Đề tài Lãi suất cơ bản của ngân hàng và sự điều hành lãi suất trong nền kinh tế Việt Nam

Qua việc nghiên cứu đề tài này ta thấy rõ ràng rằng để tìm ra một cơ chế lãi suất phù hợp đối với điều kiện nền kinh tế đất nước và khu vực là một việc khó.Để cơ chế điều hành lãi suất theo lãi suất cơ bản đạt hiệu quả cao đòi hỏi trước hết chúng ta phải nắm vững cách hiểu lãi suất cơ bản là gì? Đặc biệt là cách hiểu này phải dựa trên tinh thần của luật NHNN.Từ đó chúng ta phải xem xét đánh điều kiện kinh tế đất nước, nhất là thị trường tài chính tiền tệ, mức độ hoại động của các TCTD để chúng ta đưa ra một cơ chế lãi suất phù hợp, phát huy đúng vai trò của nó. Không những thế mối quan hệ của NHNH và các NHTM phải gắn bó thường xuyên có những trao đổi thông tin.NHTM phải cung cấp các thông tin cho NHNN từ tài liệu đó NHNN xem xét đánh giá tình hình của thị trường tiền tệ để đề ra một lãi suất cơ bản hợp lý.

doc33 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1447 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lãi suất cơ bản của ngân hàng và sự điều hành lãi suất trong nền kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dài hạn phải lớn hơn lãi suất ngăn hạn thì ở đây lãi suất ngắn hạn lớn hơn lãi suất dài hạn điều này dẫn đến hoạt động của ngân hàng càng rủi ro hơn. Chính sách điều hành quản lý thị truờng tiền tệ ngày càng đi vào thế bế tắc không hiệu quả. Nhưng cuối cùng Đảng ta cũng kịp nhận ra những sai lầm và kịp sửa chữa.Trong đại hội VI (1986), Đảng đã nhận ra những sai lầm và sửa chữa đó là xoá bỏ cơ chế tập chung quan liêu bao cấp chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước. Sau cuộc cải cách hệ thống ngân hàng (1988-1989),chính sách lãi suất đã ngày một nới lỏng và dần trở thành công cụ trực tiếp của chính sách tiền tệ để NHNN điều hành nền kinh tế phát triển. II. Quá trình đổi mới lãi suất ở Việt Nam. Lãi suất là giá cả tín dụng-giá cả của quan hệ vay mượn sử dụng vốn. Nên lãi suất được xác định bởi quan hệ cung - cầu vốn, nó tuân theo quy luật cung - cầu. Lãi suất gắn liền với hoạt động tín dụng của ngân hàng, đồng thời gắn liền với hoạt động kinh tế liên quan đến gửi tiền và vay tiền, không những thế lãi suất còn là công cụ của chính sách tiền tệ của NHTW mỗi nước. Như chúng ta đã biết vai trò của lãi suất rất quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Thông qua chính sách tiền tệ mà chính sách lãi suất tác động đến cơ cấu đầu tư, định hướng phát triển kinh tế dẫn đến chính sách này thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển kinh tế. Vai trò của nó được thể hiện ở tầm vi mô & vĩ mô. ở tầm vi mô chính sách lãi suất có tác động đến các doanh nghệp lựa chọn cho mình có một phương án sử dụng vốn thích hợp, các doanh nghiệp nên đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh hay là sử dụng vốn đó gửi vào ngân hàng để ăn lợi nhuận. Không những thế chính sách lãi suất còn cho biết buộc các doanh nghiệp phải sử dụng vốn vay một cách hiệu quả, có lãi nhất. Bởi vì hoạt động kinh doanh có thể gặp nhiều rủi ro, nếu như các doanh nghiệp không tính toán đúng thì xẽ bị lỗ vốn dẫn đến phá sản. Qua đây ta thấy chính sách lãi suất đă gián tiếp tác động đến các doanh nghiệp, làm cho các doanh nghiệp luôn tìm cách phát triển dẫn đến làm cho nền kinh tế phát triển. ở tầm vĩ mô chính sách lãi suất là công cụ điều hành chính sách tiền tệ của NHNN.NHTƯ có thể áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt hay lới lỏng để tác động đến tổng cung tiền tệ (MS) từ đó tác động đến tình trạng lạm phát,tỷ lệ thất nghiệp cơ cấu đầu tư tình hình tăng trưởng của đất nước. Chính sách lãi suất rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường nhất là thị trường tài chính tiền tệ bây giờ rất phát triển.NHNN đã sớm nhận ra những sai lầm trong đường lối phát triển kinh tê kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp.Từng bước cải cách chính sách lãi suất cho ngày càng phù hợp với thị trường tài chính tiền tệ đất nước và thế giới,từng bước tiến tới một chính sách lãi suất thị trường. Cuối năm 1988 đầu 1989 chúng ta đã tiến hành cải cách hệ thống ngân hàng cho ngày càng phù hợp với xu thế phát triển của khu vực và thế giới.Điều này được thể hiện : Nghị định 53 /HĐBT ngày 26-3-1988, tiếp theo là hai pháp lệnh về ngân hàng 10/90.Ngành ngân hàng nước ta đến nay đã trải qua hơn 10 năm cải cách và đổi mới.Trong thời gian đó chúng ta không ngừng đổi mới chính sách điều hành lãi suất của NHNN,theo hướng dần tiến đến một lãi suất thị trường khi điều kiện kinh tế và tiền tệ cho phép. Trong thời gian đó ta có thể điểm qua các bước đổi mới chính sách lãi suất qua các giai đoạn cụ thể để chúng ta hình dung rõ nết hơn về các bước đi của chính sách lãi suất của nước ta trong thời gian qua. 1. Giai đoạn từ trước tháng 3/1989. Về cơ bản là thời kỳ điều hành theo cơ chế lãi suất âm: Tại sao trong thời kỳ này chính sách lại âm?Và điều hành theo cơ chế lãi suất âm nghĩa là gì? Như chúng ta đã biết trong thời kỳ này đất nước ta lâm vào tình trạng lạm phát rất nặng, lạm phát đã trở lên phi mã,có lúc lên tới 500%,mức cao nhất là 774%. Chính vì thế mà mà lãi suất ngân hàng không thể bù đắp được mức tăng lên nhanh chóng của giá cả dẫn đến lãi suất thực âm vì : ir = in - ii với ii<=10% ir= (in - ii)/(in+ 1) với ii > 10% Trong đó ir là lãi suất thực, ii là tỷ lệ lạm phát,in là lãi suất danh nghĩa. Lãi suất của ngân hàng trả cho những món vay,hay lãi suất cho vay của ngân hàng nhận được từ khách hàng cho dù có lên tới 20%,30% cũng không thể bù được sự mất giá của đồng tiền dẫn tới lãi suất âm. Trong giai đoạn này lscv(lsuất cho vay)< lstg(lsuất tiềngửi) < tỷ lệ lạm phát,đây là một điều hoàn toàn trái ngược với chính sách lãi suất là phải đảm bảo lãi suất thực dương kinh doanh của ngân hàng có lãi, trong thời gian này có khi lãi suất cho vay chỉ 10% tháng,khi đó lãi suất tiền gửi lên tới 15% tháng tỷ lệ lạm phát là774%. Điều hành theo cơ chế lãi suất âm đã dẫn đến nhiều tiêu cực đối với nền kinh tế ở cả mức độ vi mô và vĩ mô.ở mức độ vi mô : đó là các doanh nghiệp,xí nghiệp sản xuất kinh doanh lâm vào tình trạng trì trệ,làm ăn thua lỗ dẫn đến phá sản bởi vì do lạm phát quá cao dẫn đến lợi nhuận của các doanh nghiệp là lợi nhuận giả tạo hay nói cách khác lợi nhuận thực tế của các doanh nghiệp âm.Nếu xí nghiệp,doanh nghiệp không lắm bắt được tình hình lạm phát của nền kinh tế thì sẽ nhanh chóng dẫn tới phá sản bởi kinh doanh không đủ bù lỗ,mặt khác điều hành theo cơ chế lãi suất này đã làm cho nhu cầu vay vốn của người dân tăng lên không thực chất dẫn đến định hướng hoạt động kinh doanh tiền tệ của các ngân hàng sai lệch so với thực tế dẫn đến ngân hàng kinh doanh thua lỗ lợi nhuận không đủ bù đắp chi phí,ngân hàng lại in thêm tiền vào lưu thông,lạm phát tăng nhanh. Hơn thế nữa đi theo cơ chế này làm cho khả năng chống lạm phát kém,ngày càng trở nên khó khăn.Bởi vì khả năng huy động vốn đi đôi với rút bớt tiền lưu thông, giải toả áp lực của tiền đối với giá cả hàng hóa bị hạn chế rất nhiều.Lãi suất âm lạm phát ngày càng tăng dẫn đến đồng tiền mất giá trị nhanh chóng,người dân luôn bị ám ảnh bởi lạm phát dẫn đến họ luôn tăng giá hàng,chỉ số giá tiêu dùng tăng lên nhanh chóng nhà nước không thể kiềm chế được,nền kinh tế lâm vào khủng hoảng. Trong thời gian này do ngân hàng thực hiện bao cấp về lãi suất cho khách hàng dẫn tới tạo ra những khoản lỗ không đáng có cho ngân hàng.Do bao cấp về lãi suất dẫn đến vai trò của lãi suất dường như không có dẫn đến tình trạng trì trệ tắc nghẽn trong sản suất kinh doanh.Ngân hàng không thể kinh doanh tiền tệ một cách bình thường được,kinh doanh của ngân luôn nằm trong tình trạng lỗ. 2. Từ tháng 3/1989. Ngân hàng nhà nước đã chủ động sử dụng công cụ lãi suất,chuyển từ lãi suất âm qua lãi suất dương.Để thu hút tiền thừa trong lưu thông về,kiềm chế lạm phát tránh bao cấp qua lãi suất,NHNN đã nâng lãi suất huy động lên một mức rất cao trong một thời kỳ ngắn, lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn 9% tháng - tức là 109% năm;lãi suất tiết kiệm 3 tháng là 12% tháng tức là 144% năm. Nhờ vậy đã: - Thu hút một khối lượng tiền lớn trong lưu thông,tăng nguồn vốn tín dụng giảm áp lực lạm phát - Chuyển lãi suất âm qua lãi suất dương,tức là lãi suất tiến gửi cao hơn lạm,lãi suất cho vay cao hơn lãi suất huy động , xử lý hài hoà lợi ích của người gửi tiền,người vay vốn và tổ chức tín dụng - Xoá bỏ bao cấp qua lãi suất ngân hàng chuyển hoạt động ngân hàng sang kinh doanh thưc sự - Tuy nhiên ở giai đoạn này hệ thống lãi suất còn phức tạp có nhiều mức lãi suất tiền gửi và cho vay ; + Đối với ngành kinh tế (công nông nghiệp ) có mức lãi suất riêng + Đối với các thành phần kinh tế (quốc doanh,ngoai quốc doanh)còn có sự phâp biệt lãi suất. 3. Từ 1/10/1993. NHNN vừa áp dụng lãi suất trần (cho vay) vừa áp dụng lãi suất thoả thuận : T Đối với trần lãi suất: Cho vay doanh nghiệp nhà nước là 1.8%tháng,kinh tế ngoài quốc doanh là 2.1% tháng. T Đối với lãi suất thoả thuận ; Trường hợp ngân hàng không huy động đủ vốn để cho vay theo lãi suất quy định phải phát hành kỳ phiếu với lãi suất cao hơn thì được áp dụng lãi suất thoả thuận.Lãi suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn là0,2%tháng và cho vay cao hơn mức trần là 2,1% tháng. Trên thực tế khoảng 30%-60% tổng dư nợ lúc bấy giờ là tư khoản cho vay bằng lãi suất thoả thuận mà phần lớn là cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ nông dân,với lãi suất phổ biến là 2,3% - 3,5% tháng.Với cơ chế lãi suất thoả thuận,có thể hiểu là tự do hoá một phần lãi suất "cứng" đi đôi với biên độ nhất định. Trong lãi suất thoả thuận mức chênh lệch giữa sàn và trần rất lớn khoảng từ 0,7%-1%tháng,làm cho các NHTM có mức lợi nhuận quá cao,trong khi đó doanh nghiệp và hộ nông dân gặp nhiều khó khăn.Từ thực tế này,Quốc hội khoá IX trong kỳ họp thứ 8,tháng 8/1995,cùng với nghị quyết bỏ thuế doanh thu trong hoạt động tín dụng ngân hàng,đã yêu cầu ngân hàng tiết kiệm chi phi hoạt động và khống chế mức chênh lệch lãi suất huy động và cho vay là 0,35% tháng.Đây là duyên cớ để ra đời lãi suất trần hoàn toàn và bãi bỏ lãi suất cho vay thoả thuận từ 01/01/1996. 4. Chuyển lãi suất thoả thuận qua trần lãi suất. a. Việc quy định lãi suất và quy định mức chênh lệch 0,35% thực chất là vừa quy định trần lãi suất vừa quy định sàn lãi suất.Vì thế từ 1/11996 NHNN đã quy định trần lãi suất cho vay tối đa và mức chênh lệch là 0,35% thay cho việc điều hành lãi suất cho vay,lãi suất tiền gửi chi tiết và lãi suất thoả thuận trước đó. Do quy mô và địa bàn hoạt động khác nhau,nhu cầu sử dụng vốn khác nhau,chi phí hoạt động khác nhau,nên NHNN có quy định trần lãi suất có phân biệt như sau: - Trần lãi suất cho vay ngắn hạn : là mức lãi suất thấp nhất áp dụng cho khu vực thành thị, - Trần lãi suất cho vay trung và dài hạn : cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn một ít do thời hạn dài dễ gặp rủi ro; - Trần lãi suất cho vay trên địa bàn nông thôn : Cao hơn tràn lãi suất ngắn hạn và trung hạn do điều kiện hoạt động ở nông thôn khó hơn thành thị - Trần lãi suất cho vay của quỹ tín dụng đối với các thành viên: là trần lãi suất cho vay cao nhất do QTD mới lập thí điểm,quy mô nhỏ bé chi phí hoạt động cao. b. Từ ngày 21/1/1998 đến nay, tại kỳ họp thứ 2 tháng 12/1997 Quốc hội khoá IX cho phép bỏ mức chênh lệch 0,35% tháng, đồng thời để thu hẹp sự tách biệt giữa lãi suất cho vay giữa thành thị và nông thôn NHNN quy định các mức lãi suất mới, rút từ 4 trần xuống còn 3 trần và không quy định mức chênh lệch 0,35% tháng nữa: -Trần lãi suất cho vay ngắn hạn là 1,2% tháng -Trần lãi suất cho vay trung hạn là 1.25% tháng -Trần lãi suất QTD cho vay thành viên 1,5% tháng Việc quản ký lãi suất theo trần có ưu điểm sau: + Trong phạm vi trần, các tổ chức tín dụng tự do ấn định mức lãi suất cho vay và tiền gửi cụ thể,linh hoạt phù hợp với điều kiện kinh doanh thực hiện chính sách khách hàng tự chủ trong kinh doanh,thực hiện cạnh tranh lành mạnh từng bước tự do hoá lãi suất. + Phù hợp với đặc điểm chi phí hoạt động ở các địa bàn khác nhau. + Tạo mặt bằng chung về lãi suất trong cả nước,xoá bỏ lãi suất thoả thuận vượt quá xa mức lãi suất do NHNN quy định + có trần khống chế sẽ bảo vệ lợi ích người vay,TCTD và người gửi tiền + Đảm boả vai trò quản lý của nhà nước của NHNN về lãi suất trong giai đoạn đầu của thị trường tiền tệ mới hình thành trong nền kinh tế thị trường Tuy nhiên quản lý lãi suất theo cách quản lý "cứng" trong nền kinh tế thị trường chưa phát huy hết mặt tích cực,nhạy cảm của nó lợi dụng mức khống chế cứng nhiều tổ chức tín dụng cho vay ngay theo mức tối đa,đụng trần lãi suất để đạt lợi nhuận cao.Nó ít linh hoạt khó điều chỉnh theo quan hệ cung cầu vốn và điều kiện khó khăn hay thuận lợi từng vùng. III. vấn đề hiểu và cơ sở xác định lãi suất cơ bản trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam. 1. Cách hiểu lãi suất cơ bản. Chính sách lãi suất là một trong ba công cụ điều hành của chính sách tiền tệ ( chính sách lãi suất,dự trữ,thị trường mở ), chính sách lãi suất là công cụ trực tiếp của chính sách tiền tệ, NHTW sử dụng chính sách tiền tệ để điều hành thị trường tiền tệ.Bởi vì vậy việc hoạch định một chính sách lãi suất đúng đắn ngoài việc quan tâm đến các luận điểm khoa học,còn phải tính toán đến bối cảnh và điêù kiện chính trị xã hội kinh tê trong mỗi thời kỳcủa mỗi nước ở những nước khác nhau thì có những quan niệm khác nhau về lãi suất cơ bản.Có nước cho rằng lãi suất cơ bản(lscb) là lãi suất thị trường,có nước khẳng định lscb là tỷ suất lợi nhuận bình quân của các ngành kinh tế.Nhiều nhà khoa lại dẫn chứng cụ thể lscb là lãi suất của thị trường liên ngân hàng libor ở anh,ở pháp...Môt số nước có nền kinh tế phát triển cao,lãi suất được tự do hoá.Như ở Pháp dùng lãi suất của thị trường liên ngân hàng làm lãi suất chỉ đạo (pibor) vì pháp là một nước mà lượng vốn ngân hàng nhiều hơn lượng vay vốn qua thị trường tài chính.Do đó mà viêc đảm bảo nhu vốn là do các ngân hàng lớn đảm nhận các ngân hàng lớn cho nhau vay vốn để đảm bảo thoả mãn cung cầu vốn trên thị trường. hồng kông có mức tăng trưởng kinh tế tới 12,3% năm 1997 từ năm 1981 tới 1988 bình quân là 7,1% năm. Hông kông thi hành chính sách lãi suất ba tầng. Có ba loại định chế được phép nhận tiền gưỉ của công chúng : Ngân hàng được cấp giấy phép,công ty nắm giữ tiền gửi được cấp giấy phép,công ty nắm giữ tiền gửi đã đăng ký.Hồng kông là một nền kinh tế thị trường tự do phương đông,vì vậy chính sách lãi suất ngân hàng cũng thả nổi.Các quan chức tiền tệ trung ương không có. ViênToàn quyền và hội đồng lập pháp chịu trách nhiệm công việc tài chính tiền tệ.Bí thư tài chính và Bí thư tiền tệ ra quyết định về công việc hàng ngày.Họ cũng được uỷ quyền làm chức năng của ngân hàng trung ương.hồng kông đuợc có chính sách lãi suất độc lập trong dài hạn.Một các ten hoạt động từ năn 1960.Hiệp hội ngân hàng Hồng kông đặt ra lãi suất tiền gửi tối đa các ngân hàng căn cứ vào đó mà tự do định lãi suất cụ thể.Việc không đánh thuế vào lãi suất được bãi bỏ trong hai năm1982,1983. Đối với Singapore: thị trường liên ngân hàng có hai thành phần cấu thành thị trường liên ngân hàng thực sự và thị trường triết khấu. Thông thường ngân hàng nội địa với số tiền gửi to lớn, là người cho vay thực, còn ngân hàng là người đi vay. Hoạt động của thị trường liên ngân hàng ảnh hưởng đến lãi suất ngắn hạn, đến giữa năm 1975 lãi suất này do Cacten ngân hàng dàn xếp. Cũng năm 1975, khi các chứng chỉ tiền gửi khả nhượng ra đời thì lãi suất được tự do hoá. Còn đối với Nhật Bản: Vào giai đoạn phát triển với tốc độ cao,thị trường tiền tệ của Nhật chỉ dành cho các liên ngân hàng và một số vị trí tài chính được chính thức công nhận sau này khi mở rộng thị trường tiền tệ cho các thành phần khác tham gia,thị trường liên ngân hàng gồm hai loại :thị trường mua tiền tệ (call money maket ) và thị trường thương phiếu (bills maket).Trước tháng 5/1971 chỉ có thị trường mua tiền tệ,dành cho những giao dịch cực ngắn hạn.Từ tháng 5/1971 số giao dịch dài hạn yếu ớt đổi thành thị trường thương phiếu mới thành lập.Thị trường mua tiền tệ chỉ trở lại phục phụ cho thương mại. Thị trường tiền tệ liên ngân hàng cung cấp một lãi suất tham chiếu cho mọi định chế tài chính.Lãi suất này được kiểm soát rất chặt chẽ bởi sự điều chỉnh của nhà nước bằng chính sách lãi suất nhân tạo ( lãi suất tiền gửi kỳ hạn từ 1997 tới nay của nhật chỉ có 0,29% năm,lãi suất của thị trường tiền tệ chỉ có 0,39% năm). Nói chung mỗi nước có cách hiểu lãi suất cơ bản khác nhau và có cách điều lãi suất khác nhau,tuỳ thuộc vào hoàn cảnh kinh tế,tình hình phát triển của thị trường tài chính tiền tệ các nước. Đối với Việt nam ta nền kinh tế còn kém phát triển,thị trường tài chính tiền tệ chưa phát triển cao, cơ chế lãi suất mặc dù đã được điều chỉnh ngày một thích ứng với thị trường tài chính nhưng vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Qua hơn 10 năm đổi mới cơ chế điều hành lãi suất, chính sách lãi suất đã ngày càng thích ứng với hoàn cảnh trong nước và khu vực vai trò của lãi suất ngày một phát huy,thị trường tài chính tiền tệ ngày càng đóng vai trò cao trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế. Từ việc xem xét kinh nghiệm của một số nước trên thế giới và phân tích tình hình kinh tế xã hội ở Việt nam thì tại điều 18 luật NHNN Việt nam quy định :" NHNN xác định và công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn " Điều 9 luật NHNN Việt nam xác định :" Lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh " Như vậy ta thấy NHNN điều hành lãi suất trên nguyên tắc vĩ mô ấn định một khung lãi suất và để cho các TCTD tự chủ trong kinh doanh phù hợp với yêu cầu của thị trường.Nhà nước không can thiệp quá sâu vào quá trình kinh doanh của các tổ chức tín dụng dần tiến tới tự do hoá lãi suất. 2. Căn cứ xác định lãi suất cơ bản. NHNN xác định và công bố lãi suất cơ bản còn các TCTD căn cư vào đó để xác định một lãi suất kinh doanh cho riêng mình trong giới hạn cho phép. Điều này không có nghĩa là NHNN bao cấp về lãi suất mà NHNN phải ban hành ra một lãi suất cơ bản vừa đảm bảo được cả lợi ích của người cho vay và người đi vay. Muốn thế khi xách định lãi suất cơ bản ngân hàng nhà nước cần dựa vào những yếu tố sau: T Đối với đồng Việt nam. - Chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế dự kiến hàng năm - Chỉ số lạm phát dự kiến trong năm - Lãi thực của người gửi tiền được hưởng khoảng 3%-4% năm nhằm đảm bảo lãi suất tiền gửi là số dương để khuyến khích người gửi tiền vào ngân hàng - Mục tiêu chính sách tiền tệ từng thời kỳ thắt chặt hay lới lỏng tiền tệ - Tình hình cung- cầu vốn tín dụng trên thị trường - Mối quan hệ giữa lãi suất với tỷ giá ngoại tệ - Lãi suất thị trường đấu thầu trái phiếu kho bạc nhà nước trong các phiên đấu thầu gần nhất - Lãi suất bình quân trên thị trường nội tệ liên ngân hàng thời gian gần nhất - Tình hình thị trường tài chính tiền tệ thế giới T Đối ngoại tệ. - Lãi suất cơ bản là lãi suất SIBOR kỳ hạn một năm thời điểm gần nhất. - Lãi suất tiền gửi tiết kiệm - tiền gửi khách hàng - Lãi suất thị trường liên ngân hàng bằng ngoại tệ - Biên độ dao động mức tối đa theo thông lệ quốc tế từ 2%-2,5% năm mà tổ chức tín dụng được cộng thêm vào lãi suất cơ bản dể hình thành lãi suất cho vay tối đa ngoài ra căn cứ vào tình hình biến động tỉ giá để NHNN tăng hoặc giảm biên độ dao động. Muốn ban hành ra một lãi suất cơ bản phù hợp cho từng thời kỳ thì đòi hỏi NHTW phải luôn cập nhật thông tin về các NHTM đồng thời các NHTM phải thường xuyên cung cáp các thông tin của mình cho NHTW. Từ đó NHTW phân tích đánh giá tình hình thị trường để ban hành ra một cơ chế lãi suất phù hợp với điều kiện đất nước và khu vực 3. Yêu cầu đặt ra với cơ chế lãi suất. - Đảm bảo lãi suất thực phải dương, muốn thế thì lãi suất phải ngày càng sát với thị trường hơn để cung - cầu quyết định. - Lãi suất phải được điều chỉnh mội cách linh hoạt mềm dẻo. Để đạt được điều này cần phải tiến đến cơ chế thị trường. - Lãi suất trong nước phải được quy định phù hợp với tình hình thị trường tài chính tiền tệ thế giới để tránh thất thoát các nguồn vốn, thu hút đầu tư nước ngoài. - Lãi suất phải phù hợp với mục tiêu phát triển đất nước của Đảng. Trong điều kiện hiện nay chính sách lãi suất tạo điều kiện cho huy động vốn cho phát triển kinh tế, kích cầu, ổn định tiền tệ... Bảo vệ lợi ích của người đi vay và người cho vay,tạo điều kiện mở rộng tín dụng,đối với lãi suất ngoại tệ tạo điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài. IV. Các cách lựa chọn lãi suất cơ bản. Hiện nay đứng trước điều kiện nền kinh tế nước ta có rất nhiều quan điểm khác nhau về cách xác định và điều hành lscb của NHNN,mỗi cách có những ưu nhược điểm khác nhau.Ta thấy nổi nên một số cách sau: T Các cách điều hành lãi suất đối với VND Cách 1: Lấy lãi suất tái cấp vốn của NHNN làm lãi suất cơ bản Theo cách này ta thấy nó có những ưu và nhược điểm như sau về ưu điểm : Ta thấy đây là biện pháp phổ biến mà NHTW các nước áp dụng,tuy nhiên lãi suất được lựa chọn là lãi suất tái cấp vốn.Do lãi suất này do NHNN chủ động công bố và được xem xét tính toán tương đối thường xuyên nên nó đóng vai trò quyết định đối với lãi suất kinh doanh cũnh như cung cầu vốn của các tổ chức tín dụng. Đối với Việt nam,do các nghiệp vụ triết khấu của NHTW chưa phát triển,việc tái cấp vốn thực hiện tương đối trực tiếp,vì vậy lãi suất cấp vốn của NHTW để điều hành lãi suất sẽ thích hợp hơn là lãi suất triết khấu.NHTW chỉ xác định và công bố một mức lãi suất chỉ đạo đối với các TCTD,do vậy thuận tiện cho việc điều hành quản lý chính sách lãi suất của NHNN và tạo điều kiện chủ động trong kinh doanh cảu các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên theo Luật NHNN Việt nam quy định "NHNN xác địnhvà công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn ".Vì vậy có quan điểm cho rằng không thể lấy lãi suất tái cấp vốn làm lãi suất cơ bản mà phải công bố mức lãi suất khác với cái tên gọi là lãi suất cơ bản. Lãi suất tái cấp vốn là công cụ điều hành chính sách tiền tệ trực tiếp để điều tiết lượng tiền cung ứng của NHTW và khối lượng vốn khả dụng của hệ thống NH đối với nền kinh tế và gián tiếp tác động vào lãi suất cho vay và huy động vốn thông qua tác động của cung cầu về vốn.Tuy thế do cơ chế lãi suất vận hành chưa thông suất theo cơ chế thị trường,các TCTD chưa được tự do tiếp cận nguồn vốn của NHTW,nên tác động của lãi suất tái cấp vốn đến mặt bằng lãi suất chung còn rất hạn chế Mặc dù vậy đối với nước ta áp dụng lãi suất triết khấu hoặc tái cấp vốn làm lãi suất cơ bản là chưa phù hợp cho lắm bởi vì chúng ta chưa có sự phối hợp đồng bộ của các công cụ chính sách tiền tệ chủ yếu khác đó là : + Nghiệp vụ thị trường mở chưa được thực hiện tốt + Dự trữ bắt buộc : Quy định hiện hành về dự trữ bắt buộc thiếu cơ sở khoa học về lý thuyết tạo tiền của các NHTM, về sự khác nhau trong việc tạo tiền ở NHTM đang hoạt động ở Việt nam với NHTM ở các nước có hệ thống ngân hàng phát triển,về sự khác nhau về quản lý tài sản Nợ,tài sản Có ở NHTM đang hoạt động ở Việt nam và NHTM ở các nước có hệ thống ngân hàng phát triển.Do đó tạo ra việc bất bình đẳng trong việc thực hiện quy định về dự trữ bắt buộc giữa các TCTD. Ta thấy cách chọn này chỉ thực sự phát huy tác dụng tốt khi nó hội tụ đủ những điều kiện quy định đó là nghiệp vụ thị trường mở ở nước đó phải tương đối phát triển, các quy định về dự trữ bắt buộc cũng cần phải thống nhất. cách 2. NHNN công bố trần lãi suất cho vay như hiện nay làm lãi suất cơ bản, các TCTD căn cứ vào trần đó để định mức lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi cụ thể từng thời kỳ khác nhau. Ta thấy cách chọn này về nguyên tắc là phù hợp với luật NHNN, vì ở đây lựa chọn trần lãi suất cho vay làm lãi suất cơ bản để làm cơ sở cho các TCTD ấn định mức lãi suất cho vay và huy động vốn.NHNN công bố một mức lãi suất trần nhưng có thể quy định một số mức biên độ phù hợp với các loại hình TCTD. Lựa chọn lãi suất cơ bản theo cách này nó có những ưu và nhược điểm sau: ưu điểm: Tạo chủ động linh hoạt cho các TCTD trong kinh doanh và điều tiết quan hệ cung cầu vốn.Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các TCTD trong khuôn khổ trần lãi suất. Các TCTD không được cho vay với lãi suất vượt trần,nhằm bảo vệ lợi ích của người vay,tạo mặt bằng về phân phối lợi nhuận giữa các thành phần kinh tế với các tổ chức tín dụng và người gửi tiền. việc quy định cho vay theo trần lãi suất tạo ra mặt bằng chung về lãi suất cho vay trong phạm vi cả nước nên tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thanh tra kiểm tra,giám sát về lãi suất của NHNN. Việc xác định công bố điều hành chính sách lãi suất của NHNN dễ dàng linh hoạt thuận tiện. tuy nhiên khi chọn theo cách này cũng còn tồn tại một số mặt: Việc quy định trần lãi suất cho vay làm lãi suất cơ bản là không phù hợp với thông lệ quốc tế và mang nặng tính hành chính trong điều hành lãi suất. Do tính chất điều hành trực tiếp nhiều hơn gián tiếp có thể cản trở quá trình tự do hoá lãi suất cũng như định hướng chuyển dần từ công cụ trực tiếp sang công cụ gián tiếp của NHTW. Việc quy định nhiều trần lãi suất đối với những địa bàn khác nhau tạo ra sự bất cập trong quản lý. Theo em để điều hành lãi suất cách này đạt hiệu quả cao thì: + Trần lãi suất phải đủ rộng và thông thoáng phù hợp với yêu cầu của thị trường + Cần quy định trần chung cho các TCTD + NHNN cũng cần phải luân xem xét nhu cầu của thị trường để đề ra một trần hợp lý. cách 3. NHNN công bố một mức lãi suất cơ bản trên cơ sở lãi suất đầu vào, đồng thời ấn định biên độ để các TCTD ấn định lãi suất cho vay. Theo cách này về nguyên tắc vẫn là kiểm soát trần lãi suất và tự do hoá lãi suất tiền gửi.Theo cách này ta thấy có những ưu và nhược sau đây: Về ưu điểm : NHNN quản lý lãi suất cho vay cao nhất và chủ động điều chỉnh lãi suất cho vay cũng như biên độ so với lãi suất cơ bản. Các TCTD chủ động và linh hoạt trong việc ấn định lãi suất tiền gửi và cho vay phù hợp với biến động của thị trường tiền tệ và đặc điểm hoạt động của từng loại hình tín dụng trên các địa bàn khác nhau. Việc điều hành chính sách lãi suất của NHNN mang tính chất quy định về nguyên tắc chung,không can thiệp qúa sâu vào hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Về nhược điểm: Điều hành lãi suất theo cách này đòi hỏi phải có một biên độ tương đối rộng phù hợp với mọi loại cho vay,đối tượng vay,địa bàn hoạt động vì vậy giảm hiệu lực điều hành hoạt động của NHTW. Nếu quy định nhiều biên độ cũng có phức tạp khi xác định biên độ giao động và các tổ chức tín dụng nào trong điều kiện nào sẽ được cộng thêm biên độ.Mặt khác,điều hành lãi suất theo cách này làm cho các tổ chức tín dụng sẽ đồng loạt cộng biên độ vào lãi suất cơ bản,sẽ tạo ra một trần lãi suất chung cho cả nước và sẽ không phù hợp với đặc điểm của các tổ chức tín dụng khác nhau, các vùng khác nhau triệt tiêu tính cạnh tranh lành mạnh và sẽ tạo ra cạnh tranh không lành mạnh và không điều hoà được vốn tín dụng từ nơi thừa đến nơi thiếu. Cách 4 : NHNN công bố lãi suất cơ bản dựa trên cơ sở lãi suất cho vay tối thiểu đủ bù đắp các chi phí và có lợi nhuận của các tổ chức tín dụng, và biên độ dao động để các TCTD được phép ấn định mức lãi suất cho vay cụ thể. Ta thấy điều hành lãi suất theo cách này dựa trên kinh nghiệm điều hành lãi suất của Malaysia, NHTW công bố lãi suất cơ sở dựa trên các yếu tố: chi phi về nguồn vốn, chi phí về dự trữ bắt buộc, chi phí hành chính nhân viên...Biên độ lợi nhuận cố định 0,25% năm. Lãi suất cho vay của các TCTD Malaysia không được thấp hơn mức lãi suất cơ sở của NHTW đã quy định và được phép cộng thêm biên độ tối đa (hiện nay là 2,5% năm) để ấn định các mức lãi suất cho vaycụ thể. Điều hành lãi suất theo cách này có những ưu nhược điểm sau: + Ưu điểm: Phương án này về nguyên tắc là NHNN kiểm soát cả lãi suất cho vay tối thiểu và lãi suất cho vay tối đa, tự do hoá lãi suất tiền gửi của các tổ chức tín dụng. Việc điều hành chính sách lãi suất của NHNN mang lại tính chỉ đạo, NHNN không can thiệp trực tiếp vào lãi suất kinh doanh của tổ chức tín dụng.Các tổ chức tín dụng chủ động và linh hoạt trong việc ấn định lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay,phù hợp với biến động của thị trường tiền tệ và đặc điểm họat động của từng loại hình tổ chức tín dụng và các vùng khác nhau. + Nhược điểm : Vì có nhiều loại cho vay, đối tượng vay,địa bàn hoạt động khác nhau, nên nếu NHNN quy định một mức biên độ thì mức này sẽ phải tương đối rộng để phù hợp với mọi loại cho vay. Nếu quy định nhiều biên độ sẽ phức tạp khi xác định các mức biên độ giao động cụ thể áp dụng cho từng loại cho vay, từng tổ chức tín dụng.Các tổ chức tín dụng sẽ đồng loạt cộng biên độ tối ta vào lãi suất cơ bản sẽ tạo ra một trần lãi suất chung cho cả nước và sẽ không phù hợp với tính chất đặc điểm của các tổ chức tín dụng và các vùng khác nhau, triệt tiêu tính cạnh tranh lành mạnh và sẽ tạo cạnh tranh không lành mạnh và không điều hoà được vốn tín dụng từ nơi thừa đến nơi thiếu. T Đối với lãi suất cơ bản là ngoại tệ: Lãi suất cơ bản : Lấy lãi suất Sibor của USD kỳ hạn 6 tháng hoặc 1 năm làm lãi suất cơ bản cho lãi suất ngoại tệ, tổ chức tín dụng được cộng với biên độ giao động do NHNN quy định để ấn định lãi suất cho vay bằng USD.Lãi suất cho vay các đồng tiền khác cũng do tổ chức tín dụng ấn định. Cơ sở xác định lãi suất cơ bản và biên độ giao động: - Căn cứ vào lãi suất Sibor của USD để công bố lãi suất cơ bản và điều chỉnh khi cần thiết. - Căn cứ xác định biên độ giao động của lãi suất ngoại tệ: + Lãi suất trên thị trường quốc tế. + Mức phí của thị trường quốc tế về cho vay ngoại tệ + Quan hệ tỷ giá ngoại tệ trong nước. + Quan hệ cung cầu vốn ngoại tệ và nội tệ trong nước. + Chủ chương thu hút vốn trong nước và ngoài nước của nhà nước. V. Định hướng điều hành lãi suất cơ bản ở Việt nam và vấn đề tự do hoá lãi suất: 1. Định hướng điều hành lãi suất ở Việt nam trong hoàn cảnh mới : Xem xét quá trình đổi mới chính sách lãi suất trong hơn 10 năm, ta thấy chính sách lãi suất ngày càng tiến gần hơn tự do hoá lãi suất, thích ứng với thị trường hơn. Nhưng vấn đề đặt ra là có hay không áp dụng tự do hoá lãi suất. Tiến tới tự do hoá lãi suất là việc cần thiết nhưng điều này chỉ đúng và có hiệu quả cao khi nó hội tụ đủ những điều kiện cần thiết. Nếu không thì nó sẽ không phát huy tác dụng thúc đẩy kinh tế phát triển mà nó còn làm kìm hãm sự phát triển kinh tế. Bởi vì thế mà tuỳ thuộc vào hoàn cảnh kinh tế xã hội, tình hình, mức độ phát triển của thị trường tài chính tiền tệ mỗi nước mà có những định hướng điều hành chính sách lãi suất khác nhau. Đối với Việt nam ta đã trải qua hơn 10 năm đổi mới, ngành ngân hàng đã đạt được những thành tựu nhất định góp phần không nhỏ vào những thành tựu chung của nền kinh tế.Cùng với quá trình từng bước chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường các nghiệp vụ ngân hàng đã không ngừng được đổi mới và phát triển để phù hợp với điều kiện kinh tế nước ta.Trong nhiệm vụ xây dựng và thực hiện điều hành chính sách tiền tệ, NHNN đã rất chú trọng đến việc đổi mới các công cụ điều tiết như : hạn mức tín dụng, dự trữ bắt buộc,tỷ giá. Nhưng có lẽ quan trọng nhất vẫn là công cụ quản lý lãi suất, lãi suất được coi là công cụ nhạy cảm nhất có diện ảnh hưởng lớn nhất. Thời gian qua,từ thực tế sử dụng công cụ lãi suất chúng ta đã rút được ít nhiều kinh nghiệm, đặc biệt là chuyển từ lãi suất âm sang lãi suất dương. Tuy nhiên cánh áp dụng vẫn còn mang tính áp đặt trực tiếp, chính vì vậy vấn đề điều hành lãi suất cần phải được cải tiến để phù hợp hơn trong giai đoạn tới Xét thực trạng nền kinh tế Việt nam, ta thấy kinh tế Việt nam vừa vượt qua giai đoạn từ một nền kinh tế kế hoạch hoá đậm nét, tính quan liêu, bao cấp để tiến tới phát triển theo hướng kinh tế thị trường, theo định hướng XHCN, có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Thị trường tài chính tiền tệ chưa ổn định vững vàng, hệ thống NHTM còn nhỏ bé chưa đủ sức cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, trong đó thị phần chủ yếu là các NHTM quốc doanh. Với tình hình như vậy việc điều hành lãi suất cơ bản cần chú ý đến các vấn đề sau: T Lãi suất cơ bản,trước hết phải được xác định đúng chuẩn mực để đúng với vai trò lãi suất chỉ đạo, căn cứ để xác định lãi suất cơ bản phải dựa trên các chỉ tiêu kinh tế cũng phải được tính toán chính xác như: chỉ số lạm phát dự kiến, chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế,mối quan hệ cung cầu về vốn và yêu cầu của việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, mối quan hệ tỷ giá ngoại tệ đối với đồng Việt nam. Chỉ khi nào lãi suất cơ bản được xác định đúng mới có tác dụng chỉ đạo, làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng quy định cho lãi suất của mình được thị trường chấp nhận, đồng thời kinh doanh được. T Vai trò quản lý Nhà nước của NHNN thể hiện trong việc điều hành lãi suất cơ bản phải được đề cao, thông qua việc quản lý lãi suất cơ bản NHNN có thể giám sát, kiểm tra các tổ chức tín dụng trong việc quy định và thực hiện lãi suất huy động vốn, lãi suất cho vay của mình phù hợp với lãi suất chỉ đạo, phù hợp với lãi suất trên cùng địa bàn,đảm bảo được kinh doanh ngăn ngừa được tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các tổ chức tín dụng. T Phát huy cao độ tính tự chủ trong kinh doanh của các tổ chức tín dụng, tạo thuận lợi cho các tổ chức tín dụng linh hoạt trong việc tự do định lãi suất cụ thể, làm quen dần với tính cạnh tranh lành mạnh trong lãi suất thị trường giữa các tổ chức tín dụng nhưng vẫn trong khuôn khổ của lãi suất cơ bản mà NHNN chỉ đạo, quản lý. Từ việc xem xét thực trạng của nền kinh tế và thị trường tài chính tiền tệ, nhận thức về lãi suất cơ bản như ở trên thì trong thời gian này Việt nam có những hướng điều hành lãi suất khác nhau mỗi hướng có những ưu và nhược điểm riêng. Thứ nhất : Có thể điều hành theo phương thức NHNN công bố một mức cho vay cao nhất của tổ chức tín dụng đối với các tổ chức kinh tế trong từng thời kỳ tuỳ theo sự biến động của các chỉ tiêu kinh tế liên quan. Sau đó các tổ chức tín dụng tự do quy định mức lãi suất cho vay cụ thể dưới mức lãi suất cơ bản và quy định lãi suất huy động vốn sao cho tương quan với mức lãi suất trên địa bàn,thị trường chấp nhận tổ chức kinh doanh có lãi. Việc điều hành chính sách lãi suất theo hướng này có thể thoả mãn yêu cầu đặt ra đối với quản lý và điều hành lãi suất cơ bản trong điều kiện nền kinh tế Việt nam bởi vì : ấn định lãi suất cho vay cao nhất dựa trên các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp của Nhà nước là có căn cứ xác định và ổn định trong thời kỳ tương đối dài,mức lãi suất cơ bản vì thế tương đối chuẩn xác phù hợp với các chỉ tiêu kinh tế chung và cũng đựơc ổn định tương đối lâu dài ít biến động, các tổ chức tín dụng cũng thuận lợi hơn nhiều trong việc định lãi suất cho kế hoạch ổn định của mình. Việc thường xuyên thay đổi lãi suất cũng là thường xuyên thay đổi giá thành trong kinh doanh, thay đổi cả kế hoạch tài chính,điều mà các tổ chức tín dụng không muốn và không nên để xảy ra. Mức lãi suất cho vay cao nhất là mức lãi suất cụ thể không cần có khung, có biên độ giao động và bất cứ ở đâu NHNN cũng có thể nhận biết và quản lý được thuận lợi trong việc thanh tra,giám sát các tổ chức tín dụng trong khi thực hiện chính sách lãi suất.Các tổ chức tín dụng tự do định mức lãi suất cụ thể nhưng không được tuỳ tiện do có giới hạn mức cao nhất,điều này ngăn chặn việc các tổ chức tín dụng độc quyền ép người vay phải vay với lãi suất cao khi họ cần vốn, bảo vệ lợi ích người vay và người gửi. Khuyến khích các tổ chức tín dụng tự chủ trong việc định ra mức lãi suất kinh doanh phù hợp nhưng phải phù hợp với mặt bằng mức lãi suất chung, nghĩa là đòi hỏi các tổ chức tín dụng phải tính toán hợp lý trong các khâu kinh doanh, tiết kiệm chi phí để có lãi suất cạnh tranh được trong việc huy động vốn và cho vay. Tuy nhiên theo hướng này vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế đó là duy trì thói quen của các tổ chức tín dụng luôn luôn chỉ muốn cho vay với mức lãi suất sát trần để có lơị nhuận cao nhất hoặc tập trung vốn vào đầu tư ở những vùng kinh tế phát triển chấp nhận lãi suất cao mà bỏ qua những vùng kinh tế phát triển thấp, cần được ưu tiên phát triển,ưu tiên lãi suất thấp để phát triển. Thứ hai : Không chỉ định hướng điều hành lãi suất theo hướng ở trên mà ta có thể điều hành lãi suất theo lãi suất tái cấp vốn như một loại lãi suất chiết khấu có tính chất định hướng. Lãi suất tái cấp vốn cần phải được sử dụng linh hoạt hơn trên nguyên tắc, người cho vay cuối cùng nhằm đảm bảo an toàn hệ thống và phục vụ mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ. Đồng thời NHNN cũng cần phải tiếp tục chuẩn bị điều kiện cần thiết để thiết lập thị trường mở và hoàn thiện thị trường tiền tệ như thị trường liên ngân hàng để có thể sử dụng lãi suất trên thị trường này một cách hiệu quả hơn. Đặc biệt để có thể có được một lãi suất cơ bản linh hoạt hơn trần lãi suất như hiện nay mà vẫn phù hợp với điều kịên thực tế. Với trường hợp như nước ta, để mở rộng quyền tự chủ của các ngân hàng trong việc quy định lãi suất trên cơ sở vẫn đảm bảo tính khách quan và có sự tương đồng giữa các ngân hàng, NHNN có thể đưa ra công thức tính chuẩn chung để các NHTM tự tính lãi suất cơ bản cho mình.Công thức đó bao gồm : chi phí hoạt động (Sau khi đã tính đến cả chi phí đáp ứng yêu cầu về dự trữ bắt buộc), các chi phí cho vay( Gồm cả chi phí cho lương cán bộ,chi phí hành chính và các chi phí khác liên quan đến việc cho vay nhưng không bao gồm liên quan đến các khoản nợ khó đòi) và một tỷ lệ lợi nhuận cho phép. Tuy nhiên để tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm soát của NHTW phù hợp với năng lực và điều kiện kinh tế,thực tế trước mắt NHNN nên làm thí điểm ở một số NHTM trên những địa bàn như thành phố lớn, những vùng núi.Các NHTM được chọn sẽ xác định lãi suất cơ bản theo công thức NHNN đã quy định, sau từng thời kỳ NHNN sẽ tổng hợp thông tin của các tổ chức tín dụng sau đó lấy trung bình chung số học gia quyền của các mức lãi suất cơ bản của các tổ chức tín dụng đó làm mức lãi suất cơ bản của nền kinh tế. So sánh hướng này với hướng điều hành theo trần lãi suất thì hướng này đã tính đến những chi phí hoạt động thực tế, tỷ lệ lợi nhuận và mức độ rủi ro nên nó phù hợp với hoạt động của các tổ chức tín dụng hơn. Thứ ba : Có thể điều hành lãi suất cơ bản theo cách xác định lãi suất cơ bản như sau : Lãi suất cơ bản của nền kinh tế là lãi suất huy động vốn của nền kinh tế nói chung cộng với chi phí hoạt động của các trung gian tài chính : Lãi suất cơ bản của nền kinh tế = Lãi suất huy động bình quân + Chi phí hoạt động trung gian tài chính T Khi xác định lãi suất huy động bình quân của nền kinh tế đối với VND cần quan tâm đến các yếu tố sau : Chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế hàng năm,chỉ số lạm phát dự kiến,lãi thực của người gửi tiền dược hưởng khoảng 3%-4%năm nhằm đảm bảo chính sách lãi suất thực dương để khuyến khích người gửi tièn vào ngân hàng,tỷ suất lợi nhuận bình quân,mục tiêu chính sách tiền tệ tình hình cung cầu vốn lãi suất trái phiếu... T Khi xác định lãi suất huy động bình quân của với nền kinh tế đối với ngoại tệ cần chú ý: Lãi suất cơ bản là lãi suất SIBOR thời điểm gần nhất,lãi suất tiền gủi tiết kiệm,lãi suất khách hàng,lãi suất thị trường liên ngân hàng bằng ngoại tệ... T Cơ sở xác định chi phí trung gian tài chính: Thu nhập và chi phí đối với các tổ chức tín dụng có tính đến quy mô hoạt động và đặc điểm của thị trường tín dụng,hệ số sử dụng vốn bình quân sau khi đã thực hiện dữ trữ bắt buộc,các chi phí rủi ro,các chi phí khác. NHNN cần xác định và công bố mức lãi suất cơ bản chỉ đạo đối với các tổ chức tín dụng cho vay nền kinh tế,như vậy xẽ thuận tiện trong việc điều hành quản lý chính sách lãi suất của ngân hàng nhà nước và tạo điều kiện chủ động trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng.Với chính sách lãi suất này về cơ bản giúp các tổ chức tín dụng tự do hoá mức lãi suất cho vay và tiền gửi huy động được linh hoạt phù hợp với điều kiện hoạt động cung cầu vốn trên thị trường. Để tạo điều kiện cho việc điều hành chính sách lãi suất trong thời gian tới đòi hỏi chúng ta cần phải có chính sách hỗ trợ kèm theo nhằm làm cho công cụ này thực sự kích thích tăng trưởng kinh tế, kinh doanh ngân hàng ổn định và phát triển thì đề nghị Chính phủ có những chính sách cơ bản sau: - Đối với chính sách thuế của nhà nước cần phải có điều tiết giữa các vùng các khu vực và các nghành để quá trình kinh doanh đạt hiệu quả - Chính phủ cần có chính sách bảo hộ các khu vực thực hiện cơ chế chính sách lãi suất mới nhằm đảm bảo kinh doanh phát triển và ổn định lâu dài. - NHNN cần đưa ra các chính sách dự trữ bắt buộc hạn mức tín dụng của nền kinh tế chính sách tỷ giá và cơ chế tín dụng thanh toán phù hợp với chính lãi suất cơ bản trong thời kỳ mới - Hệ thống NHTM cần tổ chức bộ máy diều hành và thực hiện cơ chế lãi suất mới có hiệu quả. Từ việc xem xét ba hướng điều hành điển hình trên ta thấy để tìm ra một định hướng điều hành lãi sao cho phù vừa hợp với thể chính trị vừa đảm bảo các chỉ tiêu kinh tế đặt ra thật không phải là chuyện dễ. Mỗi hướng điều hành có những ưu điểm nhược điểm khác nhau,cách này mạnh mặt này,cách kia mạnh mặt khác. Nhưng xét vào thực trạng nền kinh tế nước ta mà nói thì theo em đi theo định hướng trần lãi suất cho vay trong thời gian này vẫn có hiệu quả hơn cả.Bởi vì ta thấy rõ ràng là nền kinh tế nước ta còn kém phát triển nhất là thị trường tài chính tiền tệ, nghiệp vụ thị trường mở còn kém phát triển,cho nên chúng ta không thể chọn lãi suất cơ bản là lãi suất triết khấu được. Hơn nữa đi theo hướng lãi suất cơ bản là lãi suất huy động vốn bình quân của nền kinh tế thì liên quan đến quá nhiền các chỉ tiêu,mà trình độ chúng ta bây giờ còn nhiều hạn chế cho nên việc xác định nhiều chỉ tiêu sẽ không chính xác. Ta thấy chỉ đi theo hướng điều hành theo trần lãi suất là hợp lý hơn cả bởi vì nó phù hợp với tinh thần của luật NHNN hơn đồng thời nó cũng phù hợp với hoàn cảnh nền kinh tế nước ta bây giờ hơn. 2. Vấn đề tự do hoá lãi suất. a. Quan điểm chung : Tự do hoá lãi suất nghĩa là chúng ta "thả nổi" lãi suất,lãi suất hoàn toàn do thị trường quyết định.Chuyển từ cơ chế lãi suất kiềm chế sang cơ chế lãi suất thả nổi cũng giống như chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập chung sang cơ chế thị trường, ứng với mỗi cơ chế có những mặt tích cực và hạn chế khác nhau. Nói chung dù có chuyển đổi như thế nào chăng nữa cũng nhằm mục đích là thúc đẩy nền kinh tế ngày một phát triển. Chuyển từ cơ chế này sang cơ chế kia là một vấn đề quan trọng bởi nó ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế của cả đất nước. Bước chuyển đổi đó đúng phù hợp thì sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển và ngược lại nếu không đúng,không phù hợp thì sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế, có thể còn phá hoại nền kinh tế.Do đó thực hiện bất kỳ một bước chuyển đổi nào cũng cần phải xem xét những điều kiện cần thiết cuả quá trình chuyển đổi, mục tiêu của sự chuyển đổi đó, nhận xét xem chuyển đổi sang hướng này có những mặt tích cực và hạn chế gì? Xét chung toàn bộ nền kinh tế thế giới ta thấy chúng ta không thể quy định lãi suất một cách cứng nhắc theo kiểu hành chính gò bó bắt buộc. Thị trường vốn luôn sôi động khó độc quyền. Do đó quá trình tiến tới 'tự do hoá lãi suất " là quá trình mang tính quy luật như vậy lãi suất mới trở thành đòn bẩy thúc đẩy nền kinh tế. song chúng ta cũng thể thả nổi lãi suất hoàn toàn mà phải có định hướng, chính sách cụ thể phù hợp với các TCTD,điều kiện kinh tế khác nhau, thị trường tài chính tiền tệ từng khu vực.Bởi tự do hoá lãi suất không phải hoàn toàn tích cực mà nó cũng có mặt tiêu cực của nó. Xét về tự do hoá lãi suất ta thấy nó có những mặt tích cực và tiêu cực sau : Về mặt tiêu cực : Ta thấy tự do hoá lãi suất là bước đi đúng theo quy luật và là điều cần hướng tới.Bởi tự do hoá lãi suất nó đảm bảo phản ánh đúng quan hệ cung- cầu thị trường làm cho việc phân phối vốn có hiệu quả nhất.Tự do hoá lãi suất sẽ làm cho nguồn vốn tín dụng từ nơi thừa đến nơi thiếu đáp ứng yêu cầu của thị trường, nguồn vốn len lỏi đến mọi ngóc ngách của nền kinh tế,phát triển kinh tế. Chính phủ hay một NHNN nào đó không thể phân phối nguồn vốn một cách hiệu quả cho hàng ngàn nhu cầu sử dụng khác nhau cho dù bộ máy hành chính thanh tra có phình ra đến đâu đi chăng nữa.Có rất nhiều quan điểm khác nhau về điều hành lãi suất,mỗi quan điểm đều có những nhược điểm và ưu điểm riêng.Mỗi người đứng trên quan điểm riêng của mình để xử lý bài toán lãi suất, nhiều lúc hầu như bài toán không có lời giải cuối cùng. Nhưng nếu tự do hoá lãi suất sẽ giải quyết được vấn đề này,bởi lãi suất do thị trường quyết định lúc này buộc NHTƯ cũng thay tư duy trong điều hành lãi suất của mình theo cơ chế thị trường. Ngày nay chúng ta đang sống trong môi trường toàn cầu hoá nhanh chóng mà toàn cầu hoá tài chính là điển hình nhất của quá trình này. Nước ta bước sang cơ chế thị trường không thoát khỏi sự hội nhập này.Buộc chúng ta phải tìm mọi cách thâm nhập sâu vào thị trường thế giới để tận dụng những tiềm năng của nó để phát triển kinh tế đất nước.Trong điều kiện ngày nay chúng ta muốn phát triển nền kinh tế đất nước được buộc chúng ta phải phát huy tốt hai nguồn lực chủ yếu là nguồn lực trong nước và nguồn lực nước ngoài.Nguồn lực nước ngoài là động lực phát triển nguồn lực trong nước, muốn thế chúng ta phải nhanh chóng tiếp thu những tinh hoa về khoa học công nghệ thế giới,mặt khác nguồn đầu tư nước ngoài cũng cần phải khai thác triệt để, mở rộng quan hệ hợp tác trong lĩnh vực tín dụng,đầu tư... Muốn làm được điều này rõ ràng là chúng ta không thể giữ mãi cơ chế kiềm chế lãi suất như trong cơ chế bao cấp trước đây được mà chúng ta phải dần tiến tới tự do hoá lãi suất hợp lý. Nhìn chung khi nói đến mặt lợi và bất lợi của tự do hoá lãi suất cũng giống như nói mặt lợi và bất lợi của cơ chế thị trường. Chỉ có điều là tự do hoá lãi suất là một phần nhỏ của thị trường tài chính tiền tệ trong cơ chế thị trường.Nói đến mặt bắt lợi của tự do hoá lãi suất ta có thể đưa ra một số ý sau: Về mặt lý luận mà nói khi thực hiện một cuộc cải cách nào cũng cần phải hội tụ đầy đủ những điều kiện thì mới thành công được, nếu những điều kiện đó chưa đủ nhất là những điều kiện cần thiết thì sẽ rất bất lợi khi cải cách bởi đây là cuộc cải cách non. Nói đến tự do hoá lãi suất là phải nói đến hệ thống tín dụng nước đó,thị trường tài chính tiền tệ còn kém phát triển thì tự do hoá lãi suất sẽ không có lợi.bởi các công cụ của thị trường tài chính tiền tệ chưa phát triển vững mạnh,thì việc quản lý thị trường tái chính là rất khó khăn. Nếu như cứ cố tự do hoá lãi suất sẽ làm cho NHTW không kiểm soát được thị trường này, dẫn đến khủng hoảng tài chính, ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Khi tự do hoá lãi suất làm cho các mục tiêu của chính sách lãi suất đối với các đối tượng ưu tiên là khó thực hiện bởi nếu Chính phủ áp đặt vào hệ thống tài chính quá nhiều mục tiêu quốc gia như chính sách ưu đãi đối với đối tượng chính sách, vùng nông thôn miền núi, vv... thì rõ ràng là tự do hoá lãi suất không thể đạt được. Khi huỷ bỏ kiểm soát lãi suất sẽ làm cho tăng quá mức lãi suất cùng với cơ cấu nợ không vững chắc của các doanh nghiệp, vay vốn và dự đoán vào khả năng phá giá trong tương lai có thể sẽ làm giảm mạnh việc đi vay. Tự do hoá lãi suất sẽ rất nguy hiểm nếu như tình hình kinh tế vĩ mô chưa thực sự vững chắc để chịu những áp lực của việc tự do hoá lãi suất hoàn toàn, như vấn đề khủng hoảng tài chính khu vực sẽ làm mất ổn định vĩ mô, qua việc tăng lạm phát, nợ nước ngoài và làm suy giảm tăng trưởng kinh tế. b. Vấn đề tự do hoá lãi suất đối với Việt nam : Quay trở lại đối với Việt nam của chúng ta liệu trong điều kiện hiện nay chúng ta đã đủ điều kiện tự do hoá lãi suất hay chưa ? Cũng như cơ chế thị trường mà chúng ta đã chọn, chúng ta luôn nói rằng : " chuyển sang cơ chế thị trường theo định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước ". Do đó tự do hóa lãi suất cũng vậy chúng ta không thể thả nổi lãi suất một cách hoàn toàn được bởi điều kiện của nước ta chưa cho phép. Xem xét tình hình phát triển kinh tế, thị trường tài chính tiền tệ của nước ta ta thấy chúng ta còn những hạn chế cản trở việc tự do hoá lãi suất như sau : - Nền tảng kinh tế vĩ mô chưa ổn định : nguy cơ tái lạm phát vẫn còn tiềm ẩn ( lạm phát tăng từ 3,6% năm 1997 lên 9,2% năm 1999) ngân sách vẫn còn căng thẳng, tích luỹ nội địa thấp, vốn đầu tư còn thiếu và phụ thuộc khá lớn vào nước ngoài ( đến 50% ). - Xuất phát điểm của nền kinh tế nước ta ở mức quá thấp. - Khu vực sản xuất ( nhất là khu vực Nhà nước ) hoạt động kém hiệu quả, đang trong giai đoạn chấn chỉnh, sắp xếp, cổ phần hoá. - Hệ thống ngân hàng, nhất là các ngân hàng thương mại cổ phần vẫn còn yếu kém : vốn nhỏ, trình độ quản lý, đội ngũ cán bộ còn bất cập so với đòi hỏi khách quan. - Hiện nay các công cụ tài chính như thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác để thực hiện nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu chưa được phổ biến. Hơn nữa nghiệp vụ tái cấp vốn của NHNN chưa thực hiện đúng nội dung kinh tế của nó, chủ yếu còn mang tính chất cho vay trực tiếp. Do đó công cụ lãi suất tái chiết khấu chưa đủ sức mạnh chi phối lãi suất thị trường. - Nghiệp vụ thị trường mở hoạt động còn kém hiệu quả gây khó khăn cho việc cung ứng tiền và lãi suất. - Tình hình kinh tế tài chính các nước trong khu vực và thế giới, sau cuộc khủng hoảng vừa qua đang phải đối đầu với nhiều thách thức. - Trình độ quản lý nền kinh tế vĩ mô của các cơ quan vĩ mô trong những năm qua đã có những bước tiến khá dài, nhưng so với yêu cầu đặt ra vẫn chưa thể đáp ứng ngay được. Đối với nước ta bây giờ điều hành lãi suất theo cách nào đi nữa theo em vẫn phải đảm bảo sự điều hành của NHTW và nó phải thực hiện được những mục tiêu kinh tế đã đề ra. Trong điều kiện trước mắt, ta thấy phương án khống chế trần lãi suất bằng cách công bố lãi suất cơ bản trên cơ sở các yếu tố và chỉ tiêu kinh tế đã đặt ra, đồng thời công bố biên độ cho giao động cho phép để các tổ chức tín dụng xác định lãi suất cho vay của mình là phương án tối ưu hơn cả. kết luận Qua việc nghiên cứu đề tài này ta thấy rõ ràng rằng để tìm ra một cơ chế lãi suất phù hợp đối với điều kiện nền kinh tế đất nước và khu vực là một việc khó.Để cơ chế điều hành lãi suất theo lãi suất cơ bản đạt hiệu quả cao đòi hỏi trước hết chúng ta phải nắm vững cách hiểu lãi suất cơ bản là gì? Đặc biệt là cách hiểu này phải dựa trên tinh thần của luật NHNN.Từ đó chúng ta phải xem xét đánh điều kiện kinh tế đất nước, nhất là thị trường tài chính tiền tệ, mức độ hoại động của các TCTD để chúng ta đưa ra một cơ chế lãi suất phù hợp, phát huy đúng vai trò của nó. Không những thế mối quan hệ của NHNH và các NHTM phải gắn bó thường xuyên có những trao đổi thông tin.NHTM phải cung cấp các thông tin cho NHNN từ tài liệu đó NHNN xem xét đánh giá tình hình của thị trường tiền tệ để đề ra một lãi suất cơ bản hợp lý. Mặt khác chúng ta cũng phải có một khuân khổ luật pháp trong lĩnh vực tín dụng phù hợp hơn với hoàn cảnh thực tế có như thế mới tránh cho các NHTM cạnh tranh không lành mạnh, cơ cấu nợ nhất là nợ quá hạn,khó đòi được hạn chế,quá trình giải ngân thuận lợi. Song song với công cụ điều hành thị trường tài chính tiền tệ là chính sách lãi suất theo em chúng ta cũng cần phải ngày một phát triển thị trường mở, nghiệp vụ cho vay chiết khấu của NHNN thì mới điều hành chính sách tiền tệ hiệu quả được. Ngày nay theo em chúng ta cần điều hành lãi suất theo hướng ngày một lới lỏng hơn,đồng thời cũng phải giữ được định hướng điều tiết của NHNN theo mục tiêu kinh tế,thể chế chính trị của đất nước. có như vậy chúng ta mới phát huy được sức mạnh tổng hợp trong nước và ngoài nước phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35166.doc
Tài liệu liên quan