Đề tài Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam

Đổi mới thể chế và thủ tục hành chính, tập trung trước hết vào xoá bỏ những quy định mang nặng tính hành chính quan liêu, bao cấp, gây phiền hà, sách nhiễu doanh nghiệp và nhân dân, kìm hãm sự phát triển lực lượng sản xuất. Xây dựng và thực hiện chương trình đổi mới thể chế trong từng năm, bảo đảm các văn bản pháp quy có nội dung đúng đắn, nhất quán, khả thi. Chỉ đạo sát từ khâu soạn thảo, thông qua đến phổ biến, thực hiện và tổng kết. Công khai hóa các nội dung và cơ chế, phương thức giám sát của cơ quan chức năng, các đoàn thể quần chúng và nhân dân về thực hiện pháp luật, chính sách, chế độ của nhà nước. Minh bạch và công khai các thông tin, các quy định của Nhà nước, nghiêm túc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở nhằm đẩy lùi những hiện tượng tham nhũng, tiêu cực. Thực hiện phân cấp mạnh và toàn diện giữa các cấp trong hệ thống hành chính nhà nước trên cơ sở gắn trách nhiệm với quyền hạn, nghĩa vụ với quyền lợi. Hiện đại hóa hệ thống thông tin, các phương tiện quản lý hiện đại, báo cáo đáng tin cậy và nhanh nhạy giữa các cơ quan và giữa các cấp. Tăng cường chế độ giám sát, kiểm tra việc thực hiện các chính sách, cơ chế đã được ban hành. Cải cách hành chính và tạo lập một khuôn khổ pháp lý mới có khả năng thúc đẩy mọi khả năng sáng tạo, làm cho sản xuất "bung ra", đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh các doanh nghiệp mới, doanh nghiệp tri thức, phù hợp với xu thế toàn cầu hoá mà nước ta đang trong quá trình hội nhập. Điều này được thực hiện trên cơ sở xác định đúng đắn vai trò quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước không trực tiếp làm kinh tế nhưng vai trò của nhà nước trong việc định hướng, tạo môi trường, tạo điều kiện và thúc đẩy sự phát triển, thể hiện trong chính sách của nhà nước, trong hệ thống luật pháp là yếu tố quyết định nhất đối với việc tiến nhanh vào kinh tế tri thức.

doc43 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1386 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hàng nghìn máy để liên lạc với nhau thì lúc đó mới có giá trị. Mạng cũng vậy, có nhiều người vào cùng sử dụng thì lúc ấy nó mới có giá trị. 6. Kinh tế tri thức tạo ra quan niệm mới về thị trường Kinh tế tri thức là nền kinh tế được sinh ra và phát triển trong điều kiện kinh tế thị trường nhưng nó có tác động ngược trở lại đối với kinh tế thị trường dẫn đến sự thay đổi kinh tế thị trường. Cùng với sự phát triển của kinh tế tri thức, kinh tế thị trường ngày càng phát triển sâu sắc hơn. Kinh tế mạng đã trở thành đặc trưng mới của thị trường, thương mại điện tử phát triển sẽ hình thành một cuộc cách mạng nữa trong lòng kinh tế thị trường, điều chỉnh vĩ mô trở nên cần thiết, các công ty xuyên quốc gia ngày càng phát triển và đã hình thành cục diện cạnh tranh mới. Các doanh nghiệp vừa cạnh tranh vừa hợp tác để phát triển. Trong một lĩnh vực khi một công ty thành công hơn, lớn mạnh hơn thì công ty khác tìm cách sáp nhập vào hoặc chuyển hướng khác ngay, nếu không muốn bị phá sản. Trong nền kinh tế tri thức vì nảy sinh nhiều công nghệ mới cho nên luôn luôn xuất hiện nhiều công ty mới, sự ra đời của công ty gắn với sự ra đời của một công nghệ mới, một sáng chế mới. Các công ty phải luôn luôn đổi mới và phải kịp thời chuyển hướng theo sự phát triển của công nghệ. Để tăng sức mạnh các công ty phải hợp tác với nhau, phải "mua" nhau để thành công ty lớn. Gần đây ta thấy rất nhiều các công ty khổng lồ hàng chục, hàng trăm tỷ USD "mua" nhau, trở thành những tập đoàn chi phối cả thế giới. Người ta lo ngại sự tập trung này dẫn tới độc quyền thủ tiêu cạnh tranh. Mặt khác công ty khổng lồ chia ra các công ty con trên khắp thế giới và các công ty con được quyền chủ động hơn để có thể linh hoạt, thích nghi với sự đổi mới. Cho nên mua, bán để hợp nhất thành những công ty khổng lồ mà thực tế thì lại là sự chia nhỏ. Cuộc chiến tranh kinh tế này đã làm cho một số công ty có doanh số khổng lồ, đôi khi vượt cả tổng thu nhập quốc dân của một số nước phát triển. Chẳng hạn, công ty General Motors đã có doanh số lớn hơn GDP của Đan Mạch, doanh số của công ty Toyota lớn hơn GDP của Bồ Đào Nha và công ty Exon-Mobil thì đã có tổng thu nhập vượt GDP của nước áo. Những nguồn tài chính mà các công ty hiện có thường vượt quá ngân sách thu nhập của nhiều nước trên thế giới, kể cả các nước phát triển. Đây cũng chính là một xu thế mới trong nền kinh tế tri thức. 7. Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế toàn cầu hóa Thị trường và sản phẩm mang tính toàn cầu, một sản phẩm sản xuất ở bất kỳ nơi nào cũng có thể nhanh chóng có mặt khắp nơi trên thế giới; rất ít sản phẩm do một nước làm ra, mà phần lớn là kết quả của sự tập hợp các phần việc được thực hiện từ nhiều nơi trên thế giới, kết quả của công ty ảo, xí nghiệp ảo, làm việc từ xa… Quá trình toàn cầu hóa cũng là quá trình chuyển sang nền kinh tế tri thức, toàn cầu hóa và kinh tế tri thức thúc đẩy nhau, gắn quyện với nhau, là hai anh em sinh đôi của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Toàn cầu hóa một mặt tạo thuận lợi cho sự phát triển nhanh kinh tế tri thức ở các nước, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức rủi ro. Cho tới nay thì khoảng cách giàu nghèo đang tăng nhanh, do chênh lệch nhiều về tri thức, nếu rút ngắn được khoảng cách về tri thức thì sẽ thu hẹp được khoảng cách giàu nghèo. III. Nền kinh tế tri thức trong tương lai Ta đã nói đến những tiến triển của vai trò tri thức trong quá trình phát triển kinh tế xã hội loài người, và sự chuyển biến hiện nay sang một nền kinh tế và xã hội mà thông tin và tri thức là nguồn lực có vị trí chủ đạo. Nhưng nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức mới ở bước đầu khẳng định sự hiện hữu. Trong tương lai, nền kinh tế đó, xã hội đó sẽ có hình thù như thế nào, khó mà tiên đoán được đầy đủ, nhất là trong một môi trường kinh tế xã hội càng ngày càng lắm đổi thay và biến động. Tuy nhiên, dù không vẽ một bức tranh tương lai để ngắm, thì con người vẫn phải dự tính chuẩn bị cho những yêu cầu của các dự tính đó. Mà nói cho cùng thì tương lai sẽ ra sao chính là phụ thuộc vào những dự tính ngắn hạn cùng những thành công và thất bại của những dự tính đó. Trên ý nghĩa đó, khắp thế giới, từ các nước phát triển như Mỹ, Nhật, Tây Âu, đến các nước đang phát triển, đều tùy theo trình độ phát triển mà có những chính sách, biện pháp nhằm xây dựng cơ sở cho nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức của mình. Các chính sách và biện pháp nhằm tích cực chuẩn bị cho việc phát triển nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức ở các nước tuy có những điểm khác nhau tùy thuộc vào trình độ phát triển của mình, nhưng cũng có nhiều điểm chung có thể xem như những yêu cầu cơ bản của kinh tế và xã hội tri thức, đó là: xây dựng một kết cấu hạ tầng thông tin vững chắc và phong phú trên cơ sở phát triển mạng các xa lộ thông tin và tham gia Internet; phát triển một văn hóa kinh doanh mới dựa trên công nghệ thông tin và tri thức để tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; đào tạo lại lao động và tạo việc làm; cải tổ hệ thống giáo dục và phổ cập việc học, học liên tục, học suốt đời cho mọi người; phát triển các ngành công nghiệp nội dung; đẩy mạnh và liên tục cải cách tổ chức… Trong chính sách của nhiều nước, cũng đã đề cập đến vai trò quan trọng có tính chất đi đầu và nêu gương của các cơ quan nhà nước và khu vực công cộng trong quá trình chuyển biến sang một xã hội tri thức. Thông tin và tri thức có thể mang lại những "tỷ suất lợi nhuận tăng" cho các ngành kinh tế tri thức, và đồng thời với tính năng động, dễ đổi thay và biến động của mình, chúng cũng có thể mang lại nhiều đổi thay và biến động cho đời sống kinh tế. "Tài chính hóa " kinh tế rồi tiếp thêm "tri thức hóa" kinh tế, nền kinh tế thị trường tiếp nhận liên tiếp những tác nhân chủ đạo dễ gây những thay đổi và biến động, làm cho nền kinh tế và xã hội từ nay càng trở nên có nhiều khả năng biến động hơn, có nhiều tính bất định hơn. Phát triển và tiến bộ không ngừng trong bất định và biến động liên tiếp, phải chăng đó là một xu thế của kinh tế xã hội trong hiện tại và tương lai? Con đường tiến đến kinh tế thông tin và xã hội tri thức tất nhiên không phải toàn những điều tốt đẹp. Nhiều vấn đề xã hội mới sẽ nảy sinh, nhiều mâu thuẫn trong nội bộ từng quốc gia và trong quan hệ quốc tế sẽ đòi hỏi được giải quyết. Xã hội tri thức hy vọng sẽ mang lại lợi ích cho tất cả mọi người, nhưng chắc không thể cho mọi người những năng lực ngang nhau. Hiện nay ở nhiều nước phát triển, lực lượng lao động trong các khu vực sản xuất công nghiệp và nông nghiệp chỉ còn dưới 30%, còn hơn 70% là trong các khu vực thông tin và dịch vụ. Có thể hình dung tương lai, đại đa số lao động xã hội sẽ làm việc trong hai khu vực thông tin và dịch vụ.Tính chất tri thức trong hai loại lao động đó có khác nhau và từ đó có nảy sinh những xung đột mới giữa các giai tầng khác nhau của xã hội. Con đường tiến đến kinh tế tri thức và xã hội tri thức cũng không phải đồng đều cho mọi nước. Các nước chậm phát triển có thể dễ mua được máy vi tính rẻ tiền nhưng làm sao có thể mau chóng có năng lực và trình độ nhảy vọt, vượt qua giai đoạn? Các nước phát triển thúc giục toàn cầu hóa thương mại, nhưng toàn cầu hóa trong khi quá chênh lệch trình độ phải chăng sẽ dẫn đến một tình trạng bất bình đẳng trầm trọng mới. Nhiều nhà khoa học, kinh tế và xã hội đã đề xuất kiến nghị cần xem xét việc thiết lập những quan hệ toàn cầu về xã hội song song với quá trình toàn cầu hóa kinh tế, nhưng quan hệ như thế nào là công bằng và cơ chế nào buộc được mọi nước phải chấp nhận? Trong những năm đầu thế kỷ XXI sẽ có những nước phát triển hoàn thành việc xây dựng cơ sở thông tin quốc gia, khu vực và toàn cầu để chuyển dịch sang xã hội thông tin và kể từ đó trở đi kỷ nguyên thông tin sẽ chính thức bắt đầu. Chương iii: Nền kinh tế tri thức với công cuộc Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa nước ta I. Thời cơ và thách thức Việt Nam là nước đang phát triển có lực lượng sản xuất ở trình độ thấp, nên kinh tế tri thức đối với Việt Nam là khái niệm hoàn toàn mới mẻ. Do vậy, có ý kiến cho rằng kinh tế tri thức đối với Việt Nam hiện nay quá xa vời và không hiện thực; cho rằng Việt Nam phải xây dựng xong Công nghiệp hóa, hiện đại hóa để làm tiền đề cho kinh tế tri thức ra đời và phát triển. Tuy nhiên, kinh tế tri thức không chỉ bao gồm các ngành mới xuất hiện dựa trên công nghệ cao, mà còn cả các ngành truyền thống được cải tạo bằng khoa học công nghệ cao. Do đó, không nên chờ đến khi sự nghiệp Công nghiệp hóa, hiện đại hóa kết thúc mới tiến hành xây dựng kinh tế tri thức, mà ngay trong giai đoạn này, để phát triển nhanh và theo kịp các nước trên thế giới chúng ta phải đồng thời quan tâm tới nền kinh tế tri thức trên những lĩnh vực mà chúng ta có thể tiếp cận. Đối với Việt Nam, một đất nước nông nghiệp, rõ ràng chúng ta không thể xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức như các nước công nghiệp phát triển. Vậy cách tiếp cận kinh tế tri thức ở Việt Nam là gì? Thực ra đó là sự tiếp tục của quá trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ở một trình độ cao hơn dựa trên chất xám của con người. Mặt khác do xuất phát điểm của lực lượng sản xuất của ta thấp, mà tiếp cận kinh tế tri thức ở Việt Nam phải phù hợp với điều kiện của Việt Nam, tức là phải mang những đặc thù của mình. Do đó việc xác định nội dung các ngành kinh tế trong quá trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa chuẩn bị các diều kiện vật chất và con người để tiếp cận kinh tế tri thưc trở thành nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của mọi cấp, mọi ngành, nhất là các cấp hoạch định chiến lược. Đại hội Đảng lần thứ IX đã xác định nhiệm vụ trung tâm của những năm đầu thế kỷ XXI là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đại hội khẳng định: "Con đường Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam; coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh: có mức tích lũy ngày càng cao từ nội bộ nền kinh tế; có cơ cấu kinh tế hợp lý, có sức cạnh tranh; kết cấu hạ tầng ngày càng hoàn thiện và có một số ngành công nghiệp nặng then chốt; có năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ; giữ vững ổn định kinh tế -tài chính vĩ mô; bảo đảm an ninh lương thực, an toàn năng lượng, tài chính, môi trường… Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước. Phát triển kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa… Tạo thêm sức mạnh của thị trường trong nước và mở rộng thị trường ngoài nước, đẩy mạnh xuất khẩu." Nhiệm vụ tổng quát của Công nghiệp hóa, hiện đại hoá nêu trên được xây dựng trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc về những điểm xuất phát mới ở trong nước (những thành tựu vượt bậc của thời kỳ đổi mới đã căn bản hoàn thành nhiệm vụ tạo lập tiền đề cho công cuộc công nghiệp hóa cùng những mặt yếu kém còn tồn tại) và tình hình quốc tế mới với những xu thế nổi bật là sự hình thành nền kinh tế tri thức, xu hướng toàn cầu hóa gia tăng và khu vực Châu á -Thái Bình Dương vẫn tiếp tục duy trì được sự tăng trưởng năng động. 1. Thời cơ Chúng ta không thể rập khuôn theo mô hình công nghiệp hóa mà các nước đi trước đã đi. Cũng không nên hiểu công nghiệp hoá chủ yếu là xây dựng công nghiệp, mà phải hiểu đây là sự chuyển nền kinh tế từ tình trạng lạc hậu, năng suất chất lượng, hiệu quả thấp, dựa vào phương pháp sản xuất nông nghiệp, lao động thủ công là chính sang nền kinh tế có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, theo phương pháp sản xuất công nghiệp, dựa vào tiến bộ khoa học và công nghệ mới nhất vì vậy công nghiệp hóa phải đi đôi với hiện đại hóa. Như vậy kinh tế tri thức là vận hội ngàn vàng để ta đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Nước ta không thể chần chừ, bỏ lỡ cơ hội lớn, mà phải đi thẳng vào nền kinh tế tri thức để rút ngắn khoảng cách với các nước khác; cho nên công nghiệp hóa ở nước ta phải đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ cực kỳ lớn lao: chuyển biến từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và từ kinh tế công nghiệp chuyển sang kinh tế tri thức. Hai nhiệm vụ ấy phải thực hiện đồng thời, lồng ghép vào nhau, hỗ trợ nhau, bổ sung cho nhau; điều đó có nghĩa là phải nắm bắt các tri thức và công nghệ mới nhất của thời đại để hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, đồng thời phát triển nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ dựa vào tri thức, vào khoa học và công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành kinh tế tri thức. Không thể chờ công nghiệp hóa hoàn thành cơ bản rồi mới chuyển sang kinh tế tri thức như các nước đi trước đã phải trải qua. Đây là lợi thế các nước đi sau. Kinh tế tri thức là nền kinh tế toàn cầu hóa, nhờ đó nước ta có thể tận hưởng nhiều thành quả khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm của thế giới mà không cần phải làm tất cả từ đầu. Bất cứ ai cũng có thể nhận được tri thức và thông tin từ mạng Internet -một kho tàng tri thức khổng lồ được cập nhập hàng ngày. Đây là cơ hội sử dụng công nghệ thông tin để nâng cấp nhanh chóng thực lực cạnh tranh, hiệu năng quản lý và quy mô thâm nhập thị trường. Các công ty dù to hay nhỏ, có thể truy nhập nguồn cung cấp thiết bị và nguyên liệu đầu vào từ mọi nguồn trên thế giới và nắm bắt được một cách nhanh chóng, thậm chí liên tục ý kiến và nhu cầu của khách hàng. Trong điều kiện này, công ty nào có năng lực quản lý nhạy bén và chiến lược phát triển tốt sẽ giành được lợi thế cạnh tranh và cơ hội phát triển nhanh chóng. Công nghệ thông tin cho phép cất giữ, lưu chuyển và truy cập thông tin trên quy mô lớn, tốc độ gần như tức thời và chi phí rất thấp. Đây là cơ hội tiềm tàng cho việc xúc tiến giáo dục, nâng cao dân trí. Thông qua một trang web, chúng ta có thể giúp cho hàng chục ngàn lãnh đạo các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhanh chóng nắm bắt được kiến thức quản lý hiện đại trong một thời gian rất ngắn và liên tục được cập nhập về thông tin thị trường ở những khu vực cạnh tranh then chốt nhất. Cũng thông qua một trang web, chúng ta có thể giúp các em học sinh, dù ở Lạng Sơn hay Hà Tiên, ôn thi đại học với cùng chất lượng như ở các thành phố lớn, ngay tại địa phương của mình. Học tập và tham vấn từ xa là những phương thức cực kỳ hiệu quả, là một nội dung đặc biệt cấp bách để nguồn lực trí tuệ của nước ta được nâng cấp mau chóng tới ngang tầm khu vực và quốc tế. Chính phủ điện tử cho phép chính quyền các cấp, từ trung ương đến địa phương thực sự gần gũi với người dân. Người dân có thể tra cứu mọi pháp luật, chủ trương và quyết sách của các cấp chính quyền. Các cấp chính quyền, qua trang web của mình có thể nhanh chóng tổng hợp được ý kiến và nguyện vọng của người dân, làm cơ sở hoạch định cho các dự án đầu tư và chương trình công tác. Ngoài ra công nghệ thông tin còn mở ra thị trường với khả năng tạo bước phát triển nhảy vọt trong các ngành công nghiệp gắn với công nghệ thông tin. Một ví dụ điển hình là sự vượt lên xuất sắc của ngành công nghiệp phần mềm ấn Độ: ra đời đầu những năm 80, xuất khẩu đạt 6 triệu USD năm 1985, 50 triệu USD năm 1991, 734 triệu USD năm 1995, 6,2 tỷ năm 2000 và dự kiến năm 2008 là 50 tỷ USD. Số lượng các công ty phần mềm tham gia xuất khẩu đã tăng từ một vài công ty năm 1985 lên 3000 công ty năm 2000. Giám đốc công ty phần mềm Satyam (ấn Độ), một nhà tỷ phú mới nổi lên trong ngành công nghiệp này cho rằng: " Chỉ cần giành được 5% cơ hội thị trường trong lĩnh vực thông tin, ấn Độ có thể tạo ra 50 triệu việc làm sung túc trong 20 năm tới và điều này sẽ giúp ấn Độ vượt lên trở thành một quốc gia hạng trung lưu vững vàng". Thị trường phần cứng cũng không kém phần sôi động. Xuất khẩu hàng điện tử (chủ yếu là máy tính và thiết bị thông tin) của Philipine tăng rất nhanh, từ 2 tỷ USD năm 1991 lên 22 tỷ USD năm 2000 (chiếm 60% tổng kim ngạch xuất khẩu) và dự kiến đạt 47 tỷ năm 2004. Các cơ hội xuất khẩu dịch vụ từ xa dựa trên Internet cũng rất lớn với thị trường ước tính đạt tới 148 tỷ USD năm 2008. Nhiều nội dung dịch vụ (như xử lý dữ liệu, tra cứu) được chuyển qua mạng từ các nước phát triển sang thực hiện ở các nước có chi phí lao động thấp hơn. Hàng loạt công ty dotcom (công ty cung ứng hàng hóa và dịch vụ dựa trên trang web) vào cuộc với ý tưởng kinh doanhphong phú và nhiều công ty đang phát triển nhanh chóng. Chẳng hạn công ty Alibaba.com do một giáo viên tiếng Anh của Trung Quốc lập ra để giúp cho các công ty Trung Quốc và thế giới giao dịch mua bán đã nhanh chóng thu hút được trên 200.000 công ty tham gia, trong đó có 50.000 công ty của Trung Quốc. Một dịch vụ mà Việt Nam có thể làm rất tốt là mở một trang web phụ đạo về toán cho các học sinh phổ thông trên phạm vi toàn cầu. Với dịch vụ này, một nhóm khoảng vài trăm giáo viên và sinh viên ngành toán có thể tạo nên doanh số xuất khẩu hàng chục triệu đô la với một ảnh hưởng xã hội sâu sắc mà nhiều lĩnh vực xuất khẩu khác không thể tạo ra được. Tận dụng và khai thác triệt để cơ hội này đòi hỏi tiềm năng trí tuệ, tính nhạy bén chiến lược và khả năng hội nhập quốc tế của mỗi quốc gia. Ai-len, israel. Singapore, Hungari, ấn Độ, Trung Quốc, hiện đang là những quốc gia nổi bật nhất trong các nước đang phát triển trong cuộc đua tranh này. 2. Thách thức Việc một số nước phát triển sớm tiến sang xây dựng kinh tế tri thức đã đặt các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam trước nhiều bất lợi: Ưu thế giàu tài nguyên và sức lao động bị giảm rõ rệt do đó làm giảm thu nhập quốc dân (giá nhiều loại nguyên liệu, nông hải sản gần đây giảm mạnh); để "dọn chỗ" xây dựng các ngành công nghệ cao, nhiều nước giàu đẩy dần công nghiệp chế tạo, trước hết là loại gây ô nhiễm (hóa chất, xi măng…) hoặc tốn năng lượng hoặc cần nhiều sức lao động (dệt may…) sang các nước đang phát triển dưới hình thức đầu tư khiến cho nước nhận đầu tư phải chịu nạn ô nhiễm và khi khủng hoảng sản xuất thừa (như khủng hoảng Châu á vừa qua) thì phải hứng chịu nhiều rối loạn kinh tế, tài chính, thậm chí xã hội, chính trị, khiến kinh tế tụt lại nhiều năm; các đang phát triển lệ thuộc vào vốn và kỹ thuật của nước ngoài, do đó độc lập kinh tế và có thể độc lập chính trị bị xói mòn, trật tự quốc tế trở nên có lợi cho các nước giàu; làm tăng lượng chảy máu chất xám sang các nước phát triển làm cho các nước đang phát triển lại càng nghèo hơn vì nghèo tri thức là nguồn gốc của mọi thứ nghèo. Các nước phát triển có nhiều chính sách thu hút nhân tài khắp thế giới. Cách đây không lâu Mỹ đã sửa đổi Luật nhập cư, bỏ thêm tiền để tăng 8% số lượng chuyên gia nước ngoài hàng năm vào Mỹ định cư. Theo tờ Financial Times, một trong những lý do các công ty đa quốc gia lập cơ sở nghiên cứu triển khai khoa học kỹ thuật ở nước ngoài là để khai thác nhân tài bản xứ. Ví dụ các công ty Mỹ thiếu khoảng 190 nghìn kỹ sư phần mềm, để giải quyết khó khăn đó họ đã mở nhiều chi nhánh ở ấn Độ để thuê các chuyên viên phần mềm bản xứ với giá rẻ hơn rất nhiều thuê chuyên viên Mỹ. Trước những năm 80 của thế kỷ trước, Việt Nam đã đưa điều khiển học vào điều khiển một số quá trình sản xuất ở nhà máy Len nhuộm Hà Đông, Nhiệt điện Phả Lại. Những năm gần đây công nghệ thông tin được áp dụng trong bưu chính viễn thông, hàng không dân dụng, điều chỉnh hệ thống điện quốc gia… Hiện nay nước ta đang nghiên cứu tìm mọi biện pháp khắc phục khó khăn, tích cực vạch ra chiến lược tranh thủ tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức để xây dựng nền kinh tế tri thức ở Việt Nam phát huy tác động mạnh mẽ như bản chất của nó. Với nhận thức kinh tế tri thức là cơ hội quý báu để Việt Nam đẩy nhanh Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm rút ngắn khoảng cách với các nước. Đại hội Đảng lần thứ IX đã quyết định phải đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa để đến khoảng năm 2020 nước ta về cơ bản trở thành nước công nghiệp nhưng trong thời gian hai thập kỷ ấy kinh tế thế giới sẽ có những biến động to lớn không lường trước được theo chiều hướng chuyển mạnh sang nền kinh tế tri thức, tốc độ tăng trưởng kinh tế rất cao, khoảng cách giữa các nước giàu và các nước nghèo có thể sẽ còn tiếp tục gia tăng. Cạnh tranh quốc tế đã trở nên hết sức gay gắt. Trung Quốc và ấn Độ với chi phí lao động rất thấp và nguồn trí lực dồi dào đã thực sự vào cuộc với quyết tâm rất cao là giành vị thế xứng đáng trong nửa đầu thế kỷ XXI. Chúng ta với dân số gần 80 triệu người nhưng đuổi kịp các quốc gia tiên tiến là một thách thức không đễ gì vượt qua được. Bên cạnh đó, hầu hết các nước trong khu vực đều có chương trình đầu tư và phát triển ồ ạt trong công nghệ thông tin với tầm nhìn của thế kỷ XXI. Hàn Quốc với chương trình "Cyber Korea 21" đầu tư vào mạng lưới xa lộ thông tin cáp quang, cung cấp máy vi tính và Internet rộng khắp cho các trường phổ thông, xây dựng kho dữ liệu và tri thức điện tử. Hàn Quốc coi đây là một động lực then chốt đảm bảo cho việc trở thành một trong mười nền kinh tế hàng đầu thế giới. Đài Loan với kế hoạch phát triển "NII" (National Information Infrastructure), nghĩa là hạ tầng thông tin quốc gia với các dự án đầu tư rất lớn từ hạ tầng cơ sở đến cải cách môi trường pháp lý để kích thích tối đa sức phát triển và đóng góp của công nghệ thông tin vào công cuộc cạnh tranh phát triển. Malayxia với chương trình công nghệ quốc gia NITA, khởi động từ năm 1996 với quyết tâm biến nước này thành một nền kinh tế tri thức vào năm 2020. Philippine đưa ra chương trình hành động " IT 21" với mục tiêu trở thành một trung tâm tri thức của khu vực và đầu mối thu hút các tập đoàn đa quốc gia về công nghệ thông tin ở Châu á. Chương trình công nghệ thông tin quốc gia của Thái Lan dựa trên 3 trụ cột: Hạ tầng thông tin, nguồn nhân lực với các chương trình School.net và IT- For education nhằm đầu tư và trang bị rộng khắp máy vi tính và nối kết với Internet cho các trường phổ thông; quản trị, chính phủ điện tử được triển khai sâu rộng và hệ thống pháp lý yểm trợ cho nền kinh tế tri thức được khẩn trương xây dựng. Về ngành công nghiệp phần mềm, lĩnh vực mà chúng ta đang có kỳ vọng lớn, cuộc cạnh tranh cũng đang diễn ra gay gắt. Trong số các quốc gia xuất khẩu phần mềm chủ lực (trừ Mỹ), Hungari, ấn Độ, Philippine và Trung Quốc có lợi thế cạnh tranh về giá thấp; Ai -len, isareal, Singapore và ấn Độ có lợi thế cạnh tranh về chất lượng và trình độ tinh xảo cao của sản phẩm. Việt Nam sẽ vào cuộc dựa trên lợi thế chủ yếu nào? Bài toán giành lợi thế dựa trên giá thành thấp không phải là dễ dàng. Đội ngũ chuyên viên phần mềm của ta hiện còn rất nhỏ chưa đủ khối lượng tới hạn cho một sức phát triển mạnh mẽ từ nội tại với những cơ hội thành công lớn; do đó những chuyên gia giỏi dễ bị thu hút bởi các cơ hội tốt hơn ở nước ngoài nếu không được trả lương cao. Bài toàn giành lợi thế dựa trên sản phẩm chuyên dụng và chất lượng cao lại càng khó khăn. Đội ngũ của ta sẽ gặp nhiều khó khăn trong phát triển các sản phẩm phần mềm trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế thị trường như: tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, y tế, khoa học quản lý là những ngành chưa thực sự phát triển ở Việt Nam. Nhờ nỗ lực đầu tư chung trong cả nước, đặc biệt là đóng góp quan trọng của ngành bưu chính viễn thông, vị thế so sánh của nước ta trong hạ tầng cơ sở thông tin được cải thiện một bước quan trọng, mằc dù ở vị thế khiêm nhường, chúng ta nay có thể so sánh với ấn Độ, Inđônêxia và Philippine về chỉ số sử dụng điện thoại và máy vi tính. Tuy nhiên trong bức tranh tổng thể, vị thế cạnh tranh của nước ta còn rất yếu. Mức độ thâm nhập của Internet vào cuộc sống người dân ở nước ta còn quá thấp, chỉ xấp xỉ Mông Cổ hoặc Ăng-gô-la (khoảng 1 người sử dụng Internet trong 1000 dân), là mức thuộc loại thấp nhất thế giới. Trung Quốc có tỷ lệ thâm nhập của Internet vào xã hội cao gấp 10 lần nước ta, với trên 20 triệu người sử dụng Internet và gần 30.000 trang web. Hầu hết các nước, kể cả ở Châu Phi và Châu Mỹ La tinh đang cố gắng tạo nên môi trường sôi động cho phát triển và sử dụng Internet vào cuộc sống. Giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học có ý nghĩa cực kỳ then chốt trong sử dụng sức bật của nền kinh tế tri thức. Tỷ lệ học sinh vào đại học so với cùng lứa tuổi của nước ta tăng từ 3% năm 1990 lên 6% năm 2000 nhưng vẫn còn thấp. Một vấn đề nghiêm trọng hơn là chất lượng giáo dục đại học của nước ta nói chung rất thấp, bằng cấp nhiều khi không còn phản ánh trung thực trình độ học vấn và khả năng làm việc. Điều đáng suy nghĩ là chúng ta không có trường Đại học nào trong số 70 trường Đại học tổng hợp và 39 trường Đại học kỹ thuật hàng đầu ở Châu á năm 2000 (theo xếp hạng của tạp chí asia Week). Về xếp hạng mức độ sẵn sàng cho thương mại điện tử trong 60 nước được xem xét năm 2001, Việt Nam xếp thứ 58, chỉ trên có Pakistan và azerbaijan. Điều quan trọng hơn là Việt Nam bị tụt hạng so với năm 2000, trong khi các nước Trung Quốc, ấn Độ, Philippine đều lên hạng. Giám đốc IBM Việt Nam Radne Bryant cho rằng: " Việt Nam đang mau chóng mất đi lợi thế cạnh tranh so với Thái Lan, Malaixia, Singapore, Inđônêxia và Trung Quốc vì những nước này đang bắt nhập mạnh mẽ công nghệ thông tin để thâm nhập thị trường toàn cầu". Điều đáng lo ngại là quy mô đầu tư tiếp tục vào công nghệ thông tin của nước ta còn quá thấp so với áp lực gay gắt của cạnh tranh và đuổi vượt. So về mức chi tiêu cho công nghệ thông tin tính trên 1000 dân trong năm 2000 Thái Lan gấp ta hơn 8 lần, Philipine gấp ta hơn 4 lần, Trung Quốc gấp ta hơn 2 lần. Nhịp độ tăng trưởng kinh tế và đưa ra quyết sách chiến lược của ta chậm hơn nhiều so với Trung Quốc. Mức tăng trưởng GDP hàng năm của Trung Quốc thường xuyên cao hơn ta từ 1,5-2%. Trung Quốc chỉ mất 9 -10 năm để tăng gấp đôi mức GDP bình quân đầu người trong khi chúng ta theo nhịp độ tăng trưởng như hiện nay phải mất 12 -15 năm. Nếu không biết tận dụng cơ hội, nâng cao năng lực nội sinh, đổi mới cách nghĩ, cách làm, bắt kịp tri thức mới của thời đại, đi thẳng vào những ngành kinh tế dựa vào tri thức và công nghệ cao, thực sự đi tắt đón đầu thì sẽ tụt hậu rất xa. II. Kinh tế tri thức với chiến lược phát triển của Việt Nam Chiến lược phát triển của nước ta là chiến lược dựa vào tri thức, nội dung công nghiệp hoá nước ta là vận dụng các yếu tố của kinh tế tri thức Nước ta hiện nay, GDP bình quân đầu người chỉ bằng 1/12 bình quân của thế giới, xếp thứ 180 trong 210 nước, (nếu theo PPP thì thứ 164), thuộc nhóm những nước nghèo nhất, không có cách nào để đuổi kịp các nước về GDP, nhưng phải phấn đấu để nâng cao nhanh chóng trình độ tri thức, tăng cường năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ, nắm bắt và vận dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học, công nghệ mới nhất để hoàn thành thắng lợi công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chúng ta có thế mạnh về tiềm năng con người, chỉ số phát triển con người (HDI) nước ta đứng thứ 110 và thuộc nhóm nước trung bình của thế giới. Thực tế đã chứng minh người Việt Nam nắm bắt và làm chủ nhanh các tri thức mới và các công nghệ hiện đại. Nhiều ngành mới xây dựng nhờ sử dụng các công nghệ mới, đã theo kịp trình độ các nước trong khu vực (bưu chính viễn thông, năng lượng, dầu khí, cầu đường....). Cho nên chúng ta cần thực hiện một chính sách phát triển bằng và dựa vào con người và khoa học và công nghệ, như Nghị quyết TƯ2 (khoá VIII) đã chỉ ra. Chiến lược phát triển đất nước ta là chiến lược dựa vào tri thức và thông tin, chiến lược đi tắt, đón đầu với mũi nhọn là công nghệ thông tin. Về công nghệ thông tin, ngành đang là động lực chủ yếu thúc đẩy phát triển nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin, thì người Việt Nam có nhiều khả năng. Những học sinh Việt Nam thi tin học quốc tế đoạt giải rất cao, lực lượng người Việt Nam ở nước ngoài làm tin học khá đông và giữ nhiều vị trí quan trọng. Riêng tại thung lũng Silicon hiện có hơn mười nghìn người làm công nghệ thông tin. Việt Nam cần tập trung phát triển công nghệ thông tin để thúc đẩy phát triển và hiện đại hoá các ngành, các lĩnh vực sản xuất dịch vụ, nâng cao hiệu quả tổ chức và quản lý, đồng thời để phát triển các ngành công nghiệp thông tin là những ngành có giá trị gia tăng cao nhất, những ngành trụ cột trong xã hội tương lai. Công nghệ thông tin trở thành ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển nước ta. Nền kinh tế nước ta phải phát triển theo mô hình hai tốc độ: một mặt phải lo phát triển nông nghiệp, nâng cao năng lực sản xuất những ngành công nghiệp cơ bản, lo giải quyết những nhu cầu cơ bản và bức xúc của người dân; mặt khác đồng thời phải phát triển nhanh những ngành kinh tế dựa vào tri thức và công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin để hiện đại hoá và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, tạo ngành nghề mới, việc làm mới, đạt tốc độ tăng trưởng cao, hội nhập có hiệu quả với nền kinh tế thế giới. Không thể làm đồng loạt, dàn hàng ngang cùng tiến. Trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế chúng ta còn sử dụng các công nghệ truyền thống nhưng được cải tiến bằng các tri thức mới để tạo nhiều việc làm, tận dụng lao động, đất đai tài nguyên, đẩy mạnh công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn, xoá đói giảm nghèo. Trong khi đó phải dành lực lượng thích đáng phát triển các ngành kinh tế sử dụng tri thức và công nghệ tiên tiến nhất. Đã đầu tư xây dựng mới là phải sử dụng công nghệ tiên tiến nhất. Phải nhanh chóng xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, hình thành mạng xa lộ thông tin quốc gia, ứng dụng công nghệ thông tin rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực, phát triển công nghiệp thông tin, nhất là công nghiệp phần mềm, như thế sẽ thúc đẩy phát triển nhanh tất cả các lĩnh vực, dịch chuyển nhanh cơ cấu kinh tế, nâng cao tốc độ tăng trưởng, hiệu quả và chất lượng nền kinh tế. Thực hiện đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, hiện đại hóa những cơ sở sản xuất điện tử đã có, xây dựng một số cơ sở mới để đáp ứng nhu cầu trong nước, giảm dần nhập khẩu và tăng dần xuất khẩu; tăng nhanh tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao. Phát triển các ngành công nghiệp sinh học (các ngành nông nghiệp công nghệ cao, công nghiệp dược phẩm, công nghiệp môi trường). Chú trọng tạo và sử dụng giống cây con có năng suất, chất lượng và giá trị cao. Đưa nhanh công nghệ mới vào sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. ứng dụng công nghệ sạch trong nuôi, trồng và chế biến rau quả, thực phẩm. Hạn chế việc sử dụng hóa chất độc hại trong nông nghiệp. Xây dựng một số khu nông nghiệp công nghệ cao. Tăng cường đội ngũ, nâng cao năng lực và phát huy tác dụng của cán bộ khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. Phát triển các ngành công nghiệp vật liệu mới thay thế những vật liệu đã trở nên khan hiếm trên thế giới. Sử dụng các công nghệ cao để phát triển một số ngành công nghiệp then chốt: chế tạo máy (sử dụng CAD, CAM, tự động hoá),... Các ngành xây dựng, giao thông, năng lượng phải sử dụng công nghệ tiên tiến nhất và đảm bảo hiệu quả đầu tư cao nhất. Trong từng ngành, từng lĩnh vực kinh tế cũng cần chọn những khâu, những đơn vị đi trước, đi thẳng vào công nghệ mới nhất để thúc đẩy sự đổi mới của toàn ngành, toàn lĩnh vực, đã đầu tư mới là phải sử dụng công nghệ mới nhất. Có thể phấn đấu để sau một thập kỷ (đến khoảng 2010) nước ta xây dựng được mạng xa lộ thông tin quốc gia, kết nối với tất cả các trường học, các cơ quan, các xí nghiệp và phần lớn các hộ gia đình, ngành công nghiệp thông tin trở thành một ngành công nghiệp chính, các ngành công nghiệp, dịch vụ tri thức có bước phát triển mạnh, thì đó là bước tiến quan trọng vào nền kinh tế tri thức. Ta đã chủ trương hội nhập vào nền kinh tế thế giới, chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là rất đúng, như vậy phải nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, trên cơ sở phát huy năng lực nội sinh về khoa học công nghệ của Việt Nam, bắt kịp và làm chủ công nghệ hiện đại, đi nhanh đi tắt vào kinh tế tri thức. Không có đủ tri thức, không có khả năng vận dụng những công nghệ mới nhất thì không thể cạnh tranh được, hội nhập chỉ bị thua thiệt và dễ sẽ trở thành bãi thải công nghệ của các nước khác. Ta phải tận dụng cơ sở vật chất hiện có, tận dụng lao động, nhưng đã đầu tư mới thì phải dùng công nghệ mới, tiên tiến nhất; sử dụng cơ sở vật chất hiện có cũng phải với tri thức mới, đến lúc rõ ràng là không có hiệu quả nữa thì phải chuyển sang làm việc khác hoặc bỏ đi. Không thể chọn "công nghệ trung gian"; việc phát triển mía đường, xi măng không hiệu quả như vừa qua đã cho ta bài học. Nhiều nước đã có sẵn một cơ sở vật chất lớn, bây giờ bỏ đi thì rất tiếc. Song nhiều nước cũng đã bỏ hẳn, không thương tiếc. Nước ta cơ sở vật chất không đáng kể, không có gì để luyến tiếc. Nên đi thẳng vào công nghệ mới, qui mô nhỏ, vốn đầu tư không nhiều; đã đầu tư mới là phải công nghệ mới. III. Giải pháp chủ yếu cho một chiến lược kinh tế dựa vào tri thức 1. Đổi mới cơ chế quản lý Luật chơi mới hiện nay là ganh đua, cạnh tranh trí tuệ, nói cách khác, sân chơi mới là kinh tế tri thức. Không thể cạnh tranh nổi trong nền kinh tế toàn cầu hóa nếu không mở được cánh cửa vào kinh tế tri thức. Giải pháp căn bản nhất (đối với nước ta), là phải đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý (thể chế, chính sách, luật pháp, bộ máy, phát huy mọi khả năng sáng tạo của người dân, tạo điều kiện cho mọi người dân, mọi thành phần kinh tế phát huy hết khả năng của mình đóng góp vào phát triển sản xuất. Nhà nước cần phải cải cách bộ phận quản lý tài chính. Cần phải thay đổi cách nhìn, đi sâu tìm những nguyên nhân đã đưa đẩy cả một xã hội vốn rất tốt đến chỗ tham nhũng, dối trá tràn lan khắp mọi cấp, mọi ngành, mọi nơi. Trong khi tiền lương chỉ đủ sống ít ngày, mà lại có biết bao cách khác nhau, trực tiếp và gián tiếp để bổ sung vào nguồn thu nhập còm cõi đó bằng chính từ nguồn công quỹ, thì có trời mà chống được tham nhũng và quan liêu. Nếu không khẩn trương cải cách quản lý tài chính tiền tệ như các nước khác, thì mọi cải cách khác đều khó, mọi cánh cửa vào tri thức đều đóng chặt. Nhà nước quản lý bằng luật pháp, bằng cơ chế chính sách, tạo môi trường thuận lợi cho sự cạnh tranh lành mạnh; chăm lo phúc lợi xã hội, giáo dục, khoa học.... mà không nên can thiệp vào sản xuất kinh doanh; để cho mỗi doanh nghiệp, mỗi người dân phát huy hết quyền chủ động sáng tạo của mình; tránh sự can thiệp vào quyền chủ động của doanh nghiệp làm cho doanh nghiệp mất tính năng động mặt khác tạo ra sự dựa dẫm đùn đẩy trách nhiệm của doanh nghiệp khi cần thiết. Vai trò của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với phát triển khoa học và công nghệ, hướng tới nền kinh tế tri thức. Phải tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, chống độc quyền. Phát huy tối đa quyền chủ động sáng tạo của các doanh nghiệp. Hiện nay trong kinh tế nhà nước chế độ trách nhiệm không rõ, mất mát thua lỗ không ai chịu trách nhiệm. Nếu giao trách nhiệm cho một công ty tự bỏ vốn ra xây dựng rồi khai thác để thu hồi lại vốn thì tình hình sẽ khác hẳn, không hiệu quả thì họ không làm. Phải thực sự giải phóng mọi lực lượng sản xuất, phát huy mọi thành phần kinh tế như các nghị quyết của Đảng đã đề ra. Hiện nay còn nhiều vướng mắc lúng túng trong chính sách, mà chủ yếu là do nhận thức về mối quan hệ giữa cơ chế thị trường và sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa chưa được sáng tỏ. Nhiệm vụ trung tâm hiện nay là phát triển lực lượng sản xuất; phải xây dựng và phát triển quan hệ sản xuất sao cho thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất. Mọi người ai có khả năng góp phần vào sự phát triển sản xuất thì phải được khuyến khích, phải thực sự khuyến khích mọi người làm giàu; nhà nước có chính sách điều tiết thu nhập, chăm lo phúc lợi xã hội, tạo công bằng xã hội, bảo vệ quyền lợi những người yếu thế. 2. Phát triển nguồn nhân lực Kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế phát triển cũng như của các con rồng Châu á cho ta thấy muốn phát triển được ngành kinh tế tri thức phải chăm lo phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài. Trong những năm tới phải tăng mạnh đầu tư để phát triển giáo dục và phải tiến hành một cuộc cải cách giáo dục mới. Đây là yếu tố quyết định nhất thúc đẩy nước ta đi nhanh vào kinh tế tri thức. Phải xây dựng những thế hệ người Việt Nam có bản lĩnh, có lý tưởng, có khả năng sáng tạo, làm chủ được tri thức hiện đại, quyết tâm đưa nước ta lên trình độ phát triển sánh kịp các nước. Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa tiếp cận với kinh tế tri thức phải có nguồn nhân lực chất lượng cao. Để có nguồn nhân lực chất lượng cao trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam cần phải đưa ra những giải pháp tổng thể có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, đặc biệt trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo: - Trước hết phải cải tiến hệ thống giáo dục và đào tạo theo hướng nâng cao chất lượng đào tạo với những quy mô hợp lý phục vụ cho mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội; đảm bảo đủ về số lượng, cơ cấu ngành nghề, chất lượng lao động kỹ thuật cho nhu cầu phát triển các ngành kinh tế quốc dân, nâng cao trình độ học vấn của người lao động tiến theo trình độ của thế giới; cải thiện đời sống và bồi dưỡng năng lực chuyên môn thường xuyên cho thầy, cô giáo để họ có điều kiện toàn tâm toàn ý cho việc dạy học và tham gia các công việc giáo dục và đào tạo; cải cách chế độ thi cử, tuyển chọn, tuyển dụng…, để khắc phục tình trạng học chỉ để thi, học vì bằng cấp, nạn bằng giả, học vị rởm; tổ chức chu đáo việc nghiên cứu cải cách chương trình và nội dung dạy học, biên soạn sách giáo khoa và tài liệu giảng dạy có chất lượng một cách thích hợp ở mọi cấp học; Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin và sử dụng Internet trong giáo dục và đào tạo, trong việc dạy và học, phát triển dần các hình thức tự học…; huy động mọi nguồn lực trong xã hội cho giáo dục và đào tạo, trước hết là tăng ngân sách cho giáo dục và đào tạo. - Tăng cường hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, tranh thủ được kiến thức công nghệ của họ rút ngắn khoảng cách phát triển của mình. -Tăng cường đầu tư cho giáo dục và đào tạo, ngoài ngân sách nhà nước phải thu hút mọi nguồn lực đầu tư nhất là các công ty, cá nhân và sự giúp đỡ từ bên ngoài như các chính phủ, các tổ chức phi chính phủ… - Dự báo được nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao trong vòng 10 -15 năm, bởi muốn có nhân lực chất lượng cao phải mất thời gian đào tạo, ngoài ra còn phải dự báo được cơ cấu ngành nghề đào tạo để tránh tình trạng ngành thì thiếu, ngành thì thừa gây tình trạng lãng phí chất xám, gây tốn kém cho xã hội và cá nhân. Ngoài ra cần chú ý các vấn đề sau đây: - Tạo ra nhiều công ăn việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động, trên cơ sở đó người lao động mới có điều kiện nâng cao trình độ cho mình. - Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phải thường xuyên tiến hành công tác đào tạo và đào tạo lại cho người lao động. - Có chính sách tiền lương hợp lý mới động viên khuyến khích, thu hút được người lao động tự nâng cao trình độ và đem hết khả năng sáng tạo của mình ra phục vụ cho sự nghiệp phát triển của đất nước. 3. Tăng cường năng lực khoa học và công nghệ quốc gia Cùng với việc đẩy mạnh cải cách giáo dục và đào tạo, cần có chính sách trọng dụng nhân tài. Dù theo hướng phát triển nền văn minh công nghiệp kiểu truyền thống, hay nền văn minh công nghiệp có hàm chứa một số yếu tố của văn minh trí tuệ, "nhân tài luôn phải được coi là điểm tựa cho phát triển". Mỗi loại nhân tài trong mỗi lĩnh vực hoạt động, đặc biệt các cán bộ khoa học đầu ngành, cần được bố trí sử dụng theo hướng phát huy được tài năng khoa học, nếu không sẽ dẫn đến sự thui chột, thậm chí biến chất nhân tài. Không nên coi việc chuyển những cán bộ khoa học đầu ngành có trình độ chuyên môn cao sang làm công tác quản lý hành chính như một dạng đề bạt, một dạng thực hiện chế độ đãi ngộ với họ. Chính cách này đã làm cho họ bị tách khỏi môi trường nơi họ có thể phát huy tác dụng tốt nhất. Điều này liên quan trực tiếp đến các chính sách về tổ chức và cán bộ của Đảng và Nhà nước. Những nhân tài này cần được tạo điều kiện về vật chất và tinh thần đến mức tối đa để phát huy tài năng. Trong điều kiện trình độ kinh tế và khoa học công nghệ còn hết sức thấp kém như hiện nay, để tiếp cận đến nền kinh tế tri thức, việc xác định và thực thi một cách nhất quán chính sách "chiêu hiền đãi sĩ" có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Một trong những đối tượng sẵn có khả năng và tiềm lực khoa học và công nghệ mạnh mẽ là đội ngũ trí thức Việt Nam ở nước ngoài, chủ yếu là ở các nước Tây Âu và Bắc Mỹ. Cần tạo ra động lực về vật chất, tinh thần và những điều kiện thuận lợi nhất để thu hút sự tham gia của đội ngũ này vào công cuộc chấn hưng tổ quốc. Tăng cường tiềm lực và đóng góp của khoa học và công nghệ vào phát triển kinh tế -xã hội. Đổi mới cơ chế đầu tư và quản lý khoa học và công nghệ, huy động mọi nguồn vốn trong nước và ngoài nước để phát huy tiềm năng và tác dụng của khoa học và công nghệ trong sản xuất và đời sống. Hỗ trợ nhập khẩu công nghệ mới, mũi nhọn, tổ chức tốt việc tiếp thu và làm chủ các công nghệ đó. Tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức khoa học, các trường đại học, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và cá nhân được tổ chức các hoạt động nghiên cứu, triển khai, được bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ, quyền công bố, trao đổi chuyển giao, chuyển nhượng kết quả nghiên cứu theo quy định của pháp luật. Sửa đổi những quy định liên quan đến việc chuyển giao công nghệ theo định hướng đơn giản hóa các thủ tục hành chính, giảm thuế (đặc biệt thuế thu nhập đối với các chuyên gia có trình độ cao của Việt Nam và của nước ngoài), giảm chi phí giao dịch đối với các hoạt động chuyển giao công nghệ. Tiếp tục tăng đầu tư thích đáng từ ngân sách nhà nước, đồng thời phát huy mọi nguồn lực cho nghiên cứu những lĩnh vực khoa học công nghệ mới như công nghệ tin học, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới và nghiên cứu cơ bản có lựa chọn. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng Internet, đặc biệt là chính sách giá, nhằm giúp các cá nhân, các doanh nghiệp khai thác thông tin công nghệ và thị trường trên thế giới. Nghiên cứu đề xuất những biện pháp xúc tiến thương mại điện tử, hỗ trợ cho các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, tiếp cận với khách hàng và thị trường, kể cả thị trường ngoài nước. Xây dựng quỹ tín dụng và hỗ trợ đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và các tổ chức tài chính, tín dụngvới mục tiêu tài trợ cho việc đưa ra những sản phẩm, dịch vụ mới trên cơ sở ứng dụng những thành tựu của khoa học và công nghệ. Phát triển thị trường khoa học và công nghệ. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, khuyến khích chuyển giao khoa học công nghệ, hợp đồng khoa học, công nghệ và tạo lập thị trường lao động khoa học, công nghệ. Ban hành các chính sách hỗ trợ, khuyến khích mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ vào mọi hoạt động kinh tế, xã hội. Đổi mới cơ bản, toàn diện công tác quản lý khoa học, công nghệ và môi trường từ Trung ương đến tỉnh, thành phố. Ban hành chính sách khuyến khích các doanh nghiệp nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất kinh doanh. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kết hợp với các cơ sở nghiên cứu, các trường đại học trong việc nghiên cứu chuyển giao công nghệ và đào tạo. Thí điểm mô hình dạy nghề có sự phối hợp giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp với nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước và từ doanh nghiệp. Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng hệ thống tiêu chuẩn quản lý chất lượng quốc tế. 4. Cải cách hành chính và tạo lập một khuôn khổ pháp lý mới Đổi mới thể chế và thủ tục hành chính, tập trung trước hết vào xoá bỏ những quy định mang nặng tính hành chính quan liêu, bao cấp, gây phiền hà, sách nhiễu doanh nghiệp và nhân dân, kìm hãm sự phát triển lực lượng sản xuất. Xây dựng và thực hiện chương trình đổi mới thể chế trong từng năm, bảo đảm các văn bản pháp quy có nội dung đúng đắn, nhất quán, khả thi. Chỉ đạo sát từ khâu soạn thảo, thông qua đến phổ biến, thực hiện và tổng kết. Công khai hóa các nội dung và cơ chế, phương thức giám sát của cơ quan chức năng, các đoàn thể quần chúng và nhân dân về thực hiện pháp luật, chính sách, chế độ của nhà nước. Minh bạch và công khai các thông tin, các quy định của Nhà nước, nghiêm túc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở nhằm đẩy lùi những hiện tượng tham nhũng, tiêu cực. Thực hiện phân cấp mạnh và toàn diện giữa các cấp trong hệ thống hành chính nhà nước trên cơ sở gắn trách nhiệm với quyền hạn, nghĩa vụ với quyền lợi. Hiện đại hóa hệ thống thông tin, các phương tiện quản lý hiện đại, báo cáo đáng tin cậy và nhanh nhạy giữa các cơ quan và giữa các cấp. Tăng cường chế độ giám sát, kiểm tra việc thực hiện các chính sách, cơ chế đã được ban hành. Cải cách hành chính và tạo lập một khuôn khổ pháp lý mới có khả năng thúc đẩy mọi khả năng sáng tạo, làm cho sản xuất "bung ra", đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh các doanh nghiệp mới, doanh nghiệp tri thức, phù hợp với xu thế toàn cầu hoá mà nước ta đang trong quá trình hội nhập. Điều này được thực hiện trên cơ sở xác định đúng đắn vai trò quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước không trực tiếp làm kinh tế nhưng vai trò của nhà nước trong việc định hướng, tạo môi trường, tạo điều kiện và thúc đẩy sự phát triển, thể hiện trong chính sách của nhà nước, trong hệ thống luật pháp là yếu tố quyết định nhất đối với việc tiến nhanh vào kinh tế tri thức. Kết luận Con đường hội nhập đối với nước ta là tất yếu. Xây dựng được cho mình những yếu tố ngày càng mạnh mẽ của kinh tế tri thức là cách duy nhất có được năng lực cạnh tranh, do đó hợp tác một cách bình đẳng trong sự hội nhập đó. Đối với nước ta, xây dựng kinh tế tri thức chắc không dễ dàng. Tái cấu trúc nền kinh tế xã hội đối với mọi quốc gia đã là khó khăn, đối với nước ta lại càng thêm khó khăn vì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vẫn đang tiếp tục và nền kinh tế thị trường vẫn còn kém phát triển. Tuy nhiên chúng ta có thể dựa vào kinh nghiệm của các nước có điều kiện xuất phát gần ta hoặc hơn ta không nhiều. Chúng ta tin tưởng vào tương lai của một nền kinh tế tri thức, một xã hội tri thức sẽ được phát triển trên đất nước chúng ta. Vận dụng kinh tế tri thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ làm cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra có hiệu quả hơn và có ít hậu quả tiêu cực hơn. "Trong thời đại cách mạng thông tin hiện nay, chúng ta không có sự lựa chọn nào khác là phải tiếp cận nhanh chóng với tri thức và công nghệ mới nhất của thời đại để hiện đại hóa nền kinh tế, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng từng bước hình thành nền kinh tế tri thức, có năng lực cạnh tranh với giá trị gia tăng ngày càng cao" (Tổng bí thư Lê Khả Phiêu). Phát triển kinh tế tri thức là một tất yếu khách quan nhưng để phát triển được nền kinh tế đó chúng ta cần có chiến lược lâu dài cho tương lai và trước mắt là phải vận dụng những thành tựu của cuộc cách mạng công nghệ hiện đại nhất là cách mạng về thông tin vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mà Đảng và nhà nước ta đã lựa chọn. Mục lục Trang Lời mở đầu 1 ChươngI: Quá trình hình thành nền kinh tế tri thức 2 I. Vai trò của tri thức đối với phát triển kinh tế xã hội 2 II. Những nhân tố thúc đẩy sự ra đời của nền kinh tế tri thức 5 ChươngII: Nền kinh tế tri thức 8 I. Nền kinh tế tri thức là gì? 8 1.Khái niệm 9 2. So sánh khái quát các thời kỳ kinh tế 10 II. Những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức 11 1. Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế 11 2. Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp 12 3. Công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi 14 4. Vốn quý nhất trong nền kinh tế tri thức là tri thức 15 5. Sáng tạo, đổi mới thường xuyên là động lực chủ yếu nhất 16 thúc đẩy sự phát triển 6. Kinh tế tri thức tạo ra quan niệm mới về thị trường 17 7. Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế toàn cầu hóa 18 III. Nền kinh tế tri thức trong tương lai 18 Chương III: Nền kinh tế tri thức với công cuộc Công 20 nghiệp hóa - Hiện đại hóa nước ta I. Thời cơ và thách thức 20 1. Thời cơ 22 2. Thách thức 25 II. Kinh tế tri thức với chiến lược phát triển của Việt Nam 28 III. Giải pháp chủ yếu cho một chiến lược kinh tế dựa vào tri 31 thức 1. Đổi mới cơ chế quản lý 31 2. Phát triển nguồn nhân lực 32 3. Tăng cường năng lực khoa học và công nghệ quốc gia 34 4. Cải cách hành chính và tạo lập một khuôn khổ pháp lý mới Kết luận 34 Mục lục 35 Tài liệu tham khảo 36 Tài liệu tham khảo 1. Báo Người Lao Động (07/08/2000) 2. Tạp chí Hoạt động khoa học Số: 7/2000; 12/2001 3. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế Số: 1/2001; 4/2001; 5/2001; 6/2001; 7/2001; 8/2001; 11/2001; 12/2001 4. Tạp chí Kinh tế và phát triển Số: 38/2000; 40/2000; 41/2000; 42/2000; 43/2001; 46/2001; 58/2002; 59/2002 5. Tạp chí Nghiên cứu lý luận Số: 8/2000 6. Tạp chí Thông tin khoa học xã hội Số: 6/2000; 10/2000; 6/2001; 8/2001; 6/2002 7. Tạp chí Tri thức và công nghệ Số; 128/2001; 129/2001; 131/2001; 141/2002 8. Đặng Hữu -Phát biểu tại Hội thảo "Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam" do Ban Khoa giáo Trung Ương, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, Bộ Ngoại giao phối hợp tổ chức ngày 21, 22/6/2000 9. Phan Đình Diệu -Phát biểu tại Diễn đàn Công nghệ thông tin TP.Hồ Chí Minh 1999 10. Đặng Mộng Lân - Kinh tế tri thức -Những khái niệm và vấn đề cơ bản Nhà xuất bản thanh niên 2001 11. Lưu Ngọc Trịnh (chủ biên) -Bước chuyển sang nền kinh tế tri thức ở một số nước trên thế giới hiện nay Nhà xuất bản giáo dục 2002 12. Ngô Quý Tùng (Tài liệu dịch) -Kinh tế tri thức- Xu thế mới của thế kỷ XXI Nhà xuất bản chính trị quốc gia 2000 13. Tri thức thông tin và phát triển Nhà xuất bản Thông tin khoa học xã hội -chuyên đề 2000 14. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX Nhà xuất bản chính trị quốc gia 2001

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29534.doc
Tài liệu liên quan