Hiện nay kinh tế thị trường ở thành thị và đồng bằng có bước phát triển. Song ở miền núi, hải đảo. kinh tế còn gặp rất nhiều khó khăn. Do đó nhà nước nên đầu tư nhiều hơn nữa vào những vùng này và nên ưu tiên cho những lĩnh vực sau.
Đầu tư vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng: đường xá, giao thông, điện, nước, các cơ sở y tế, văn hoá, giáo dục tạo nên các trung tâm văn hoá để thu hút sự đầu tư của các thành phần kinh tế vào các vùng này.
Đầu tư xây dựng các doanh nghiệp Nhà nước nhằm khai thác tiềm năng của các vùng này. Các doanh nghiệp này hoạt động trong một thời gian nhất định cho đến khi ổn định, kinh doanh có lãi thì đa dạng hoá sở hữu, chuyển giao cho các thành phần kinh tế khác. Các doanh nghiệp nhà nước có ý nghĩa dẫn dắt mở đường, sản xuất ra hàng hoá công cộng ở các vùng này nhằm tạo nên các "cú huých" cho sự phát triển kinh tế thị trường ở hải đảo, miền núi.
Về quy mô của thị trường Việt Nam còn thấp do sức mua của dân cư hạn chế do thu nhập thấp. Việc tăng sức mua gắn liền với tăng thu nhập dân cư, tăng thu nhập đòi hỏi phải tăng việc làm của toàn xã hội. Do đó đòi hỏi Nhà nước phải giải quyết vấn đề việc làm ở cả thành thị và nông thôn. Khuyến khích mở mang những ngành nghề phụ trong nông nghiệp. Đồng thời phát triển mạnh tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp chế biến nông sản phẩm để tăng mặt hàng xuất khẩu, giải quyết việc làm và tăng thu nhập của nhân dân.
50 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1805 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kinh tế Việt Nam hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớc ngoài với số vốn khoảng 8 triệu USD, tập trung chủ yếu trong lĩnh vực chế biến thực phẩm dịch vụ và xây dựng...
Thông qua hợp tác về kinh tế góp phần thúc đẩy chương trình đưa lao động ra nước gnoài làm việc. Đến năm 2002 đã đưa được 300.000 người gồm lao động và chuyên gia đang làm việc có thời hạn ở nước ngoài tại trên 40 quốc gia và vùng lãnh thổ chủ yếu thuộc các lĩnh vực xây dựng, cơ khí, điện tử, dệt may, chế biến thuỷ sản, chuyên gia y tế, giáo dục, nông nghiệp, tin học...
Việc hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới không chỉ cho phép ta thu được vốn, mà dựa vào đó chúng ta nắm bắt được những công nghệ kỹ thuật và quản lý tiên tiến, từng bước tạo cho ta một đội ngũ công nhân có trình độ phù hợp cho việc phát triển nền công nghiệp hiện đại trong tương lai.
Kết quả hội nhập còn được thể hiện rõ ở việc ra nhập và tham gia vào những hoạt động của các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu. Chúng ta đã trở thành thành viên của AFTA (khu vực tự do thương mại các nước ASEAN), APEC (diễn đàn hợp tác á - Âu) năm 1998. Hiện nay Việt Nam có quan hệ chặt chẽ với các tổ chức chuyên môn của Liên hợp quốc (UN), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu á (ADB). Năm 1995 Việt Nam nộp đơn xin gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) và trải qua nhiều vòng đàm phán khác nhau. Đặc biệt là ngày 13/7/2000, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được ký kết và có hiệu lực thi hành từ ngày 10/12/2001. Với việc hội nhập tích cực, chủ động như trên đã góp phần quan trọng vào thành tựu kinh tế - xã hội trong hơn mười năm đổi mới vừa qua không những đã phá bỏ được thế bao vây và cô lập mà còn góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực cũng như trên trường quốc tế.
III. Những thuận lợi và khó khăn của Việt Nam trong quá trình hội nhập
1. Những thuận lợi của Việt Nam trong quá trình hội nhập
a. Việt Nam có điều kiện tham gia tích cực vào các quan hệ thương mại quốc tế.
a1. Trong lĩnh vực ngoại thương: Việt Nam có điều kiện xuất và nhập khẩu hàng hoá do đó phát huy được lợi thế so sánh. Hiện nay Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 170 quốc gia trên thế giới.
* Đối với xuất khẩu
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam liên tục tăng trưởng. Nếu năm 2001 Việt Nam xuất được 15,1 tỷ USD thì sang năm 2002 xuất khẩu được 16,53 tỷ USD, tăng khoảng 10% so với năm 2001, góp phần thúc đẩy kinh tế và sản xuất trong nước phát triển (nguồn: bộ thương mại).
Về mặt hàng xuất khẩu, hiện nay Việt Nam đã có được một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực: dầu thô, dệt và may mặc, thuỷ sản, gạo, cà phê, cao su..., bước đầu tạo lập được vị trí nhất định trên thị trường khu vực và thế giới, tạo đà vững chắc cho những năm tới.
Bảng số1: Bảng tình hình xuất khẩu 11 tháng năm 2002 so với 11 tháng năm 2001 và kế hoạch 2002.
Đơn vị: số lượng (SL): 1000 tấn. Trị giá (TG): triệu USD
Tên hàng
Kế hoạch 2002
XK 11 tháng 2001
XK 11 tháng 2002
11 tháng 2002 với 11 tháng 2001 (%)
SL
TG
SL
TG
SL
TG
SL
TG
I. Xuất khẩu hàng hoá
16.600
13.816
14.963
103,3
- Các DN 100% vốn trong nước
9.296
7.480
8.067
107,8
- Các DN có vốn đầu tư nước ngoài
7.304
6.336
6.896
108,8
II. Xuất khẩu dịch vụ
2.700
2.295
2.468
107,5
- Nông dân, thuỷ sản
1. Thuỷ sản
2.100
1.651
1.875
113,6
2. Gạo
3.700
640
3.614
598
3.213
727
88,9
121,6
3. Cà phê
750
320
821
356
678
291
82,6
81,7
4. Rau quả
350
308
184
59,7
5. Cao su
320
175
274
149
397
230
144,8
154,3
6. Hạt tiêu
60
90
55
89
76
106
134,4
119,1
7. Nhân điều
42
147
37
131
58
194
155,8
148,1
8. Chè các loại
68
78
56
64
70
77
124,6
120,3
9. Lạc nhân
85
43
76
37
101
48
132,4
128,7
- Nhiên liệu, khoáng sản
1. Dầu thô
16.500
2.600
15.609
2.963
15.400
2.862
98,7
97,4
2. Than đá
4.400
125
3.672
99
4.828
131
131,5
131,7
- Công nghiệp và thủ công mỹ nghệ
1. Hàng dệt, may mặc
2.400
1.818
2.449
134,7
2. Giầy dép các loại
1.900
1.378
1.634
118,6
3. Hàng điện tử và linh kiện máy tính
750
555
450
81,2
4. Hàng thủ công mỹ nghệ
250
210
299
142,4
- Hàng hoá khác
4.632
3.410
3.381
99,2
Nguồn: Bộ Thương mại
Về thị trường xuất khẩu, trên đà tăng trưởng kinh tế liên tục thì hàng hoá Việt Nam cũng dần mở được thị trường xuất khẩu cho mình. Hiện nay Việt Nam đã xuất khẩu được vào những thị trường quan trọng, đòi hỏi khắt khe về chất lượng vệ sinh, độ an toàn của sản phẩm... như Nhật Bản, các nước trong liên minh Châu Âu. Đặc biệt quan trọng khi hai nước Việt Nam - Hoa Kỳ bình thường hoá quan hệ và ký kết hiệp định thương mại thì mở ra một hướng thuận lợi cho hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Bảng 2: Bảng kim ngạch xuất khẩu sang các nước chủ yếu 10 tháng đầu năm 2002.
Đơn vị: 1000 USD
Tên nước
10 tháng 2002
10 tháng 2001
10 tháng 2002 với 10 tháng 2001 (%)
Nhật Bản
1.910.127
2.130.312
89,7
Mỹ
1.834.047
897.202
204,4
Trung Quốc
1.198.940
1.240.215
96,7
úc
1.021.648
856.321
119,3
Singapore
823.547
939.564
87,7
Đài Loan
674.979
654.513
130,1
Đức
567.853
550.455
103,2
Anh
472.684
416.656
113,4
Irắc
405.682
274.354
147,9
Hàn Quốc
386.854
336.971
114,8
Pháp
344.507
363.426
94,8
Hà Lan
321.607
291.594
110,3
Inđônêxia
296.378
228.219
129,9
Malaysia
281.316
279.768
100,6
Hồng Kông
273.715
257.415
106,3
Philippin
271.097
323.157
83,9
Bỉ
261.303
284.342
91,9
Italia
201.316
180.181
111,7
Thái Lan
194.318
275.231
70,6
Nga
155.650
163.781
95,0
Tây Ban Nha
142.838
121.740
117,3
Campuchia
142.800
118.364
120,6
Canada
114.951
91.464
125,7
Ba Lan
55.776
67.551
82,6
Mexico
51.639
35.350
146,1
Thuỵ sĩ
51.621
79.256
65,1
Lào
50.741
52.003
97,6
Thuỵ Điển
48.815
41.979
116,3
Đan Mạch
48.598
37.634
129,1
Các tiểu VQ ARRTN
32.490
26.907
120,7
Hy Lạp
27.884
17.789
156,7
áo
21.739
22.475
96,7
Thổ Nhĩ Kỳ
20.054
9.820
204,2
Phần Lan
19.778
15.658
126,3
New Zealand
17.301
15.319
112,9
Ai Len
16.246
17.452
93,1
Nguồn: Bộ Thương mại
Hiện nay Việt Nam tiếp tục tìm kiếm và mở rộng thị trường sang khu vực Châu Phi như: Senegal, Công gô, Tanzania, Nam Phi... và các nước Nam Mỹ: Achentina, Brazin...
* Đối với nhập khẩu:
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta cần phải nhập khẩu hàng hoá từ các nước để phục vụ cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước đồng thời nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu nhằm phát triển kinh tế đất nước dần dần hoà nhập vào kinh tế khu vực và thế giới.
Về mặt hàng nhập khẩu, chủ yếu Việt Nam nhập khẩu những mặt hàng mà trong nước chưa sản xuất được hoặc không có khả năng sản xuất gồm máy móc, thiết bị và phụ tùng, nguyên nhiên vật liệu... Cụ thể như: phân bón, xăng dầu, kinh kiện xe máy, ô tô nguyên chiếc, giấy các loại, phôi thép, thép thành phẩm... Từ năm 1999 đến năm 2000 tổng giá trị nhập khẩu tăng hơn 4 lần.
Riêng trong 11 tháng đầu năm 2002 nhập khẩu ước đạt 17,267 tỷ USD, tăng 17,6% so với năm 2001. Cả nước trong 11 tháng qua đã nhập siêu 2,304 tỷ USD. Tình hình nhập siêu tăng nhanh so với các năm trước đây: Năm 1999, 87 triệu USD (bằng 1% so với kim ngạch xuất khẩu), lần lượt trong các năm 2000 là 940 triệu (bằng 7%), năm 2001 là 740 triệu USD (bằng 5,4%). Đến hết năm 2002 Việt Nam đã nhập siêu khoảng 2,7 tỷ USD (gần 18% so với năm 2001).
Bảng 3: Bảng tình hình nhập khẩu 11 tháng năm 2002 so với 11 tháng 2001 và kế hoạch 2002.
Đơn vị: số lượng (SL): 1000 tấn. Trị giá (TG): triệu USD
Tên hàng
Đơn vị tính
Kế hoạch 2002
XK 11 tháng 2001
XK 11 tháng 2002
NK 11 tháng 2002 với 11 tháng 2001 (%)
SL
TG
SL
TG
SL
TG
SL
TG
I. Xuất khẩu hàng hoá
triệu USD
17.500
16.643
17.267
118,6
- Các DN 100% vốn trong nước
triệu USD
12.600
9.997
11.400
114
- Các DN có vốn đầu tư nước ngoài
triệu USD
4.900
4.561
5.867
128,6
II. Xuất khẩu dịch vụ
triệu USD
2.500
2.085
2.250
107,9
Mặt hàng chủ yếu
1. Ô tô nguyên chiếc các loại
Chiếc
28.000
182
16.125
182
24.644
226
153
124
2. Ô tô dạng linh kiện lắp ráp
Bộ
19.000
190
18.954
201
26.130
304
138
151
3. Thép thành phẩm
1000 tấn
2.100
600
1.996
577
2.558
792
128
137
4. Phôi thép
1000 tấn
1.800
324
1.520
283
1.969
409
130
145
5. Phân bón các loại
1000 tấn
3.200
400
2.892
365
3.198
397
111
109
- Phân bón URE
1000 tấn
2.000
245
1.552
188
1.550
184
100
98
6. Xăng dầu (có tính thuế)
1000 tấn
10.000
2.080
8.245
1.700
9.137
1.839
111
108
7. Xe gắn máy (linh kiện lắp ráp)
1000 bộ
1300
360
1.938
537
832
277
43
52
8. Giấy các loại
1000 tấm
300
165
253
138
326
172
129
125
9. Chất dẻo nguyên liệu
1000 tấm
700
485
661
447
811
540
123
121
10. Sợi các loại
1000 tấn
220
250
187
222
246
287
132
129
11. Bông
1000 tấn
120
140
105
123
92
93
88
76
12. Hoá chất nguyên liệu
triệu USD
380
308
363
118
13. Máy móc, thiết bị phụ tùng khác
triệu USD
3.000
2.476
3.317
134
14. Tân dược
triệu USD
310
263
287
109
15. Linh kiện điện tử
triệu USD
750
608
595
98
16. Nguyên phụ liệu dệt may
triệu USD
2.000
1.456
1.482
102
17. Hàng hoá khác
triệu USD
5.866
4.672
5.887
126
Nguồn: Bộ Thương mại
Về thị trường nhập khẩu, thị trường nhập khẩu của Việt Nam chủ yếu từ các nước: Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan... và tiếp tục mở rộng thị trường nhập khẩu từ các nước trong liên minh Châu Âu, Hoa Kỳ...
Bảng 4: Bảng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ một số nước trong 10 tháng đầu năm 2002 với 10 tháng năm 2001.
Đơn vị: 1000 USD
Tên nước
10 tháng 2002
10 tháng 2001
10 tháng 2002 với 10 tháng 2001 (%)
Singapore
2.122.514
1.969.574
107,8
Nhật Bản
2.011.128
1.826.000
110,1
Đài Loan
2.002.292
1.638.950
122,2
Hàn Quốc
1.778.911
1.519.924
117,0
Trung Quốc
1.573.987
1.225.003
128,5
Thái Lan
745.794
642.459
116,1
Hồng Kông
612.316
435.634
140,6
Malaysia
550.342
375.322
146,6
Đức
426.313
330.363
129,0
Nga
421.796
295.147
142,9
Mỹ
367.355
311.214
118,0
Inđônêxia
285.688
241.691
118,2
Pháp
240.443
266.774
90,1
ấn Độ
237.085
173.213
136,9
Ôxtraylia
235.140
228.639
102,8
Italia
207.042
161.837
127,9
Ucraina
193.369
61.813
312,8
Anh
130.480
140.110
93,1
Thuỵ sĩ
109.186
73.750
148,0
Hà Lan
95.112
98.423
96,6
Philippin
77.680
45.461
170,9
Bỉ
73.013
57.776
126,4
Đan Mạch
69.332
53.449
129,7
áo
58.610
28.058
208,9
Tây Ban Nha
54.822
36.578
149,9
Canada
53.771
48.347
111,2
Campuchia
49.384
28.808
171,4
New Zealand
47.547
108.579
43,8
Lào
44.693
59.694
74,9
Thuỵ Điển
44.447
64.297
69,1
Phần Lan
25.575
20.530
124,6
Nguồn: Bộ Thương mại
a2.Trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài: cũng đóng góp đáng kể trong quá trình phát triển kinh tế, nó đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng vốn đầu tư cho toàn xã hội nhằm phục vụ cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, khai thác ưu thế tài nguyên thiên nhiên, lao động, cân bằng trong sự thiếu hụt trong cán cân thanh toán quốc tế. Đến nay Việt Nam đã thu hút được 42 tỷ USD FDI.
Trong năm 2002, cả nước có gần 700 dự án đầu tư nước ngoài với số vốn đầu tư trực tiếp 1,4 tỷ USD. Riêng trong 11 tháng đầu năm 2002, cả nước có 607 dự án nước ngoài được cấp giấy phép mới, với tổng số vốn đăng ký trên 1,171 tỷ USD, so với cùng kỳ năm 2001 tăng 30,3% và bằng 53,6% về vốn. Ngoài ra còn có 278 lượt dự án được điều chỉnh vốn để mở rộng quy mô sản xuất, tăng thêm khoảng 800 triệu USD, so với cùng kỳ năm 2001 tăng 32,3% về số dự án và 31,1% về số vốn. Như vậy số vốn đầu tư cấp mới và bổ sung 11 tháng đầu năm đạt khoảng 1,971 tỷ USD. Trong đó lĩnh vực công nghiệp nhẹ thu hút được 264 dự án với số vốn 508,5 triệu USD, lĩnh vực công nghiệp nặng 168 dự án với số vốn 271,8 triệu USD, khách sạn du lịch 16 dự án với số vốn 138,5 triệu USD.
Bên cạnh đó nguồn vốn ODA tính từ năm 1993 đến nay là 10,6 tỷ USD trong đó 85% là vốn cho vay, 15% là không hoàn lại. Năm 2002 hội nghị các nhà tài trợ quốc tế cho Việt Nam và cam kết tiếp tục tài trợ cho Việt Nam khoảng 2,5 tỷ USD.
Về khoa học và công nghệ, trong quá trình hội nhập còn cho phép ta nắm bắt được những công nghệ tiên tiến của thế giới góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam thúc đẩy xuất khẩu. Bên cạnh đó nâng cao hiệu quả sản xuất, đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế chuyển sang những mặt hàng chế biến.
Ngoài những ngành truyền thống: khai thác, chế biến, gia công, lắp ráp... thì xuất hiện những ngành công nghiệp mũi nhọn như: chế tạo máy, điện tử, tin học, cơ khí chính xác, tự động hoá...
Nói tóm lại, hội nhập kinh tế quốc tế đem lại nhiều điều kiện thuận lợi cho Việt Nam, hàng hoá Việt Nam dễ dàng thâm nhập với thị trường khu vực và thế giới, qua đó tiếp cận được khoa học và công nghệ của các nước trên thế giới... từ đó thúc đẩy kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển.
a3. Hội nhập tài chính quốc tế:
Trong thực tế, các tổ chức tài chính quốc tế quan trọng nhất hiện nay như: Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng phát triển Châu á (ADB) đều có quan hệ tín dụng với các nước đang phát triển. Sau khi Hoa Kỳ bình thường hoá quan hệ với Việt Nam thì các tổ chức tài chính quốc tế đã bắt đầu cung cấp tín dụng cho Việt Nam, giải toả các nguồn vốn bị phong toả trước đây. Tại các câu lạc bộ tài chính quốc tế như: Câu lạc bộ Pari, Câu lạc bộ Luân Đôn, Việt Nam đã được một số quốc gia giảm nợ xoá nợ hoặc cho phép kéo dài thời hạn trả nợ. Một số quốc gia vẫn duy trì các khoản viện trợ cho Việt Nam một cách đều đặn như : Nhật Bản, Pháp, Thuỵ Điển, Italia, Phần Lan,…
Đối với Ngân hàng Thế giới (WB), hiện nay Việt Nam là thành viên chính thức của một số tổ chức thuộc WB, đó là ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế (IBRD), hiệp hội phát triển quốc tế (IDA), tập đoàn tài chính quốc tế (IFC) và công ty bảo hiểm đầu tư đa biên (MIGA). Tuy vậy quan hệ Việt Nam và WB thực chất mới chỉ là quan hệ tín dụng giữa Việt Nam và IDA, quan hệ này phát triển khá tốt, trung bình hàng năm IDA cung cấp cho ta từ 300 đến 500 triệu USD. Năm 1995 WB đã đặt văn phòng tại Hà Nội.
Cùng với WB chúng ta có quan hệ hợp tác với Quỹ tiền tệ quốc tế IMF. Năm 1976 chúng ta tiếp tục qui chế thành viên với cổ phần lúc đó là 0,12% tổng số IMF với 314 triệu USD. Tuy nhiên do có nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế cùng với tác động về mặt chính trị nên IMF quyết định đình chỉ quyền được vay vốn vào năm 1984. Năm 1993 quan hệ với IMF được tái phục hồi và cũng năm này IMF cho Việt Nam vay 223 triệu USD.
Trong thời gian qua đầu tư trực tiếp nước ngoài đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho nền kinh tế nói chung và cho phát triển công nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng nói riêng. Từ năm 1995 đến nay đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 33% tổng vốn đầu tư xã hội. Trong đó 76,5% số dự án và 53,5% vốn đầu tư hướng vào lĩnh vực sản xuất công nghiệp, hàng xuất khẩu và xây dựng cơ sở hạ tầng. Đặc biệt đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đã góp phần đấng kể vào việc cung cấp vốn cho xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp như điện tử, khai thác dầu khí, lắp ráp ôtô, xe máy,… (Nguồn: tạp chí tài chính).
Ngoài ra một số ngân hàng Việt Nam đã tiến hành thành lập các công ty cho thủe tài chính. Cuối năm 1996 Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã cho phép Ngân hàng công thương Việt Nam cùng bốn đối tác nước ngoài thành lập công ty cho thuê tài chính quốc tế đầu tiên ở Việt Nam - Việt Nam International leasing company (VILC). VILC ra đời có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển đất nước trong điều kiện nền kinh tế đang còn nhiều khó khăn, nó giúp các doanh nghiệp Việt Nam không đủ vốn vẫn có thể thuê được máy móc, thiết bị hiện đại để thay đổi công nghệ sản xuất chất lượng sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Nói tóm lại các nguồn vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế góp phần quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế là không thể phủ nhận.
b. Khai thác có hiệu quả tiềm năng kinh tế đất nước
Việt Nam là quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng chưa được khai thác có hiệu quả. Với nguồn tài nguyên này không chỉ tạo điều kiện cho việc phát triển các ngành công nghiệp khai thác chế biến mà còn là sức thu hút đối với các công ty nước ngoài. Trên cơ sở các nguồn tài nguyên thiên nhiên chúng ta có thể xác lập cơ cấu ngành kinh tế với những sản phẩm có tính cạnh tranh đáp ứng được nhu cầu thế giới.
Vị trí địa lý của nước ta thuận lợi. Nước ta là cửa ngõ đi ra Thái Bình Dương của một số quốc gia Đông Nam á, là điểm tiếp giáp với các tuyến đường giao thông quan trọng của thế giới. Đáng chú ý có bờ biển rộng trải dài từ Bắc vào Nam với nhiều hải cảng, có hai cảng lớn là cảng Hải Phòng và cảng Sài Gòn... thuận lợi cho việc phát triển giao thông hàng hải cũng như phát triển kinh tế hàng hoá. Việt Nam có một vùng biển đặc quyền kinh tế. Do đó kinh tế biển là một thế mạnh của Việt Nam góp phần khai thác nguồn lợi thuỷ sản từ biển, thực hiện chủ trương đánh bắt xa bờ của ngành thuỷ sản. Năm 2002 Việt Nam đã xuất khẩu được 2,412 triệu tấn với kim ngạch 2,03 tỷ USD, là một mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam hiện nay.
Nông nghiệp Việt Nam cũng phát huy được những thế mạnh của mình, đóng góp đáng kể trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp gồm có: gạo, cà phê, cao su, hồ tiêu... góp phần tăng trưởng của kinh tế Việt Nam. Qua hơn 10 năm đổi mới, từ một nước phải nhập khẩu lương thực trở thành không những là một quốc gia tự túc được lương thực mà còn là mức có mức xuất khẩu lớn, đứng thứ 2 và 3 thế giới với 3,8 triệu tấn năm 1998 và 4,3 triệu tấn năm 1999. Cùng với đó đời sống vật chất và văn hoá tinh thần của nhân dân được cải thiện.
c. Nâng cao chất lượng nguồn lao động dồi dào của Việt Nam:
Với thị trường 80 triệu dân, tỷ lệ người trong độ tuổi lao động cao, mỗi năm có khoảng 1,1 triệu người tham gia vào trong lực lượng lao động. Đó là lợi thế so sánh có ý nghĩa trong quá trình tham gia hội nhập lực lượng lao động Việt Nam có trình độ văn hoá, cần cù lao động...
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới đang dần chuyển sang nền kinh tế trí tuệ, khoa học, công nghệ phát triển mạnh, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp chi phối mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, nhưng cũng không thể thay thế được vai trò của nguồn lực lao động. Hơn nữa bản thân nguồn lực lao động còn là nhân tố sáng tạo ra công nghệ thiết bị và sử dụng chúng trong quá trình phát triển kinh tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo cơ hội để nguồn nhân lực nước ta khai thông giao lưu với thế giới bên ngoài. Chúng ta thông qua hội nhập để xuất khẩu lao động để lao động Việt Nam có điều kiện cọ xát, nâng cao trình độ tay nghề và tích luỹ được nhiều kinh nghiệm. Đồng thời tạo điều kiện nhập khẩu lao động kỹ thuật cao, công nghệ mới mà hiện nay chúng ta đang rất cần. Như vậy với lợi thế nhất định về nguồn lao động cùng điều kiện cụ thể phù hợp mà tham gia vào hội nhập và chính qua hội nhập là điều kiện để nâng cao chất lượng nguồn lao động của Việt Nam.
d. Kinh tế, chính trị, xã hội ổn định
Đây là cơ hội quan trọng để tập trung phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ đối ngoại, đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện đất nước hoà bình. Chính trị - xã hội ổn định theo một khuynh hướng nhất quán là yếu tố quan trọng trong quá trình giao lưu hội nhập, hơn nữa nó đảm bảo vai trò định hướng trong hội nhập quốc tế.
Sự ổn định chính trị - xã hội, kinh tế tăng trưởng cao và ổn định cho phép tập trung toàn thể sức lực của nhân dân cho phát triển đất nước, là yếu tố quan trọng tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh, tăng sức hút đối với các nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Chúng ta có thể thấy rằng đây là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại trong quá trình hội nhập. Bởi vì không một nhà đầu tư nào lại muốn bỏ vốn của mình vào những quốc gia, những khu vực có tình hình chính trị, xã hội mất ổn định, môi trường đầu tư không thuận lợi, nguy cơ rủi ro chính trị cao như: đảo chính, lật đổ, can thiệp quân sự , xung đột vũ trang... và gần đây là khủng bố quốc tế trên thế giới.
e. Tích cực tham gia vào các tổ chức quốc tế
Hiện nay Việt Nam là thành viên của hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN) (1995), thành viên của Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC) (1998), tham gia tích cực vào các hoạt động của Liên hợp quốc và các tổ chức của Liên Hợp Quốc: Quỹ nhi đồng liên hợp quốc (UNICEF) Tổ chức nông lương của liên hợp quốc (FAO), Quỹ dân số liên hợp quốc (UNFDA), Cao uỷ liên hợp quốc về người tị nạn (UNHCR).
Ngoài ra Việt Nam còn có quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế như: Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển Châu á (ADB), Tập đoàn tài chính quốc tế (IFC) và Ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế (IBRD)... Hiện nay Việt Nam tiếp tục đàm phán để ra nhập tổ chức thương mại thế giới vào năm 2004.
Trong thời gian qua chúng ta cũng hội nhập khá tích cực dưới hình thức song phương và đa phương. Đáng chú ý là hợp tác Việt Nam - Nhật Bản và Việt Nam - Hoa Kỳ, hợp tác kinh tế, khoa học với các quốc gia trong liên minh Châu Âu (EU).
2. Những thách thức của Việt Nam trong quá trình hội nhập
a. Trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam so với thế giới còn thấp và lạc hậu.
Cho đến nay nền kinh tế nước ta về thực chất vẫn là nền kinh tế nông nghiệp bởi vì 75% lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp nhưng lĩnh vực này chỉ chiếm 25,4% GDP, công nghiệp chiếm 34,5% và dịch vụ chiếm 40,1%. Trong khi đó ở các nước phát triển, tỷ trọng khu vực nông nghiệp giảm mạnh chỉ còn khoảng 3% GDP, công nghiệp cũng giảm dần chỉ còn khoảng 20% và khu vực dịch vụ thì đặc biệt phát triển nhất là trong lĩnh vực công nghệ thông tin.
Hội nhập càng sâu thì cạnh tranh thương mại càng lớn trong hoàn cảnh kẻ mạnh "đè chết" kẻ yếu, hàng hoá xuất khẩu của ta thiếu năng lực cạnh tranh với hàng hoá của các nước lớn, đã thế họ lại tăng thêm các rào cản thương mại tinh vi khác. Hàng nông sản xuất khẩu của ta giá cả luôn bị thấp, bị thiệt đủ mặt do các nước lớn chèn ép và phải nhập lại thiết bị công nghệ từ các nước công nghiệp phát triển với giá cao độc quyền, ví dụ hãng Caca Cola ở Việt Nam đã dùng mọi thủ đoạn tinh vi gạt bỏ các đối thủ nước giải khát ở Việt Nam để độc quyền bán với giá siêu lợi nhuận (giá thành khoảng 400 - 500 đồng/chai nhưng bán ra với giá trên 1000 đồng/chai), hãng Honda bán xe máy trong một thời gian dài 2000 USD/xe, trong khi giá thành chỉ vào khoảng 600 - 700 USD/xe, cái "được" của ta ở đây là dân uống nhiều hoá chất và hít bụi xe máy, tắc nghẽn giao thông, tai nạn giao thông... đến bây giờ vẫn lúng túng chưa biết xử lý thế nào. Có người đã nói mọi hoạt động kinh tế đối ngoại của một số nước ở Việt Nam đều có sự thao túng điều hành dấu mặt của các siêu cường và các tập đoàn tư bản lớn.
Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà hiện nay thiết bị, máy móc công nghệ của Việt Nam chỉ ở dạng thứ cấp, về công nghệ thì vô cùng lạc hậu, so với thế giới chậm từ 50 đến 100 năm. Hệ thống thiết bị kỹ thuật ở hầu hết các doanh nghiệp lạc hậu so với mức trung bình hiện nay của thế giới từ 2 đến 3 thế hệ, thậm chí có lĩnh vực từ 4 đến 5 thế hệ. Do đó năng suất lao động thấp, sản phẩm làm ra giá thành cao, chất lượng kém..., không đủ sức cạnh tranh với hàng ngoại nhập và hàng nhập lậu của thị trường trong nước, dẫn đến khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường khu vực và thế giới gặp rất nhiều trở ngại. Ví dụ đường RS của Việt Nam có giá bán là 340 - 400 USD/tấn, nhưng giá nhập khẩu lại rẻ hơn từ 20 - 30%, ở mức 260 - 300 USD/tấn. Tương tự như vậy, giá sắt thép sản xuất trong nước bình quân 300 USD/tấn, nhưng giá nhập khẩu chỉ 285 USD/tấn. Xi măng Việt Nam tự sản xuất giá 840.000 đ/tấn trong khi nhập khẩu chỉ 630.000đ/tấn.
Sự yếu kém của ta không chỉ ở chất lượng và giá cả, mà còn ở cơ cấu mặt hàng xuất khẩu cũng không có tính cạnh tranh cao. Hiện nay chúng ta chủ yếu xuất khẩu nguyên nhiên liệu và sản phẩm sơ chế như dầu thô, gạo, cao su, chè, cà phê... Các sản phẩm công nghiệp nhất là những sản phẩm có hàm lượng khoa học cao còn ít, sức cạnh tranh yếu.
Chủ thể tham gia thực sự vào hội nhập là các doanh nghiệp. Trong khi đó các doanh nghiệp của Việt Nam còn nhỏ, yếu, yếu cả về khả năng quản lý kinh doanh cùng với năng lực sản xuất, tiềm lực thì chính còn nhiều hạn chế. Các doanh nghiệp của chúng ta sau một thời gian dài hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá chuyển sang phương thức kinh doanh mới còn lúng túng, nhất là trong tham gia cạnh tranh quốc tế. Hiện nay trong 6.000 doanh nghiệp nhà nước thì chỉ có khoảng 5% làm ăn thực sự có hiệu quả. Rất nhiều cơ quan, xí nghiệp không có chiến lược phát triển dài hạn, công tác đầu tư nghiên cứu tìm kiếm thị trường không được xem xét một cách đúng mức, việc tiếp cận thông tin thị trường khu vực và thế giới còn nhiều hạn chế, sáng tạo mẫu mã mới đôi khi chưa đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Bên cạnh đó các doanh nghiệp tư nhân làm ăn có hiệu quả hơn nhưng chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ khả năng vốn và công nghệ cũng còn rất hạn chế. trong khi đó cơ chế chính sách khuyến khích bộ phận kinh tế này phát triển chưa phải đã tạo ra cho họ môi trường thuận lợi.
Có thể nói năng lực cạnh tranh yếu kém của nền kinh tế là nguy cơ lớn khi đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Để hội nhập có hiệu quả vấn đề làm sao là phải nâng cao được sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam không những thị trường trong nước mà còn vươn mạnh ra thị trường khu vực và thế giới, phải xem đó là nhiệm vụ hàng đầu hiện nay nếu không sẽ không theo kịp với lịch trình hội nhập với khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA).
Bảng số 5: Danh mục một số nhóm hàng trong diện giảm thuế vào năm 2003.
Số TT
Tên hàng
Thuế suất năm 2002 (%)
Thuế suất năm 2003 (%)
1
Dầu thực vật
40
20
2
Bánh kẹo
50
20
3
Rau, củ, nông sản chế biến
50
20
4
Giấy các loại
40
20
5
Cà phê hoà tan
50
20
6
Bia rượu
100
20
7
Vỏ xe hơi
30
20
8
Thép các lạoi
40
20
9
Clinker và xi măng thành phẩm
40
20
10
Vỏ xe máy, phụ tùng, ruột xe đạp
50
20
11
Vali, túi xách bằng da, Plastic, thắt lưng
40
20
12
ấn phẩm quảng cáo
30
20
13
Giầy dép
50
20
14
Gạch, ngói, gốm các loại
30
20
15
Gạch ốp lát, sứ vệ sinh
50
20
16
Đồ dùng bằng sứ, thuỷ tinh
50
20
17
Điện tử
50
20
18
Máy giặt
50
20
19
Xe có tổng trọng tải 950kg trở lên
100
20
20
Xe tải từ 5 - 10 tấn
60
20
21
Xe tải từ 10 - 20 tấn
30
20
22
Xe gắn máy và xe đạp có gắn máy phụ trợ
60
20
Nguồn: Báo quốc tế (International Affairs Review)
b. Kinh tế thị trường chưa phát triển
Đó là quá trình kết hợp từ nền kinh tế còn mang nặng tính tự cấp, tự túc và chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm hoà nhập thị trường trong nước với thị trường thế giới.
Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất biểu hiện ở cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ sản xuất thấp kém, lạc hậu... từ đó sản xuất ra giá thành cao sản phẩm đơn điệu, chất lượng kém, cạnh tranh kém. Hiện nay hàng hoá đầu ra về cơ bản đã được chi phối bởi quy luật thị trường, song hàng hoá đầu vào như đất đai, sức lao động và kể cả vốn thực chất chưa phải là thị trường.
Hệ thống kết cấu hạ tầng, vật chất như: giao thông vận tải, thông tin liên lạc, điện lưới quốc gia..... chưa được quan tâm đúng mức, từ đó gây khó khăn cho phát triển và lưu thông hàng hoá, tạo sự ngăn cách giữa các vùng kinh tế trong cả nước, ảnh hưởng tới lưu thông hàng hoá giữa các vùng miền. Về kết cấu xã hội của nền kinh tế như: hệ thống luật pháp, văn minh thương mại, văn hoá công nghiệp, y tế, giáo dục... còn lạc hậu không phù hợp với kinh tế thị trường.
Cơ cấu kinh tế mất cân đối và kém hiệu quả (cơ cấu ngành và cơ cấu vùng) do đó chưa phát huy được nguồn lực của đất nước. Hiện nay kinh tế thị trường ở các thành thị, vùng đồng bằng đã có bước phát triển. Song ở miền núi, hải đảo vẫn còn mang nặng sắc thái của nền kinh tế tự nhiên.
Chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó, quy mô thị trường nhỏ, dung lượng thấp do sức mua của nhân dân thấp do thu nhập thấp. Ngoài ra trên thị trường hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng tràn lan... làm cho các cơ quan quản lý Nhà nước không kiểm soát nổi. Thị trường các yếu tố sản xuất chưa hình thành; thị trường sức lao động, vốn tài chính tín dụng..., nếu có thì thô sơ, nghiệp vụ thấp.
Cũng do mới phát triển kinh tế theo kinh tế thị trường do vậy nhiều công cụ, phương tiện trong giao dịch thanh toán quốc tế chúng ta áp dụng hoặc chưa quen. Thị trường tài chính trong nước từng bước được hình thành. Tuy nhiên các điều kiện pháp lý đảm bảo cho thị trường tài chính còn nhiều bất cập, đây là hạn chế không nhỏ cho phép Việt Nam tham gia có hiệu quả vào thị trường tài chính quốc tế, điển hình là hình thành thị trường chứng khoán của ta còn chậm trễ, hoạt động của các cơ quan chuyên môn như ngân hàng, cơ quan thuế thực sự chưa theo kịp tiến trình mở cửa.
ở nước ta hiện nay, có nhiều thành phần kinh tế và loại hình doanh nghiệp song hiện còn nhiều ý kiến khác nhau về vai trò của chúng. Mặc dù Đảng và Nhà nước ta có chủ trương đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, nhưng trong chỉ đạo thực tiễn và bố trí chính sách vẫn còn những lệch lạc. Điều này xuất phát từ nhận thức, tư tưởng chưa đầy đủ về vai trò của doanh nghiệp trong nền kinh tế.
c. Điều hành kinh tế còn nhiều bất cập
Nền kinh tế nước ta phát triển theo định hướng XHCN có nghĩa là tiến tới một nền kinh tế phồn thịnh, bình đẳng và văn minh. Điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào sự can thiệp thành công hay không của Nhà nước. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường Nhà nước còn sử dụng các công cụ, chính sách để can thiệp nhiều lúc còn trái với các nguyên tắc của thị trường mà nó vốn có. Những năm qua đã từng bước đổi mới vai trò của Nhà nước nhưng cho đến nay ảnh hưởng của cơ chế điều hành nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung vẫn còn khá nặng.
Đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế hiện nay trình độ chuyên môn còn nhiều hạn chế, sự phối kết hợp giữa các bộ phận ban ngành, địa phương và các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập chưa thực sự chặt chẽ, nhịp nhàng và đồng bộ. Chính phủ đã có chủ trương và chỉ đạo tích cực hội nhập, nhưng các doanh nghiệp còn chần chừ, thậm chí thờ ơ do quen với cách làm, cách kinh doanh cũ. Việc phối hợp giữa các bộ phận trong các loại hình đàm phán quốc tế hoặc tham gia vào các hoạt động cụ thể ở các cấp hội nghị khác nhau chưa gắn bó, thậm chí còn hiện tượng ganh đua gây ra chồng chéo.
Thách thức này còn bộc lộ khá rõ trong quá trình hội nhập vừa qua. Do mới chuyển sang cơ chế thị trường cán bộ làm công tác hội nhập còn mỏng và yếu vì vậy trong quá trình thực hiện không tránh khỏi những thiếu xót làm ảnh hưởng đến quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam.
d. Hệ thống luật pháp và chính sách còn nhiều hạn chế
Có thể nói cho đến nay chúng ta đã có rất nhiều cố gắng trong công tác soạn thảo, xây dựng ban hành pháp luật, nhưng hệ thống luật lệ, chính sách của Việt Nam liên quan đến hội nhập quốc tế vẫn chưa hoàn chỉnh, còn nhiều bất cập so với quy chuẩn quốc tế. Trong lĩnh vực thương mại hệ thống các quy định về thuế quan và phi thuế quan của ta quá phức tạp lại hay điều chỉnh bổ sung thậm chí thay đổi làm cho các đối tác nản lòng. Chúng ta vẫn còn áp dụng nhiều quy định riêng trong hợp tác kinh tế quốc tế và ngược lại cũng còn không ít kẽ hở về pháp luật, về các chính sách, quy định để phía đối tác lợi dụng gây thiệt hại cho phía Việt Nam.
Việc áp dụng luật ở nhiều nơi, nhiều lúc còn tuỳ tiện. Các luật rất nhiều, song vẫn không đủ, không đồng bộ, gây ra chồng chéo trong quá trình thực hiện. Các ngôn từ trong luật không rõ ràng gây ra kẽ hở và khó khăn cho người điều hành. Sự hiểu biết về luật, tôn trọng luật pháp còn nhiều bất cập. Thiếu tổ chức công khai văn bản pháp luật và phán quyết của toà án hay quyết định của trọng tài đã dẫn đến những hiện tượng thiếu lành mạnh trong vận dụng và thực thi pháp luật.
Thiếu vắng một hệ thống các cơ quan giải quyết tranh chấp có hiệu quả công bằng. Các toà án kinh tế Việt Nam được thành lập để giải quyết các tranh chấp kinh tế, nhưng lại không có nhiều uy tín trên thế giới. Mặt khác các luật sư và doanh nghiệp Việt Nam thiếu sự hợp tác trong thi hành pháp luật.
Nói tóm lại, sự hạn chế trong hệ thống luật lệ chính sách như trên rõ ràng là rất khó khăn cho việc đẩy nhanh quá trình hội nhập. Hội nhập vào các tổ chức kinh tế quốc tế đòi hỏi chúng ta phải tuân thủ các quy chế chung, mà trên thực tế nhiều quy định của ta không phù hợp thậm chí trái ngược, cho nên các hoạt động trong thực tiễn thường bị ách tắc, làm chậm tiến độ.
Chương III
Một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
I. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về vấn đề hội nhập của Việt Nam
Vấn đề then chốt để hội nhập có hiệu quả là phải nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế dân tộc. Do đó phải đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tập trung phát triển những ngành phù hợp với xu thế phát triển chung của kinh tế thế giới, cần chú ý những ngành kinh tế mà ta có thế mạnh, có tiềm năng nhằm tạo cơ sở xây dựng chiến lược sản phẩm đặc trưng lấp chỗ trống trên thị trường quốc tế, trong đó đặc biệt chú trọng đổi mới hệ thống tài chính tiền tệ và dịch vụ thương mại. Xác định chiến lược sản phẩm trong hội nhập, phải kết hợp giữa chiến lược sản phẩm với chiến lược thị trường, từ đó có sự đánh giá, phân tích nhu cầu và tiềm năng phát triển của các thị trường để có cơ sở lựa chọn phù hợp, từ đó có đời sống thích ứng với từng thị trường, từng đối tác.
Hội nhập là tất yếu. Trong thời đại ngày nay không thể phát triển nếu không tham gia hội nhập. Tham gia hội nhập sẽ chịu tác động cả tích cực và tiêu cực. Do đó để hạn chế bớt tiêu cực đòi hỏi chúng ta phải có "chiến lược chủ động hội nhập", xác định lộ trình hội nhập trên cơ sở các chính sách phát triển kinh tế vừa phù hợp với thực trạng nguồn lực và định hướng mục tiêu phát triển vừa phù hợp với xu hướng chung của nền kinh tế thế giới trong những năm đầu thế kỷ XXI.
Chủ động hội nhập sẽ bảo đảm cho chúng ta hoà nhập với cộng đồng thế giới mà không bị hoà tan, tức vẫn bảo đảm được bản sắc, giữ vững độc lập dân tộc. Đào tạo bồi dưỡng cán bộ những kiến thức nghiệp vụ quản lý, phương tiện giao tiếp, trình độ chuyên môn. Thường xuyên nghiên cứu tình hình quốc tế và các tổ chức tài chính, thương mại trên thế giới. Kết hợp tốt sức mạnh trong nước và ngoài nước, tránh lệ thuộc quá nhiều vào các nguồn lực từ bên ngoài, phải huy động sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế mà nòng cốt là kinh tế Nhà nước.
Hội nhập quốc tế có nhiều tầng cấp chúng ta phải tranh thủ kết hợp tất cả các hình thức từ song phương đến đa phương, từ việc tham gia vào các định chế toàn cầu, khu vực đến ký các hợp tác thoả thuận, sử dụng các biện pháp kinh tế và phi kinh tế một cách linh hoạt để điều chỉnh nhịp độ hội nhập. Chúng ta hội nhập nhưng phải luôn chú ý cảnh giác tránh thua thiệt không chỉ về kinh tế mà cả trên các phương diện khác, để hạn chế điều này chúng ta cần tổ chức thông tin về sự cần thiết cũng như những điều cần chú ý trong tiến trình hội nhập. Vì vậy chúng ta hội nhập trên cơ sở hợp tác, đấu tranh cho quá trình hội nhập bình đẳng vì mục tiêu tiến bộ của nhân loại.
Cần coi hội nhập không chỉ là công việc của các cơ quan Nhà nước mà là sự nghiệp của toàn dân của các doanh nghiệp và đoàn thể xã hội. Do đó cần phải tổ chức tìm hiểu, giới thiệu về hội nhập quốc tế một cách rộng rãi.
II. Định hướng chủ yếu.
Đứng trước cơ hội và thách thức của tác động trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mang lại. Kinh nghiệm một số nước như Trung Quốc, Việt Nam cho thấy muốn thắng trong cuộc đua này là xu thế tất yếu khách quan có thể rút ra một số định hướng sau:
Hết sức coi trọng hội nhập, nhưng phải phát huy nội lực là chính, nếu chỉ trông chờ hội nhập vào ngoại lực sẽ không thành công. Trong hoạt động thương mại, hội nhập chỉ thành công một nửa nếu bỏ qua thị trường trong nước.
Hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới là bước đi qua từng chặng đường từ thấp lên cao, không thể nôn nóng cắt đứt giai đoạn mà không có sự tính toán chuẩn bị kỹ lưỡng nhiều mặt. Trung Quốc vào tổ chức thương mại thế giới (WTO) phải mất 15 năm chuẩn bị cơ sở vật chất kỹ thuật, con người, đường lối phát triển kinh tế, thể chế chính sách trong nước... Hội nhập phải có lộ trình kế hoạch chi tiết để giảm bớt bị động, lúng túng trước thử thách, chưa có sự chuẩn bị mà đã nôn nóng hội nhập sẽ bị lợi bất cập hại.
Luôn luôn đề cao bản sắc văn hoá dân tộc, ý thức độc lập dân tộc, truyền thống văn hoá lâu đời trước tác động của quá trình hội nhập. Đấu tranh trên cả hai mặt kinh tế và độc lập dân tộc.
Muốn tồn tại trong thương mại hoá toàn cầu, phải đổi mới cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường thế giới, coi nâng cao năng lực cạnh tranh thương mại là quốc sách để đối phó với mặt trái khi tham gia hội nhập.
Ngày nay người ta coi thương mại hoá toàn cầu cũng chỉ là một chặng đường mang tính lịch sử, bản chất và đặc trưng cũng như mâu thuẫn của nó ngày càng lộ rõ làm cản trở tiến trình đi lên của kinh tế thế giới. Các mâu thuẫn ngày càng trở nên gay gắt, không thể để các siêu cường và tập đoàn siêu quốc gia mà thể hiện ở các tổ chức; Tổ chức thương mại thế giới (WTO) Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB) lũng đoạn chi phối thế giới, mà đã đến lúc phải đổi mới và thay thế cả nội dung lẫn hình thức các tổ chức này để có một quan hệ sản xuất lành mạnh, phù hợp với lực lượng sản xuất tiến bộ, thực sự thúc đẩy kinh tế thế giới phát triển.
III. Các giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
1. Cần tiếp tục đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp
Quan trọng nhất là đổi mới tư duy về vị trí, vai trò các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp để huy động được nguồn lực, đẩy mạnh tăng trưởng và phát triển. Tuy nhiên mỗi thành phần kinh tế, mỗi loại hình doanh nghiệp đóng vai trò nhất định trong nền kinh tế. Do đó Nhà nước nên bố trí hợp lý phạm vi hoạt động của các loại hình doanh nghiệp, đồng thời xây dựng và thực hiện cơ chế, chính sách kinh tế theo hướng tạo môi trường kinh doanh bình đẳng cho các loại hình doanh nghiệp của nền kinh tế quốc dân.
Bản thân các doanh nghiệp phải tạo ý thức dám đối đầu với thách thức. Cần phải làm cho các doanh nghiệp nhận thức đúng đắn hơn đối với hội nhập kinh tế quốc tế, tự giác khắc phục tư tưởng ỷ lại vào Nhà nước bằng chính sách bảo hộ mậu dịch, bảo hộ sản xuất trong nước thông qua hàng rào thuế quan và phi thuế quan, mà không còn bao lâu nữa, với các cam kết quốc tế, sẽ được dỡ bỏ. Cũng cần làm cho các doanh nghiệp nhận biết về chiến lược công nghiệp hướng ngoại; không chờ đợi Nhà nước áp dụng những giải pháp "sản xuất thay thế hàng nhập khẩu" để duy trì quá lâu trạng thái công nghệ lạc hậu, sản phẩm đơn điệu, không đủ năng lực cạnh tranh trên thị trường.
Các doanh nghiệp nên xây dựng một chiến lược kinh doanh lâu dài, chiến lược này được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu các dự báo về xu thế phát triển của thị trường trong nước và quốc tế. Cơ hội là như nhau cho tất cả các doanh nghiệp miễn là họ biết thu thập và xử lý thông tin, biết chọn đối tác kinh doanh, biết tổ chức nghiên cứu thị trường, có công nghệ thích hợp, áp dụng các phương thức quản lý tiên tiến. Do đó đòi hỏi doanh nghiệp phải có tư duy mới về hoạt động của doanh nghiệp; không đi theo một con đường mòn, mà phải biết tìm ra các đột phá để tạo nên những bước phát triển mạnh mẽ cho từng doanh nghiệp.
Hiện nay các công ty vừa và nhỏ tìm kiếm thị trường thế giới càng trở nên khó khăn hơn. Do vậy phải tìm ra được các phương thức đầu tư và phương thức hợp tác có lợi nhất với các công ty nước ngoài, đặc biệt là với các công ty đa quốc gia nhằm tiếp thu công nghệ, tranh thủ sự tín nhiệm của thị trường đối với sản phẩm của họ, rồi từng bước tích luỹ vốn, kinh nghiệm tiếp cận thị trường, phương thức quản lý hiện đại, thiết lập quan hệ với các đối tác.
Hợp tác và cạnh tranh luôn gắn liền với các hoạt động thương mại và đầu tư. Không có một sự hợp tác nào mà không đòi hỏi phải có đấu tranh, ngược lại phải biết cách đấu tranh để đi đến hợp tác tốt hơn, có hiệu quả hơn. Trong quan hệ hợp tác đối với việc kinh doanh từng loại sản phẩm như gạo, cà phê, cao su, may mặc... để tạo ra sức mạnh của các doanh nghiệp Việt Nam, của hàng hoá Việt Nam trên thị trường khu vực và thế giới. Do đó phải tạo ra các hình thức hợp tác đa dạng, theo sản phẩm, theo địa phương liên ngành thông qua các hiệp hội được tổ chức theo đúng nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi, tạo ra từng mặt trận có sự chỉ đạo thống nhất trên từng thị trường. Đối với các doanh nghiệp nước ngoài cũng cần phải xử lý quan hệ giữa hợp tác và cạnh tranh trong thương mại và đầu tư theo hướng chân thành hợp tác trên nguyên tắc cùng có lợi, đồng thời phải đấu tranh để bảo vệ lợi ích chính đáng của đất nước và của từng doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp triệt để cải tổ cơ cấu doanh nghiệp từ phương thức quản lý kinh doanh, cơ cấu tổ chức, xử lý mối quan hệ giữa các bộ phận, các cá nhân trong từng doanh nghiệp, xây dựng nền văn hoá kinh doanh mang đậm dấu ấn từng doanh nghiệp, dần dần trở thành truyền thống.
2. Phát triển kinh tế thị trường trong cả nước, trên mọi lĩnh vực .
Hiện nay kinh tế thị trường ở thành thị và đồng bằng có bước phát triển. Song ở miền núi, hải đảo... kinh tế còn gặp rất nhiều khó khăn. Do đó nhà nước nên đầu tư nhiều hơn nữa vào những vùng này và nên ưu tiên cho những lĩnh vực sau.
Đầu tư vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng: đường xá, giao thông, điện, nước, các cơ sở y tế, văn hoá, giáo dục tạo nên các trung tâm văn hoá để thu hút sự đầu tư của các thành phần kinh tế vào các vùng này.
Đầu tư xây dựng các doanh nghiệp Nhà nước nhằm khai thác tiềm năng của các vùng này. Các doanh nghiệp này hoạt động trong một thời gian nhất định cho đến khi ổn định, kinh doanh có lãi thì đa dạng hoá sở hữu, chuyển giao cho các thành phần kinh tế khác. Các doanh nghiệp nhà nước có ý nghĩa dẫn dắt mở đường, sản xuất ra hàng hoá công cộng ở các vùng này nhằm tạo nên các "cú huých" cho sự phát triển kinh tế thị trường ở hải đảo, miền núi.
Về quy mô của thị trường Việt Nam còn thấp do sức mua của dân cư hạn chế do thu nhập thấp. Việc tăng sức mua gắn liền với tăng thu nhập dân cư, tăng thu nhập đòi hỏi phải tăng việc làm của toàn xã hội. Do đó đòi hỏi Nhà nước phải giải quyết vấn đề việc làm ở cả thành thị và nông thôn. Khuyến khích mở mang những ngành nghề phụ trong nông nghiệp. Đồng thời phát triển mạnh tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp chế biến nông sản phẩm để tăng mặt hàng xuất khẩu, giải quyết việc làm và tăng thu nhập của nhân dân.
Về phạm vi thị trường, đến nay còn nhiều vấn đề phải giải quyết đòi hỏi Nhà nước cần phải quy định rõ ràng hơn; lĩnh vực mà hoạt động theo quy luật thị trường, lĩnh vực nào hoạt động phi thị trường, cụ thể như lĩnh vực văn hoá, y tế, giáo dục... vốn là lĩnh vực tạo ra hàng hoá công cộng lại hoạt động như hàng hoá tư nhân, theo sự chi phối của quy luật thị trường.
Tính đồng bộ của thị trường là những quy định của Nhà nước về các loại thị trường còn nhiều bất cập như thị trường vốn, đất đai, sức lao động... về thực chất chưa phải là thị trường. Do đó Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi cho sức lao động được tự do dịch chuyển trên thị trường sức lao động, vận động theo đúng quy luật cung cầu về sức lao động. Hoàn thiện môi trường pháp lý và xây dựng các cấu trúc, các trung gian tài chính, tạo điều kiện cho thị trường vốn phát triển đa dạng trong nền kinh tế. Vấn đề ở đây là Nhà nước cần tạo môi trường thể chế, kể cả môi trường pháp lý, môi trường kinh tế, các chủ trương chính sách và tổ chức cho các loại thị trường này phát triển.
3. Đẩy mạnh quá trình chuyển giao công nghệ.
Nhà nước cần nhập khẩu những công nghệ sản xuất phù hợp với tình hình thị trường Việt Nam, có tính tới nhu cầu thị trường thế giới, từ đó tăng dần khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế. Tránh nhập những công nghệ lạc hậu làm thất thoát tài sản Nhà nước trong việc hợp tác đầu tư với nước ngoài. Do đó vấn đề công nghệ phải được giải quyết trên cơ sở cơ chế thị trường, có sự quản lý Nhà nước. Nhập công nghệ nào là do thị trường quyết định. Vì vậy Nhà nước cần tăng cường quản lý việc nhập khẩu công nghệ thông qua những định hướng, kiểm soát, chính sách khuyến khích và luật pháp để có được những công nghệ thích hợp với điều kiện cụ thể ở nước ta.
4. Với công cụ chính sách tài chính, tiền tệ
Cần đổi mới phương thức tổ chức quản lý tài chính, thực hiện thu chi theo nguyên tắc thị trường, cần xác định lại tính chất chi tiêu của ngân hàng Nhà nước, đồng thời cần nghiên cứu xây dựng và thực hiện hệ thống thuế để đảm bảo nguồn thu. Hệ thống thuế này phải đảm bảo nguyên tắc mọi người, mọi doanh nghiệp, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh có thu nhập đều phải có nghĩa vụ đóng thuế cho Nhà nước. Mọi người đều có nghĩa vụ bình đẳng trước luật thuế. Thông qua thuế, Nhà nước khuyến khích hoặc hạn chế sự phát triển của các loại hình sản xuất kinh doanh, hướng sản xuất kinh doanh đi theo tay lái của Nhà nước.
Ngân hàng Nhà nước phải đổi mới tổ chức, quản lý hoạt động để vừa thu hút được các nguồn vốn trong và ngoài nước, vừa nắm được các luồng vận động của tiền tệ tới từng tổ chức, từng doanh nghiệp và từng cá nhân trong xã hội, đáp ứng kịp thời nhu cầu tiền tệ trong nền kinh tế đảm bảo cho sản xuất kinh doanh tiến hành thuận lợi. Cần có chính sách lãi suất để vừa thu hút vốn nhàn rỗi trong dân cư, vừa khuyến khích các nhà kinh doanh đầu tư thúc đẩy quá trình tăng trưởng trong những năm tới.
Việt Nam phải xây dựng được một thị trường tài chính đa dạng, hoạt động có hiệu quả và vững chắc. Tiếp tục cải cách hoạt động của ngân hàng nước ta phải hướng vào xây dựng được các quy định có khả năng làm giảm nhu cầu và sự biến động của các khoản vay nước ngoài ngắn hạn như: quy định về bảo hiểm tiền gửi các biện pháp khuyến khích giảm rủi ro, tăng tính tin cậy của hệ thống ngân hàng... làm sao kết hợp được sự điều tiết của ngân hàng với chiến lược tự do hoá các khoản vốn. Muốn vậy Nhà nước cần tăng cường kiểm soát nhu cầu vay ngắn hạn và kiểm soát luồng vốn chuyển vào.
Thị trường chứng khoán: cùng với sự hình thành của các thị trường khác, sự hình thành thị trường chứng khoán ở Việt Nam sẽ làm cho bộ khung của nền kinh tế thị trường nước ta trở nên đầy đủ và hoàn thiện hơn. Và trong một tương lai không xa, thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ có vai trò như chiếc “xương sống” của nền kinh tế, nếu như ở Việt Nam có một nền kinh tế thị trường hiện đại.
5. Từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp
Đây là vấn đề có ý nghĩa bức xúc hiện nay trong nền kinh tế nước ta. Trong những năm qua nước ta dần dần chuyển sang quản lý kinh tế bằng luật pháp, đã xây dựng được một số luật, tuy nhiên hệ thống luật còn thiếu và chưa đồng bộ. Trong những năm tới cần tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp để sao cho quản lý bằng luật pháp trở thành nguyên tắc cao nhất trong quản lý kinh tế và xã hội ở nước ta. Bên cạnh đó nâng cao hiệu lực quản lý hành chính trên cơ sở cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản, gọn nhẹ, tinh giảm đi đôi với nâng cao năng lực đội ngũ quản lý hành chính phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Kết luận
Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng vận động tất yếu của các nền kinh tế trong điều kiện hiện nay khi quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá nền kinh tế thế giới đang diễn ra nhanh chóng. Tuy vây, hợp tác lại đi liền với sự cạnh tranh diễn ra trong sự ràng buộc, phụ thuộc và xâm nhập lẫn nhau. Do đó các quốc gia không thể phát triển nếu đứng tách riêng trong điều kiện toàn cầu hoá. Với xu hướng trên các quốc gia trong đó có Việt Nam có điều kiện tập trung phát triển kinh tế, hợp tác và cạnh tranh với nhau để cùng tồn tại và phát triển.
Trong hơn 10 năm đổi mới vừa qua, kinh tế Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ, môi trường chính trị xã hội ổn định, nhất là trong bối cảnh thế giới và khu vực tiềm ẩn nhiều yếu tố bất ổn . Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế quốc tế đóng vai trò là tiền đề cho tăng trưởng kinh tế bền vững, đổi lại tăng trưởng kinh tế bền vững lại góp phần thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế lên một nền tảng cao hơn. Do đó, hội nhập kinh tế quốc tế là một chiến lược lâu dài và thích hợp để tận dụng tối đa lợi thế so sánh của đất nước, bắt kịp trình độ của các nước khác phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế.
Như vây, hội nhập kinh tế quốc tế là một vấn đề có phạm vi rất rộng và qui mô rất lớn, nó sẽ tác động đến hầu hết các lĩnh vực, các đối tượng của nền kinh tế. Nhận diện những thách thức đã là khó, tuy không phải là vấn đề khó nhất, song vấn đề là ở chỗ, từ đó xác định được một lộ trình thích hợp nhất vượt qua thách thức ở từng cấp độ khác nhau từ bộ, ngành, địa phương đến từng doanh nghiệp, trong đó cần chú ý đến những lĩnh vực then chốt còn yếu kém.
Tài liệu tham khảo
- Các tạp chí thương mại, nghiên cứu kinh tế, kinh tế đối ngoại, tài chính.
- Các báo thời báo kinh tế Việt Nam, đầu tư các ngày 15/12/2002 – 25/1/2003, quốc tế (số 1 năm 2003).
- Một số bài viết của GS –TS Dương Phú Hiệp đăng trong cuốn “toàn cầu hoá kinh tế”.
PTS Nguyễn Thị Hường: cần tạo dựng môi trường đầu tư có tính cạnh tranh để thúc đẩy hơn nữa quá trình hội nhập của Việt Nam.
Th.s Nguyễn Anh Minh: tự do hoá nhập khẩu và thúc đẩy xuất khẩu. Một số gợi ý về mặt chính sách đối với Việt Nam.
Bài viết của Nguyễn Đức Thuận và Mai Thế Cường “Hội nhập quốc tế và chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Những vấn đề cần hoàn thiện trong chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam”.
PTS Đỗ Đức Bình: Một số ý kiến nhằm góp phần hoàn thiện chính sách xuất nhập khẩu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế.
PTS Nguyễn Thường Lạng: Hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy các hoạt động thương mại quốc tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cuả Việt Nam hiện nay.
Th.s Bùi Anh Tuấn: hàng đổi hàng – một phương thức thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm phát triển công nghiệp chế biến nông sản và tạo việc làm cho người lao động ở Việt Nam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28640.doc