cho phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ Nhà nước giao, được đào tạo và sử dụng lao động theo quy định của pháp luật trên cơ sở hợp đồng ký kết với người lao động và thoả ước lao động tập thể, thực hiện trợ cấp cho người lao động khi thôi việc, mất việt Về quản lý Nhà nước đối với DNNN: từng bước xoá bỏ chế độ chủ quan của cơ quan hành chính Nhà nước cấp trên trực tiếp can thiệp quá sâu vào các hoạt dộng của DNNN, chỉ quản lý trên các mặt có tính tổng quan, chiến lược, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động và kiểm tra việc chấp hành pháp luật. Về thực hiện chức năng chủ sở hữu, Nhà nước đối với DNNN: có một bước đổi mới lớn dựa trên cơ sở phân công, phân cấp giữa chính phủ và các cấp quản lý với đại diện chủ sở hữu ở Doanh nghiệp. Quá trình đổi mới cơ chế, chính sách đã hình thành được khung pháp lý tương đối rõ ràng và cơ bản để DNNN sang kinh doanh theo cơ chế thị trường, xác lập dân quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, các doanh nghiệp đã được sử dụng hiệu qủ hơn tiền vốn và tài sản, nâng cao chất lượng sản phẩm, sức cạnh tranh và ổn định việc làm cho người lao động. Kết quả hoạt động của các DNNN sau các chính sách đổi mới đó được thể hiện qua những con số sau: thời kỳ 1991 – 1995, tốc độ tăng trưởng của các DNNN bình quân theo GDP là 11,7% bằng 1,5 lần tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế và bằng 2 lần tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế ngoài quốc doanh. Từ 1990 đến nay do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế khu vực và thế giới cùng những thiên tai liên tiếp xảy ra thì tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế giảm dần, DNNN cũng nằm trong tình trạng đó, tỷ trọng tổng sản phẩm của DNNN trong GDP tăng 33,3% năm 1991 lên 40,07% năm 1996 và 41,23% năm 1998. Tỷ lệ nộp vốn ngân sách trên vốn nhà nước năm 1993 là 6,8% và năm 1999 là 12,31%. Năm 1999 các doanh nghiệp làm 40,2% GDP trên 50% giá trị xuất nhập khẩu, đóng góp 39,25% ngân sách Nhà nước. Từ 1995 đến nay, hằng năm DNNN đóng góp từ 26 – 28% nguồn thu thuế nội địa. Từ thập niên 90 trở lại đây, Nhà nước đã sắp xếp, tổ chức, củng cố và phát triển các DNNN, các tổng công ty Nhà nước: Chính phủ đã liên tục chỉ đạo và thực hiện sắp xếp lớn các DNNN đó là đợt 2 (1990 – 1993), đợt 2 (1994 – 1997), đợt 3 (1998 – 1999), qua mỗi đợt sắp xếp đó là các DNNN đã có sự đổi mới về quy mô, về cơ cấu tổ chức quản lý bằng cách sát nhập, giải thể phá sản các doanh nghiệp yếu kém, làm ăn thua lỗ kéo dài, chuyển doanh nghiệp nhà nước thành các công ty cổ phần hoặc giao, bán, khoán, cho thuê DNNN có quy mô nhỏ. Kết quả sau 3 đợt sắp xếp đổi mới đó là hiệu quả hoạt động của các DNNN tăng lên, mặc dù số DN giảm xuống rất nhiều từ 12000 doanh nghiệp (năm 1990) xuống còn 5280 doanh nghiệp (năm 2000). Hiện nay có 17 tổng công ty 91 và 77 tổng công ty 90 đang hoạt động, các tổng công ty này được tập trung xây dựng hầu hết trong tất cả các lĩnh vực kinh tế của đất nước. Các tổng công ty nhà nước có 1605 DN thành viên, chiếm 28,4% tổng số doanh nghiệp nhà nước, 65% vốn nhà nước và 61% lao động. Năm 2000, các tổng công ty đã cung cấp cho nền kinh tế quốc dân 98% sản lượng điện, 97% sản lượng than, 54% sản lượng xi măng, 52% sản lượng thép, các ngân hàng thương mại giữ 70% thị phần vốn vay. Một bộ phận DNNN đã được cổ phần hoá mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn và DNNN đầu tư một phần vốn để thành lập mới công ty cổ phần. Tính đến năm 2001, cả nước đã cổ phần hoá được 529 DN và 102 bộ phận DN bằng 11% tổng số doanh nghiệp hiện có so với tổng số vốn Nhà nước khi đánh giá lại khi cổ phần hoá các doanh nghiệp là 2714 tỷ đồng bằng 1,97% tổng số vốn Nhà nước trong các DNNN. Sau một thời gian hoạt động, phần vốn nhà nước ở các công ty cổ phần đã tăng được giá trị tuyệt đối, theo báo cáo của 202 DN đã cổ phần hoá được trên 1 năm, phần vốn Nhà nước không những được bảo toàn mà còn tăng thêm 65.420 tỷ đồng bằng nguồn lợi nhuận để lại; doanh thu tăng 1,4 lần, lợi nhuận tăng gấp 2 lần, nộp ngân sách tăng 1,2 lần, thu nhập của người lao động tăng 22%, số lượng công nhân viên tăng 5,1% và không có doanh nghiệp cổ phần nào lâm vào tình trạng phá sản. Những kết quả đạt được đó đã chứng tỏ rằng chính sách cổ phần hoá các DNNN là một chính sách đúng đắn và đã phát huy được những tính tích cực của DNNN, tạo cơ hội cho DNNN thực sự hoạt động trong cơ chế thị trường, cạnh tranh bình đẳng với mọi DN khác -Số lao động trong các doanh nghiệp nhà nước đang có xu hướng giảm đáng kể.Tuy nhiên só lao đọng trong các doanh nghiệp nhà nước vẫn chiếm một tỷ lệ khá đông cho thấy sự lớn mạnh của kinh tế nhà nước. Số LĐ Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 DNNN 2214,3 2266,3 2264,3 2249,9 2040.9 Toàn XH 3933.3 4658,2 5175 5770 6243.5 Nguồn :Niên giám thông kê 2006 -Tuy số lao động trong các doanh nghiệp nhà nước có giảm đi nhưng doanh thu sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước lại đóng góp rất lớn : Doanh thu sản xuất kinh doanh (nghìn tỉ đồng) Năm 2001 Năm 2002 Năm2003 Năm 2004 Năm 2005 DNNN 460 611,2 666 708 838,4 Toàn XH 897,8 1195 1436,1 1719,4 2159,4 Nguồn :N iên giám thông kê 2006 -Như vậy trong suốt quá trình đổi mới từ 1986 đến nay, nhờ những chính sách đổi mới, sắp xếp tổ chức lại các DNNN của chính phủ mà các DNNN đã có những chuyển biến tích cực: việc tách quyền sở hữu đã tác động tích cực đến quyền tự chủ của các doanh nghiệp và do đó hoạt động có hiệu quả hơn trước, trình độ công nghệ và quản lý có nhiều tiến bộ, vốn được bảo toàn và tăng thêm, bước đầu đa dạng các nguồn vốn để phát triển, vốn tích luỹ tự bổ sung tăng lên 27,8% tổng vốn sản xuất kinh doanh, sức cạnh tranh của DNNN đang từng bước được nâng lên, giúp KTNN thực hiện được vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc dân, chi phối được các ngành lĩnh vực then chốt, là lực lượng nòng cốt trong tăng trưởng kinh tế, trong xuất khẩu và đóng góp cho ngân sách Nhà nước, bảo đảm cân đối vốn và góp phần quan trọng trong ổn định kinh tế vĩ mô, là lực lượng rất quan trọng trong việc bảo đảm các sản phẩm chủ yếu của nền kinh tế. * Nguyên nhân những thành quả đạt được: Thứ nhất, xuất phát điểm đầu tiên cho sự đổi mới nền kinh tế nước ta đó là nhờ chủ trương đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Chủ trương xây dựng một nền Kinh tế mở của Đảng đã rất phù hợp với thực tế tình hình đất nước ta do đó đã mở ra một thời kỳ kinh tế mới năng động, sáng tạo, nhanh chóng đưa đến hiệu quả phát triển của nền kinh tế, - xã hội đất nước, xuyên suốt thời kỳ đổi mới (1986 đến nay), giã các văn kiện đại hội lần thứ VI đến đại hội lần thứ IX luôn đặt KTNN lên nắm vai trò chủ đạo: “Làm đòn bẩy thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết vấn đề xã hội, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển, làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô, tạo nền tảng cho chế độ XHCN” (Văn kiện đại hội Đảng lần thứ VIII) Thư hai, nhà nước XHCN VN đang từng bước hoàn thiện dần hệ thống các công cụ quản lý vĩ mô, của mình đối với thành phần KTNN đặc biệt là đối với các DNNN.Bằng các văn bản pháp quy các chính sách kinh tế mà nhà nước đã thể chế hoá các quan điểm, chủ trương của Đảng về vai trò chủ đạo của KTNN, DNNN; một loạt các văn bản được thực thi như quyết định về hạch toán kinh doanh trong DNNN, quy chế quản lý tài chính đối với DNNN. Luật DNNN, luật thương mại, chỉ thị về đẩy mạnh và sắp xếp, đổi mới các DNNN, nghị quyết về giao, bán, khoán, đó là những công cụ điều tiết, quản lý kinh tế của nhà nước, thể hiện sự chỉ đạo hết sức kiên trì của chính phủ các cấp, các ngành. Thứ ba, sự cố gắng phấn đấu của các DNNN, của đội ngũ cán bộ, quản lý và người lao động trong cơ chế mới mà Đảng đề ra đòi hỏi các DNNN cũng như các cán bộ quản lý người lao động, phải có một sự thay đoỏi nhất định, đáp ứng được những đòi hỏi của cơ chế kinh tế mới. Càng ngày ta nhận thấy tính năng động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm của nhiều cán bộ, công nhân viên ở các DNNN được nâng cao. Các DNNN đã có những việt làm nhằm đưa hoạt động của sản xuất của mình hiệu quả hơn như đổi mới công nghệ, đào tạo đội ngũ cán bộ. Thứ bốn: Hợp tác đa phương, đa hình thức, hướng về xuất khẩu, của các DNNN được phát triển cả về quy mô và hiệu quả, nhờ đó mà tranh thủ sự đầu tư, giúp đỡ của quốc tế, của các DN nước ngoài, không chỉ cho thành phần KTNN mà còn cho các thành phần kinh tế khác về thị trường, về đổi mới công nghệ, về phương pháp sản xuất, kinh doanh. nhờ đó mà KTNN thực hiện được vai trò mở đường, đãn dắt các thành phần kinh tế, phát triển theo đúng định hướng XHCN của Đảng. 2. Những tồn tại yếu kém trong quá trình đổi mới và thực hiện vai trò chủ đạo của KTNN: * Những hạn chế yếu kém của KTNN trong thời kỳ đổi mới: Bên cạnh những thành quả đã đạt được của KTNN (DNNN) mà ta đã ghi nhận ở trên (trang 21) thì KTNN còn những hạn chế, yếu kém, mà đã được hội nghị TW Đảng khoá IX đánh giá: “Những mặt hạn chế, yếu kém, có mặt rất nghiêm trọng của DNNN và DNNN đang đứng trước thách thức gay gắt của yêu cầu đổi mới, phát triển và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Năm 1998, theo đánh giá chung, số DN thực sự kinh doanh có hiệu quả, chiếm khoảng 20%, số chưa có hiệu quả, khi lỗ khi lãi là 40%, số DN không có hiệu quả, lỗ liên tục đóng góp 39,2% tổng thu ngân sách nhà nước, nhưng trong đó phần thuế thu nhập DN chỉ có 13,4%. Năm 2000, đồng vốn nhà nước của DNNN là ra 0.095 đồng lợi nhuận trước thuế, trong một đồng vốn chủ sở hữu của các công ty cổ phần được chuyển đổi từ DNNN là ra 0,019 đồng. Khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và trong nước của sản phẩm do các DN là ra còn thấp do mức giá quá cao so với các mặt hàng cùng loại nhập khẩu như đường thô cao hơn đến 70-80% Tốc độ phát triển sản xuất của DNNN chưa cao, còn thấp hơn các DN thuộc các thành phần kinh tế khác,, bình quân 10 năm từ 1991-2000 của DNNN là 11%, của DN ngoài quốc doanh là 14% Không ít các DNNN xây dựng và thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh không gắn với định hướng phát triển chung của toàn ngành, không phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ được giao và chưa xuất phát từ nhu cầu thị trường, nhiều DNNN đưa ra các dự án không có khả năng thực thi, hiệu quả đầu tư thấp, lãng phí tiền vốn, phát sinh tiêu cực, tham nhũng, để lại những hậu quả, khó khắc phục, Việc bảo toàn và phát triển vốn nhiều DN thực hiện chưa tốt, tình trạng ăn vào vốn, mòn vốn, mất vốn vẫn còn rất nhiều, Không ít doanh nghiệp chưa thực hiện tốt quy chế dân chủ tại DNNN, nhất là công khai tài chính, việc chi tiêu tuỳ tiện, lãng phí. Đến tháng 5-2001, cả nước có 5.655 doanh nghiệp với tổng số vốn nhà nước khoảng 126.030 tỷ đồng (không tính giá trị quyền sử dụng đất), bình quân mỗi DN 22 tỷ đồng. Số DNNN có vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm tới 59,8%, trong đó số DN có số vốn từ 1 tỷ đồng trở xuống chiếm 18,2% (tại 14 tỉnh, loại DN này chiếm hơn 90%, chủ yếu trong các lĩnh vực dịch vụ, thương mại, du lịch); số DN có vốn từ 5 đến 10 tỷ đồng chỉ chiếm 15,2% ; số DN có vốn trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm 25%. Vốn lưu động của các DN nhà nước vào khoảng 27 ngàn tỷ đồng, chỉ bằng trên 21% tổng số vốn nhà nước, bình quân, một doanh nghiệp gần 4,8 tỷ, nhưng phần lớn các DN không có hoặc rất ít vốn lưu động nên chủ yếu phải đi vay để sản xuất kinh doanh. Nhiều DNNN cùng loại hoạt động trong tình trạng chồng chéo về ngành nghề kinh doanh, cấp quản lý và trên cùng một địa bàn. Nguyên nhân dẫn đến yếu kém, hạn chế của DNNN: Nghị quyết TW VI khẳng định: “Những hạn chế, yếu kém của DN có nguyên nhân khách quan, nhưng chủ yếu là do những nguyên nhân chủ quan.” -Chưa có sự thống nhất cao trong nhận thức về vị trí, vai trò của KTNN và DNNN về những yêu cầu và giải pháp sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN. -Nhiều vấn đề chưa rõ và còn có những ý kiến khác nhau chưa được tổng kết thực tiễn để kết luận. -Quản lý nhà nước đối với DNNN còn yếu kém vướng mắc. -Cải cách hành chính chậm, cơ chế, chính sách còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ, còn nhiều điểm chưa phù hợp với KTTTĐHXHCN, chưa tạo được động lực mạnh mẽ thúc đẩy cán bộ và người lao động trong DN nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh. * Nguyên nhân của những hạn chế yếu kém trên: Nghị quyết TW III đã khẳng định: “Những hạn chế, yếu kém của doanh nghiệp nhà nước có nguyên nhân khách quan, nhưng chủ yếu do những nguyên nhân chủ quan.” Chưa có sự thống nhất cao, trong nhận thức về vai trò, vị trí của kinh tế nhà nước và DNNN, về yêu cầu và giải pháp sắp xếp đổi mới, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN. Rất nhiều ý kiến hoài nghi, thiếu tin tưởng vào sự vào sự cần thiết cũng như vai trò chủ đạo của KTNN và DNNN, dẫn đến sự bất dồng trong quan điểm, nhận thức và vai trò của KTNN trong nền kinh tế. Theo họ, DNNN không thể hoạt động có hiệu quả, không có khả năng cạnh tranh bằng DN tư nhân và do vậy không nhất thiết phải duy trì, vì những lý do: Theo họ, vấn đề quan trọng không phải là DNNN hay DN tư nhân, và là sản xuất có hiệu quả hay không, vì quy cho đến cùng thì sẽ hữu thi là phương tiện, tăng trưởng kinh tế mới là mục tiêu. Chỉ chủ tư nhân – là chủ sở hữu tài sản một cách chính đáng mới quan tâm chăm lo cho DN của mình, quản lý chi phí hợp lý, tiết kiệm đồng thời có khả năng nhanh nhạy, linh hoạt trong cơ chế thị trường. DNNN có chủ sở hữu là nhà nước nên có một bộ phận không nhỏ cán bộ quản lý lấy tài sản tài sản ra sử dụng lãng phí, mặt khác, DNNN bị chi phối bởi nhiều cơ quan quản lý nên hạn chế nhiều khả năng kinh doanh dẫn đến hiệu quả kinh doanh thấp, sức cạnh tranh kém. KẾT LUẬN Nền kinh tế thị trường ở nước ta mặc dù có những ưu điểm song không tránh khỏi những sai lầm khuyết điểm và những vấn dề mà bản thân nó không giải quyết được như nạn thất nghiệp ,lạm phát Những tình trạng đó ở mức độ khác nhau trực tiếp hay gián tiếp đếu có tác động làm cản trở sự phát triển của nền kinh tế .Vì vậy sự tác động của Nhà Nước vào nền kinh tế là một lẽ đương nhiên của sự phát triển kinh tế xã hội .Thiếu sự can thiệp cảu nhà nước vào nền kinh tế thị trường tự do hoạt động thì việc điều hành nền kinh tế nước ta sẽ không có hiệu quả .Do đó nhà nước với vai trò quản lí vĩ mô phải có chính sách biện pháp cụ thể dẻ tác động vào nền kinh tế để nó hoạt động đúng hướng . Để vai trò của nhà nước được thực hiện có hiệu quả trong giai đoạn hiện nay thì phải đổi mới hệ thống nhà nước làm cho nó thích ứng với nền kinh tế thị trường tức là đảm bảo trên thực tế nàh nước thực sự là công cụ điều hành có hiệu quả nền kinh tế vĩ mô .Thực hiện tốt những việc đó thì vai trò quản lí của nhà nước sữ góp phần làm cho nền kinh tế phát triển nhanh hơn xã hội trở nên công bằng văn minh đất nước ngày càng trở nên giàu đẹp. Tài liệu tham khảo “Doanh nghiệp nhà nước trong thời kỳ CNH-HĐH” – T.S. Phan Đăng Tuất (chủ biên). Tạp chí CS từ 1997 đến nay. Tạp chí nghiên cứu kinh tế. Tạp chí nghiên cứu lý luận. Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin. V.I.Lenin toàn tập - tập 39, tập 43 Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX Một số tạp chí kinh tế, tài chính, lý luận khác Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7375.doc
Tài liệu liên quan