Nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường- đó là cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế do vậy có những mặt tích cực và hạn chế. Vì vậy để khắc phục đuợc những hạn chế này cần có sự can thiệp của Nhà nước. Đó là lí do vì sao kinh tế Nhà nuớc giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nước ta.
Việt Nam tiến hành đổi mới từ năm 1986 và sau 20 năm đổi mới chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể và chính những thành tựu này là kết quả của quyết định hành động theo tư duy KTTTXHCN. Tư tưởng về KTTT định hướng XHCN đã làm rõ về khả năng Việt Nam có thể xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và hội nhập với kinh tế thế giới. Nó đặt ra một yêu cầu: chúng ta hãy thẳng thắn nhìn vào thực tế xem chúng ta đang ở đâu và sẽ phải làm gì.
Với việc đàm phán thành công và trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO, Việt Nam đã bắt đầu khẳng định được chỗ đứng của mình trên trường quốc tế. Gia nhập WTO, chúng ta biết rằng mình có thêm rất nhiều cơ hội và đồng thời cũng phải đối mặt với rất nhiều thách thức nhưng vẫn kiên định đi theo con đường XHCN. Vì vậy mỗi cá nhân cần tiếp tục tìm hiểu và nghiên cứu về KTTT để có thể đưa ra những giải pháp và giải quyêt được những vướng mắc trong thực tế.
23 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 3311 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I-Đặt vần đề
Con người là tổng hòa của cac mối quan hệ xã hội. Từ khi xuất hiện con người đã tiến hành các hoạt động khác nhau như kinh tế, xã hội, văn hóa trong đó hoạt động kinh tế luôn giữ vị trí trung tâm đồng thời là cơ sở cho các hoạt động khác. Để tiến hành những hoạt động này trước hết con người phải tồn tại. Muốn tồn tại con người phải tạo ra những thức cần thiết phục vụ cho nhu cầu của mình: thức ăn,nhà ở, phương tiện đi lại,…tức là phải sản xuất. Xã hội không thể tồn tại nếu ngừng sản xuất. Bởi vậy sản xuất của cải vật chất là cơ sở của đời sống xã hội loài người và là hoạt động cơ bản nhất trong tất cả các hoạt động của con người.
Xã hội loài người bắt đầu với kiểu tổ chức kinh tế tự nhiên và sau đó là kinh tế hàng hóa(KTHH). Nền kinh tế này chiếm ưu thế hơn so với kinh tế tự nhiên do đó nó làm cho kinh tế tự nhiên ngày càng bị thu hẹp thậm chí bị thủ tiêu. Không dừng lại ở đó hiện nay con người đang tiến hành hoạt động sản xuất trong nền kinh tế thị trường(KTTT).
- Với Việt Nam khi bước vào thời kì quá độ nền kinh tế nước ta còn mang nặng tính tự cấp tự túc vì vậy sản xuất hàng hóa phát triển sẽ phá vỡ dần kinh tế tự nhiên và chuyển thành nền kinh tế hàng hóa, thúc đẩy sự xã hội hóa sản xuất.
- KTHH tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển vì sự cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hóa buộc họ phải cải tiến kĩ thuật,áp dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất nhằm giảm chi phí sản xuất đến mức tối thiểu do đó thúc đẩy sự tiến bộ kĩ thuật, lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động xã hội.
- Trong nền KTHH người sản xuất phải căn cứ vào nhu cầu của người tiêu dùng, của thị trường để quyết định sản xuất sản phẩm gì, với khối lượng bao nhiêu, chất lượng như thế nào, từ đó kích thích tính năng động, sáng tạo của chủ thể kinh tế, kích thích việc nâng cao chất lượng cải tiến mẫu mã cũng như tăng khối lượng hàng hóa và dịch vụ.
- Phân công lao động xã hội là cơ sở của KTHH, đến lượt nó KTHH thúc đẩy phân công lao động xã hội trong nội bộ kinh tế cũng như trong hợp tác quốc tế và khu vực phát triển.
- Sự phát triiển của KTTT thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất tạo điều kiện cho sự ra đời của sản xuất lớn, xã hội hóa cao đồng thời chọn lọc được những nguời sản xuất kinh doanh giỏi hình thành đội ngũ cán bộ quản lí có trình độ đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.
KTTT là KTHH phát triển ở trình độ xã hội hóa cao. Như vậy phát triển KTTT là một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu nước ta thành nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế.Nhưng chúng ta lựa chọn xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa(KTTT định hướng XHCN) chứ không phải là KTTT tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên nền kinh tế này của chúng ta chưa phải đã hoàn chỉnh ngay từ đầu mà phải trải qua một quá trình xây dựng lâu dài do đó chúng ta cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu và tổng kết để nhận thức đầy đủ,sâu sắc hơn; đưa ra những giải pháp có sức thuyết phục cho những vướng mắc trong thực tiễn. Bài viết này trình bày những vấn đề được nghiên cứu dưới góc độ môn kinh tế chính trị.
Thế nào là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Muốn phát triển kinh tế thi trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam theo ý anh (chị) chúng ta phải làm gì?
II-Nội dung
A/ Về mặt lí luận
A.1. Tính tất yếu khách quan tồn tại KTTT ở Việt Nam
- Sự ra đời của KTHH đánh dấu bước phát triển quan trọng trong hoạt động lao động sản xuất của con người. KTHH là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó sản phẩm làm ra để trao đổi, để bán trên thị trường nhằm thỏa mãn nhu cầu của người mua đáp ứng nhu cầu của xã hội.
- KTTT là KTHH phát triển ở trình độ xã hội hóa cao, trong đó toàn bộ các yếu tố đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất, kể cả sản phẩm của chất xám đều là đối tượng tự do mua bán trên thị trường và do thị trường quyết định.Ngày nay KTTT trở thành một công nghệ được hầu hết các nước trên thế giới vận dụng để tổ chức nền kinh tế nước mình.
- Nước ta phát triển KTTT là tất yếu khách quan vì những điều kiện ra đời và tồn tại của KTHH vẫn đang tồn tại ở nước ta. Đó là:
+Thứ nhất: phân công lao động xã hội với tính cách là cơ sở chung của sản xuất chẳng những không mất đi mà trái lại còn được phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu
Xét về chiều rộng: Sự phân công lao động xã hội đã ngày càng được mở rộng về phạm vi từ địa phương lan ra toàn quốc, rồi tới phạm vi của khu vực và trên toàn thế giới. Trên thực tế Việt Nam đang tham gia một cách có hiệu quả vào sự phân công lao động trong khu vực cung như trong hợp tác quốc tế. Những lợi thế so sánh của Việt Nam ngày càng được phát huy trong xu thế mở cửa và hội nhập như nhân công rẻ, tài nguyên phong phú, vị trí địa lí thuận lợi,…
Xét về chiều sâu: Đó là sự hình thành và phát triển ngày càng nhiều của các ngành nghề mới mà các ngành này thường có hàm lượng khoa học kĩ thuật và công nghệ cao do đó có tác dụng thúc đẩy, hiện đại hóa các ngành truyền thống. Kết quả là phân công lao động ngày càng được phát triển về chiều sâu.
+Thứ hai: nước ta tồn tại nhiều thành phần kinh tế tức là tồn tại nhiều người chủ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Đại hội Đảng X đã chỉ rõ nước ta hiện nay đang tồn tại 5 thành phần kinh tế là kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế này có lợi ích kinh tế khác nhau, họ muốn sử dụng sản phẩm của nhau phải trao đổi sản phẩm cho nhau dưới hình thức trao đổi hàng hóa.
+Thứ ba: ngay trong các thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể mặc dù đều dựa trên công hữu về tư liệu sản xuất nhưng do tốc độ xã hội hóa có sự khác nhau nên còn có sự tách bạch về lợi ích, về trình độ kỹ thuật công nghệ, tổ chức quản lí nên chi phí và hiệu quả sản xuất là khác nhau vì vậy phải tính đến giá trị, giá cả, lợi nhuận,…
+Thứ tư: nước ta còn tồn tại quan hệ kinh tế đối ngoại, mỗi quốc gia có độc lập, chủ quyền, bình đẳng cùng có lợi do đó khi trao đổi hàng hóa và dịch vụ phải tính đến giá trị, trao đổi ngang giá hay nói cách khác quan hệ hàng hóa-tiền tệ lúc này vẫn rất cần thiết.
Những nội dung nêu trên cùng vai trò tác dụng to lớn của sự phát triển KTTT đã khẳng định rằng phát triển KTTT là một tất yếu kinh tế với nước ta, một nhiệm vụ kinh tế cấp bách cần phải thực hiện. KTTT ở nước ta là một tồn tại khách quan do đó không thể lấy ý chí chủ quan mà xóa bỏ nó được. KTTT mà nước ta xây dựng là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lí của Nhà nước và định hướng XHCN.Đến Đại hội Đảng IX mô hình kinh tế này được Đảng ta gọi đích danh là KTTT có sự quản lí của Nhà nước và định hướng XHCN.
A.2.Một số quan điểm của Đảng về phát triển KTTT định hướng XHCN.
- Từ sau khi đất nước thống nhất đến trước hội nghị Trung ương VI khóa 4 chúng ta chủ trương phát triển kinh tế kế hoạch hóa tập trung và có kết quả nhất định.Tuy nhiên lúc này kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát triển chiều sâu áp dụng thành tựu của khoa học công nghệ trong xu thế toàn cầu hóa và cơ chế này đã bộc lộ những khuyết điểm khiến kinh tế nước ta lâm vào tình trạng trì trệ.
- Sau hội nghị Trung ương VI khóa 4 đến trước đại hội 6, kinh tế nước ta cải tiến theo hướng thị trường chủ yếu ở cấp vĩ mô: khoán sản phẩm vào nông nghiệp, bù giá vào lương,…Đảng quyết định thay đổi cơ chế kinh tế tại đại hội 6.
- Từ đại hội 6 đến hết đại hội 8, tư tưởng chủ đạo là đổi mới toàn diện với nội dung chính là bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, phát triển KTHH nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước và định hướng XHCN.
- Đến đại hội 9 vấn đề xây dựng KTTT định hường XHCN được xác định là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong suốt thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Lúc này KTTT được coi là một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng XHCN chứ không phải là một công cụ, một cơ chế quản lí theo như quan niệm trước đây.
- Đại hội X, Đảng làm sáng tỏ thêm về mục tiêu, phuơng hướng phát triển, về vấn đề phân phối, tổ chức quản lí và tính định hướng XHCN của nền kinh tế nuớc ta.
Có thể thấy rằng tư tưởng về KTTT định hướng XHCN của Đảng ta không phải là quan điểm chuyển nền kinh tế nước ta sang một mô hình kinh tế đã có sẵn từ một nước nào đó mà được xác định là quá trình xóa bỏ các yếu tố của mô hình kinh tế cũ và thay thế bằng những yếu tố mới thích hợp hơn với điều kiện cụ thể của Việt Nam.
A.3.Đặc trưng bản chất nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam
A.3.1. KTTT định hướng XHCN trước hết cũng là nền KTTT vì vậy nó có những điểm thống nhất với KTTT.
- Một là: các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh
- Hai là: giá cả do thị trường quyết định, hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ và nó có tác dụng lam cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào trong các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế.
- Ba là: nền kinh tế vận động theo những qui luật vốn có của KTTT như qui luật cung cầu, qui luật cạnh tranh, qui luật giá trị,…Sự tác động của các qui luật đó hình thành cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế.
- Bốn là: nếu là nền KTTT hiện đại thì còn có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước thông qua pháp luật kinh tế, kế hoạch hóa, các chính sách kinh tế .
A.3.2. Nền KTTT nước ta khác với các nước tư bản chủ nghĩa ở tính định hướng XHCN. Tính chất này được biểu hiện ở các điểm sau:
- Thứ nhất,phát triển nền KTHH, KTTT với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, với sự đa dạng của các hình thức sở hữu và các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
- Thứ hai, phát triển nền KTHH vận động theo cơ chế thị trường định hướng XHCN có sự quản lí của Nhà nước đảm bảo thống nhất giữa sự phát triển, tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội.
- Thứ ba, xây dựng một nền kinh tế hội nhập với khu vực và thế giới với nhiều hình thức quan hệ và liên kết phong phú đa phương, đa dạng
A.3.3. Nền kinh tế nước ta được xây dựng dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội do đó có những đặc trưng bản chất dướ đây:
1. Về mục tiêu phát triển nền KTTT
- Mục tiêu hàng đầu của phát triển KTTT ở nước ta là giải phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong và ngoài nước để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, cải thiện từng bước đời sống nhân dân
- Nước ta thực hiện theo tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng, lấy sản xuất gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu hợp pháp gắn liền với xóa đói, giảm nghèo
2. Nền KTTT định hướng XHCN nước ta là nền kinh tế nhiêu thành phần trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo
- Trong nền kinh tế nước ta tồn tại 3 loại hình sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân từ đó hình thành nhiều thành phần kinh tế hay nói cách khác có nhiều người chủ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Đại hội Đảng X đã nhấn mạnh: Nước ta hiện đang tồn tại 5 thành phần kinh tế là kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.” trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế này tồn tại khách quan và là những bộ phận cần thiết của nền kinh tế trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy phát triển nền KTTT nhiều thành phần là tất yếu đối với nước ta.
- Việc xác lập vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước là vấn đề có tính nguyên tắc và là sự khác biệt có tính bản chất giữa KTTT định hướng XHCN với KTTT tư bản chủ nghĩa.
3. Về chế độ phân phối thu nhập
- Nền KTTT tư bản chủ nghĩa, hình thức phân phối chủ yếu nhất là phân phối theo vốn, theo trình độ bóc lột, theo giá trị sức lao động. Đối với giai cấp bóc lột thì phân phối dưới hình thức lợi nhuận, lợi tức và địa tô. Đối với giai cấp công nhân thì dựa trên nguyên tắc tiền công.
- KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam cũng dựa trên nhiều hình thức phân phối như phân phối theo lao đông, theo vốn tài sản và những đóng góp khác, theo các quĩ phúc lợi của xã hội trong đó lấy phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.
4. Về cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước XHCN
- Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế thị trường do sự tác động của các qui luật vốn có của nó. Nói một cách cụ thể đó là hệ thống hữu cơ của sự thích ứng lẫn nhau, tự điều tiết lẫn nhau của các yếu tố giá cả, cung-cầu, cạnh tranh,…trực tiếp phát huy tác dụng trên thị trường để điều tiết nền KTTT
- Ưu điểm của cơ chế thị trường:
+Kích thích sự hoạt động tự chủ, năng động của các chủ thể kinh tế làm cho nền kinh tế phát triển năng động và có hiệu quả.
+Tác động của cơ chế thị trường dân tới thực hiện các cân đối của nền kinh tế làm tổng cung và tổng cầu được tiệm cận một cách dễ dàng trong khi đó nếu Nhà nước làm đòi hỏi chí phí lớn và đôi khi không thực hiện được.
+Kích thích các chủ thể kinh tế phải đổi mới kĩ thuật công nghệ, hợp lí hóa sản xuất,nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất.
+Thực hiện phân phối các nguồn lực một kinh tế một cách tối ưu
+Sự điều tiêt của cơ chế thị trường mềm dẻo hơn sự điều chỉnh của Nhà nước và nó có khả năng thích nghi với sự biến đổi của kinh tế-xã hội .
- Nhược điểm của cơ chế thị trường là
+Cơ chế này chỉ phát huy đầy đủ khi có cạnh tranh hoàn hảo.
+Mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa nên họ lạm dụng quá mứ nguồn tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường,
+Nền KTTT phát triẻn theo chu kì nên lúc thăng lúc trầm gây ra khủng hoảng, thất nghiệp,…
+Cơ chế thị trường dù hoàn hảo đến đâu cũng gây ra sự bất bình đẳng trong xã hội, phân hóa giàu nghèo,…
- Để hạn chế nhược điểm của cơ chế thị trường ,Nhà nước đã can thiệp vào từ đó hình thành nên cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước.
- Có thể thấy rằng mô hình cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước trong nền KTTT tư bản chủ nghĩa và KTTT định hướng XHCN có những điểm khác nhau cơ bản:
+Thứ nhất, về chế độ sở hữu. Cơ chế thị trường trong KTTT tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất trong đó các công ti tư bản độc quyền giữ vai trò chi phối sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Cơ chế thị trường trong nền KTTT định hướng XHCN dựa trên sự đa dạng các quan hệ sở hữu trong đó chế độ công hữu giữ vai trò nền tảng của nền kinh tế quốc dân cùng với vai trò chủ đạô của kinh tế Nhà nước.
+Thứ hai,về cơ chế vận hành. Cơ chế vận hành trong nền KTTT định hướng XHCN là cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm đảm bảo tính hướng dẫn, điều khiển nền kinh tế hướng tới đích XHCN và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân lao động, thực hiện mục tiêu dân giaù nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh. Trong cơ chế thị trường tư bản chủ nghĩa, sự can thiệp của Nhà nước luôn mang bản chất tư sản nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản.
+Thứ ba, về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với công bằng xã hội. trong KTTT tư bản chủ nghĩa vấn đề công bằng xã hội chỉ dược đặt ra khi mặt trái của cơ chế thi trường đã lam gay gắt các vấn đề xã hội, đe dọa đến sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Trong nền KTTT định hướng XHCN, Nhà nước chủ động giải quyết ngay từ đầu vấn đề này, nó không chỉ được xem là phương tiện mà còn là mục tiêu của chế độ xã hội mới.
5. Nền KTTT định hướng XHCN cũng là một nền kinh tế mở, hội nhập. Nói đến KTTT là phải nói đến nền kinh tế mở. Chúng ta phát triển nền kinh tế mở, hội nhập nhằm tranh thủ vốn, khoa học kĩ thuật và kinh nghiệm quản lí tiên tiến của các nước phát triển trên thế giới, kết hợp sức mạnh của nội lực và sức mạnh của thế giới để xây dựng và phát triển KTTT hiện đại va rút ngắn ở nước ta.
A.4.Vai trò của Đảng và Nhà nước trong quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta trong những năm qua.
1. Thúc đẩy sự hình thành của các tiền đề của KTTT định hướng XHCN
- Đảng chủ trương thực hiện cải cách từng bước trên nền chính trị ổn định và quyền làm chủ của nhân dân ngày một hoàn thiện. Đảng tạo ra tiền đề về chính trị, kinh tế và con người cho KTTT định hướng XHCN
+ Đảng đề ra đường lối đổi mới với sự lựa chọn mô hình KTTT, đặt trọng tâm cải cách vào lĩnh vực kinh tế với chủ trương tiến hành từng bước, vừa làm vừa rút kinh nghiệm
+ Đảng cũng chủ trương đổi mới từng bước hệ thống chính trị, sự ổn định chính trị phải bao gồm cả sự đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động trong bộ máy Đảng và Nhà nước ta.
+ Đảng còn đề ra đường lối đối ngoại mở rộng nhằm tranh thủ vốn, kĩ thuật công nghệ, kinh nghiệm quản lí để phát triển KTTT trong nước và đào tạo cán bộ thích ứng với cơ chế thị trường.
- Nhà nước đóng vai trò bà đỡ cho sự ra đời của nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta do đó đòi hỏi Nhà nước không thể nóng vội mà phải phối hợp, lựa chọn các công cụ, phương pháp quản lí để vừa chấp nhận sự điều chỉnh của thị trường vừa chủ động điều tiết nền kinh tế. Điều quan trọng là Nhà nước phải nhất quán về quan điểm, chính sách sao cho hình thành thị trường đồng bộ và mở cửa, hình thành hệ thống pháp luật đáp ứng được đòi hỏi của KTTT.
2. Lựa chọn, kết hợp các điều kiện khách quan, các khả năng phù hợp để phát triển KTTT định hướng XHCN
- Những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển KTTT định hướng XHCN ở nước ta: xu thế toàn cầu hóa, tác động của cách mạng khoa học công nghệ, nhân tố tích cực trong vă hóa truyền thống, lợi thế so sánh của nước ta,…vì vậy đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải phân tích kĩ từng mặt, đặt chúng trong tổng thể của sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước; đề ra những chiến lược, chính sách kinh tế nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài , khai thác được lợi thế so sánh của đất nước.
- Một khó khăn đặt ra là bộ máy lãnh đạo vẫn còn tồn taih phong cách chậm chạp, thiếu năng động do đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải nhanh chóng sửa đổi cho phù hợp với yêu cầu của tình mới.
3. Phát hiện, nhận thức và giải quyết các mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình thực hiện nền KTTT định hướng XHCN
4. Thiết lập và giữ vững tính định hướng XHCN của nền KTTT ở nước ta:
- Nói định hướng XHCN là muốn nhấn mạnh tính chủ động của Đảng trong quá trình thực hiện KTTT. Vai trò của Đảng thể hiện ở việc lãnh đạo, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện đường lối chính sách KTTT với mục tiêu vì lợi ích của nhân dân, vì xã hội công bằng, dân chủ, văn minh đồng thời uốn nắn những lệch lạc, bổ sung và hoàn chỉnh các chính sách về KTTT
- Vai trò của Nhà nước được thể hiện ở việc quản lí vĩ mô nền kinh tế, thực hiện chức năng điều tiết nền kinh tế và xây dựng hệ thống kinh tế Nhà nước vững mạnh để đảm bảo tính định hướng XHCN của nền KTTT.
B/ Về mặt thực tiễn
B.1. Thực trạng nền KTTT ở nước ta.
B.1.1. Những thành tựu đạt được.
- Nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ tương đối cao, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa-hiện đại hóa
+ Tốc độ tăng trưởng năm sau luôn cao hơn năm trước: 6,79%(2000)lên 6,89%(2001);7,08%(2002); 7,34%(2003); 7,79%(2004) và 8,43%(2005).
+ Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước bình quân mỗi năm trong 5 năm 2001-2005 đạt 7,51% đứng hàng các nước có tốc độ tăng trưởng cao của khu vực và thế giới. Nguyên nhân do hầu hết các ngành, lĩnh vực thên chốt đều có tốc độ tăng trưởng khá cao.
+ Cơ cấu kinh tế: tỉ trọng các ngành trong nền kinh tế
Công nghiệp và xây dựng: 36,73%(2000) lên 41,04%(2005)
Nông nghiệp: 24,53%(2000) giảm 20,89%(2005)
Dịch vụ vẫn duy trì ở mức trên dưới 38% tổng sản phẩm trong nước.
trong cơ cấu kinh tế này kinh tế Nhà nước vẫn giư vai trò chủ đạo.
- Huy động vốn đầu tư đạt kết quả cao, tạo nguồn lực tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội.
- Văn hóa giáo dục, vấn đề chăm sóc sức khỏe cho người dân có những tiến bộ đáng kể.
B.1.2. Những hạn chế và bất cập.
Thứ nhất, trình độ phát triển KTTT ở nước ta còn ở giai đoạn sơ khai. Nguyên nhân do cơ sở vật chất-kĩ thuật còn ở trình độ thấp; kết cấu hạ tầng lạc hậu, kém phát triển; chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm chạp, tỉ trọng nông nghiệp còn lớn; khả năng cạnh tramh của các doanh nghiệp còn rất yếu.
Thứ hai,thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành nhưng chưa đồng bộ.
Thứ ba, nhiều thành phần kinh tế tham gia thi trường do vậy có nhiều loại hình sản xuất hàng hóa cùng tồn tại, đan xen nhau trong đó sản xuất hàng hoa nhỏ phân tán còn phổ biến
Thứ tư, sự hình thành thị trường trong nước gắn với mở rộng kinh tế đối ngoại, hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới, trong hoàn cảnh trình độ phát triển kinh tế-kĩ thuật của nước ta thấp xa so với hầu hết các bước khác.
Thứ năm, quản lí Nhà nước về kinh tế- xã hội còn yếu: một số chính sách, cơ chế còn thiếu chưa nhất quán với cuộc sống, thiếu tính khả thi.
Tất cả những hạn chế này được biểu hiện trên thực tế như sau:
Nền kinh tế trong tình trạng kém phát triển, sức cạnh tranh thấp, chứa nhiều mặt mất cân đối.
Qui mô nền kinh tế còn nhỏ, nước ta chưa thoát khỏi danh sách các nước có thu nhập thấp: thu nhập bình quân đầu nguời năm 2005 của nước ta đạt 638USD tăng 58,7% so với năm 2000 và bằng 83,4% cận trên của nhóm thu nhập thấp( 765USD/ người/ năm).
- Chỉ số HDI rất thấp. Mặc dù tuổi thọ trung bình đạt 0,76 chỉ số giáo dục đạt 0,82 nhưng do chỉ số tổng sản phẩm trong nước đạt 0,54% nên chỉ số HDI giảm còn 0,704.
- Kim ngạch xuất khẩu bình quân tăng 65,7%(2000) nhưng cũng chỉ bằng 70,8% so với mức bình quân của Trung Quốc; 67,3% so với Philipin; …
- Tồn tại nhiều mặt mất cân đối như:
+ Quan hệ tích lũy và tiêu dùng ít được cải thiện. tỉ trọng tích lũy thấp và gần như không tăng 31,2%(2001) lên 33,2%(2002) đến 35,4%(2003) rồi 35,5%(2004) và 35,5%(2005)
+ Quan hệ thương mại, nhập siêu ở mức tương đối cao: trong 5 năm 2001-2005 kim ngạch nhập siêu là 19,3 tỉ USD bằng 17,4% tổng xuất khẩu.
+ Ngân sách trong tình trạng bội chi mặc dù ước tính thu ngân sách năm 2005 gấp 2,3 lần măm 2000.
+ Cạnh tranh thấp so với các nước: theo báo cáo cạnh tranh toàn cầu của diễn đàn kinh tế thế giới
Chỉ số cạnh tranh tăng trưởng nước ta(GCI) đứng thứ 60/101(2003), 79/104(2004), 81/117(2005).
Chỉ số cạnh tramh doanh nghiệp(BCI) đứng thứ 50/102(2003), 79/104(2004), 80/116(2005).
nguyên nhân do chỉ số ứng dụng công nghệ thấp(92/117).
* Đời sống một bộ phận dân cư còn khó khăn, nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được khắc phục:
- Sự chênh lệch trong tăng thu nhập giữa các nhóm dân cư. Thu nhập bình quân một người một tháng của nhóm thu nhập cao nhất tăng 309,4 nghìn đồng trong khi đó nhóm thấp tăng 34,1 nghìn đồng và khoảng cách này ngày càng có xu hướng tăng lên từ 7,6 lần(1999) lên 8,1 lần(2001-2002) và 8,3 lần(2003-2004).
- Tỉ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi ở khu vực thành thị giảm chậm 6,42%(2000) 6,28%(2001) 6,01%(2002) 5,78%(2003) 5,6%(2004) và 5,31%(2005).
- Tỉ lệ thời gian lao động chưa được sử dụng của lao động trong độ tuổi ở nông thôn ở mức dưới 20% từ 25,84%(2000) 25,74%(2001) 24,58%(2002) 22,35%(2003) 20.9%(2004) và 19,35%(2005). Nguyên nhân do phần lớn số người trong độ tuổi lao động cần việc làm nhưng chưa qua đào tạo nghề, tỉ lệ đào tạo nghề đạt 24,8%(2005) thấp hơn so với yêu cầu của thực tiễn.
- Tai nạn giao thông ở tình trạng nghiêm trọng từ 2001-2005 có 106,7 nghìn vụ làm 59,5 nghìn người chết và 108,7 nghìn người bị thương.
- Các tệ nạn xã hội chưa được chặn đứng.
Trước những hạn chế đã được đề cập trên đây, chúng ta cần có những biện pháp khắc phục để tiếp tục phát triển nền KTTT địng hướng XHCN ở nước ta.
B.2.Những giải pháp để phát triển KTTT định hướg XHCN ở nước ta.
1. Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần.
- Khi chuyển từ kinh tế kế hoạch kóa tập trung sang KTHH vận hành theo cơ chế thị trường cần phải đổi mới cơ cấu sở hữu cũ bằng cách đa dạng hóa các hình thức sở hữu, hình thành nên những chủ thể kinh tế độc lập, có lợi ích riêng tức là khôi phục lại một trong những cơ sở của KTHH. Lấy việc phát triển sức sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế-xã hội, cải thiện đời sống nhân dân làm mục tiêu quan trọng để khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế.
- Tập trung nguồn lực phát triển có hiệu quả vai trò của kinh tế Nhà nước, thực hiện tốt chủ trương cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu với những doanh nghiệp mà Nhà nước không nắm 100% vốn.
- Phát triển kinh tế tập thể, lấy hợp tác xã làm nòng cốt .
- Nhà nước phải tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân cũng như kinh tế tư bản Nhà nước phát triển nhằm thu hút vốn đầu tu nước ngoài và công nghệ hiện đại.
2. Đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa, ứng dụng nhanh tiến bộ khoa học công nghệ từ đó đẩy mạnh phân công lao động xã hội.
- Phân công lao động xã hội là cơ sở chung của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Vì vậy để phát triển KTHH phải đẩy mạnh phân công lao động xã hội bằng cách đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa để xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của nền sản xuất lớn hiện đại vì sự phát triển của phân công lao động xã hội do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định.
- Ở nước ta công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa, phải có sự ứng dụng nhanh và phổ biến khoa học công nghệ hiện đại và tri thức mới, từng bước phát triển kinh tế tri thức.
- Đẩy mạnh trang bị kĩ thuật và công nghệ hiện đại cho các ngành, các lĩnh vực cuả nền kinh tế đồng thời tiến hành phân công lại lao động và phân bố dân cư; hình thành cơ cấu kinh tế hợp lí nhằm khai thác tốt nhất các nguồn lực của đất nước, tạo nên sự tăng trưởng nhanh và bền vững cho toàn bộ nền kinh tế.
3. Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường.
- Phát triển thị trường hàng hóa và dịch vụ. Thu hẹp những lĩnh vực Nhà nước độc quyền kinh doanh; xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp; tiếp tục đổi mới cơ chế quản lí giá. Phát triển mạnh thương mại trong nước.
- Phát triển vững chắc thi trường tài chính, bao gồm thị trường vốn và thị trường tiền tệ theo hướng đồng bộ, có cơ cấu hoàn chỉnh. Mở rộng và nâng cao chất lượng thị trường vốn và thị trường chứng khoán.
- Phát triển thị trường bất động sản, bao gồm thị trường quyền sử dụng đất và bất động sản gắn liền với đất.
- Phát triển thị trường sức lao động trong mọi khu vực kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu lao động đặc biệt là xuất khẩu lao động đã qua đào tạo nghề.
- Phát triển thị trường khoa học và công nghệ trên cơ sở đổi mới cơ chế, chính sách để phần lớn các sản phẩm khoa học công nghệ trở thành hàng hóa.
4. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
- Trong điều kiện hiện nay chỉ có mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới mới thu hút được vốn, kĩ thuật và công nghệ hiện đại để khai thác tiềm năng và thế mạnh của đất nước nhằm phát triển kinh tế.
- Khi mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại phải quán triệt nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau theo hướng đa phương hóa và đa dạng hóa các hình thức kinh tế đối ngoại.
- Đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là trọng điểm của kinh tế đối ngoại. Gỉảm dần nhập siêu, ưu tiên nhập khẩu tư liệu sản xuất để phục vụ sản xuất. Tranh thủ mọi khả năng và bằng nhiều hình thức thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhằm hướng vào những lĩnh vực, những sản phẩm có công nghệ tiên tiến, có tỉ trọng xuất khẩu cao. Việc sử dụng vốn vay phải có hiệu quả để trả được nợ, cải thiện được cán cân thanh toán.
- Đặc biệt hiện nay khi chúng ta đã gia nhập vào tổ chức WTO cần đẩy mạnh các mối quan hệ đối ngoại để tạo ra những tiền đề quan trọng góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế.
5. Giữ vững sự ổn định chinh trị, hoàn thiệnn hệ thống pháp luật.
- Sự ổn định chính trị là nhân tố quan trọng đầu tiên để phát triển, là điều kiện để các nhà sản xuất kinh doanh yên tâm đầu tư do vậy phải giữ và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lí của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
- Hệ thống pháp luật đồng bộ là công cụ quan trọng để Nhà nước quản lí nền KTHH nhiều thành phần. Nó tạo ra hành lang luật pháp cho hoạt động kinh tế, buộc các doanh nghiệp chấp nhận sự điều tiết của Nhà nước.
6. Xóa bỏ triệt để cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, hoàn thiện cơ chế quản lí kinh tế của Nhà nuớc.
- Trong điều kiện hiện nay cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã bộc lộ những khuyết điểm do đó cần phải xóa bỏ triệt để cơ chế này, tiếp tục xây dựng cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước.
- Để nâng cao năng lực và hiệu lực quản lí của Nhà nước cần nâng cao năng lực của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, thực hiện cải cách hành chính quốc gia.
- Nhà nước thực hiện định hướng sự phát triển kinh tế, có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho các hoạt động kinh tế; hạn chế và khắc phục những tiêu cực của cơ chế thị trường.
- Nhà nước thực hiện đúng chức năng quản lí nhà nước về kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản công, khônh can thiệp vào chức năng quản trị kinh doanh để các nhà kinh doanh có quyền tự chủ trong sản xuất và kinh doanh.
- Nhà nước sử dụng các biện pháp kinh tế là chính để điều tiết nền kinh tế.
Trên đây là những biện pháp cơ bản để phát triển kinh tế nước ta, còn đối với 3 khu vực trong cơ cấu kinh tế là nông nghiệp, công nghiệp và xây dựng, dịch vụ Đảng đã chỉ rõ trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần X giải pháp phát triển như sau:
Tạo những chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn
- Coi trọng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá lớn, đa dạng, phát triển nhanh và bền vững, có năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh cao; bảo đảm vững chắc an ninh lương thực và tạo điều kiện từng bước hình thành nền nông nghiệp sạch; phấn đấu giá trị tăng thêm trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp tăng 3 - 3,2%/năm. Gắn phát triển kinh tế với xây dựng nông thôn mới, giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng miền, góp phần giữ vững ổn định chính trị xã hội.
- Thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn, chuyển mạnh sang sản xuất các loại sản phẩm có thị trường và hiệu quả kinh tế cao; đẩy mạnh thâm canh các loại cây trồng trên cơ sở áp dụng các loại quy trình sản xuất đồng bộ và tiên tiến; phát triển mạnh chăn nuôi theo hướng quy mô lớn, an toàn dịch bệnh và bền vững về môi trường. Xây dựng các vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập trung gắn với việc chuyển giao công nghệ sản xuất và chế biến, khắc phục tình trạng sản xuất manh mún, tự phát.
- Phát huy lợi thế khí hậu nhiệt đới, tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình bảo vệ và phát triển rừng.
- Phát triển nuôi trồng thuỷ sản theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, phục vụ xuất khẩu và thị trường nội địa đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái; chuyển đổi cơ cấu khai thác qua việc lựa chọn ngư trường, loại hình nghề nghiệp và sản phẩm để nâng cao giá trị hàng hoá, sử dụng hợp lý nguồn lợi, giảm chi phí.
- Đẩy mạnh phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, nhất là những ngành nghề sử dụng nhiều lao động, coi đây là hướng chính để tạo ra nhiều việc làm mới, góp phần tăng nhanh thu nhập cho nông dân. Phát triển mạnh công nghệ bảo quản, chế biến, giảm nhanh tổn thất sau thu hoạch, đồng thời nâng cao nhanh giá trị gia tăng cho các loại nông, lâm, thủy sản, nhất là sản phẩm xuất khẩu chủ lực.
- Chú trọng phát triển kinh tế trang trại, các loại hình kinh tế hợp tác; đẩy nhanh việc sắp xếp lại và đổi mới quản lý các nông, lâm trường; phát triển mạnh các loại hình doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa trong công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn; phát triển các làng nghề. Khuyến khích nông dân bằng đóng góp quyền sử dụng đất và lao động của mình hợp tác với các doanh nghiệp, hợp tác xã, các chủ trang trại để phát triển sản xuất hàng hoá, ổn định và cải thiện đời sống. Khuyến khích hơn nữa đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp, nông thôn.
Phát triển nhanh hơn công nghiệp và xây dựng theo hướng nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh và hiện đại hoá
- Phát huy sức mạnh của tất cả các thành phần kinh tế, đa dạng hoá hình thức sở hữu và quy mô để phát triển công nghiệp và xây dựng với cơ cấu ngành nghề phù hợp với nguồn lực, lợi thế và thị trường ở các vùng, các địa phương. Nâng cao sức cạnh tranh, hàm lượng khoa học công nghệ và tỉ trọng giá trị tăng thêm, giá trị nội địa trong sản phẩm công nghiệp và xây dựng. Phát triển công nghiệp và xây dựng gắn với phát triển dịch vụ, phát triển đô thị và bảo vệ môi trường. Phấn đấu đạt tốc độ tăng giá trị tăng thêm trong công nghiệp và xây dựng 10 - 10,2%/năm.
- Tập trung nguồn lực phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, tạo ra sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động, như: chế biến nông, lâm, thuỷ sản; may mặc, giày dép, đồ nhựa, đồ gỗ gia dụng; cơ khí đóng tàu, công nghiệp chế tạo thiết bị đồng bộ, thiết bị điện, thiết bị xây dựng, máy nông nghiệp, phương tiện giao thông, sản xuất và lắp ráp cơ - điện tử; công nghiệp bổ trợ, công nghiệp công nghệ thông tin, sản xuất phần mềm. Nâng tỉ trọng sản phẩm công nghiệp xuất khẩu đã qua chế biến. Chú trọng phát triển công nghiệp năng lượng đi đôi với áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng; công nghiệp vật liệu và công nghệ tiết kiệm nguyên vật liệu; công nghiệp dược và các chế phẩm sinh học; công nghiệp bảo vệ môi trường.
- Việc phát triển các ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng chủ yếu là dựa vào nguồn lực của các thành phần kinh tế, bao gồm cả đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Căn cứ vào nguồn lực và hiệu quả, Nhà nước tập trung đầu tư hoặc hỗ trợ đầu tư để phát triển những sản phẩm quan trọng của nền kinh tế, như: lọc hoá dầu, khai thác quặng và luyện thép, phân bón, hoá chất, xi măng, khai thác bô - xít và sản xuất alumin, bột giấy gắn với trồng rừng, một số sản phẩm cơ khí chế tạo.
- Hoàn chỉnh quy hoạch phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp trên cả nước; hình thành các vùng công nghiệp trọng điểm; gắn việc phát triển sản xuất với bảo đảm nhà ở và các điều kiện sinh hoạt cho người lao động. Chuyển các cơ sở công nghiệp trong nội thành, nội thị, gần khu đông dân cư không bảo đảm tiêu chuẩn môi trường vào các khu công nghiệp tập trung hoặc các vùng ít dân cư.
- Tăng cường hợp tác liên kết, đưa ngành công nghiệp và xây dựng nước ta hội nhập vào khu vực và quốc tế, trước hết thông qua việc thu hút mạnh đầu tư và công nghệ nguồn của các công ty đa quốc gia tham gia phát triển công nghiệp và xây dựng ở Việt Nam.
Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội theo hướng hiện đại
- Trên cơ sở bổ sung, hoàn chỉnh quy hoạch, Nhà nước ưu tiên dành vốn ngân sách và huy động các nguồn lực khác để đẩy nhanh việc xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng trong từng vùng và trên cả nước, xem đây là một khâu đột phá để phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay và chuẩn bị cho bước tiếp theo.
- Tập trung huy động các nguồn lực để ưu tiên hoàn chỉnh một bước cơ bản kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, đường sông, đường sắt, đường biển, đường hàng không đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới các công trình thuỷ lợi có nhu cầu cấp bách, gắn với phát triển thuỷ điện, đáp ứng yêu cầu sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, nước sinh hoạt của dân cư và giảm nhẹ thiên tai.
- Tăng nhanh năng lực và hiện đại hoá bưu chính - viễn thông; tiếp tục đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng thông tin hiện đại, đồng bộ và ổn định đáp ứng cho phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và bảo đảm sự cạnh tranh bình đẳng trong lĩnh vực dịch vụ thông tin.
- Nhà nước tăng tỉ trọng đầu tư ngân sách cho phát triển kết cấu hạ tầng xã hội, nhất là cho giáo dục, y tế.
Tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực dịch vụ
- Phát triển nhanh khu vực dịch vụ đáp ứng được yêu cầu và phù hợp với tiềm năng còn rất lớn của nước ta và xu hướng phát triển chung của thế giới; tận dụng tốt thời cơ hội nhập kinh tế quốc tế để tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực dịch vụ, đưa tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ cao hơn tốc độ tăng GDP, phấn đấu đạt 7,7 - 8,2%/năm.
- Ưu tiên phát triển các ngành dịch vụ có tiềm năng lớn và sức cạnh tranh cao. Tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ truyền thống, như vận tải, thương mại, du lịch, ngân hàng, bưu chính - viễn thông. Phát triển mạnh các dịch vụ phục vụ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, phục vụ đời sống ở nông thôn. Mở rộng các dịch vụ mới, nhất là những dịch vụ cao cấp, dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao, dịch vụ hỗ trợ kinh doanh.
- Nhà nước kiểm soát chặt chẽ độc quyền và tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia và cạnh tranh bình đẳng trên thị trường dịch vụ.
- Phải luôn coi trọng yêu cầu nâng cao các phúc lợi xã hội cơ bản của nhân dân, bảo đảm tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là đối với người nghèo, vùng nghèo, các đối tượng chính sách; đồng thời, không xem nhẹ việc đáp ứng những nhu cầu của bộ phận ngày càng đông dân cư có thu nhập cao hơn
- Dịch vụ công cộng là lĩnh vực liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân và là yếu tố quan trọng góp phần ổn định xã hội; vì vậy, việc chuyển đổi phương thức cung ứng các loại dịch vụ này cần được thực hiện một cách kiên định và tích cực, nhưng phải theo một kế hoạch đồng bộ và một lộ trình phù hợp.
III- Kết thúc vấn đê
KTTT với những tác dụng to lớn của nó, hiện nay đã trở thành một công nghệ được hầu hết các nước trên thế giới vận dụng để tổ chức nền kinh tế nước mình. Đối với nước ta do đi theo con đường xã hội chủ nghĩa nên chúng ta đã lựa chọn mô hình KTTT định hướng XHCN. Đó là nền KTHH nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lí của Nhà nước và định hướng XHCN. Tư tưởng về KTTT định hướng XHCN của nước ta không phải là quan điểm về việc chuyển sang một mô hình kinh tế đã có sẵn từ một nước nào đó mà là quá trình xóa bỏ các yếu tố của mô hình cũ và thay thế bằng những yếu tố mới thích hợp hơn với điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường- đó là cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế do vậy có những mặt tích cực và hạn chế. Vì vậy để khắc phục đuợc những hạn chế này cần có sự can thiệp của Nhà nước. Đó là lí do vì sao kinh tế Nhà nuớc giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nước ta.
Việt Nam tiến hành đổi mới từ năm 1986 và sau 20 năm đổi mới chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể và chính những thành tựu này là kết quả của quyết định hành động theo tư duy KTTTXHCN. Tư tưởng về KTTT định hướng XHCN đã làm rõ về khả năng Việt Nam có thể xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và hội nhập với kinh tế thế giới. Nó đặt ra một yêu cầu: chúng ta hãy thẳng thắn nhìn vào thực tế xem chúng ta đang ở đâu và sẽ phải làm gì.
Với việc đàm phán thành công và trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO, Việt Nam đã bắt đầu khẳng định được chỗ đứng của mình trên trường quốc tế. Gia nhập WTO, chúng ta biết rằng mình có thêm rất nhiều cơ hội và đồng thời cũng phải đối mặt với rất nhiều thách thức nhưng vẫn kiên định đi theo con đường XHCN. Vì vậy mỗi cá nhân cần tiếp tục tìm hiểu và nghiên cứu về KTTT để có thể đưa ra những giải pháp và giải quyêt được những vướng mắc trong thực tế.
Tóm lại có thể khẳng định rằng với sự phát triển của nền kinh tế nước ta như hiện nay thì việc Đảng và Nhà nước lựa chọn xây dựng mô hình KTTT định hướng XHCN là hoàn toàn đúng đắn và mỗi cá nhân hãy góp phần tích cực trong việc ngày càng hoàn thiện hơn nữa mô hình kinh tế này.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 50145.DOC