Kinh tế thị trường là một kiểu quan hệ kinh tế xã hội mà trong sản xuất và tái sản xuất xã hội gắn chặt với thị trường tức là gắn chặt với quan hệ hàng hóa – tiền tệ với quan hệ cung cầu. Trong nền kinh tế thị trường nếu biểu hiện có tính chất bề mặt của đời sống kinh tế xã hội là quan hệ hàng hóa mọi hoạt động của xã hội đều phải tính đến quan hệ hàng hóa hay ít nhất cũng phải sử dụng các quan hệ hàng hóa như là một khâu trung gian. Cơ chế thị trường, một tất yếu cấu thành của cơ chế dân chủ. Xét theo nghĩa rộng là cơ chế trực tiếp tác động đến sự hình thành con người mới ở nước ta hiện nay. Cơ chế thị trường giả định một thị trường sức lao động tự do của mỗi cá nhân (điều mà cơ chế tập trung quan liêu bao cấp không phát huy được) khi xưa lao động trở thành hàng hóa thì tài sản giá trị, quyền tự do của mỗi cá nhân trước hết được thể hiện ở chỗ người được làm chủ sức lao động của mình, tự do bám theo giá cả thị trường. Theo nghĩa rộng, cơ chế thị trường khiến cho mỗi cá nhân dần dần trở thành người chủ trước hết của sức lao động của minh trong đó có tài sản tự có hay do kế thừa. Mọi người đều phải tích cực lao động vì lời ích của mỗi cá nhân và của xã hội, chủ động phát huy tính sáng tạo, tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc từ đó quan hệ sản xuất phát triển tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến một nền kinh tế phát triển.
15 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1467 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A-Lời nói đầu
Xây dưng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghiã ở Việt nam là một quá trình lâu dài, khó khăn với nhiều vấn đề cần giải quyết. Trước đây, trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung các doanh nghiệp Nhà nước mang tính độc quyền, điều đó không tạo ra sự công bằng trong cạnh tranh, kìm hãm sự phát triển của các thành phần kinh tế làm cho kinh tế Việt Nam trì trệ trong một thời gian dài. Ngày nay, khi kinh tế Việt Nam bước vào nền kinh tế thị trường chúng ta cần phải tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa – thực chất là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội IV của Đảng đề ra chủ trương: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, được Đại hội VII xác định và Đại hội IX phát triển thành chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là những bước tiến quan trọng trong quá trình tổng kết thực tiễn cách mạng đổi mới tư duy kinh tế vượt qua những quan niệm sơ cứng về mô hình phát triển kinh tế xã hội và con người, đi lên Chủ nghĩa xã hội.
Với mong muốn tìm hiểu thêm về những vấn đề của nền kinh tế, quan điểm lý luận cũng như những vướng mắc trong các vấn đề kinh tế – chính trị – xã hội có liên quan đến tiến trình xây dựng và phát triển của xã hội nên em đã chọn đề tài: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”.
Xét về phương diện lý luận, mô hình trên đã khẳng định tính tất yếu của Việt Nam phải trải qua kinh tế thị trường. Đây là sự khẳng định, sự nhận thức chẳng những hòan tòan đúng đắn, không chỉ xét riêng về phương diện lý luận mà nhận thức này đã được kiểm chứng bằng thực tiễn của cả nhân loại và Việt Nam.
Sinh viên thực hiện
Bùi Thị Vui
B- Đề cương
I- Sự cần thiết khách quan phải phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.
1- Quan niệm về kinh tế thị trường nói chung:
- Lịch sử lòai người đã chứng kiến các kiểu tổ chức kinh tế, xã hội. Đó là kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc; kinh tế hàng hóa; kinh tế thị trường (được hình thành và phát triển dưới Chủ nghĩa Tư bản) khi hệ thống thị trường phát triển một cách đồng bộ:
+ Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hóa, trong đó từ sản xuất đến tiêu dùng đều thông qua thị trường.
+ Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hóa, trong đó các quan hệ kinh tế đều được tiền tệ hóa.
+ Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa vận hành theo cơ chế thị trường.
- Kinh tế thị trường có những đặc trưng chung như:
+ Các chủ thể kinh tế có tính tự chủ cao (giá cả do thị trường là chủ yếu).
+ Kinh tế thị trường chịu sự chi phối của quy luật vốn có của kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường có đặc trưng là kinh tế “Mở”.
+ Trong kinh tế thị trường hiện đại còn có sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế.
2- Sự cần thiết để phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam:
a) Sự cần thiết khách quan:
- Là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó sản phẩm sản xuất ra để trao đổi, bán trên thị trường.
- Là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa.
* Cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam:
- Sự phân công lao động xã hội ngày càng được phát triển sâu rộng, tức là sự chuyên môn hóa sản xuất ngày càng sâu.
- Thành phần kinh tế nước ra tồn tại nhiều hình thức sở hữu.
- Thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể tuy cùng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự khác biệt nhất định, có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, có lợi ích riêng.
- Quan hệ hàng hóa – Tiền tệ còn cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại.
b) Tác dụng:
- Phát triển lực lượng sản xuất xã hội hóa sản xuất.
- Phát triển kinh tế thị trường là cách tốt nhất để xóa bỏ dấu ấn của kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc ở nước ta.
- Phân công lao động là cơ sở của kinh tế thị trường.
- Phát triển kinh tế thị trường có tác dụng thúc đẩy sự tập trung sản xuất.
- Thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển của kinh tế.
II- Những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam. Thực chất là việc phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Vừa mang những đặc trưng của kinh tế thị trường, vừa mang đặc trưng cơ bản của Chủ nghĩa xã hội:
- Mô hình này gồm những cái chung là chịu sự chi phối của quy luật vốn có của kinh tế hàng hóa.
- Mang những cái đặc thù.
- Về quan hệ phân phối: Do quan hệ sản xuất mà trước hết là quan hệ sở hữu quyết định.
- Kinh tế thị trường phân hóa xã hội thành hai cực đối lập; Giàu và nghèo.
- Sự tăng trưởng kinh tế gắn liền với việc phát triển văn hóa và giáo dục.
- Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng là một nền kinh tế “Mở”.
- Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có sự quản lý vĩ mô của nhà nước.
III- Thực trạng, mục tiêu và giải pháp để phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam:
1- Thực trạng kinh tế thị trường ở Việt Nam:
Đang còn kém phát triển biểu hiện ở những mặt sau:
- Phân công lao động (là cơ sở của kinh tế thị trường) còn kém phát triển.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu so với thế giới.
- Cơ sở hạ tầng yếu, kém.
- Hệ thống thị trường hình thành chưa đồng bộ, trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trạng thái sản xuất nhỏ ở Việt Nam vẫn còn mang tính phổ biến.
2- Mục tiêu phấn đấu;
- Chủ trương đến năm 2005 chúng ta hình thành một bước thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Đến năm 2010 đưa nước ta ra khỏi tình trạng một nước nghèo và chậm phát triển.
- Phấn đấu đến năm 2020 thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành cơ bản.
3- Những giải pháp để thực hiện mục tiêu:
- Đẩy mạnh phân công lao động xã hội.
- Thực hiện đa dạng hóa quan hệ sở hữu để tạo ra sự tách biệt nhất định về kinh tế – cơ sở tồn tại của kinh tế thị trường.
- Đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa để trang bị kỹ thuật – công nghệ hiện đại cho nền kinh tế.
- Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường.
- Nâng cấp cơ sở hạ tầng.
- Mở rộng, nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
- Tăng cường và đổi mới việc quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Nhà nước phải làm tốt chức năng luật pháp.
C- Nội dung:
I- Sự cần thiết khách quan phải phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.
1- Quan niệm về kinh tế thị trường nói chung:
- Lịch sử lòai người đã chứng kiến các kiểu tổ chức kinh tế, xã hội. Đó là kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc; kinh tế hàng hóa (đi từ kinh tế hàng hóa của nông dân và thợ thủ công phát triển lên thành kinh tế hàng hóa Tư bản); kinh tế thị trường (được hình thành và phát triển dưới Chủ nghĩa Tư bản) khi hệ thống thị trường phát triển một cách đồng bộ:
+ Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hóa trong đó từ sản xuất đến tiêu dùng đều thông qua thị trường.
+ Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hóa trong đó các quan hệ kinh tế đều được tiền tệ hóa.
+ Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa vận hành theo cơ chế thị trường (là tổng thể các nhân tố, các mối quan hệ, các quy luật chi phối sự vận động của nền kinh tế hàng hóa – cơ chế thị trường).
- Kinh tế thị trường có những đặc trưng chung như: Các chủ thể kinh tế có tính tự chủ cao, giá cả do thị trường là chủ yếu (do quan hệ cung cầu). Kinh tế thị trường chịu sự chi phối của quy luật vốn có của kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường có những đặc trưng chung là kinh tế “mở”. Song kinh tế thị trường hiện đại còn có sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế.
2- Sự cần thiết để phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam:
a) Sự cần thiết khách quan:
Kinh tế hàng hóa là một kiểu tổ chức kinh tế – xã hội, mà trong đó sản phẩm sản xuất ra để trao đổi, để bán trên thị trường. Muc đích của sản xuất trong kinh tế hàng hóa không phải để thỏa mãn nhu cầu trực tiếp của người sản xuất ra sản phẩm mà nhằm để bán, tức là để thỏa mãn nhu cầu của người mua, đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa, trong đó tòan bộ các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị trường. Kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường không đồng nhất với nhau, chúng khác nhau về trình độ phát triển, về cơ bản chúng có cùng nguồn gốc và cùng bản chất.
Theo C.Mác, sản xuất và lưu thông hàng hóa là hiện tượng vốn có của nhiều hình thái kinh tế xã hội. Những điều kiện ra đời và tồn tại của kinh tế hàng hóa cũng như các trình độ phát triển của nó do sự phát triển của lực lượng sản xuất tạo ra.
* Cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam:
- Phân công lao động xã hội với tính cách là cơ sở chung của sản xuất hàng hóa chẳng những không mất đi mà trái lại còn được phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Bề rộng là sự phân công lao động được phát triển trong tong cơ sở kinh tế, tong địa phương trong cả nước và tiến tới tham gia vào việc hợp tác và phân công lao động Quốc tế. Sự phát triển của phân công lao động được thể hiện ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm đưa ra trao đổi trên thị trường.
- Trong nền kinh tế của nước ta, tồn tại nhiều hình thức kinh tế sở hữu, đó là sở hữu tòan dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân (gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu Tư bản tư nhân), sở hữu hỗn hợp. Do đó tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, lợi ích riêng nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hóa – Tiền tệ. Tiền tệ ra đời làm cho thế giới hàng hóa tách thành hai cực: Tiền – Hàng. Nó còn được sử dụng trong quan hệ kinh tế Quốc tế.
- Thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể tuy cùng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự khác biệt, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng, mặt khác, các đơn vị kinh tế còn có sự khác nhau về trình độ kỹ thuật, công nghệ, về trình độ tổ chức quản lý nên chi phí sản xuất và hiệu quả sản xuất cũng khác nhau.
- Quan hệ hàng hóa – tiền tệ còn cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại, đăc biệt trong điều kiện phân công lao động Quốc tế đang phát triển ngày càng sâu sắc, vì mỗi nước là một quốc gia riêng biệt, là người chủ sở hữu đối với các hàng hóa đưa ra trao đổi trên thị trường thế giới. Sự trao đổi ở đây phải theo nguyên tắc ngang giá.
- Kinh tế thị trường không những tồn tại khách quan ở CNXH của nước ta mà nó còn cần thiết trong công cuộc xây dựng CNXH.
Kinh tế thị trường được phát triển dưới CNTB nhưng không phải là sản phẩm riêng có của CNTB, nó được coi là thành tựu của nền văn minh nhân loại. Trước đây C.Mác đã cho rằng: Kinh tế hàng hóa tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất khác nhau, chỉ khác nhau về quy mô và trình độ phát triển.
* Sự cần thiết được biểu hiện:
+ Mấy thập niên trước 1986 nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Đặc trưng của cơ chế này là: Nhà nước giao kế hoạch cho các doanh nghiệp với một hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh, Nhà nước cung cấp vật tư, tiền vốn…, xí nghiệp sản xuất kinh doanh theo kế hoạch của Nhà nước và giao nộp sản phẩm, lãi Nhà nước thu, lỗ Nhà nước bù điều đó có nghĩa là triệt tiêu mất động lực kinh doanh là lợi nhuận. Việc phân phối mang tính chất bình quân và tồn tại dưới hình thức hiện vật là chủ yếu, một sự bao cấp tràn lan làm cho nền kinh tế bị hiện vật hóa, quan hệ hàng hóa – Tiền tệ không được coi trọng. Với cơ chế này là một trong những nguyên nhân làm cho hệ thống XHCN lâm vào khủng hoảng do đó từ Đại hội VI (1986) Đảng ta chủ trương xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.
+ Kinh tế thị trường còn có những tác dụng:
- Phát triển lực lượng sản xuất, xã hội hóa sản xuất (sản xuất tập trung quy mô lớn, sự phân công lao động ngày càng chi tiết và gắn với sự hợp tác ngày càng mở rộng).
- Phát triển kinh tế thị trường là cách tốt nhất để xóa bỏ dấu ấn của kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc ở nước ta.
- Phân công lao động là cơ sở của kinh tế thị trường đến lượt nó sự phát triển kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển.
- Phát triển kinh tế thị trường có tác dụng thúc đẩy sự tập trung sản xuất tạo ra những cơ sở ngày càng lớn.
b) Tác dụng to lớn của sự phát triển kinh tế thị trường:
Nền kinh tế nước ta khi bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH còn mang nặng tính tự cấp, tự túc, vì vậy sản xuất hàng hóa phát triển sẽ phá vỡ dần kinh tế tự nhiên chuyển thành nền kinh tế hàng hóa, thúc đẩy sự xã hội hóa sản xuất.
Kinh tế hàng hóa tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Do cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hóa, buộc mỗi chủ thể sản xuất phải cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất để giảm chi phí sản xuất đến mức tối thiểu, nhờ đó có thể cạnh tranh được về giá cả, đứng vững trong cạnh tranh. Quá trình đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nâng cao năng suất lao động xã hội.
Trong nền kinh tế hàng hóa, người sản xuất phải căn cứ vào nhu cầu của người tiêu dùng, của thị trường để quyết định sản xuất sản phẩm gì, với khối lượng bao nhiêu, chất lượng như thế nào. Do đó kinh tế hàng hóa kích thích sự năng động sáng tạo của chủ thể kinh tế, kích thích việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, cũng như tăng khối lượng hàng hóa và dịch vụ.
Phân công lao động xã hội là điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa, đến lượt nó sự phát triển kinh tế hàng hóa sẽ thúc đẩy sự phân công lao động xã hội và sản xuất. Vì thế phát huy được tiềm năng, lợi thế của từng vùng, cũng như lợi thế của đất nước, có tác dụng mở rộng quan hệ quốc tế với nước ngòai. Sự phát triển của kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn có xã hội hóa cao, đồng thời chọn lọc được những người sản xuất kinh doanh giỏi, hình thành đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ, lao động lành nghề đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.
Như vậy phát triển kinh tế thị trường là một tất yếu kinh tế đối với nước ta, một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của nước ta thành kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động Quốc tế. Đó là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất, khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất nước vào sự công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thực tiễn những năm đổi mới đã chứng minh rằng, việc chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần là hòan tòan đúng đắn, nhờ phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, chúng ta đã bắt đầu khai thác được tiềm năng trong nước và thu hút được vốn, kỹ thuật, công nghệ của nước ngòai, giải phóng được năng lực sản xuất, góp phần quyết định vào việc bảo đảm tăng trưởng kinh tế với nhịp độ tương đối cao trong thời gian qua.
Trình độ phát triển của kinh tế thị trường có liên quan mật thiết với các giai đoạn phát triển của lực lượng sản xuất. Về đại thể, kinh tế hàng hóa phát triển qua 3 giai đoạn tương ứng với 3 giai đoạn phát triển của lực lượng sản xuất: Sản xuất hàng hóa giản đơn, kinh tế thị trường tự do, kinh tế thị trường hiện đại.
Nước ta đang thực hiện chuyển đổi nền kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế kế hoạch hóa. Mô hình kinh tế của Việt Nam được xác định là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa (nói ngắn gọn là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa).
Hiện nay nền kinh tế thị trường ở nước ta còn ở trình độ kém phát triển, bởi lẽ cơ sở vật chất kỹ thuật của nó còn lạc hậu, thấp kém, nền kinh tế ít nhiều còn mang tính tự cấp, tự túc. Tuy nhiên nước ta không lặp lại nguyên vẹn tiến trình phát triển kinh tế của các nước đi trước: Kinh tế hàng hóa giản đơn chuyển lên kinh tế thị trường tự do, rồi từ kinh tế thị trường tự do chuyển lên kinh tế thị trường hiện đại, mà cần phải và có thể xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại, định hướng xã hội chủ nghĩa theo kiểu rút ngắn. Điều này có nghĩa là phải đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa để phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất trong một thời gian tương đối ngắn, xây dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại để nền kinh tế nước ta bắt nhịp kịp với nền kinh tế thế giới; đồng thời phải hình thành đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc quản lý kinh tế vĩ mô và thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa.
III- Thực trạng, mục tiêu và giải pháp để phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam:
1- Thực trạng kinh tế thị trường ở Việt Nam:
Những năm đầu của công cuộc đổi mới, khi chúng ta từng bước tiến hành chuyển dần từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang thực hiên cơ chế thị trường, thực ra chỉ là những năm thăm dò, mò mẫm để thử nghiệm và rút kinh nghiệm là chính. Vì đó mà trong những năm vừa qua cho đến tận hôm nay chúng ta vẫn không có một nền kinh tế thị trường theo đúng nghĩa của nó. Việc thiếu vắng hàng loạt các thị trường hoặc mới có các thị trường đang ở dạng sơ khai (thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ) cùng với nó là sự thiếu vắng các luật pháp đi kèm song đã hình thành nên các đặc điểm của nền kinh tế thị trường ở nước ta như sau:
Một là kinh tế thị trường bao gồn nhiều loại hình đan xen nhau: Nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình thức sở hữu khác nhau tham gia vào nền kinh tế thị trường. Mỗi kiểu sản xuất hàng hóa tham gia vào nền kinh tế thị trường có những nét đặc thù về bản chất, kinh tế – xã hội và trình độ phát triển, nhưng nó đều là những bộ phận khác nhau của nền kinh tế quốc dân thống nhất, hình thành và chịu sự chi phối của một thị trường xã hội thống nhất với quan hệ cung cầu, giá cả chung, một đồng tiền chung… Bởi vậy chúng vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với nhau, bình đẳng trước pháp luật, được pháp luật bảo hộ quyền sở hữu và quyền thu nhập hợp pháp. Nhân tố kinh tế và quan hệ kinh tế trong mỗi kiểu sản xuất hàng hóa của mỗi thành phần kinh tế đều đã xuất hiện những cái mới. Trong đó sản xuất hàng hóa xã hội chủ nghĩa giữ vai trò chủ đạo, định hướng với các kiểu hàng hóa khác.
Hai là kinh tế thị trường có trình độ kém phát triển, biểu hiện ở số lượng mặt hàng và chủng loại hàng hóa nghèo nàn, khối lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường và kim ngạch xuất nhập khẩu còn nhỏ, chi phí sản xuất và giá cả cao, chất lượng hàng hóa thấp, quy mô và dung lượng thị trường hạn hẹp, sức cạnh tranh của các doanh nghiệp và hàng hóa trên thị trường trong nước cũng như thị trường ngòai nước còn yếu, đội ngũ các nhà doanh nghiệp giỏi còn ít, thu nhập của người lao động còn thấp do đó sức mua có hạn chế, nhiều loại thị trường còn ở dạng sơ khai hoặc còn đang trong quá trình hình thành như hình thành thị trường vốn, thị trường chứng khan, thị trường sức lao động … Trình độ phát triển thấp của sản xuất hàng hóa bắt nguồn từ trình độ thấp của lực lượng sản xuất, từ tính chất sản xuất nhỏ của nền kinh tế, từ trình độ phân công lao động của xã hội kém phát triển, từ sự kém phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng, lao động thủ công còn chiếm tỷ trọng lớn, từ sự kìm hãm nền kinh tế trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp một thời gian khá dài, từ sự nhận thức giản đơn về CNXH…
Ba là, nền kinh tế thị trường phát triển theo hướng hòa nhập vào thị trường thế giới và khu vực. Cách mạng khoa học công nghệ càng phát triển càng làm cho lực lượng sản xuất phát triển đạt trình độ xã hội hóa cao, dẫn đến quá trình khu vực hóa, quốc tế hóa nền kinh tế ngày càng mở rộng. Do vậy phát triển kinh tế không phải chỉ dựa trên cơ sở điều kiện trong nước mà còn phải tính đến quan hệ kinh tế quốc tế, đến xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế. Nền kinh tế của mỗi quốc gia muốn phát triển thuận lợi không thể không gắn với thị trường thế giới. Cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã làm cho số lượng, chất lượng chủng loại hàng hóa cho tiêu dùng cá nhân ngày càng phong phú đa dang, mà bất cứ một nước nào, dù là nước lớn hay nhỏ, nước phát triển nhất hay kém phát triển cũng không thể sản xuất tất cả các loại hàng hóa. Vì vậy mỗi nước tùy vào địa thế của mình mà phát triển một số mặt hàng có hiệu quả. Muốn vậy con đường đúng đắn là kinh tế mở, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu có hiệu quả.
Bốn là, phát triển kinh tế thị trường gắn với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Phát triển kinh tế thị trường gắn với nền kinh tế mở là tất yếu, nhưng trong quá trình đó, bên cạnh việc tiếp thu tính văn hóa thế giới thì cũng có nguy cơ ra nhập những yếu tố văn hóa xa lạ với truyền thống đặc điểm dân tộc.
Đảng ta không coi cơ chế thị trường là liều thuốc vạn năng và vì vậy không khuyến khích phát triển nó về mọi phương diện, bởi lẽ việc tuyệt đối hóa vai trò của kinh tế thị trường sẽ rơi vào một sai lầm nguy hiểm từ phía khác. Kinh tế thị trường tuy có nhiều điểm mạnh nhưng bản thân nó có những hạn chế, những khuyết tật mang tính tự phát hết sức bướng bỉnh, hơn thế nữa quan hệ thị trường còn là môi trường thuận lợi để phát sinh nhiều tiêu cực và tệ nạn xã hội. Thực tiễn 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới vừa qua cho they bên cạnh tác động tích cực và cơ bản, nhưng tác động tiêu cực cho mặt trái của kinh tế thị trường gây ra cũng hết sức nghiêm trọng, đặc biệt trên phương diện tư tưởng đạo đức lối sống. Chúng ta mới áp dụng cơ chế thị trường chưa được bao nhiêu song bên cạnh những thành tựu chúng ta đã phải trả giá không nhỏ cho những hiện tượng tiêu cực như do cách làm ăn thuần túy chạy theo lợi nhuận đã dẫn đến các hình thức lừa đảo, hối lộ, trốn thuế, nợ nần khó trả, thương mại hóa một cách tràn lan, xâm nhập cả vào lĩnh vực dễ thương tổn như y tế, giáo dục, văn hóa… đã làm cho các giá trị đạo đức và tinh thần bị xâm hại, sự phân hóa giàu nghèo và sự bất công trong xã hội có chiều hướng tăng lên, lối sống ích kỷ, thực dụng có nguy cơ ngày càng tăng.
Rõ ràng, cơ chế vận hành của nền kinh tế nước ta đang trong quá trình tiến tới một cơ chế thị trường đích thực, văn minh, nhưng hiện tại vẫn còn mang dấu ấn của cơ chế kinh tế cũ. Cơ chế quản lý kinh tế mới bước đầu đã được hình thành những chưa đồng bộ, đang ở giai đoạn sơ khai, mang nhiều yếu tố tự phát chưa tạo được môi trường thực sự lành mạnh và an tòan cho sản xuất và kinh doanh, đặc biệt vẫn còn những yếu kế cả về mặt chính sách lẫn pháp lý hướng dẫn nền kinh tế. Công tác tài chính ngân sách, giá cả kế hoạch hóa, quy hoạchm xây dựng, quản lý đất đai, thủ tục hành chính… đã đổi mới nhưng chưa theo kịp đòi hỏi của thực tiễn. Lĩnh vực quản lý xuất nhập khẩu có những sơ hở tiêu cực, một số trường hợp đã gây ra tác động xuất đối với sản xuất. Chế độ phân phối thu nhập còn bất hợp lý, vẫn còn hiện tượng bội chi Ngân sách và Nhập siêu... đang là trở ngại cho đổi mới và phát triển kinh tế. Tại hội thảo về khoa học về kinh tế thị trường Hội đồng lý luận Trung ương nhận định rằng: “Chúng ta đã chuyển đổi một bước quan trong sang kinh tế thị trường nhưng chưa kết thúc bước chuyển đó. Do vậy còn đan xen những yếu tố của nền kinh tế chuyển đổi. Những yếu tố của nền kinh tế thị trường văn minh còn ít hơn những yếu tố sơ khai”.
2- Mục tiêu phấn đấu:
- Chủ trương đến năm 2005 chúng ta hình thành một bước thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Đến năm 2010 đưa nước ta ra khỏi tình trạng một nước nghèo và chậm phát triển.
- Phấn đấu đến năm 2020 thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành cơ bản.
* Mục tiêu xã hội chủ nghĩa:
Xã hội chủ nghĩa với mục tiêu là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người mới đem lại độc lập tự do, ấm no hạnh phúc cho mọi người. Hồ Chí Minh đã định nghĩa: “Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”.
“Chủ nghĩa xã hội là mọi người dân được áo ấm cơm no, nhà ở tử tế, được học hành”.
“Chủ nghĩa xã hội nghĩa là tất cả mọi người các dân tộc ngày càng ấm no, con cháu chúng ta ngày càng sung sướng”
“Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân và do nhân dân tự xây dựng lấy”
3- Những giải pháp để thực hiện mục tiêu:
- Đẩy mạnh phân công lao động xã hội – cơ sở của kinh tế thị trường trong từng cơ sở kinh tế, từng địa phương, trong cả nước và tiến tới sự hợp tác phân công quốc tế. Sự phân công này diễn ra theo một tính quy luật: Tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm, tỷ trọng lao động công nghiệp tăng, tỷ trọng lao động dịch vụ tăng.
- Thực hiện đa dạng hóa quan hệ sở hữu để tạo ra sự tách biệt nhất định về kinh tế – cơ sở của kinh tế thị trường. Trên cơ sở đó sử dụng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần nhằm khai thác mọi tiềm năng (vốn, kỹ thuật, công nghệ, sức lao động và kinh nghiệm quản lý) để thúc đẩy kinh tế thị trường tăng trưởng và phát triển.
- Phải đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa để trang bị kỹ thuật công nghệ hiện đại cho nền kinh tế, khắc phục sự lạc hậu.
- Hình thái và phát triển đồng bộ các loại thị trường. Đó là thị trường hàng hóa và dịch vụ vừa phải phân công lại lao động, vừa đổi mới cơ cấu kinh tế, phát triển thị trường hàng hóa sức lao động, thị trường vốn, thị trường khoa học và công nghệ, phát triển một thị trường tài chính lành mạnh, thị trường bất động sản.
- Nâng cấp cơ sở hạ tầng theo Mác: Giao thông phát triển đến đâu thì thị trường và thương mại phát triển đến đó.
- Mở rộng, nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại để tranh thủ những nguồn lực ở bên ngoàI (vốn, công nghệ và quản lý) để khai thác tốt những nguồn lực ở bên trong thực tiễn đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại.
- Tăng cường và đổi mới việc quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước phải làm tốt chức năng luật pháp:
+ Xây dựng một hệ thống luật pháp hòan chỉnh.
+ Thực tiễn chức năng hành pháp, tư pháp.
+ Đổi mới thủ tục hành chính.
+ Nhà nước thực hiện tốt các chức năng quản lý kinh tế và sử dụng tốt các công cụ quản lý kinh tế như kế hoạch hóa, chính sách tài chính, chính sách tiền tệ để quản lý nền kinh tế thị trường.
D- Kết luận
Kinh tế thị trường là một kiểu quan hệ kinh tế xã hội mà trong sản xuất và tái sản xuất xã hội gắn chặt với thị trường tức là gắn chặt với quan hệ hàng hóa – tiền tệ với quan hệ cung cầu. Trong nền kinh tế thị trường nếu biểu hiện có tính chất bề mặt của đời sống kinh tế xã hội là quan hệ hàng hóa mọi hoạt động của xã hội đều phải tính đến quan hệ hàng hóa hay ít nhất cũng phải sử dụng các quan hệ hàng hóa như là một khâu trung gian. Cơ chế thị trường, một tất yếu cấu thành của cơ chế dân chủ. Xét theo nghĩa rộng là cơ chế trực tiếp tác động đến sự hình thành con người mới ở nước ta hiện nay. Cơ chế thị trường giả định một thị trường sức lao động tự do của mỗi cá nhân (điều mà cơ chế tập trung quan liêu bao cấp không phát huy được) khi xưa lao động trở thành hàng hóa thì tài sản giá trị, quyền tự do của mỗi cá nhân trước hết được thể hiện ở chỗ người được làm chủ sức lao động của mình, tự do bám theo giá cả thị trường. Theo nghĩa rộng, cơ chế thị trường khiến cho mỗi cá nhân dần dần trở thành người chủ trước hết của sức lao động của minh trong đó có tài sản tự có hay do kế thừa. Mọi người đều phải tích cực lao động vì lời ích của mỗi cá nhân và của xã hội, chủ động phát huy tính sáng tạo, tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc từ đó quan hệ sản xuất phát triển tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến một nền kinh tế phát triển.
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35813.doc