LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I 2
LÝ LUẬN CHUNG VỀ LÃI SUẤT TÍN DỤNG NGÂN HÀNG 2
I. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI LÃI SUẤT VÀ VAI TRÒ CỦA LÃI SUẤT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 2
1. Khái niệm 2
2. Phân loại lãi suất 2
3. Vai trò của lãi suất (trong nền kinh tế thị trường) 8
II. NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG – SỰ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT TÍN DỤNG NGÂN HÀNG CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG 13
1. Các mô hình Ngân hàng TW và mô hình Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 13
2. Nguyên tắc hoạt động của NHTW trong thực hiện chính sách lãi suất 18
3. Các công cụ điều tiết lãi suất thị trường của NHTW 19
CHƯƠNG II 22
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA 22
I. GIAI ĐOẠN TỪ 1992 TRỞ VỀ TRƯỚC 22
II. GIAI ĐOẠN CUỐI NĂM 1992 ĐẾN NĂM 1995 24
III. GIAI ĐOẠN TỪ 1/1/1996 ĐẾN NỬA ĐẦU NĂM 2000. 29
IV. GIAI ĐOẠN TỪ 5/8/2000 ĐẾN NAY 37
CHƯƠNG III 40
GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 40
I. NHỮNG NGUYÊN TẮC CẦN QUÁN TRIỆT KHI ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT 40
II. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM 40
KẾT LUẬN 44
PHỤ LỤC 45
49 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1567 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lãi suất tín dụng ngân hàng và sự điều hành lãi suất tín dụng ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uyết định này là đúng đắn , ngày 26/3/1988, HĐBT ban hành Nghị định 53/HĐBT về tổ chức bộ máy Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Theo đó Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện chức năng quản lý Nhà nước các hoạt động tiền tệ, tín dụng, Ngân hàng và các Ngân hàng kinh doanh thực hiện chức năng kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, ngân hàng.
Sau 2 năm thí điểm đổi mới hoạt động Ngân hàng và thực hiện Nghị định 53/HĐBT, ngày 24 tháng 5 năm 1990 Nhà nước ta ban hành 2 pháp luật về Ngân hàng. Đó là “Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam” và “ Pháp lệnh Ngân hàng, HTX tín dụng và Công ty tài chính”. Đó là bước tiến quan trọng về mặt pháp lý trong hoạt động Ngân hàng, nhằm tiếp tục đổi mới căn bản và toàn diện công tác Ngân hàng ở nước ta. Thực hiện 2 pháp lệnh đó khẳng định lại về tổ chức hệ thống Ngân hàng nước ta theo mô hình 2 cấp và hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Để thực thi chính sách tiền tệ quốc gia; tăng cường hơn nữa quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động Nhà nước, góp phần phát triển hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Ngày 26/12/1997 Nhà nước ban hành Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam `1(có hiệu lực từ ngày 1/10/1998). Từ đây mô hình tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được chi phối bởi luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Theo Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì chức năng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được thể hiện như sau:
Chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
NH Trung ương ( NHTW ) hoạt động theo luật NHNN VN và thực hiện hai chức năng cơ bản:
* Là ngân hàng của Quốc gia
+ NHTW là ngân hàng độc quyền phát hành tiền.
+ Là ngân hàng của các ngân hàng, NHTW cung cấp đầy đủ các dịch vụ của một ngân hàng cho các ngân hàng thương mại.
* NHTW là ngân hàng của nhà nước và thực hiện chức năng quản lý vĩ mô các hoạt động tiền tệ tín dụng nhằm đảm bảo sự ổn định tiền tệ và an toàn cho cả hệ thống ngân hàng, qua đó thực hiện các mục đích kinh tế vĩ mô của nền kinh tế .
Để thực hiện mục tiêu của mình NHNN VN cũng như các NHTW khác không thể bằng việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ để tác động trực tiếp và ngay lập tức bởi vì hầu hết những ảnh hưởng của chính sách tiền tệ chỉ xuất hiện sau một thời gian nhất định từ 6 tháng đến 2 năm và điều này sẽ là quá muộn và không hiệu quả. Vì vậy, NHTW của các nước thường xác định các chỉ tiêu cần đạt được trước khi đạt được mục tiêu cuối cùng. Các mục tiêu này được chia làm hai loại:
Mục tiêu trung gian và mục tiêu hoạt động và mục tiêu về lãi suất được lựa chọn với mục tiêu lượng trên cung ứng làm mục tiêu trung gian và làm căn cứ để lựa chọn mục tiêu cuối cùng. Sau đây ta hãy xem NHTW điều hành lãi suất như thế nào:
3. Nguyên tắc hoạt động của NHTW trong thực hiện chính sách lãi suất
Thứ nhất, NHTW không trả lãi tiền gửi cho bất cứ NHTM, tổ chức tín dụng nào.
Là ngân hàng của các ngân hàng, NHTW luôn là chủ nợ của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Vị trí chủ nợ đó cần thiết để NHTW có thể điều tiết việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng cung ứng tiền tệ. Nếu NHTW trả lãi tiền gửi, nghĩa là người nợ của hệ thống NHTM, thì NHTW không có khả năng tác động trực tiếp vào sự gia tăng khối tiền tệ, vì bất cứ lúc nào các NHTM cũng có thể rút tiền gửi của họ. Mối quan hệ hữu cơ giữa thị trường tiền tệ với thị trường tín dụng bị phá vỡ và NHTW mất đi khả năng điều tiết của mình. Chính vì lý do đó các NHTM, Kho bạc Nhà nước cũng như các tổ chức tín dụng khác, không bao giờ được phép gửi tiền có lãi tại NHTW, vì điều đó sẽ chôn vùi vị trí chủ nợ của NHTW. Các NHTM gửi tiền tại NHTW thì đó chỉ thuần tuý là việc dự trữ không có lãi. Nếu muốn hưởng lãi, NHTM có thể mua tín phiếu NHNN hoặc tín phiếu Kho bạc Nhà nước.
Thứ hai, NHTW chỉ được phép cho các NHTM vay ngắn hạn.
Đây là vấn đề cốt lõi đối với khả năng điều tiết của NHTW vì chỉ như vậy NHTW mới có thể phản ứng nhanh với những rối loạn có thể xảy ra trong hệ thống tiền tệ bằng việc thay đổi chi phí tái cấp vốn. điều đó có nghĩa là chỉ NHTM mới được cấp tín dụng dài hạn. Nếu một khi NHTW có những khoản nợ phải đòi dài hạn, thì khác nào họ tự chôn vùi khả năng điều tiết của mình và thúc đẩy sự bất ổn trong thị trường tiền tệ.
4. Các công cụ điều tiết lãi suất thị trường của NHTW
Thứ nhất, gọi cho vay theo hình thức đấu thầu
Đây là hình thức quan trọng để NHTW cung ứng tiền trung ương cho các NHTM. Thời hạn cho vay thường ngắn (khoảng 10 - 15 ngày) và được tổ chức thường xuyên 1-2 lần/tuần. Giả sử sau khi NHTW thông báo gọi thầu (chỉ công bố thời hạn cho vay, chứng phiếu thế chấp, không bao giờ công bố lãi suất) và nhận được đơn xin vay của các NHTM như sau:
NHTM 1 xin vay 20 tỷ với lãi suất 10%/năm
NHTM 2 xin vay 35 tỷ với lãi suất 9.75%/năm
NHTM 3 xin vay 5 tỷ với lãi suất 9.5%/năm
NHTM 4 xin vay 10 tỷ với lãi suất 9.4%/năm
NHTM 5 xin vay 20 tỷ với lãi suất 9.3%/năm
Căn cứ số tiền cần phát hành, NHTW quyết định cho vay 30 tỷ với lãi suất 9.5%/năm. Có 3 ngân hàng trúng thầu với lãi suất 9.5% nhưng số tiền xin vay là 60 tỷ. Như vậy mỗi ngân hàng sẽ được vay 1/2 lượng tiền yêu cầu (=30tỷ/60tỷ) với cùng lãi suất 9.5%/năm. Lãi suất 9.5% này cực kỳ quan trọng, qua đó đánh tín hiệu với thị trường rằng NHTW không muốn lãi suất giảm xuống dưới 9.5%/năm. Căn cứ vào đó, các NHTM tự định liệu lãi suất thị trường.
Thứ hai, lãi suất tái chiết khấu hay tạm ứng trên chứng từ.
Hình thức gọi thầu cho vay được thực hiện định kỳ hoặc theo quyết định của NHTW với thời hạn cố định, vì vậy không đáp ứng nhu cầu xin vay bất thường với thời gian không quy định trước của các NHTM. Hình thức cho vay tạm ứng trên cơ sở thế chấp chứng từ cho phép khắc phục điều đó. Loại hình cho vay này được thực hiện bất cứ lúc nào với thời hạn thoả thuận giữa NHTW và NHTM (thường từ 5-10 ngày), lãi suất cao hơn cho vay đấu thầu 0.5-0.6%. Đây là cánh cửa thường xuyên mở rộng cho các NHTM với điều kiện có chứng từ thế chấp tốt. Đó là lãi suất chỉ đạo thứ hai của NHTW.
Với hai hình thức trên, NHTW có thể tác động hướng lãi suất thị trường dao động trong khung tạo bởi hai mức lãi suất đó. Lãi suất cho vay đấu thầu(ví dụ trên là 9.5%) là lãi suất thấp nhất của thị trường, đóng vai trò như lãi suất sàn, còn lãi suất tạm ứng chứng từ (ví dụ trên là 10%) là lãi suất chặn đứng thị trường, đóng vai trò là lãi suất trần. Lãi suất thị trường dao động trong khung mong muốn của NHTW (từ 9.5% - 10%), còn khung lãi suất này dao động tuỳ theo mục tiêu NHTW theo đuổi lượng cung tiền, tỷ giá hối đoái.
Một số nước, thường có thị trường tài chính chưa phát triển, NHTW có thể quy định trực tiếp lãi suất trần và lãi suất sàn bằng cách ra các sắc lệnh bắt buộc các NHTM phải tuân thủ.
Thứ ba, lãi suất can thiệp cụ thể của NHTW.
Nếu lãi suất trên thị trường, vì lý do không dự kiến được, tăng quá cao đột xuất (ví dụ lãi suất vay nóng 1 ngày tăng đột ngột 10.25%), NHTW sẽ can thiệp bằng cách thông báo lãi suất cho vay 1 ngày là 9.75% chẳng hạn, la thị trường sẽ xuống theo. Ngược lại, nếu lãi suất thị trường xuống thấp quá mức lãi suất chặn dưới, NHTW sẽ công bố lãi suất cho vay bằng hoặc cao hơn lãi suất chặn trên một chút. Đó là các lãi suất can thiệp.
Trong 3 hình thức trên, lãi suất cho vay đấu thầu và lãi suất cho vay tạm ứng là quan trọng nhất, đóng vai trò lãi suất chỉ đạo của NHTW. Còn lãi suất can thiệp chỉ là phụ và tuỳ thuộc diễn biến thị trường. Ngoài ra NHTW còn can thiệp vào lãi suất thị trường thông qua kỹ thuật thị trường mở, nghĩa là NHTW mua bán các chứng khoán trên thị trường để điều tiết việc bơm hoặc rút tiền khỏi lưu thông.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
Cũng như các nước khác trên thế giới, tại Việt nam lãi suất cũng là một trong những công cụ vô cùng quan trọng mà NHNN VN sử dụng để thực hiện những mục tiêu của chính sách tiền tệ của mình. Cùng với những bước biến chuyển tích cực trong hoạt động của hệ thống ngân hàng ở Việt Nam thì chính sách lãi suất ( CSLS ) cũng có những bước điều chỉnh thay đổi để hoàn thiện và tiến đến một lãi suất tiền tệ theo hướng tự do lãi suất theo quan hệ cung cầu vốn theo đúng bản chất của lãi suất.
Từ khi thành lập cho đến nay NHNN VN đã nhiều lần điều chỉnh chế độ lãi suất của mình. những sự thay đổi CSLS này được mang tính tích cực về mặt lí thuyết. Tuy nhiên , chính sách đó khi đi vào thực tế đem lại hiệu quả đến đâu là một chuyện hoàn toàn khác. Sau đây ta hãy xem xét sự điều hành CSLS qua các thời kỳ cụ thế sau.
I. GIAI ĐOẠN TỪ 1992 TRỞ VỀ TRƯỚC
Đây là thời kỳ NHNN VN thực hiện CSLS cố định, NHNN VN đẫ qui định quá chi tiết các mức lãi suất khác nhau. Tại lãi suất ban hành theo quyết định số 125/NH-QĐ ngày 04/9/1986 ta thấy có ngót 30 mức lãi suất khác nhau. Chúng được phân biệt rõ rệt bởi hình thức sở hữu ( Quốc doanh và tập thể ), bởi nghành nghề ( Nông, công , thương nghiệp .. ), bởi sự thực hiện cái gọi là hạn mức kế hoạch ( trong hạn mức kế hoạch, trên hạn mức kế hoạch)... Và một điều ta không thể không nhận thâysự bất hợp lý trong CSLS này là mức lãi suất tiền gửi và cho vay được quy định ở biểu quá nhỏ bé so với mức lãi suất huy động tiết kiệm, cho vay tư nhân, cá thể và nó càng nhỏ bé khi so sánh với tỉ lệ lạm phát tháng của năm 1986 ( Khoảng 14% / tháng ) ( Để biết thêm về biểu lãi suất tiền gửi cho vay của NHNN xem phụ lục 1. )
Đây là thời kỳ lãi suất thực âm được duy trì trong suốt thời kỳ bao cấp và trongđiều luật mục lạm phát cao.
Lãi suất danh nghĩa, Lạm phát và Lãi suất thực giai đoạn 1985-1991:
* Một số những lý do biện giải cho việc áp dụng chế độ lãi suất cố định, lãi suất thực âm này là do:
+ Nền kinh tế nước ta đang hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập chung bao cấp, chịu ảnh hưởng năng nề dập khuôn mô hình kinh tế của Liên Xô. CSLS này là việc áp dung gần như nguyên mẫu mô hình của Liên Xô cũ, nhiều loại cho vay, mức lãi suất của ta và Liên Xô là giống hệt nhau và vì vậy CSLS không chú ý đến lạm phát.
+ Trong điều kiện nền kinh tế nước ta đang rơi vào lạm phát phi mã, nền kinh tế phát triển kém, trì trệ. Nhà nước muốn vực nền kinh tế phát triển , muốn huy động thu hút vốn cho đầu tư môt cách khác quy định mức lãi xuất cho vay thấp để khuyến khích các đơn vị đầu tư vào sản xuất kinh doanh, lỗ lãi của nghành ngân hàng là bao nhiêu được nhà nước cấp bù.
Trong thời kỳ này, việc ấn định các mức lãi suất là không có cơ sở khoa học. Lãi suất không phát huy được vai trò đòn bẩy phát triển nền kinh tế của mình mà với chế độ lãi suất này đã kìm hãm hoạt động của hệ thống ngân hàng, ngân hàng không phát huy được vai trò to lớn của mình. Nhà nước lại luôn bị thâm hụt ngân sách do phải bù lỗ cho các ngân hàng vì CSLS này và lạm phát vẫn tiếp tục tăng.
Với chế độ lãi suất thực âm không đảm bảo lợi ích cho các bên, điều này được nhiều tác giả ví dụ bằng nhiều hình tượng sinh động như : Đem gửi một khoản tiền ví như “ con bò” thì sau ngày đáo hạn lại chỉ nhận được một khoả tiền chỉ bằng cái “Đuôi bò”. Vì vậy, chính sách này không thể thực hiện mục tiêu của mình là huy động vốn.
Trong tình trạng nề kinh tế phát triển trì trệ, tỉ lệ lạm phát cao, cơ hội đầu tư có lợi là rất hiếm có, trong khi đó lãi suất tiền cho vay < tỉ suất lợi nhuận bình quân < lãi suất huy động vốn. Điều này lại dẫn đến tình trạng “ Ăn không ngồi rồi” của các doanh nghiệp nhà nước. Nhiều doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng này với lãi suất rất thấp rồi cho ngân hàng khác vay với lãi suất rất cao để lấy khoản chênh lệch và sản xuất vẫn không phát triển.
II. GIAI ĐOẠN CUỐI NĂM 1992 ĐẾN NĂM 1995
Sau đại hội đảng VII tháng 6/99 bước sang giai đoạn 1992-1995. Một loạt cải cách mới được thực hiện và đạt kết quả nhất định. Nền kinh tế đã có nhiều biến chuyển tích cực: Lạm phát tiếp tục được đẩy lùi và được kiểm soát đáng kể, tăng trưởng và duy trì ở mức độ tương đối, nền kinh tế và xã hội ổn định... góp phần vào sự thành công đó có mặt của CSLS thực dương. Lãi suất thực dương bắt đầu được duy trì từ cuối năm 1992 với biến động phù hợp với tỉ lệ lạm phát. Cụ thể , tháng 10/1992 NHNN VN bắt đầu thực hiện CSLS thực dương, đến hết quý I năm 1993 thì lãi suất thực dương được thực hiện đầy đủ
1986-1990
1991
1992
1993
1994
1995
Lãi suất tiền gửi bình quân %/tháng
6
2,9
1,9
1,4
1,3
1,4
Lãi suất tiền cho vay bình quân %/tháng
4,3
3,5
2,5
1,8
1,6
1,7
Lạm phát bình quân %/tháng
ở mức hai chữ số
5,6
1,93
0,43
1,2
1,06
Tuy nhiên giai đoạn này NHNN VN vẫn quy định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay, cụ thể có sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế, cụ thể :
+ Đối với doanh nghiệp nhà nước cho vay với lãi suất thấp hơn so với doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
+ Lãi suất cho vay ngắn hạn còn cao hơn lãi suất cho vay với lãi suất trung và dài hạn.
+ Lãi suất tiền gửi tiết kiệm cao hơn lãi suất tiền gửi của các tổ chức kinh tế.
Bắt đầu từ 1/10/1993 theo quyết định 184/QD – NH1, CSLS được thực hiện trên cơ sở vừa quy định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể, vừa cho vay theo lãi suất thoả thuận.
+ Quy định về lãi suất trần cụ thể có hai loại :
Lãi suất cho vay doanh nghiệp nhà nước 1,8% / tháng.
Lãi suất cho vay kinh tế ngoài quốc doanh 2% / tháng.
+ Quy định về lãi suất thoả thuận: Trường hợp ngân hàng không huy động đủ vốn để cho vay theo lãi suất quy định, phải phát hành kỳ phiếu với lãi suất cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn là 0,2% / tháng và cho vay hơn mức trần là 2,1% / tháng.
Trên thực tế, khoảng 30 – 60% tổng dư nợ lúc này từ các khoản cho vay bằng lãi suất thoả thuận mà phần lớn là cho vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ nông dân với mức lãi suất phổ biến là2,3 – 3,5% / tháng. Với cơ chế lãi suất thoả thuận dường như chúng ta đã thực hiện tư do hoá một phần lãi suất trên cơ sở quy định cơ chế cho vay. Mọi lãi suất cũng đi đôi với một biên độ dao động nhất định.
Trong thời kỳ này , NHNN VN mở rộng các hình thức cho vay cũ , tiến hành thức cho vay mới là cho vay tái cấp vốn đối với các tổ chức tư doanh.
Bước vào giai đoạn này lãi suất cho vay bổ xung nguồn vốn tư doanh ngắn hạn trở nên rất phân biệt đối với từng ngân hàng thương mại quốc doanh, ví dụ : Lãi suất đối với NHNN là 1,6% / tháng nhưng đối với ngân hàng ngoại thương là 2,8% / tháng. Tuy nhiên sự phân biệt này có xu hướng giảm dần và từ tháng 10/1993 lãi suất này được áp dụng thống nhất đối với ngân hàng thương mại quốc doanh. Tháng 11/1994 NHNN chấm dứt hình thức cho vay bổ xung nguồn vốn tư doanh ngắn hạn, thay vào đó trong nhiều trường hợp cần thiết NHNN tiến hành cho vay theo đối tượng chỉ định với mức lãi suất do thống đốc NHNN quyết định từng lần.
Lãi suất cho vay tái chiết khấu ( Nay gọi là tái cấp vốn ) có nhiều thời điểm chúng hoàn toàn khác biệt nhau ở mỗi ngân hàng. Tuy nhiên chúng có xu hướng xích lại gần nhau và từ ngày 5/4/1995 đã xoá bỏ sự phân biệt trong lãi suất cho vay tái cấp vốn giữa các ngân hàng.
Lãi suất cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ, giảm nhều so với giai đoạn trước, ít biến động trong giai đoạn này và ngay từ đầu chúng đã được áp dụng thống nhất đối với tất cả các ngân hàng.
Từ tháng 6/1993 xuất hiện mối quan hệ vay mượn lẫn nhau của các tổ chức tư doanh trên thực tế hơn ngân hàng.
Tại quyết định số BD/QD-NH1 ngày 1/7/1993 NHNN quy định : Các thành viên tương trợ cho vay lẫn nhau theo lãi suất thoả thuận, Lãi suất cho vay tối đa là 2,3% / tháng.
Nếu đó là nguồn vốn vay tư nhân huy động kỳ phiếu thì lãi suất bằng lãi suất huy động kỳ phiếu + tỉ lệ phí NH 0,3% / tháng.
Tại quyết định số 187/QD-NH1 ngày 30/9/1993 NHNN điều chỉnh lãi suất tối đa xuống còn 2,1% / tháng.
Sang giai đoạn này hoạt động đối ngoại không chỉ bố hẹp trong 1 ngân hàng là NH Ngoại thương . NHNN đã cho phép các ngân hàng thương mại quốc doanh và nhiều NHTM cổ phần được tham gia hoạt động đối ngoại . Hiện tượng doanh nghiệp có ngoại tệ ở ngân hàng ngày càng trở nên phổ biến. Vốn vay , vốn quản lý lãi suất nội tệ NHNN bắt đầu tiến hành việc hoạch định lãi suất và điều chỉnh lãi suất ngoại tệ trong giai đoạn này.
+ Lãi suất tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ :
Lãi suất tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ được quy định đầu tiên tại thể lệ tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi ban hành kèm theo quyêt định số 08/NH-QD ngày 14/1/1991
ở đó lãi suất được quy định như sau :
Không kỳ hạn : 0,5% / tháng.
Kỳ hạn 6 tháng : 0,75%/tháng.
Kỳ hạn 12 tháng : 12% / tháng.
Các mức lãi suất này được áp dụng cho đến tháng 1/1991. Quyết định số 08/QD-NH7 ngày 25/1/1992 thay đổi lại như sau : Lãi suất tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ do tổng giám đốc các ngân hàng được phép hoạt động ngoại tệ quy định trên cơ sở lãi suất tiền tệ quốc tế . Quyết định này cho đến nay vẫn còn hiệu lực thi hành.
Từ tháng 12/1993 NHNN bãi bỏ việc quy định lãi suất tiền ngoại tệ . Nghĩa là từ đó tới nay NHNN chỉ còn khống chế mức cho vay ngoại tệ tối đa của các tổ chức tư doanh đối với nề kinh tế. Ngoài ra ta thấy mức lãi suất cho vay tối đa ngày càng được điều chỉnh tăng lên để thực hiện chủ trương thu hẹp khoảng cách giữa lãi suất ngoại tệ và nội tệ của NHNN.
Đánh giá vai trò của quá trình điều chỉnh CSLS từ năm 1992 - 1995:
*Những mặt tích cực :
Trong giai đoạn này lãi suất đã bắt đầu được sử dụng như một công cụ của chính sách tiền tệ. Việc chuyển từ cơ chế lãi suất thực âm sang lãi suất thực dương đã có tác dung quan trọng, xoá bỏ hẳn tình trạng bao cấp qua tín dụng trước đây và tạo điều kiện cho các ngân hàng thực sự chuyển sang kinh doanh thực hiện có hiệu qủ chiến lược, huy động vốn mạnh mẽ với phương châm ngân hàng đi vay vốn để cho vay. Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn để thu hút mạnh mẽ nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân và các tổ chức kinh tế , nhờ vậy nguồn vốn huy động đã tăng lên mạnh mẽ và liên tục. Năm 1992 tăng 18,6%; năm 1993 tăng 23%; năm 1994 tăng 59,8%; năm 1995 số dư gấp 3,6 lần năm 1991 bằng 23% GDP. Trong đó điều đáng chú ý là lượng vốn huy động trong nước chiếm chủ yếu.
Nhờ có lượng vốn đầu tư mở rộng sản xuất trong 4 năm 1992-1995, Kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả tương đối toàn diện và rõ rệt hơn bất cứ thời kỳ nào trước đây. CSLS thúc đẩy phát triển tỉ trọng cho vay trung và dài hạn phù hợp với mục tiêu huy động cho vay vốn đối với các doanh nghiệp trong chiến lược công nghiệp hoá theo hướng xuất khẩu. Trước đây tỉ trọng cho vay trung và dài hạn xây dựng cơ bản không đáng kể, nhưng cho đến năm 1994 tỉ trong này đã chiếm 34% tổng dư nợ trong nền kinh tế . Thực tế này đã góp phần thay đổi cơ cấu tư doanh có lợi cho đầu tư phát triển sản xuất, có tác động tích cực trong việc cơ cấu sản xuất theo hướng tăng dần tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ, nâng dần kim nghạch xuất khẩu. Từ 1991 đến 1995 kim nghạch xuất khẩu đạt 16,8tỉ USD, tốc độ tăng bình quân 22,2%.
Với sự phát triển sản xuất kinh doanh như vậy CSLS góp phần hạn chế và kiểm soát lạm phát.
NHNN điều chỉnh CSLS theo hướng đảm bảo lãi suất đã góp phần kiềm chế lạm phát , giảm được giá USD và vàng. Năm 1990 tỉ lệ lạm phát là 67,4%/năm, 1991 là 67,6%/năm, 1992 giảm xuống 17,6%/năm, 1993 là 5,2%/năm, 1994 là 14,4%, 1995 là 12,7%. Tỉ lệ lạm phát được kiềm chế ở mưc tượng đối ổn định.
Những mặt hạn chế :
Lãi suất cho vay thực tế còn cao so với tốc độ tăng giá chưa thực sự tao điều kiện cho các tổ chức kinh tế, đẩy mạnh việc vay vốn phát triển sản xuất.
Trong lãi suất thoả thuận, mức chênh lệch qua lãi suất sàn ( Quy định cho tiền gửi ) và lãi suất tràn ( Quy định cho tiền vay ) là 0,7-1%/táng. Chênh lệch đem lại cho các NHTM thu lợi nhuận lớn. Song việc này gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp và các hộ nông dân.
Quốc hội khoá IX trong kỳ họp thứ 8 tháng 8/1995, cùng với nghị quyết bỏ thuế doanh thu trong hoạt động tín dụng ngân hàng đã yêu cầu ngân hàng tiết kiệm chi phí hoạt động và khống chế mức chênh lệch lãi suất huy động và cho vay bình quân là 0,35%/táng ( Có hiệu lực cho đến ngày 21/1/1998 ). Đây là lý do để chuyển sang một giai đoạn thực hiện chính sách lãi suất trần và bãi bỏ lãi suất cho vay thoả thuận
III. GIAI ĐOẠN TỪ 1/1/1996 ĐẾN NỬA ĐẦU NĂM 2000.
Từ tháng 1 năm 1996 đến nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố trần lãi suất cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn. Các NHTM được phép quy định mức lãi suất huy động trên cơ sở trần lãi suất cho vay và ấn định mức lãi suất cho vay cụ thể nhưng không được phép vượt quá trần lãi suất cho vay do Ngân hàng Nhà nước công bố.
Từ ngày 1 tháng 1 năm 1996, Ngân hàng Nhà nước bắt đầu khống chế trần lãi suất cho vay và áp dụng chênh lệch lãi suất tiền gửi – tiền vay là 0,35%/ tháng. Căn cứ vào địa bàn hoạt động , nhu cầu vốn, chi phí hoạt động khác nhau, Ngân hàng Nhà nước đã quy định trần lãi suất có phân biệt như sau: trần lãi suất cho vay ngắn hạn là mức lãi suất thấp nhất áp cho khu vực thành thị, trần lãi suất cho vay trung và dài hạn cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn một chút do thời gian dài dễ gặp rủi ro , trần lãi suất cho vay trên địa bàn nông thôn cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn và trung hạn do điều kiện hoạt động ở địa bàn nông thôn khó khăn hơn ở thị trấn, trần lãi suất cho vay của quỹ tín dụng đối các thành viên là trần lãi suất cho vay cao nhất do quỹ tín dụng mới lập thí điểm, quy mô nhỏ, bé, chi phí hoạt động cao.
Từ tháng 10 năm 1996, lãi suất được khống chế bởi các mức lãi suất cho vay cao nhất: 1,8%/thángđối với DNNN và 2,1%/tháng đối với các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh.
Từ tháng 6 năm 1997, trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam được hạ xuống còn 1%/tháng để kích thích kinh tế phát triển . Các Ngân hàng thương mại đều không tán thành mức lãi suất cho vay tối đa này vì: trong điều kiện khủng hoảng tiền tệ , các nước Đông Nam á phải nâng lãi suất tiền gửi lên cao hơn các nước công nghiệp phát triển để chống lại làn sóng rút tiền gửi ra mua USD; để phòng ngừa khủng hoảng Tài chính – tiền tệ trong toàn hệ thống Ngân hàng , các NHTM trong nước phải giữ lãi suất tiền gửi cao gần như cũ đến mức mà chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi có kỳ hạn và lãi suất cho vay chỉ cò từ 0.05% đến 0.1%, làm tăng thua lỗ trong hoạt động tín dụng của cá Ngân hàng thương mại. Khi làn sóng rút tiền gửi đã lắng xuống thì mức tỉ suất lợi nhuận của NHTM giảm mạnh.
Từ tình hình trên, ngày 21 tháng 1 năm 1998, Ngân hàng Nhà nước đã phái nâng trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam lên 1,2%/tháng đối với tín dụng ngắn hạn, 1,25%/tháng đối với tín dụng trung và dài hạn và 1,5%/tháng đối với quỹ tín dụng cho thành viên vay; đồng thời xoá bỏ quy định mức chênh lệch lãi suất tiền gửi – cho vay 0,35%/tháng khiến cho chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi được cải thiện hơn nhưng vẫn còn quá thấp, không đủ bảo đảm lợi nhuận cho các NHTM .
Đặc biệt, trong năm 1999, trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam được thay đổi liên tục theo hướng giảm cơ cấu trần và mức khống chế.
Từ ngày 1/2/1999, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quyết định giảm trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam của các NHTM quốc doanh áp dụng với khách hàng khu vực thành thị từ 1,2%/tháng xuống còn 1,1%/tháng đối với tín dụng ngắn hạn và từ 1,25%.tháng xuống còn 1,15%/tháng đối với tín dụng trung và dài hạn, các tổ chức tín dụng khácvẫn thực hiện theo mức trần lãi suất cho vay như điêu chỉnh vao ngày 21 tháng 1 năm 1998.
Từ ngày 1/6/1999, Ngân hàng Nhà nước v thống nhất hai mức lãi suất tín dụng ngắn hạn và tín dụng trung – hạn làm một và giảm xuống mức 1,15%/tháng. Lãi suất cho vay của hợp tác xã tín dụng và quỹ tín dụng nhân dân là 1,5%/tháng.
Từ ngày 1/8 năm 1999, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục giảm trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam từ 1,15%/tháng xuống 1,05%/tháng và áp dụng chung cho các tổ chức tín dụng cho vay ngắn, trung và dài hạn ở cả khu vực thành thị và nông thôn. Riêng trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam của quỹ tín dụng nhân dân cơ sở cho thành viên vay vẫn giữ nguyên mức 1,5%/tháng và trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam của NHTM cổ phần nông thôn giữ ở mức 1,15%/tháng như đã diều chỉnh từ ngày 1/6/1999.
Từ ngày 4/9/1999, trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam của các Ngân hàng thương mại quốc doanh ở khu vực thành thị tiếp tục giảm xuống mức 0,95%/tháng ; các mức lãi suất khác vẫn giữ nguyên.
Từ ngày 25/10/1999, trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam áp dụng ở khu vực thành thị là 0,85%/tháng ; ở khu vực nông thôn là 1%/tháng ; lãi suất cho vay của Ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn, quỹ tín dụng nhân dân cơ sở và hợp tác xã tín dụng vẫn giữ nguyên ở mức 1,5%/tháng .
Cơ sở của việc điều chỉnh lãi suất cho vay này là:
Lạm phát 7 tháng đầu năm 1999 là 1,3 - 2%, trong đó lạm phát hai tháng 1 và 2 là 3,6%, đặc biệt các tháng 3,4,5,6và 7 liên tục giảm phát ở mức –0,7%; -0,6%; - 0,3% và -0,4%. lạm phát giảm thấp, đặc biệt là liênt ục giảm phát trong năm tháng đã làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại, sức mua của thị trường giảm sút.
Tỉ giá ngoại tệ ổn định trong nhiều tháng , đặc biệt là từ tháng 10/1998 đến nay, ngay cả việc thay đổi cơ chế điều hành tỉ giá vào tháng 2/1999 cũng không gây nên sự biến động về tỷ giá.
Về hình thành cung - cầu vốn tín dụng những tháng đầu năm 1999, tốc độ tăng số dư nợ tiền gửi sơ với dư nợ cho vay (tính đến giữa tháng 5/1999 tốc độ tưng tiền gửi là 9,3%, trong khi đó, tốc độ tăng dư nợcho vay là 5,2% so với đầu năm 1999.
Mục đích của việc gảim trần lãi suất cho vay là nhằm bảo đảm tính phù hợp giữa mặt bằng lãi suất và tình hinh lạm phát hiện nay, giảm bớt khó khăn cho người vay, thực hiện các giải pháp khuyến khích dt , phát triển nội lực, khuyến khích phát triển kinh tế , đẩy mạnh cho việc vay vốn các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế , tăng trưởng tín dụng tạo cân đối cung – cầu vốn tín dụng .
Trên thực tế,việc hạ trần lãi suất cho vay trên có đạt được những mục đích đề ra hay không và nó đã hợp lý chưa?
Có thể thấy, việc liên tiếp hạ trần lãi suất cho vay thực ra không hẳn là Ngân hàng Nhà nước đã chủ động điều hành lãi suất ở tầm vĩ mô để dịnh hướng cho việc tăng giảm khối lượng tín dụng mà chỉ chạy theo thực tế, bởi lẽ nhiều NHTM đã hạ lãi suất cho vay xuống dưới mưc 1%/tháng để thu hút khách hàng, cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khách trước khi Ngân hàng Nhà nước hạ Tài chính cho vay .
Bên cạnh đó, việc điều hành trần lãi suất cho vay cuả Ngân hàng Nhà nước còn nảy sinh một số vấn đề cần được xem xét.
Trước hết, ở nhiều nước trên thế giới, khi cần can thiệp sâu và trực tiếp vào việc điều hành lãi suất , các NHTW thường áp dụng tương quan lãi suất như sau: trần lãi suất huy động và sàn lãi suất cho vay . Cách điều hành lãi suất như vậy là nhằm bảo vệ lợi ích các NHTM , đồng thời có tác dụng răn đe, giải toả tình trạng cạnh tranh qua lãi suất . Cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định ngược lại: sàn lãi suất huy động và trần lãi suất cho vay ( từ tháng 1 năm 1996, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện tự do hoá lãi suất tiền gửi ) Điều này có nghĩa là chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đưa ra quan tâm hơn tới việc bảo vệ lợi ích cho người gửi tiền và người vay vốn. trong cơ chế điều hành lãi suất như vậy, lợi ích của các NHTM không dược quan tâm đầy đủ. Việc Ngân hàng Nhà nước liên tục hạ trần lãi suất cho vay gây ra những khókhăn cho các NHTM trong việc hạ lãi suất đầu vào dẫn đến mức chênh lệch lãi suất ngày vàng thu hẹp. Điều nàydường như đã biến các NHTM thành các Ngân hàng chính sách , cho vay dưới giá thành, bao cấp cho các doanh nghiệp.
Thứ hai, vấn đề về bước đi và tiến độ thực hiện hạ trần lãi suất cho vay ,biên độ giá trần lãi suất cho vay giữa các lần khá lớn. Khoảng cách giữa các lần hạtl cho vay quá gần nhau. Điều nàylàm cho hoạt động của các NHTM chưa kịp ổn định sau khi hạ trần lãi suất lần trưcớ đã bị xáo động bởi đợt hạ trần lãi suất lần sau. Tình trạng này dẫn đến việc các NHTM rất dè dặt trong việc huy động vốn, nhất là vốn dài hạn, do sợ nếu trần lãi suất hạ tiếp thì sẽ lỗ nhiều hơn. Đồng thời, tình trạng này còn làm nảy sinhở khách hàng tâm lý chần chừ trong việc vay tiền của Ngân hàng để chờ lãi suất cho vay hạ thấp hơn. Trên thực tế đã xuất hiện hiện tượng khách hàng vay ở Ngân hàng này với lãi suất thấp để trả nợ cũ với lãi suất cao hơn ở Ngân hàng khác. Đây là một yếu tố cản trở việc giải toả vốn ứ động trong các NHTM và hạn chế việc mở rộng vốn tín dụng .
Trong lần hạ trần lãi suất cho vay ngày 1/8/1999, do có chiếu cố đến mức độ rủi ro và chi phí hoạt động lớn của các Ngân hàng thương mại cổ phần nên Ngân hàng Nhà nước chỉ hạ trần lãi suất cho vay đối với các Ngân hàng thương mại quốc doanh, giữ nguên trần lãi suất cho vay áp dụng đối với các NHTM cổ phần. Đây có vẻ như một sự ưu đãi của Ngân hàng Nhà nước đối với các Ngân hàng thương mại cổ phần.Tuy nhiên, vấn đề không đơn giản như vậy, khi các NHTM quốc doanh , nhất là các Ngân hàng lớn, đã giảm lãi suất cho vay thì các NHTM cổ phần với mức cho vay ở mức cũ thì như thế khách hàng của họ sẽ chuyển sang vay vốn của các NHTM quốc doanh với lãi suất thấphơn. Kêta quả là các NHTM cổ phần sẽ mất khách hàng nếu không hạ lãi suất cho vay xuống bằng mức lãi suất của các NHTM quốc doanh .
Thứ ba, đi đôi với việc hạ trần lãi suất cho vay , một vấn đề gay cấn được đặt ra là hạ lãi suất huy động . Theo cơ chế điều hành lãi suất hiện nay, Ngân hàng Nhà nước không khống chế lãi suất huy động , cho phép các NHTM tự ấn định và không qui định chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động . Đây là một dư địa mà các NHTM có thể cùng thống nhất tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của mình.
Nhưng thực tế khá phức tạp và có nhiều vướng mắc:
Trong khi phải hạ trần lãi suất cho vay theo chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước thì các NHTM không thể hạ ngay lãi suất huy động vì độ trễ lớn, chưa đến hạn khách hàng rút tiền ra , NHTM vẫn phải áp dụng lãi suất cũ.
Đối với các NHTM quốc doanh lớn, có uy tín cao việc hạ lãi suất đầu vào có thể diễn ra nhanh hơn, mạnh hơn mà không sợ khách hàng ồ ạt rút tiền ra. Trong khi đó, các NHTM cổ phần nhỏ ít có khả năng như vậy nên buộc phải duy trì mức lãi suất huy động cao NHTM quốc doanh để giữ khách, duy trì tiền gửi . Tốc độ hạ lãi suất huy động của các NHTM cổ phần chậm hơn nhiều so với tốc đọ hạ lãi suất cho vay . Đay là điểm bất lợi trong hoạt động kinh doanh của các NHTM cổ phần .
NHTM cổ phần nhỏ có ít khả năng thu hút tiền gửi của các doanh nghiệp lớn. Do đó, tỉ trọng tiền gửi thanh toán với lãi suất thấp hoặc không phải trả lãi suất trong tổng nguồn vố của các Ngân hàng không đáng kể so với các NHTM lớn có lợi thế đặc biệt . Nguồn vốn của các Ngân hàng nhỏ củ yếu là tiết kiệm của dân cư gửi vào, phải huy động với lãi suất cao.
Nguồn vốn huy động tại chỗ của cá NHTM cổ phần nông thôn còn rất hạn chế. Khu vực nông thôn chỉ có thể tự cấp được 30% nhu cầu vốn, phần còn lạiphảit hu huỷ từ thành thị về. Nếu hạ lãi suất huy động quá mạnh sẽ khó thu hút các nguồn vốn. Vì vậy, việc hạ lãi suất huy động của các NHTM cổ phần nông thôn là rất khó khăn, khả năng mở rộng qiu mô hoạt động tín dụng bị hạn chế nhiều .
Thời gian qua, nhiều Ngân hàng thương mại quốc doanh huy động vốn ho các chương trình đầu tư theo chỉ định của Nhà nước , trở thành các Ngân hàng chính sách nên những Ngân hàng này không quan tâm đếm việc hạ lãi suất huy động . Bên cạnh đó, Chính phủ huy động vốn bằng việc phát hành công trái đã đưa lãi suất huy động lên rất cao (13%/năm).Tình hình nói trên đã gây ảnh hưởng lớn đến khả năng hạ lãi suất đầu vào của các NHTM
Nhiều người nhận định rằng với tình trạng thiểu phát, sản xuất trì trệ, tìm kiếm lợi nhuận khó khăn như hiện nay, có thể hạ lãi suất đầu vào hơn nữa mà không ảnh hưởng tới khả năng huy động vốn. Nhận định này đã sai với thực tế .Theo ông Trịnh Công Thắng – Phó tổng giám đóc Ngân hàng Công thương Việt Nam - thì trong năm 1999 Ngân hàng Công thương Việt Nam đã chủ động hạ lãi suất bốn lần trước khi Ngân hàng Nhà nước hạ trần lãi suất nhưng tiền gửi vẫn tăng; tám tháng đàu năm 1999, dư nợ cho vay của Ngân hàng công thương chỉ tăng 13% trong khi đó tốc độ tăng tiền gửi hơn 20%.
Tuynhiên, với những điểm như đã trình bày ở trên vẫn cần phải hết sức quan tâm đến biên độ hạ trần lãi suất nhằm đề phòng người gửi tiền rútồ ạt dẫn dến tình trạng mất khả năng chi trả của các NHTM
Thứ tư, sự ngày càng thu hẹp chênh lệch giữ lãi suất cho vay và lãi suất huy động dẫ đến nguy cơ thua lỗ với nhiều NHTM . Qua các đợt hạ trần lãi suất cho vay với biên độ lớn, các NHTM dơ những nguyên nhân như đã phânt ích ở trên không hạ được lãi suất hoạt động, đã nhanh chóng thu hẹp mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động. Do đo, các Ngân hàng bị đặt trước nguy cơ thua lỗ.
Do các yếu tố sau mà các NHTM ít có khả năng mở rộng biên độ chênhlệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động:
Trình độ trang bị kỹ thuật tháp, khó giảm chi phí nghiệp vụ và chi phí quản trị kinh doanh Ngân hàng , nhất là các Ngân hàng hoạt động ở khu vực nông thôn.
Các NHTM phải trả lãi cho các khoản huy động được dưa vào dự trữ bắt buộc và đựa giữ lại làm các khoản dựphòng thanh khoản không sinh lời, các NHTM vẫn phải trả lãi cho người gửi tiền.
Một số NHTM đã tính thử và cho thấy rằng chỉ mới tín tổng bốn yếu tố là chi phí nghiệp vụ, dự trữ bắt buộc , dự trữ tài khoản và bảo hiểm tiền gửi đã lên tới 0.55%/tháng. Đó còn chưa kể đến nợ khoanh, nợ khó đòi và trích lập dự phòng rủi ro .
Năm 1997, khi Quốc hội quy định mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động là 0.35%/tháng (4,2%/năm) nhiều NHTM lúc đó đã gặp khó khăn. Hiện nay, mức chênh lệch này chỉ còn 0.1 đến 0.14%/tháng, thậm chí, mức chênh lệch này ở một số NHTM đã âm hoặc có nguy cơ âm. Các NHTM đều đang đứng trước nguy cơthu lỗ. Tuy nhiên, so với những khó khăn của NHTM cổ phần thì những khó khăn gựp phải của NHTM quốc doanh có phần nhẹ hơn. Bởi lẽ, các Ngân hàng thương mại quốc doanh có qu mô hoạt động lớn hơn, và điều quan trọng hơn là các NHTM quốc doanh đã và đang tham gia kinh doanh dịch vụ và hoạt động trên thị trường tiền tệ (mua công trái,cho vay trên thị trường tiền tệ ...) lấy các khoảnt hu trong lĩnh vực hoạt động thị trường tiền tệ bù đắp các khoản lỗ trong hoạt động tín dụng. trong khi đó, các NHTM cổ phần không có khả năng này.
Thứ năm, việc áp dụng chung một trần lãi suất cho vay cho cả tín dụng ngắn hạn, trung và dài hạn là điều bất hợp lý. Nhiều năm trước đay, trong hệ thống lãi suất của Việt Nam dã từng không có sự phân biệt giữa lãi suất áp dụng ngắn hạn, trung và dài ạhn, đifu này đã khiến các NHTM chỉ có khả năng cho vay ngắn hạn để duy trì quy mô sản xuất cũ, không có hoặc ít có khả năng cho vay dài hạn để xây dựng cơ sở vật chất mới. Sau nhiều năm điều chỉnh đã có sự phân biệt giữa các loại lãi suất thì đến ngày 1/8/1999 lịch sử lại lập lại: một trần lãi suất cho vay được áp dụng cho cả tín dụng ngắn trung và dài hạn. Thông thường , lãi suất cho vay dài hạn bao giờ cũng cao hn lãi suất cho vay ngắn hạn. Dồn tất cả các loại tín dụng ngắn hạn, trng và dài hạn vào một mức lãi suất thì làm sao có thể huy động các nguồn vốn trung và dài hạn để đâutư trung và dài hạn? Đầu trung và dài hạn có rủi ro cao hơn đầu tư ngắn hạn, với một mức lãi suất đồng nhấtnhư vậy thì lấy gì để bù đắp? Không có vốn trung và dài hạn thì làm sao chấn dứt được tìn trạng sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn - một hoạt động tiền ẩn rủi ro là Luật các tổ chức tín dụng đã có quy địnhhạn chế? Cơ chế lãi suất như vậy làm sao có khả năng đáp ứng nhu cầu của công cuộc CNH-HĐH đất nước?
Ta thấy việc hạ trần lãi suất là do mức lạm phát qua mạnh và xuất phát từ động cơ kích cầu ( khuyến khích tiêu dùng và đầu tư ) nhưng thực trạng điều chình trần lãi suất như trên đã phân tích dẫn đến một nghịch lý:khối lượng vốn vay Ngân hàng của các doanh nghiệp hầu như không tăng lên trong khi lượng vốn tồn đọng trong hệ thống Ngân hàng Việt Nam còn rất lớn và dân chúng vẫn tiếp tục gửi tiền vào Ngân hàng. Bởi lẽ, trong bối lãi suất giảm liên tục các số liệu trên cho thấy những người có tiền vẫn kì vọng vào việc gửi tiền vào Ngân hàng nhằm nhận lãi suất , cho dù lãi suất ngày càng ít, hơn là việc bỏ tiền vào đầu tư . trong tình trạng hiện nay, có được một dự án đầu tư nang lại lợi nhuận 6-7% là không dễ dàng. Hơn nữa, trong điều kiện lạm phát sáu tháng đầu năm 1999 chỉ ở mứ 2,3%, lãi suất tiền gửi ngắn hạn là 0.85%/tháng thì mức lãi thực là 7.9% như hiện nay vẫn khuyến khích những người có tiền gửi tiền vào Ngân hàng làml cho ngành Ngân hàng thừa vốn.
Hạ lãi suất không chỉ đơn thuần nhằm mục tiêu kích cầu mà còn nhằm chủ yếu vào việc tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kém hiệu quả, đang bị thua lỗ hoặc có nguy cơ thua lỗ ngày càng trầm trọng. Có thể coi đây là động cơ thứ 3 của hạ trần lãi suất cho vay
Việc hạ trần lãi suất cho vay được áp dụng theo cách thức như vậy khó có tác dụng “ kích cầu” như mục tiêu đặt ra.
Nói tóm lại, cơ chế quản lý bằng trần lãi suất là cơ chế mang năng tính chủ quan của Ngân hàng Nhà nước , nó không phù hợp với sự biến đổi trong nền kinh tế nói chung và quan hệ cung – câù tiền tệ nói riêng, từ đó làm phát sinh những vấn đề không có lợi cho sự phát triển của hệ thống Ngân hàng thương mại cũng như toàn bộ nền kinh tế . Do đó, yêu cầu hạn chế, dỡ bỏ mọi sự áp đặt , can thiệp , kiểm soát hành chính về lãi suất là tất yếu khách quan Mục tiêu là phải để thị trường tự quyết định lãi suất thích hợp cho nó. Dựa vào đó , Ngân hàng Nhà nước can thiệp một cách gián tiếp thông qua thị trường tiền tệ mới có thể thực hiện được các mục tiêu một cách linh hoạt, đúng hướng và có hiệu quả
IV. GIAI ĐOẠN TỪ 5/8/2000 ĐẾN NAY
Quyết định số 24/ /2000 QĐ-NHNN1 ngày 2/8/2000 quy định từ ngày 5/8 cơ chế điều hành trần lãi suất sẽ được thay thế bằng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng đồng VN và cơ chế lãi suất thị trường có quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ. Theo đó tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho vay đối với khách hàng trên cơ sở:
Lãi suất cho vay = lãi suất cơ bản + biên độ dao động lãi suất cơ bản
và biên độ dao động này do Ngân hàng Nhà nước công bố Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã quyết định mức lãi suất cơ bản và biên độ như sau:
VNĐ
USD
Lãi suất cơ bản
0,75%/tháng (9%/năm)
SI BOR 3 tháng, 6 tháng
Biên độ đối với cho vay ngắn hạn
+ 0,3%/tháng (3,6%/năm)
+1%/năm
Biên độ đối với cho vay trung, dài hạn
+ 0,5%/tháng (6%/năm)
+ 2,5%/năm
Lãi suất cho vay tối đa ngắn hạn
1,05%/tháng (12,6%/năm)
SIBOR 3 tháng + 1%/năm
Lãi suất cho vay tối đa trung dài hạn
1,25%/tháng (15%/năm)
SIBOR 6 tháng + 2,5%/năm
(SIBOR: Lãi suất đôla Mỹ trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng Singapore)
Lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước đưa ra dựa trên nguyên tắc tham khảo mức lãi suất cho vay ngắn hạn thông thường đối với các khách hàng có uy tín của một nhóm Ngân hàng Thương mại. Hiện nay nhóm Ngân hàng được lựa chọn bao gồm 9 Ngân hàng thương mại. Trong đó 4 Ngân hàng thương mại quốc doanh, 2 Ngân hàng Thương mại cổ phần, 2 chi nhánh Ngân hàng nước ngoài và 1 Ngân hàng liên doanh.
Theo Quyết định số 244/2000/QĐ - NHNN1 ngày 2/8/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc các Ngân hàng Thương mại cung cấp thông tin tham khảo về lãi suất cho Ngân hàng Nhà nước bao gồm:
1-Ngân hàng Ngoại thương Việt nam.
2- Ngân hàng Công thương Việt nam.
3- Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam.
4- Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt nam.
5- Ngân hàng Thương mại cổ phần á Châu.
6- Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội.
7- Ngân hàng ANZ.
8- Ngân hàng Hồng Kông và Thượng Hải.
9- Ngân hàng VIP Public.
Quyết định số 238/2000/QĐ-NHNN1 ngày 31/7/2000 về việc điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng như sau:
Điều chỉnh mức lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng là 0,4%/tháng.
Và theo Quyết định số 239/2000/QĐ-NHNN1 ngày 3/7/2000 về lãi suất chiết khấu mà Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng: nay điều chỉnh mức lãi suất tái chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng là 0,35%/tháng.
Vận chuyển từ một cơ chế điều hành hoàn toàn mang tính chủ quan của Ngân hàng Nhà nước như trước đây sang điều hành dựa trên quan hệ cung cầu thực tế trên thị trường thông qua việc ban hành lãi suất cơ bản là một sự biến đổi lớn về bản chất. Việc chuyển sang lãi suất của ta tiến đến tự do hoá lãi suất, phát huy hết vai trò làm đòn bẩy kích thích nền kinh tế. Lãi suất cơ bản mới được đưa vào áp dụng từ ngày 5/8/2000 nên chưa thể có ngay những đánh giá về hiệu quả của nó. Tuy nhiên một điều khẳng định đó là cơ chế điều hành mới đã tạo ra một khung pháp lý về lãi suất cho vay đối với các tổ chức tín dụng giúp các Ngân hàng thương mại chủ động trong quyết định; đồng thời tránh được những vướng mắc do trần lãi suất theo quy định cũ gây ra. Vấn đề đặt ra hiện nay là Ngân hàng Nhà nước phải tăng cường điều kiện xúc tác cho cơ chế mới đạt hiệu quả thúc đẩy nhanh quá trình tiến tới tự do hoá lãi suất. Sau đây là một vài ý kiến để Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách lãi suất một cách hiệu quả, thực hiện được mục tiêu của mình.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
I. NHỮNG NGUYÊN TẮC CẦN QUÁN TRIỆT KHI ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT
Điều chỉnh lãi suất phải xuất phát từ quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường tiền tệ.
Lãi suất là giá của việc sử dụng vốn mà vốn cũng như các hàng hoá khác vì vậy giá của nó sẽ được xác định tại điểm cân bằng cung cầu trên thị trường tiền tệ.
NGâN HàNG Việc điều chỉnh lãi suất phải đảm bảo lợi ích giữa cả 3 bên: người đi vay, người cho vay và Ngân hàng Thương mại dựa trên nguyên tắc tài sản.
Lạm phát < Lãi suất huy động < Lãi suất cho vay < Tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Lãi suất ngắn hạn < Lãi suất dài hạn.
Điều chỉnh lãi suất phải đảm bảo lợi ích của toàn nền kinh tế nói chung
Lãi suất là công cụ của Ngân hàng Nhà nước để thực hiện chính sách tiền tệ. Do đó dù có thay đổi theo hướng nào thì vẫn phải đảm bảo từng mục tiêu của chính sách tiền tệ đề ra đó là ổn định giá trị đồng tiền, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đưa và đảm bảo công ăn việc làm.
II. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM
Hiện nay nền kinh tế thế giới đang vận động theo hướng hợp tác hoá, toàn câù hoá. Nền kinh tế Việt Nam từ khi chuyển đổi sang cơ chế thị trường thiết lập nền kinh tế mở cũng nằm trong vòng quay đó. Đây cũng là con đường duy nhất thúc đẩy nền kinh tế mỗi quốc gia phát triển và như vậy trong xu hướng toàn cầu hoá việc xem xét lãi suất của mỗi quốc gia đương nhiên không thể tách rời sự vận động của lãi suất trên thị trường thế giới. Để xác định hướng điều hành lãi suất ở Việt Nam trước tiên ta phải xem xét xu hướng biến động của lãi suất trên thị trường quốc tế hiện nay và kinh nghiệm một số nước có điều kiện gần giống với Việt Nam để từ đó vận dụng một cách sáng tạo và phù hợp với hoàn cảnh nước nhà.
Xu hướng điều chỉnh lãi suất của Việt Nam là theo hướng tự do hoá. Thực sự xu hướng tự do hoá lãi suất đã và vẫn luôn là xu hướng đúng đắn, nó phản ánh sát nhất quan hệ cung – cầu tiền tệ trong nền kinh tế thị trường. Điều này được minh chứng thông qua một số lập luận sau:
- Lãi suất được tự do hoá sẽ linh hoạt hơn so với lãi suất bị kiểm soát và có khả năng điều tiết để thích nghi với điều kiện thay đổi, nguồn vốn được phân bổ hiệu quả hơn sẽ tự động tạo sự kích thích cho tăng trưởng tài chính.
- Lãi suất tự do, do thị trường quyết định sẽ giảm thiểu những cuộc tranh luận vốn vẫn thường xuất hiện trong giới tài chính khi xem xét về tính hợp lý hay không hợp lý của mức lãi suất được áp đặt.
- Nền kinh tế thế giới vận động theo hướng toàn cầu hoá. Việt Nam để tham gia vào vòng quay đó cần điều chỉnh mức lãi suất phù hợp với thị trường thế giới.
Song dù vậy không phải trong bất cứ hoàn cảnh nào áp dụng ngay tự do lãi suất đều đem lại hiệu quả cao. Kinh nghiệm của Maylaisia đã cho chúng ta một minh chứng thực tế. Việt Nam trong thời điểm hiện tại chưa đủ điều kiện để thực hiện tự do hoá lãi suất:
Thứ nhất, xuất phát điểm của nền kinh tế Việt Nam quá thấp. Trải qua nhiều năm cố gắng vực dậy nền kinh tế song về cơ bản nền kinh tế vĩ mô chưa ổn định: tích luỹ nội địa thấp, vốn đầu tư còn thiếu, phụ thuộc nhiều vào vốn đầu tư của nước ngoài.
Thứ hai, công tác quản lý nền kinh tế của cơ quan quản lý vĩ mô dù có nhiều bước tiến song vẫn chưa thể coi là hoạt động có hiệu quả.
Thứ ba: Hệ thống Ngân hàng hoạt động hiệu quả chưa cao, trình độ quản lý thấp, đội ngũ cán bộ còn nhiều bất cập về mặt kiến thức nghiệp vụ.
Khu vực sản xuất gặp nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh với hàng nước ngoài. Việc cổ phần hoá với tiến độ chậm…dẫn đến nền kinh tế chưa có dấu hiệu phục hồi lại sau một thời gian khá dài xuống dốc.
Thị trường mở mới đi vào hoạt động từ cuối tháng 7/2000, hàng hoá còn ít, hoạt động của nó chưa được phổ biến tới toàn bộ đời sống của dân chúng nên gây cản trở cho quá trình điều tiết cung ứng tiền và lãi suất.
Tóm lại, tự do hoá lãi suất là cái đích Việt Nam đang hướng tới, tuy nhiên cần phải có những bước đi vững chắc. Hiện nay Việt Nam điều hành cho lãi suất cơ bản Ngân hàng Nhà nước công bố một mức lãi suất cơ bản và một biên độ dao động nhất định. Lãi suất cơ bản mới được đưa vào áp dụng từ ngày 5/8/2000 nhưng chưa thể có ngay những đánh giá về việc hiệu quả của nó. Vấn đề cần đặt ra là chúng ta phải tạo ra những điều kiện để chính sách này đạt hiệu quả cao như mong muốn. Các điều kiện đó có thể gói gọn trong mấy ý sau:
Thứ nhất: Chấn chỉnh, kiện toàn hệ thống các NHTM trong hoạt động nghiệp vụ cũng như quản lý để nâng cao chất lượng các Ngân hàng tham gia vào trong thị trường tiền tệ liên Ngân hàng. Trong một tương lai gần, khi NHTW công bố lãi suất trên thị trường nội tệ liên Ngân hàng là lãi suất cơ bản thì sẽ đảm bảo được đó là lãi suất phù hợp nhất.
Thứ hai: thúc đẩy sự phát triển ổn định của thị trường tiền tệ liên Ngân hàng cũng như thị trường mở, tạo điều kiện cho việc sử dụng công cụ thị trường mở (một công cụ mang lại hiệu quả cao nhất) trong điều hành chính sách tiền tệ nói chung và chính sách lãi suất nói riêng được hiệu quả. Trên cơ sở thị trường liên Ngân hàng hoạt động ổn định thì lãi suất cơ bản sẽ được xác định là mức lãi suất trên thị trường nội tệ liên Ngân hàng – một bước tiến gần hơn tới tự do hoá lãi suất.
Thứ ba: quản lý chặt chẽ các luồng vốn vào, ra của nền kinh tế và hạn chế tối đa mức thâm hụt ngân sách để từ đó xác định chính xác những nhân tố ảnh hưởng đến tổng cung, tổng cầu vốn tiền tệ trong từng thời kỳ của nền kinh tế. Đây là điều kiện vô cùng quan trọng đối với công tác quản lý chính sách tiền tệ nói chung và chính sách lãi suất nói riêng.
KẾT LUẬN
Lãi suất Ngân hàng là một phạm trù kinh tế có tính hai mặt. Nếu xác định lãi suất hợp lý, nó sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hoá phát triển. Ngược lại một cơ chế lãi suất bất hợp lý sẽ là nhân tố kìm hãm sự phát triển kinh tế, gây nên những cuộc khủng hoảng trầm trọng. Chính tính chất vô cùng quan trọng của lãi suất mà Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã nhiều lần điều chỉnh chính sách lãi suất của mình cho phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế. Vượt qua những bước khó khăn ban đầu trong việc điều hành lãi suất đến nay Việt Nam đã lựa chọn cho mình một chính sách lãi suất dựa trên cơ sở lãi suất cơ bản. Có thể nói việc thực hiện chính sách lãi suất cơ bản là một bước tiến dài trong công cuộc đổi mới ở nước ta và đây là một chính sách linh hoạt nhất từ trước tới nay.
Qua quá trình nghiên cứu và làm đề án em nhận ra rằng vấn đề là quá phức tạp nếu xem xét thực tế một cách tỷ mỷ. Và với một mức thời gian nhất định, trình độ kiến thức còn hạn chế, đề án chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót cả về lý luận và thực tiễn. Em rất mong nhận được sự góp ý chỉ bảo của thầy cô.
PHỤ LỤC
tính phức tạp trong Biểu lãi suất tiền gửi và cho vay của Ngân hàng Nhà nước.
(Ban hành kèm theo quyết định số 125 NH/QĐ ngày 4/9/1986
của Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt nam)
% năm
% tháng
A/ Lãi suất tiền gửi
1. Tiền gửi của các XN quốc doanh
2. Tiền gửi của các tổ chức kinh tế tập thể
3. Tiền gửi của các cơ quan, đoàn thể, trường học (trừ tiền gửi dự toán)
B/ LãI suất tiền vay
I- Cho vay vốn lưu động
a) Đối với kinh tế quốc doanh
1. Cho vay trong hạn mức kế hoạch
- Xây lắp
- Nông nghiệp, lâm nghiệp, hải sản, nghề muối
- Công nghiệp, vận tải, bưu điện, cung ứng VT
- Lương thực, ngoại thương
- Thương nghiệp, dịch vụ
2. Cho vay trên hạn mức kế hoạch
* Vì lợi ích kinh tế :
- Xây lắp
- Nông nghiệp, lâm nghiệp, hải sản, nghề muối
- Công nghiệp, vận tải, bưu điện, cung ứng VT
- Lương thực, ngoại thương
- Thương nghiệp, dịch vụ.
* Vì khuyết điểm trong quản lý kinh tế tăng thêm trên 20% so với mức trên
b) Đối với kinh tế tập thể
1. Cho vay trong hạn mức kế hoạch
- HTX Nông nghiệp, lâm, ngư, diêm nghiệp
- HTX tiêu thụ công nghiệp VTải, X.dựng
- HTX mua bán, tiêu thụ, dịch vụ.
2. Cho vay trên hạn mức kế hoạch
- HTX Nông nghiệp, lâm, ngư, diêm,
- HTX tiêu thụ công nghiệp, V.Tải, X.dựng
- HTX mua bán, tiêu thụ, dịch vụ
II- Cho vay sửa chữa lớn (chung cho các ngành kinh tế)
III- Cho vay vốn cố định
a) Đối với kinh tế quốc doanh
1. Cho vay chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị xây dựng (chung cho các ngành)
2. Cho vay đầu tư XDCB mới
- Nông nghiệp, lâm, ngư nghiệp, nghề muối
- Công nghiệp, xây lắp, vận tải cung ứng V.tư
- Lương thực, ngoại thương
- Thương nghiệp nội địa dịch vụ
3. Cho vay cải tiến kỹ thuật, mở rộng sản xuất (chung cho các ngành)
b) Đối với kinh tế tập thể
- HTX Nông nghiệp, lâm, ngư nghiệp, nghề muối
- HTX tiêu thụ công nghiệp, V.Tải, X.dựng
- HTX mua bán, tiêu thụ, dịch vụ
2,88
4,68
6,48
6,12
7,20
7,92
8,28
8,64
7,20
7,92
8,28
8,64
9,0
7,92
9,72
11,52
8,64
10,44
11,88
7,20
4,68
4,68
5,04
5,40
5,76
5,76
6,12
8,84
9,00
0,24
0,39
0,54
0,51
0,60
0,66
0,69
0,72
0,60
0,66
0,69
0,72
0,75
0,66
0,81
0,96
0,72
0,87
0,99
0,60
0,39
0,39
0,42
0,45
0,48
0,48
0,51
0,72
0,75
(Nguồn : Tổng cục thống kê)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1-Lý thuyết tiền tệ Ngân hàng và thị trường tài chính – Frederic S Mishkin – NXB Khoa học và kỹ thuật 1999.
2-Giáo trình: “Lý thuyết tiền tệ và Ngân hàng” của Học viện Ngân hàng.
3- Một số báo và tạp chí:
+ Tạp chí Ngân hàng số 3/98; số 4; 5; 7; 11 năm 2000.
4-Phụ lục hệ thống văn bản chế độ Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NganHang 19.doc