Đề tài Lạm phát của Việt Nam qua hai năm 2007 - 2008, nguyên nhân - Thực trạng và giải pháp

Tăng cung tiền không phải là nguyên nhân duy nhất dẫn đến tăng cầu về hàng hoá, dịch vụ. Tăng tiêu dùng, chi phí công cộng và tăng dân số là những nhân tố phi tiền tệ, sẽ dẫn đến tăng cầu. áp lực lạm phát sẽ tăng sau 1 đến 3 năm, nếu cầu về hàng hoá vượt quá mức cung, song sản xuất vẫn không được mở rộng hoặc do sử dụng máy móc với công suất tiến tới giới hạn hoặc vì nhân tố sản xuất không đáp ứng được sự gia tăng của cầu. Sự mất cân đối đó sẽ được giá cả lấp đầy. Lạm phát do cầu tăng lên hay lạm phát do cầu kéo được ra đời từ đó. Chẳng hạn ở Mỹ, sử dụng công suất máy móc là một chỉ số có ích phản ánh lạm phát trong tương lai ở Mỹ, sử dụng công suất máy móc trên 83% dẫn tới lạm phát tăng. c) Lạm phát theo thuyết chi phí đẩy: Lạm phát chi phí đẩy vừa lạm phát, vừa suy giảm sản lượng tăng thêm thất nghiệp nên còn gọi là lạm phát "đình trệ" Hình thức của lạm phát này phát sinh ra từ phía cung, do chi phí sản xuất cao hơn đã được chuyển sang người tiêu dùng. Điều này chỉ có thể được trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế khi người tiêu dùng sẵn sàng trả với giá cao hơn.

doc29 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1003 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lạm phát của Việt Nam qua hai năm 2007 - 2008, nguyên nhân - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iền tệ thì ở đó còn ẩn náu khả năng lạm phát và lạm phát chỉ xuất hiện khi các quy luật của lưu thông tiền tệ bị vi phạm. - Trong bộ "Tư bản" nổi tiếng của mình C. Mác viết: "Việc phát hành tiền giấy phải được giới hạn ở số lượng vàng hoặc bạc thực sự lưu thông nhờ các đại diện tiền giấy của mình". Điều này có nghĩa là khi khối lượng tiền giấy do nhà nước phát hành vào lưu thông vượt quá số lượng vàng mà nó đại diện thì giá trị của tiền giấy giảm xuống và tình trạng lạm phát xuất hiện. - Một định nghĩa nữa về lạm phát do các nhà kinh tế học hiện đại đưa ra và nó được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường : "Lạm phát là sự tăng lên của mức giá trung bình theo thời gian" - Lạm phát được đặc trưng bởi chỉ số lạm phát. Nó chính là GNP danh nghĩa/ GNP thực tế. Trong thực tế nó được thay thế bằng tỷ số giá tiêu dùng hoặc chỉ số giá bán buôn Ip = åip.d ip: chỉ số giá cả của từng loại nhóm hàng d: tỷ trọng mức tiêu dùng của từng loại hàng. b) Phân loại lạm phát: - Lạm phát vừa phải: còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10% một năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kỳ này nền kinh tế hoạt động bình thường, đời sống của người lao động ổn định. Sự ổn định đó được biểu hiện: giá cả tăng lên chậm, lãi suất tiền gửi không cao, không xẩy ra với tình trạng mua bán và tích trữ hàng hoá với số lượng lớn... Có thể nói lạm phát vừa phải tạo tâm lý an tâm cho người lao động chỉ trông chờ vào thu nhập. Trong thời gian này các hãng kinh doanh có khoản thu nhập ổn định, ít rủi ro nên sẵn sàng đầu tư cho sản xuất, kinh doanh. - Lạm phát phi mã: lạm phát xẩy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 hoặc 3 con số một năm. ở mức phi mã, lạm phát làm cho giá cả chung tăng lên nhanh chóng, gây biến động lớn về kinh tế , các hợp đồng được chỉ số hoá. Lúc này người dân tích trữ hàng hoá, vàng bạc, bất động sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất bình thường. Loại này khi đã trở nên vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng. - Siêu lạm phát: xẩy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao vượt xa lạm phát phi mã, nó như một căn bệnh chết người, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng kinh khủng, giá cả tăng nhanh không ổn định, tiền lương thực tế bị giảm mạnh, tiền tệ mất giá nhanh chóng, thông tin không còn chính xác, các yếu tố thị trường biến dạng và hoạt động kinh doanh lâm vào tình trạng rối loạn. Tuy nhiên, siêu lạm phát rất ít khi xẩy ra. Lịch sử của lạm phát cũng chỉ ra rằng, lạm phát ở các nước đang phát triển thường diễn ra trong thời gian dài, vì vậy hiệu quả của nó phức tạp và trầm trọng hơn. Vì vậy các nhà kinh tế đã chia lạm phát thành 3 loại. Lạm phát kinh niên kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát dướ 50% một năm; lạm phát nghiêm trọng thường kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát trên 50%; siêu lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát trên 200% một năm. 2. Nguyên nhân lạm phát: a) Lạm phát theo thuyết tiền tệ: kinh tế đi vào lạm phát, đồng tiền mất giá... có nhiều nguyên nhân dẫn đến lạm phát. Chẳng hạn thời tiết không thuận, mất mùa, nông dân thu hoạch thấp, giá lương thực tăng lên. Giá nguyên vật liệu tăng làm cho giá cả hàng tiêu dùng tăng lên. Khi tiền lương tăng, chi phí sản xuất cũng tăng theo, dẫn đến giá các mặt hàng cũng tăng. Tăng lương đẩy giá lên cao. Tóm lại, lạm phát là hiện tượng tăng liên tục mức giá chung và có thể giải thích theo 3 cách. - Theo học thuyết tiền tệ, lạm phát là kết quả của việc tăng quá thừa mức cung tiền. - Theo học thuyết Keynes, lạm phát xẩy ra do thừa cầu về hàng hoá và dịch vụ trong nền kinh tế (do cầu kéo). - Theo học thuyết chi phí đẩy, lạm phát sinh ra do tăng chi phí sản xuất (chi phí đẩy) Trên thực tế lạm phát là kết quả của tổng thể 3 nguyên nhân trên, mỗi nguyên nhân có vai trò khác nhau ở mỗi thời điểm khác nhau. Mức cung tiền là một biến số duy nhất trong đẳng thức tỷ lệ lạm phát, mà dựa vào đó ngân hàng Trung ương đã tạo ra ảnh hưởng trực tiếp. Trong việc chống lạm phát, các ngân hàng Trung ương luôn giảm sút việc cung tiền. Tăng cung tiền có thể đạt được bằng hai cách: - Ngân hàng trung ương in nhiều tiền hơn (khi lãi suất thấp và điều kiện kinh doanh tốt). hoặc - Các ngân hàng thương mại có thể tăng tín dụng Trong cả hai trường hợp sẵn có lượng tiền nhiều hơn cho dân cư và chi phí. Về mặt trung hạn và dài hạn, điều đó dẫn tới cầu về hàng hoá và dịch vụ tăng. Nếu cung không tăng tương ứng với cầu, thì việc dư cầu sẽ được bù đắp bằng việc tăng giá. Tuy nhiên, giá cả sẽ không tăng ngay nhưng nó sẽ tăng sau đó 2-3 năm. In tiền để trợ cấp cho chi tiêu công cộng sẽ dẫn đến lạm phát nghiêm trọng. Ví dụ: Năm 1966 - 1967 chính phủ Mỹ đã sử dụng việc tăng tiền để trả cho những chi phí leo thang của cuộc chiến tranh tại Việt Nam, lạm phát tăng từ 3% (năm 1967) đến 6% (năm 1970). Xét trong dài hạn lãi suất thực tế (i) và sản lượng thực tế (y) đạt mức cân bằng, nghĩa là (i) và (y) ổn định. Mức cầu tiền thực tế không đổi nên M/P cũng không đổi. Suy ra khi lượng tiền danh nghĩa (M) tăng lên thì giá cả sẽ tăng lên với tỷ lệ tương ứng. Vậy lạm phát là một hiện tượng tiền tệ. Đây là lý do tại sao ngân hàng Trung ương rất chú trọng đến nguyên nhân này. b) Lạm phát theo thuyết Keynes (lạm phát cầu kéo): Tăng cung tiền không phải là nguyên nhân duy nhất dẫn đến tăng cầu về hàng hoá, dịch vụ. Tăng tiêu dùng, chi phí công cộng và tăng dân số là những nhân tố phi tiền tệ, sẽ dẫn đến tăng cầu. áp lực lạm phát sẽ tăng sau 1 đến 3 năm, nếu cầu về hàng hoá vượt quá mức cung, song sản xuất vẫn không được mở rộng hoặc do sử dụng máy móc với công suất tiến tới giới hạn hoặc vì nhân tố sản xuất không đáp ứng được sự gia tăng của cầu. Sự mất cân đối đó sẽ được giá cả lấp đầy. Lạm phát do cầu tăng lên hay lạm phát do cầu kéo được ra đời từ đó. Chẳng hạn ở Mỹ, sử dụng công suất máy móc là một chỉ số có ích phản ánh lạm phát trong tương lai ở Mỹ, sử dụng công suất máy móc trên 83% dẫn tới lạm phát tăng. c) Lạm phát theo thuyết chi phí đẩy: Lạm phát chi phí đẩy vừa lạm phát, vừa suy giảm sản lượng tăng thêm thất nghiệp nên còn gọi là lạm phát "đình trệ" Hình thức của lạm phát này phát sinh ra từ phía cung, do chi phí sản xuất cao hơn đã được chuyển sang người tiêu dùng. Điều này chỉ có thể được trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế khi người tiêu dùng sẵn sàng trả với giá cao hơn. Ví dụ: Nếu tiền lương chiếm một phần đáng kể trong chi phí sản xuất và dịch vụ. Nếu tiền lương tăng nhanh hơn năng suất lao động thì tổng chi phí sản xuất sẽ tăng lên. Nếu nhà sản xuất có thể chuyển việc tăng chi phí này cho người tiêu dùng thì giá bán sẽ tăng lên, công nhân và các công đoàn sẽ yêu cầu tiền lương cao hơn trước để phù hợp với chi phí sinh hoạt tăng lên, điều đó tạo thành vòng xoáy lượng giá. Một yếu tố chi phí chính khác là giá cả nguyên vật liệu đặc biệt là dầu thô. Trong năm 1972 - 1974 hầu như giá dầu quốc tế tăng 5 lần dẫn đến lạm phát tăng từ 4,6% đến 13,5% bình quân trên toàn thế giới. Ngoài ra sự suy sụp của giá dầu (1980) làm cho lạm phát giảm xuống mức thấp chưa từng thấy. Bên cạnh những yếu tố gây nên lạm phát đó là giá nhập khẩu cao hơn được chuyển cho người tiêu dùng nội địa. Nhập khẩu càng trở nên đắt đỏ khi đồng nội tệ yếu đi hoặc mất giá so với đồng tiền khác. Ngoài ra yếu tố tâm lý dân chúng, sự thay đổi chính trị, an ninh quốc phòng... Song nguyên nhân trực tiếp vẫn là số lượng tiền tệ trong lưu thông vượt quá số lượng hàng hoá sản xuất ra. Việc tăng đột ngột của thuế (VAT) cũng làm tăng chỉ số giá. y y y1 y0 y0 y* y* AD1 AD0 P P1 P0 E1 E0 E0 ASSL ASRL P1 P0 E1 ASLR AD P ASSR1 ASSR2 Chi phí tăng đẩy giá lên cao - Cầu không đổi, giá cả tăng sản lượng giảm xuống Y0 - Y1 AS1 - AS2 Chi tiêu quá khả năng cung ứng - Khi sản lượng vượt tiềm năng đường AS có độ dốc lớn nên khi cầu tăng mạnh, AD - AD1, giá cả tăng P0 - P1 d) Lạm phát dự kiến: Trong nền kinh tế, trừ siêu lạm phát, lạm phát phi mã, lạm phát vừa phải có xu hướng tiếp tục giữ mức lịch sử của nó. Giá cả trong trường hợp này tăng đều một cách ổn định. Mọi người thể dự kiến được trước nên còn gọi là lạm phát dự kiến y y* AD" AD' AD E E' E" ASLR ASSR2 ASSR1 ASSR0 P2 P1 P0 Trong lạm phát dự kiến AS & AD dịch chuyển lên trên cùng, độ sản lượng vẫn giữ nguyên, giá cả tăng lên theo dự kiến. Các nguyên nhân khác: Giữa lạm phát và lãi suất khi tỷ lệ lạm phát tăng lên lãi suất danh nghĩa tăng theo, tăng chi phí cơ hội của việc giữ tiền, càng giữ nhiều tiền càng thiệt. Điều này đặc biệt đúng trong các cuộc siêu lạm phát, tiền mất giá càng nhanh, tăng mức độ tiền gửi vào ngân hàng, vào quỹ tiết kiệm hoặc đẩy ra thị trường để mua về mọi loại hàng hoá có thể dự trữ gây thêm mất cân bằng cung cầu trên thị trường hàng hoá và tiếp tục đẩy giá lên cao. Giữa lạm phát và tiền tệ khi ngân sách thâm hụt lớn các chính phủ có thể in thêm tiền để trang trại, lượng tiền danh nghĩa tăng lên là một nguyên nhân gây ra lạm phát. Và một khi giá cả đã tăng lên thì sự thâm hụt mới nảy sinh, đòi hỏi phải in thêm một lượng tiền mới và lạm phát tiếp tục tăng vọt. Kiểu lạm phát xoáy ốc này thường xảy ra trong thời kỳ siêu lạm phát. Tuy nhiên, chính phủ có thể tài trợ thâm hụt bằng cách vay dân thông qua bán tín phiếu. Lượng tiền danh nghĩa không tăng thêm nên không có nguy cơ lạm phát, nhưng nếu thâm hụt tiếp tục kéo dài, số tiền phải trả cho dân (cả gốc lẫn lãi) sẽ lớn đến mức cần phải in tiền để trang trải thì khả năng có lạm phát mạnh là điều chắc chắn. Các nguyên nhân liên quan đến chính sách của nhà nước, chính sách thuế, chính sách cơ cấu kinh tế không hợp lý. Các chủ thể kinh doanh làm tăng chi phí đầu vào, nguyên nhân do nước ngoài. Những tác động của lạm phát: Lạm phát có nhiều loại, cho nên cũng có nhiều mức độ ảnh hưởng khác nhau đối với nền kinh tế. Xét trên góc độ tương quan, trong một nền kinh tế mà lạm phát được coi là nỗi lo của toàn xã hội và người ta có thể nhìn thấy tác động của nó. * Đối với lĩnh vực sản xuất: Đối với nhà sản xuất, tỷ lệ lạm phát cao làm cho giá đầu vào và đầu ra biến động không ngừng, gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình sản xuất. Sự mất giá của đồng tiền làm vô hiệu hoá hoạt động hạch toán kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh - sản xuất ở một vài danh nghiệp có thể thay đổi, gây ra những xáo động về kinh tế. Nếu một doanh nghiệp nào đó có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn. * Đối với lĩnh vực lưu thông: Lạm phát thúc đẩy quá trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng hoá. Các nhà doanh nghiệp thấy rằng việc đầu tư vốn vào lĩnh vực lưu thông. Thậm chí khi lạm phát trở nên khó phán đoán thì việc đầu tư vốn vào lĩnh vực sản xuất sẽ gặp phải rủi ro cao. Do có nhiều người tham giâ vào lĩnh vực lưu thông nên lĩnh vực này trở nên hỗn loạn. Tiền ở trong tay những người vừa mới bán hàng xong lại nhanh chóng bị đẩy vào kênh lưu thông, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng vọt và điều này làm thúc đẩy lạm phát gia tăng. * Đối với lĩnh vực tiền tệ, tín dụng: Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàn bị thu hẹp. Số người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều. Về phía hệ thống ngân hàng, do lượng tiền gửi vào giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay, cộng với việc sụt giá của đồng tiền quá nhanh, sự điều chỉnh lãi suất tiền gửi không làm an tâm những người hiện đang có lượng tiền mặt nhàn rỗi trong tay. Về phía người đi vay, họ là những người có lợi lớn nhờ sự mất giá đồng tiền một cách nhanh chóng. Do vậy, hoạt động của hệ thống ngân hàng không còn bình thường nữa. Chức năng kinh doanh tiền bị hạn chế, các chức năng của tiền tệ không còn nguyên vẹn bởi khi có lạm phát thì chẳng có ai tích trữ của cải hình thức tiền mặt. * Đối với chính sách kinh tế tài chính của nhà nước: Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hoá, khi lạm phát xảy ra những thông tin trong xã hội bị phá huỷ do biến động của giá cả làm cho thị trường bị rối loạn. Người ta khó phân biệt được những doanh nghiệp làm ăn tốt và kém. Đồng thời lạm phát làm cho nhà nước thiếu vốn, do đó nhà nước không còn đủ sức cung cấp tiền cho các khoản dành cho phúc lợi xã hội bị cắt giảm... các ngành, các lĩnh vực dự định đựơc chính phủ đầu tư và hỗ trợ vốn bị thu hẹp lại hoặc không có gì. Một khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì các mục tiêu cải thiện và nâng cao đời sống kinh tế xã hội sẽ không có điều kiện thực hiện được. II. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam 1. Thực trạng: Một trong những khía cạnh quan trọng nhất của công tác quản lý kinh tế vĩ mô là việc tìm kìm chế lạm phát. Thực ra không phải 10 năm gần đây lạm phát mới xuất hiện ở Việt Nammà từ năm 1980 trở về trước, lạm phát cũng đã tồn tại, chỉ có điều biểu hiện của nó không công khai, các nghị quyết của đảng cộng sản Việt Nam, đại hội V trở về trước không sử dụng khái niệm lạm phát mà chỉ dùng cụm từ "Chênh lệch giữa thu và chi giữa hàng và tiền...."; "Thị trường vật giá không ổn định..." Lạm phát ở thời kỳ này là "Lạm phát ngầm" nhưng chỉ số giá cả ở thị trường tự do thì tăng cao, vượt xa mức tăng giá trị tổng sản lượng cũng như thu nhập quốc dân. Sau một thời kỳ "ủ bệnh" đã bộc phát thành lạm phát công khai với mức lạm phát phi mã cũng tăng giá ba chữ số. Đảng đã kịp thời nhận định tình hình này. "Chúng ta chưa có chính sách cơ bản về tài chính gắn liền với chính sách đúng đắn về giá cả, tiền tệ, tín dụng. Các khoản chi ngân sách mang nặng tính bao cấp và một thời gian dài vượt qua nguồn thu. Việc sử dụng vốn vay và viện trợ kém hiệu quả. Tất cả những cái đó gây ra thâm hụt ngân sách là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến lạm phát trầm trọng". Trong điều hành vĩ mô phát triển nền kinh tế, mọi quốc gia trên thế giới đều phải quan tâm tới chính sách tài chính, tiền tệ, chống lạm phát. Đối với nước ta hiện nay, kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả đang là một vấn đề lớn đặt ra trong điều hành của chính phủ, của các cấp các ngành vì sự phát triển và ổn định. Cho tới nay, Việt Nam đã thành công về phương diện này. Lạm phát đã giảm từ hơn 700% một năm vào năm 1986 xuống chỉ còn 35% vào năm 1989. Đây là một thành công lớn, phản ánh kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố, như tự do hoá nền kinh tế, áp dụng một tỷ giá hối đoái thực tế hơn, người dân không còn tồn trữ hàng hoá, vàng và đô la mà bắt đầu tích luỹ bằng đồng tiền trong nước, xuất khẩu dầu thô ngày càng tăng. Tuy nhiên, những tiến bộ vượt bậc trong năm 1989 đã không được củng cố ngay bằng các chính sách tiền tệ và tài khoản thận trọng, do đó trong các năm 1992 và 1993, giá cả đã tăng gần 70% năm. 2. Lịch sử của lạm phát: - Giai đoạn thứ nhất: Từ năm 1890 trở về trước, lạm phát được hiểu giống hoàn toàn định nghĩa của Marx, cho nên chống lạm phát là tìm tòi mọi cách hạn chế việc phát hành tiền vào lưu thông. - Thời kỳ 1938 - 1945: Ngân hàng Đông Dương cấu kết với chính quyền thực dân Pháp đã lạm phát đồng tiền Đông Dương để vơ vét của cải nhân dân Việt Nam đem về Pháp đóng góp cho cuộc chiến tranh chống phát xít Đức và sau đó để nuôi mấy chục vạn quân nhận bán Đông Dương làm chiếc cầu an toàn đánh Đông Nam á. Hậu quả nặng nề của lạm phát nhân dân Việt Nam phải chịu giá sinh hoạt từ 1939 - 1945 bình quân 25 lần. - Thời kỳ 1946 - 1954: Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo đã phát hành đồng tài chính thay đồng Đông Dương và sau đó là đồng ngân hàng để huy động sức người, sức của của toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến 9 năm đánh đuổi quân xâm lược Pháp, kết quả giải phòng hoàn toàn nửa đất nước. - Thời kỳ 1955 - 1965: Chính phủ tay sai Mỹ kế tiếp nhau ở miền Nam Việt Nam liên tục lạm phát đồng tiền Miền Nam để bù đắp lại cuộc chiến tranh chống laị phong trào giải phóng dân tộc ở Miền Nam. Mặc dù được chính phủ Mỹ đổ vào miền Nam một khối lượng hàng viện trợ khổng lồ, giá trị hàng trăm tỷ USD cũng không thể bù đắp lại chi phí. Nguyễn Văn Thiệu - Chính phủ đã lạm phát hàng trăm tỷ đồng tiền lưu thông ở miền Nam năm 1975 gấp 5 lần. Năm 1969 lên tới 600 triệu đồng, giá sinh hoạt tăng hàng trăm lần so với năm 1965. - Thời kỳ 1965 - 1975: ở miền Bắc Việt Nam chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà phải tiến hành một cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, chống chiến tranh phá hoại ở Mỹ tại miền Bắc, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, đã phát hành số tiền lớn (gấp 3 lần tiền lưu thông của năm 1965 ở miền Bắc) để huy động lực lượng toàn dân, đánh thắng độc quân xâm lược ở Mỹ và tay sai ở cả hai miền. Nhưng nhờ có sự viện trợ to lớn và có hiệu quả của Liên xô, Trung Quốc và các nước XHCN anh em đã hạn chế được lạm phát trong thời gian này. - Thời kỳ 1976 đến nay: Sau khi thống nhất đất nước, chúng ta thiếu nhiều kinh nghiệm trong thời bình nên duy trì quá lâu cơ chế thời chiến tập trung quan liêu bao cấp toàn diện, không mở rộng sản xuất hàng hoá. XHCN không tiến hành hạch toán kinh doanh nên đã tự gây cho mình nhiều khó khăn, sản xuất không đủ tiêu dùng, ngân sách không đủ chi tiêu, lạm phát tiền giấy liên tục và bùng nổ dữ dội tới 3 con số. Nhưng kể từ năm 1999 đến nay với sự chỉ đạo đúng đắn của nhà nước thì lạm phát hiện nay chỉ còn dừng lại ở mức độ tốt cho sự phát triển nền kinh tế tức là chỉ ở mức 15-17% có thể nói đây cũng là một thành công không nhỏ của nhà nước ta. 3. Đặc trưng lạm phát ở nước ta: Lạm phát ở Việt Nam cũng có những biểu hiện chung giống với lạm phát ở các quốc gia khác như: chỉ số giá cả nói chung tăng phổ biến do vậy giá trị của đồng tiền giảm. Song lạm phát ở Việt Nam có đặc trưng riêng do điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể: - Lạm phát của một nền kinh tế kém phát triển trong đó khu vực kinh tế nhà nước có địa vị thống trị. Nền kinh tế Việt Nam thuộc loại kém phát triển nhất thế giới, các chỉ tiêu bình quân đầu người rất thấp. Khu vực kinh tế nhà nước ở Việt Nam chiếm 1 tỷ trọng lớn hiếm có trên thế giới. Mặc dù khu vực nhà nước chiếm phần lớn số vốn đầu tư và chất xám trong cả nước nhưng lại chỉ có thể làm ra từ 30% - 37% tổng sản phẩm xã hội. Các xí nghiệp quốc doanh nhìn chung đã nộp cho ngân sách nhà nước một số tiền thấp rất xa so với số tiền nhà nước cung cấp cho nó qua bù lỗ, bù giá, cấp phát tín dụng, lãi suất thấp... Đúng ra khu vực kinh tế nhà nước phải đem lại nguồn thu chủ yếu cho xã hội thì ở đây lại ngược lại. Khu vực kinh tế tư nhân làm ăn có hiệu quả hơn và đóng góp một phần quan trọng trong ngân sách của nhà nước. Chính hoạt động của các hãng kinh tế nhà nước với lãi giả, lỗ thật đã đẩy nền kinh tế lạm phát, thị trường rối loạn, lỗ lãi khó kiểm tra. Sự giảm sút hiệu quả sản xuất kinh doanh dẫn đến đến vòng luẩn quẩn. Hiệu quả giảm sát dẫn đến thu không đủ bù chi và lạm phát, rồi lạm phát làm cho hiệu quả kinh doanh tiếp tục giảm sút, cứ như vậy nó làm cho nền kinh tế Việt Nam càng lún sâu vào đói nghèo, lạc hậu. - Lạm phát của một nền kinh tế độc quyền mà nhà nước có địa vị thống trị trên mọi lĩnh vực, cơ chế kinh tế quan liêu bao cấp. Trong nền kinh tế thị trường sự cạnh tranh ắt sinh ra một công ty thắng thế chiếm vị trí độc quyền. Để đạt được điều đó, phải tiến hành cải tiến máy móc, trang thiết bị, tổ chức lao động, tập trung nguồn vốn ... Nhưng khi ở vị trí độc quyền công ty sẽ bóp chết các địch thủ khác và cũng ít chú ý hơn đến việc áp dụng tiến bộ KHKT dẫn đến sự suy thoái trong kinh doanh. Nếu công ty này nhỏ thì sự ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế sẽ không có nhiều hiệu quả tiêu cực. nhưng nếu đó là một công ty lớn thì sự suy thoái này sẽ kéo theo cả nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng. Trên thực tế, độc quyền ở Việt Nam cũng như ở các nước XHCN khác đã khống chế toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chế độ độc quyền nhà nước và cơ chế hoạch định quan liêu, mệnh lệnh đã triệt tiêu mất các quan hệ thị trường ở Việt Nam làm cho nền kinh tế Việt Nam xa lạ với thị trường. Đây cũng là nguyên nhân đáng chú ý trong việc góp phần tăng lạm phát. - Lạm phát của một nền kinh tế đóng, phụ thuộc một chiều vào các nguồn tài trợ từ bên ngoài. Việt Nam đóng cửa nền kinh tế, không quan hệ kinh tế với các nước TBCN. Chính sách này ra đời do sự thù địch, cấm vận của Mỹ. Nguyên nhân nữa dẫn đến sự đóng góp của nền kinh tế là do sự đối đầu đông tây mà Việt Nam và các nước XHCN là 1 cực. Sự bó hẹp nền kinh tế này đã dẫn đến những khó khăn đáng kể cho sản xuất kinh doanh. - Ngoài những đặc điểm trên thì lạm phát Việt Nam có cơ cấu của nó bao gồm những ngành kém hiệu quả có được sự ưu tiên phát triển. Mọi người đều thấy sự mất cân đối khi ưu tiên phát triển công nghiệp nặng (vốn lớn, thu hồi lãi chậm). - Lạm phát ở một nước chịu ảnh hưởng nặng nề của các cuộc chiến tranh kéo dài do đó chi phí cho lĩnh vực quốc phòng lớn, tiền trợ cấp gia đình chính sách... Những khoản này đã làm tăng thêm thâm hụt ngân sách và tăng lạm phát. - Việt Nam là nước nông nghiệp mà luôn chịu ảnh hưởng của thiên tai, hạn hán, mất mùa... Do đó, ngân sách hụt đi do phải chi ra 1 khoản trợ cấp cho các vùng thiên tai. 4. Nguyên nhân dẫn đến lạm phát ở Việt Nam: 4.1. Nguyờn nhõn cơ bản Phần trước, chúng ta đã đề cập đến nguyên nhân lạm phát nói chung, bây giờ ta xét trong thời điểm cụ thể và ở quốc gia cụ thể. Lạm phát ở Việt Nam có nhiều nguyên nhân và ý kiến khác nhau. Từ những phân tích về đặc trưng của nó ta có thể thấy con đường dẫn đến lạm phát. Thứ nhất: Nguyên nhân của lạm phát từ trong chính các thể chế kinh tế quan liêu bao cấp mệnh lệnh, đóng cửa... thể chế này hướng nền kinh tế Việt Nam phát triển các ngành có chi phí cao, tách rời cầu thị trường, cô lập với thế giới bên ngoài dẫn đến sự mất cân đối giữa cung và cầu, thu và chi ngân sách... thể hiện nền kinh tế thích xu hướng phát triển kém hiệu quả, các xi nghiệp làm ăn thua lỗ... Đó là nguyên nhân sâu xa đưa nền kinh tế lâm vào lạm phát phi mã. Thứ hai: Do điều hành sai lầm của bộ máy nhà nước, như xác định cơ cấu không xuất phát từ hiệu quả. Sự đổi tiền và tăng giá năm 1985 là chính sách phá giá đồng tiền, làm giảm niềm tin của dân vào đồng tiền của nhà nước. Chính sách lãi suất thấp so với mức trượt giá làm cho người dân không muốn g ửi tiết kiệm. Sự mất cân đối tài chính gây lạm phát qua kênh tín dụng, ngân hàng nhà nước luôn phải phát hành tiền để cân đối các nguồn vốn cho vay của ngân hàng, đáp ứng yêu cầu của các ngành kinh tế và xây dựng cơ bản ngày càng tăng. Nhà nước lại không chủ động được việc cung cầu hàng hoá, gây ra sự rối loạn trên thị trường, giá cả thay đổi một cách bất hợp lý so với giá quốc tế. Mặt hàng giá cả bị nhích lên do cơn sốt xi măng, thép, xăng dầu, vàng và ngoại tệ. Thứ ba: Cho đến nay, xương sống của nền kinh tế Việt Nam vẫn là các doanh nghiệp. Những doanh nghiệp này đóng góp 37% vào ngân sách nhà nước. Trong số gần 6000 doanh nghiệp nhà nước thì chỉ riêng 18 tổng công ty lớn với hơn 300 thành viên đã đóng góp trên 70% tổng nộp ngân sách của khu vực kinh tế quốc doanh. Việc làm ăn của nhiều công ty xuất nhập khẩu hàng năm nhà nước phải bù lỗ, bù giá quá lớn có năm chiếm gần 40% tổng số chi cho ngân sách, không những không làm thêm mà còn phải chi ra. Thứ tư: Môi trường đầu tư chậm được cải tiến, tích luỹ ở trong nước còn ở mức thấp, mới ở khoảng 25 ¸ 26% GDP. Đầu tư những công trình có vốn lớn, thời gian thi công kéo dài quá sức chịu đựng của nền kinh tế trong lúc đó nguồn thu hạn hẹp, thất thu lớn. Tình hình đó làm cho nguồn tài chính quốc gia bị thâm hụt, không còn cách nào khác buộc nhà nước phải in tiền giấy bù đắp, vì vậy đã gây ra lạm phát tiền giấy. Thứ năm: Nguyên nhân từ cơ chế kinh tế độc quyền mà nhà nước có vị trí thống trị trên mọi lĩnh vực: Cơ chế quan liêu bao cấp nặng nề. Nhà nước can thiệp sâu vào các hoạt động của nền kinh tế. Các quan hệ tiền tệ không được phát huy một cách đầy đủ tác dụng kích thích, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Quy luật giá trị vi phạm một cách nghiêm trọng. Các nhà lãnh đạo đầy tham vọng muốn kiểm soát toàn bộ các cơ sở kinh tế quốc dân bằng kế hoạch hoá tập trung. 4.2. Nhận diện nguyên nhân lạm phát trong những năm gần đây Lạm phát như biểu hiện vừa qua có nguyên nhân sâu xa và nguyên nhân trực tiếp. Những yếu kém vốn có của nền kinh tế đã tồn tích từ nhiều năm nhưng chậm được xử lý, khắc phục, đến thời điểm nền kinh tế chịu những tác động bất lợi từ kinh tế thế giới ( giá năng lượng tăng cao, kinh tế thế giới suy giảm...) cộng hưởng với tác động bất lợi kinh tế trong nước ( thiên tai dồn dập cuối năm 2007, đầu 2008, tập trung vào những vùng trọng điểm khó khăn, dịch bệnh kéo dài trên diện rộng ) thì lạm phát mới bộc lộ. Những nguyên nhân chủ yếu là: a.Nguyên nhân sâu xa: -Trình độ phát triển, chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế thâp, sức cạnh tranh chưa cao. Theo xếp hạng của diễn đàn kinh tế thế giới năm 2007, nước ta ở nhóm trung bình thấp về sức cạnh tranh trong số 131 quốc gia được đánh giá, vị trí 68/131 ( Trung Quốc đứng thứ 34, Xin-ga-po:7 , Thái Lan: 28 ), trong khi độ mở của nền kinh tế lớn xét về cả đầu ra – kim ngạch xuất nhập khẩu tính trên GDP bằng 150% ( Trung Quốc là 63% ). Vì vậy, nền kinh tế dễ bị tổn thương khi thị trường thế giới có những biến động bất lợi về giá cả, cung cầu, tăng trưởng kinh tế -Chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế còn thấp. Cơ cấu kinh tế chậm cải thiện; công nghiệp khai thác tài nguyên và gia công vẫn chiếm tỷ trọng lớn, công nghiệp phụ trợ chậm phát triển, phần lớn vật tư, nguyên liệu trung gian cho sản xuất phải nhập khẩu; giá trị gia tăng sản xuất công nghiệp thấp. -Chính sách tiền tệ nới lỏng trong nhiều năm dẫn đến tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán gây sưcs ép lạm phát lên nền kinh tế -Chính sách tài chính nới lỏng trong nhiều năm, lấy tăng đầu tư là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ( tổng vốn đầu tư xã hội trên GDP các năm 2000-2005 ở mức bình quân 37,5% GDP, năm 2006 và 2007 khoảng 2007 khoảng 40% GDP ) chưa đi liền với nâng cao chất lượng và hiệu quả đầu tư. Tình trạng đầu tư dàn trải, nhiều công trình dở dang, chậm đưa vào khai thác, sử dụng, kém hiệu quả khá phổ biến và kéo dài nhiều năm ở cả trung ương lẫn địa phương nhưng chậm được khắc phục. Hệ số ICOR của nền kinh tế cao: chỉ số ICOR của nước ta trong giai đoạn: 2001-2006 khoảng 4,4 (của Trung Quốc giai đoạn này là 4,0; của một số nước khu vực ASEAN: Thái lan,Xin-ga-po...là 3-3,5 ). Điều đó thể hiện các chi phí đầu vào ( cả chi phí trực tiếp và chi phí trung gian ) để đầu tư cao nhưng hiệu quả đầu tư kém, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp. Tỷ trọng chi phí nguyên nhiên vâtj liệu trên 1 đơn vị sản phẩm lớn, ví dụ: chi phí tiêu thụ điện để sản xuất ra 1 USD GDP của nước ta: 1,02 kwh, trong khi Thái Lan: 0,761 kwh; Phi-lip-pin: 0,512 kwh; Hồng Kông: 0,22 kwh. Đây là nguyên nhân quan trọng đẩy chi phí thực của nền kinh tế Việt Nam tăng cao hơn các nước. -Nhu cầu tiêu dùng xã hội tăng cao, thể hiện ở tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội giai đoạn 2000-2007 tăng bình quân trên 20%/ năm (năm 2006: tăng 20,8%; năm 2007: tăng 25,1%; 4 tháng đâu năm 2008: tăng 29,5%); nếu trừ yếu tố tăng giá thì tốc độ tăng vẫn trên 10%/năm; Nhà nước điều chỉnh chính sách tiền lương, trợ cấp cho cán bộ công nhân viên chức, lực lượng vũ trang, người về hưu, gia đình chính sách. -Năng lực kiểm tra, giám sá, dự báo và cảnh báo, phát hiện và đề xuất các chính sách vĩ mô ( tiền tệ, tài chính, cung cầu ) của các bộ, ngành tổng hơp chậm được tăng cường, không theo kịp tình hình khi nền kinh tế chuyển mạnh sang hoạt động theo cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Hệ thống thông tin, dữ liệu phục vụ việc hoạch định chính sách còn yếu và chưa đủ độ chuẩn xác. b. Nguyên nhân trực tiếp: -Nửa cuối năm 2007 đầu năm 2008, gía dầu thô, nguyên liệu cơ bản, lương thực thực phẩm thiết yếu tăng cao (4 tháng đầu năm 2008 so với cùng kỳ năm 2007, gía xăng dầu thế giới đã tăng 51,24%, phôi thép tăng 43%, phân bón tăng 67%, giá ngô tăng 31%, đậu tương tương 87%, lúa mì tăng 130%...), trong khi đó 70% nhập khẩu của Việt Nam là các mặt hàng nguyên nhiên vật liệu, máy móc thiết bị phục vụ sản xuất trong nước; nhiều mặt hàng có tỷ trọng nhập khẩu cao như: xăng dầu ( 100% ), phôi thép (65% - 70% ), nguyên liệu sẩn xuất thuốc ( 60% )..., phụ thuộc hoàn toàn vào giá thế giới. Sự nhập khẩu lạm phát từ kênh nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ cho nền kinh tế là khá rõ trong 2 năm qua. -Dòng vốn nước ngoài qua đầu tư trực tiếp, gián tiếp vào Việt Nam cao hơn những năm trước đây, trong khi khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế chưa tốt, đã gây sức ép tăng tổng phương tiện thanh toán và làm biến động tỷ giá hối đoái. Việc gia tăng dư nợ của các tổ chức tín dụng cũng là nguyên nhân làm tăng lượng tiền cung ứng. Việc chống đầu cơ, đồng thời tháo gỡ vướng mắc cho sự phát triển lành mạnh của thị trường bất động sản còn chưa có hiệu quả nên giá cả bất động sản, nhất là ở các đô thị lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh đã ở mức quá cao, vượt xa hơn nhiều giá trị thực gây cản trở phát triển thị trường bất động sản lành mạnh, phát triển công nghiệp và góp phần tăng thêm tình hình lạm phát. -Gía một số hàng hóa dich vụ được duy trì ở mức “bao cấp”, thấp hơn giá thành sản xuất trong thời gian dài, nhất là các vật tư hàng hóa là đầu vào của nền kinh tế ( so với giá thành, giá bán điện sinh hoạt 100Kw đầu tiên bằng 64,21%; giá bán dầu đi-ê-zen bằng khoảng 76%, than cho sản xuất điện bằng 52% - 56%; than cho sản xuất xi – măng, phân bón, giấy bằng khoảng 64% -82%...); nhiều loại có giá thấp hơn các nước ( giá điện bằng 62% của Thái Lan, 40% của Xin-ga-po, 30% của Phi-lip-pin; gía dầu đi-ê-zen bằng 82% của Xin-ga-po, 91% của In-đô-nê-xi-a, 85% của Lào, Cam-pu-chia...). Do vậy, khi giá thị trường thế giới tăng cao, đòi hỏi phải điều chỉnh giá trong nước, để thực hiện lộ trình giá thị trường thì mức độ điều chỉnh lại lớn đã tác động manh tính dây chuyền đến giá cả hàng hóa dịch vụ khác. -Tính liên kết giưa sản xuất lưu thông và thị trường lỏng lẻo; hạ tầng thương mại chưa phát triển, hệ thống phân phối yếu kém,nhiều tầng nấc khó kiểm soát. Yếu tố tâm lý, sự kỳ vọng lạm phát đã tác động mạnh đến thị trường, gây tác động tăng giá dây chuyền. -Thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp gây thiệt hại về đàn gia súc, gia cầm, rau màu... làm giảm nguồn cung, gây tăng giá. -Công tác tuyên truyền, phổ biến, giải thích tình hình không kịp thời, nhất là trong những trường hợp ban hành các chính sách, giải pháp mới có tính nhạy cảm, ảnh hưởng đến lợi ích của nhân dân và nhà đầu tư, gây tâm lý lo lắng trong xã hội. III. C¸c biÖn ph¸p kiÒm chÕ l¹m ph¸t ë n­íc ta: 1. C¸c quan ®iÓm vµ kh¾c phôc l¹m ph¸t T¨ng l·i suÊt ng©n hµng cao h¬n møc l¹m ph¸t. ThuyÕt tiÒn tÖ Friedman ®­îc ¸p dông. Muèn kh¾c phôc l¹m ph¸t cÇn ph¶i thi hµnh chÝnh s¸ch "h¹n chÕ tiÒn tÖ" hay " kh¾c khæ" thu, t¨ng l·i suÊt tÝn dông cña ng©n hµng trung ­¬ng, h¹n chÕ t¨ng l­¬ng, duy tr× thÊt nghiÖp ë møc thÊp. * Theo c¸ch tiÕp cËn kh¸c. + §èi víi mäi cuéc siªu l¹m ph¸t vµ l¹m ph¸t phi m·, hÇu nh­ ®Òu g¾n liÒn víi sù t¨ng tr­ëng nhanh chãng vÒ tiÒn tÖ, th©m hôt ng©n s¸ch lín... nªn ®Ò ra biÖn ph¸p gi¶m m¹nh tèc ®é t¨ng cung tiÒn, c¾t gi¶m m¹nh mÏ chi tiªu vµ kiÓm so¸t cã hiÖu qu¶ viÖc t¨ng l­¬ng danh nghÜa, ch¾c ch¾n sÏ chÆn ®øng vµ ®Èy lïi l¹m ph¸t. + §èi víi l¹m ph¸t võa ph¶i, muèn kiÒm chÕ vµ ®Èy lïi tõ tõ xuèng møc thÊp h¬n còng ®ßi hái ¸p dông c¸c chÝnh s¸ch nãi trªn. Tuy nhiªn, biÖn ph¸p nµy kÐo theo suy tho¸i vµ thÊt nghiÖp - mét gi¸ ®¾t - nªn viÖc kiÓm so¸t chÝnh s¸ch tiÒn tÖ vµ tµi kho¸ trë nªn phøc t¹p vµ ®ßi hái ph¶i thËn träng. Cã thÓ xo¸ bá l¹m ph¸t hay kh«ng? C¸i gi¸ ph¶i tr¶ cña viÖc xo¸ bá hoµn toµn l¹m ph¸t kh«ng t­¬ng xøng víi lîi Ých ®em l¹i cña nã, v× vËy c¸c quèc gia th­êng chÊp nhËn l¹m ph¸t ë møc thÊp vµ xö lý ¶nh h­ëng cña nã chØ sè ho¸ c¸c yÕu tè chi phÝ nh­ tiÒn l­¬ng, gi¸ vËt t­, l·i suÊt... §ã lµ c¸ch lµm cho sù thiÖt h¹i cña l¹m ph¸t lµ Ýt nhÊt. Cã nhiÒu ¸p lùc buéc chÝnh phñ ph¶i t¨ng chi ng©n s¸ch, nh­ng ng­îc l¹i kh«ng mÊy søc Ðp ®Ó t¨ng thªm thu nhËp. Béi chi ë møc trªn 6% so víi GDP n¨m 1995 vµ kho¶ng 6% n¨m 1996 ®· ®­îc trang tr¶i b»ng vay nî n­íc ngoµi vµ trong n­íc. Tuy nhiªn, chÝnh phñ cã thÓ sÏ khã c­ìng l¹i c¸m dç in thªm tiÒn mét lÇn n÷a khi viÖc ph¸t hµnh tr¸i phiÕu gÆp khã kh¨n. Khi tiÒn viÖn trî ®­îc rãt vµo, chÝnh phñ sÏ thÊy r»ng nhiÒu dù ¸n ®ßi hái phÝa ViÖt Nam ph¶i ®ång tµi trî b»ng tiÒn trong n­íc. Nh÷ng ®ßi hái nµy râ rµng sÏ lµm t¨ng thªm g¸nh nÆng cho ng©n s¸ch vèn ®· eo hÑp (trõ phi t×m ®­îc c¸ch thóc ®Èy tÝch luü trong n­íc vµ kiÓm so¸t ®­îc chi tiªu ng©n s¸ch) do ®ã cã thÓ t¨ng nhanh ®Çu t­ mµ kh«ng g©y nªn l¹m ph¸t. LÜnh vùc tµi chÝnh - tiÒn tÖ ®¹t tiÕn bé ®¸ng kÓ, næi bËt nhÊt lµ ®· chÆn ®­îc n¹n l¹m ph¸t cao, tõng b­íc ®Èy lïi l¹m ph¸t. ChØ sè hµng tiªu dïng vµ dÞch vô gi¶m tõ 67,4% n¨m 1993 xuèng cßn 17,5% n¨m 1994. N¨m 1995: 5,2% N¨m 1996: 14,,4%; N¨m 1997: 12,7% N¨m 1998: 4,5%; N¨m 1999: 3,6% 2.Những bài học về kiềm chế lạm phát ở Trung Quốc Để kiềm chế lạm phát, Chính phủ trung quốc thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp cả về tiền tệ, thị trường, sản xuất...Báo cáo tại kỳ họp quốc hội trung quốc này 5/3/2008, thủ Tướng Ôn Gia Bảo đưa ra cacs nhóm giải pháp cấp bách để kiềm chế lạm phát Một là, hỗ trợ thúc đẩy phát triển sản xuất, nhất là sản xuất các mặt hàng thiết yếu như: lương thực, thực phẩm, dầu thực vật, thịt... Hai là, kiểm soát chặt chẽ ngành công nghiệp sử dụng nguyên liệu là lương thực - thực phẩm. Ba là, đẩy mạnh và kiện toàn hệ thống dự trữ, điều tiết xuất nhập khẩu, bình ổn giá thị trường trong nước. Bốn là, thực hiện tốt khâu quản lý và điều tiết, điều hành giá cả, ngăn chặn tình trạng đua nhau ăng giá. Năm là, giám sát việc thu phí và lệ phí giáo dục, y tế, giá cả mặt hàng dược phẩm và nguyên nhiên vật liệu phục vụ nông nghiệp... kiên quyết xử lý các trường hợp liên kết đầu cơ trục lợi. Sáu là, hoàn thiện và thực hiện các biện pháp trợ cấp đối với người cs thu nhập thu nhập thấp. Bảy là, ngăn chặn kịp thời tình trạng giá cả nguyên nhiên vật liệu leo thang. Tám là, kiên trì thực hiện “chế độ trách nhiệm bao gạo” đối với tỉnh trưởng và “chế độ trách nhiệm rổ rau” đối với thị trưởng. Như vậy, biện pháp thắt chặt tiền tệ phải được tiến hành có liều lượng, có lộ trình và đồng thời với quản lý thị trường, quản lý giá cả, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển và hỗ trợ người dân có thu nhập thấp. Song đối với Việt Nam thì dường như nghiêng quá nhiều về tiền tệ. Thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh. Sản xuất kinh doanh rơi vào tình trạng khó khăn,hiệu quả thấp... có thể dẫn đến tăng trưởng chậm và trì trệ, nạn thất nghiệp gia tăng. Nhà đầu tư mất lòng tin vào thị trường chứng khoán...Tất cả những điều đó đều cần được quan tâm và tìm biện pháp để phục hồi! Kinh nghiệm của Trung Quốc, một số nước khác trong khu vực nền được tham khảo tích cực trong xử lý các bài toán về điều hành nền kinh tế vĩ mô hiện nay. 3. Gi¶i ph¸p chèng l¹m ph¸t ë n­íc ta: 3.1. Những giải pháp cơ bản Căn cứ vào thực tế thực thi và các giải pháp chống lạm phát, chúng ta có thể kể đến một số giải pháp chủ yếu sau: a. Giải pháp đầu tiên:là Đảng cần nâng cao nhận thức chính trị, nhận thức kinh tế cán bộ, Đảng viên theo hướng đổi mới. Không được trang bị tư duy mới, kiến thức mới thì cán bộ không thể thực hiện được những yêu cầu đổi mới trên mọi lĩnh vực. Đồng thời nhà nước phải vững mạnh chuyên chính vô sản, lập lại trật tự kỷ cương xã hội, giữ vững phép nước phải kiên quyết thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong hệ thống Đảng và các cơ quan nhà nước, đấu tranh không khoan nhượng, xóa bỏ những đặc quyền, đặc lợi, những tư tưởng cục bộ địa phương đang làm trì trệ, tê liệt những chủ trương chính sách của nhà nước. Để làm việc này, nhà nước cần ban hành những đạo luật chung về kinh tế, các đạo luật cụ thể về giá cả, lao động, tài chính, ngân hàng... làm cơ sở thống nhất cho việc thi hành trong cả nước đồng thời phải đề cao chức năng thoái soát kiểm kê của nhà nước đối với các hoạt động kinh tế, hoạt động xã hội. b. Các biện pháp về tiền tệ, tín dụng, thanh toán và ngân hàng trong việc chống lạm phát. "Kiên quyết đẩy lùi và khống chế lạm phát, ổn định về tăng cường nền tài chính, tiền tệ, tạo môi trường cho sản xuất hàng hoá phát triển có hiệu quả" Như vậy, Đảng đã thấy rõ tầm quan trọng của việc đẩy lùi và kiềm chế lạm phát với việc thi hành các chính sách tài chính, tín dụng, tiền tệ, xây dựng một nền tài chính lành mạnh. Nghị quyết TW II còn vạch rõ: + Xoá bao cấp qua tín dụng + Đổi mới cơ chế quản lý ngoại hối, hạ cơn sốt ngoại tệ + Đổi mới cơ cấu và phương thức cân đối ngân sách + Cải tiến việc phân cấp quản lý ngân sách. + Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý, giáo dục việc thực hiện các giải pháp này không nằm ngoài nội dung hoàn thiện chính sách lãi suất. Giảm hoặc rút bớt về một khối lượng tuyệt đối giấy bạc để thực hiênj biện pháp này, thông thường chính phủ và ngân hàng sử dụng các hình thức thu hút vốn vào quỹ ngân hàng như sau: + Khuyến khích vào mở rộng tiền vốn ngân hàng (bao gồm cả gửi tiết kiệm của nhân dân bằng cách nâng cao mức lãi suất gửi tiết kiệm vào ngân hàng trên mức lạm phát, với sự sụt giá đồng bảng và chính sách bảo vệ bảo hiểm giá trị đồng vốn gửi vào ngân hàng. + Phát hành công trái,trái phiếu và xổ số kiến thiết với quy mô mở rộng và bâừng những biện pháp hành chính cưỡng bức với người sản xuất, kinh doanh trong việc mua công phiếu trái phiếu hoặc bằng những chế độ thưởng hiện vật và giải cao, phòng giúp kích khích. +Thu hẹp khả năng thanh toán cuối cùng các hối phiếu hoặc kỳ phiếu thương mại đối với ngân hàng thương mại thông qua việc hạn chế chiết khấu và các chiết khấuvà nâng cao tỷ lệ quỹ vốn lao động. + ấn định giá hối đoái, hợp lý đồng bạc quốc gia theo chế độ 1 giá hối đoái và thực hiện nghiêm ngặt điều kiện quản lý ngoại hối, biện pháp này cho phép ngân hàng nhà nước thu về một khối lượng tiền tệ đáng kể trênthị ttrường tăng thu nhập ngân sách, đó là một cách để thấy và bù đắp một phần thiếu hụt cán cân thu chi ngân sách. + Hạn chế và thu hẹp tín dụng ngân hàng nói chung, nhất là tín dụng do hoạt động thương mại thuần tuý,, hối đoái trong điều kiện sản xuấtnhất là sản xuất hàng tiêu dùng bị đình đốn. Song có thể gia tăng khối lượng tiêu dùng ngắn hạn hướng vào sản xuất hàng tiều dùng thiết yếu bằng số ngoại tệ thu được qua xuất khẩu, cung ứng dịch vụđối ngoại hoặc vay nợ, viện trợ. -Với biện phát này có thể giảm đi một khối lượng tiền tệ đáng kể do việc buôn bán vòng vèo ăn chênh lệch giá và bấy lâu nay không sao kiểm soát nổi. Mặt khác do hướng tín dụng ngân hàng có lựa chọn và chú trọng tính hiệu quả của nó có thể tạo ra được một khối lượng hàng hoá nhất định bán và thu tiền về, đồng thời giảm đi một khối lượng đáng kể số tiền sẽ chi cho các kỳ phiếu thương mại giữa ngân hàng và khách hàng cũng như các hoạt động tái chiết khấu và tín dụng cuối cùng của ngân hàng nhà nước và ngân hàng thương mại. - Để hạn chế và điều hoà tín dụng, ngân hàng TW thường sử dụng các biện pháp: Tăng hay giảm lãi suất để giảm hay tăng khối lượng tín dụng, nghĩa là đối với công cụ lãi suất này sẽ khuyến khích hoặc hạn chế ai trong hoạt động kinh doanh, thực hiện mua hay bán các chứng khoán tại thị trường bỏ ngỏ. c. Nhà nước thực hiện thả nổi giá cả hầu hết trên các mặt hàng, giờ đây giá cả của hàng hoá do thị trường định đoạt. Nhà nước chỉ dừng lại ở mức quy định một ít mặt hàng treo giá của nhà nước đưa ra. Từ năm 1989 giá cả hầu hết các hàng hoá đựơc thị trường xác định, đến nay nhà nước chỉ còn xác định giá cước tải liên lạc, giá năng lượng, xăng dầu. Một số mặt hàng quan trọng nhà nước can thiệp bằng các biện pháp kinh tế tích cực. Chẳng hạn giá gạo hạ thấp, nhà nước bỏ tiền ra mua với giá gạo cao hơn thị trường tự do để giữ vững và khuyến khích sản xuất nông nghiệp. Giá vàng lên cao, ngân hàng nhà nước bán vàng ra thị trường với mức giá thấp hơn để kéo vàng hạ xuống. Với giải pháp này nhà nước đã xóa bỏ tình trạng ngân sách phải bao cấp cho các xí nghiệp và các tổ chức kinh tế thông qua hệ thống giá thấp. Do trực tiếp chịu sự quy định của quan hệ cung cầu, của người sản xuất và người tiêu dùng... là chức năng điều tiết giá cả do thị trường đảm nhận đã được khôi phục trở lại. Trên thị trường giá cả đã có sự co giãn lên xuống và thực sự trở thành tấm gương phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế. Giá cả trở thành mệnh lệnh của thị trường và nó cũng rất khắc nghiệt. Đồng thời giá cả có tác động đến nhu cầu, làm cho nhu cầu được điều chỉnh tốt hơn theo hướng đa dạng, tiết kiệm... Mọi người tiêu dùng đã tính toán được các khoản chi tiêu không cần thiết. Nhà nước Việt Nam cho phép ngân hàng quốc gia được xác định tỷ giá ngoại tệ xấp xỉ với thị trường tự do, biện pháp này có tác dụng xoá bỏ hiện tượng đầu cơ vàng và ngoại tệ gây rối loạn thị trường. Hiện nay nhà nước cùng với ngân hàng TW đang tiến dần đến việc điều chỉnh giá vàng và giá đôla theo mức giá cả của thị trường thế giới, đây là một trong những kế hoạch hoà nhập kinh tế Việt Nam với thế giới. d. Thứ tư: Tạo điều kiện phát triển nền kinh tế ngoài quốc doanh. Nhà nước cho phép các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh được kinh doanh trên nhiều lĩnh vực. Hiện nay nền kinh tế nước ta có 5 thành phần kinh tế tham gia cùng hoạt động. Pháp luật của nhà nước đảm bảo các quyền lợi, quyền bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế. Nhiều thành phần kinh tế cũng hoạt động tạo được sự cạnh tranh, gây sức ép với nhau buộc để đổi mới. Việc mở rộng các thành phần kinh tế để giải quyết việc làm cho người lao động. Mục tiêu cụ thể giảm tỷ lệ lạm phát xuống khoảng 30 - 40% năm 1994 và dưới 12% năm 1997 và năm 1996 lạm phát giảm xuống còn 3,6% năm 1999, nhưng có nghĩa lạm phát đã giảm xuống mà đến đầu năm 1998 lạm phát đang dần dần tăng lên. Những thông tin gần đây về kiểm soát lạm phát thời kỳ 1993 - 1997 đã đựơc nói đến: "Nếu như năm 1992 - 1993 còn lạm phát ở mức 70% mỗi năm thì năm 1994 đã kéo xuống 15%. Tính từ tháng 3 năm 1994 chỉ số giữa bình quân chỉ còn 0,5% (Việt Nam). e. Thứ năm: Nhà nước mở rộng quyền xuất nhập khẩu mở cửa biên giới khuyến khích các nguồn nhập khẩu vào Việt Nam, đã làm cho thị trường ngày càng phong phú, làm cho cung và cầu trở lên cân bằng hơn, việc nhập khẩu vào Việt Nam còn có tác dụng gây sức ép với hàng hoá trong nước buộc họ phải nâng cao chất lượng để đáp ứng thị hiếu của khách hàng, hoạt động nhập khẩu cần có nhiều vốn ngoại tệ từ đó mà xuất khẩu gia tăng. Nhà nước sớm thực hiện chính sách bảo hộ một số ngành trong nước, việc bảo hộ này không có nghĩa là cấp nhập khẩu mà là đầu tư vốn, kỹ thuật để chất lượng hàng hoá đạt tiêu chuẩn, giá thành hạ để đủ sức cạnh tranh với thị trường quốc tế. 3.2. Nhóm giải pháp của chính phủ kiềm chế lạm phát trong ngắn hạn 3.2.1. Chín nhóm giải pháp cho doanh nghiệp. Nhóm giải pháp thứ nhất là phải cắt giảm đàu tư chi phí không cần thiết, nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách. Để thực hiện nhóm giải pháp này, các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước cần rà soát lại các hạng muc đầu tư, đảm bảo việc đầu tư được thực hiện không giàn trải, đúng với năng lực cốt lõi và lợi thế cạnh tranh của mình; đẩy mạnh hợp tác tư công trong đầu tư để kiểm soát hiệu quả các hạng mục đầu tư, đặc biệt là trong các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng; tăng cường thu hồi nợ, giảm lượng vốn bị khách hàng chiếm đoạt; thực hiện tốt công tác quản trị tài chính, thu hút, tìm kiếm các nguồn vốn phục vụ hoạt động sản xuât kinh doanh. Nhóm giải pháp thứ hai thuộc về lĩnh vực ngân hàng tài chính: các ngân hàng hưởng ứng với 8 giải pháp của chính phủ, tuân thủ nghiêm túc quy định của NHNN; đa dạng hóa thị trường, ngoại tệ thanh toán; chủ động tìm khách hành trong khối doanh nghiệp tư nhân; đa dạng hóa nguồn vốn... Nhóm giải pháp thứ ba, các doanh nghiệp tập trung phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, tăng cường và có chiến lược đầu tư vào khoa học công nghệ,nghiên cứu phát triển, tăng hàm lượng giá trị, giả hàm lượng nguyên vật liệu, lao động, tăng hiệu quả sử dụng các nguồn đầu vào không tái tạo như xăng dầu, điện nước...; các doanh nghiệp cần chủ động nghiên cứu thị trường trong nước và quốc tế để xây dựng chiến lược kinh doanh; tích cực khai thác thị trường ; nâng cao năng lực kiểm soát rủi ro... Song song với đó, các hiệp hội doanh nghiệp cũng phải tạp trung xây dựng các dịch vụ hỗ trợ DN nâng cao hàm lượng tri thức và giá trị gia tăng cho sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp. Nhóm giải pháp thứ tư là phải đảm bảo cân đối cung cầu về hàng hóa, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu. Để thực hiện giải pháp này, bên cạnh nỗ lực từ các doanh nghiệp, các hiệp hội DN cũng phải điều phối hiệu quả các hoạt động xuất nhập khẩu, cùng với DN đưa ra chiến lược đàm phán về giá với khách hàng và nhà cung cấp, hạn chế tình trạng tranh mua tranh bán. Nhóm giải pháp thứ năm, giải pháp triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng như tiết kiệm điện, năng lượng, đầu tư vào các công nghệ tiêu hao ít năng lượng, nghiên cứu dùng nguồn nguyên liệu giá rẻ thay thế; chấp nhận giảm lãi để ổn định giá thành, kéo giá bán thấp hơn tốc độ tăng giá... Nhóm giải pháp thứ sáu là về giá: Phải tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm soát việc chấp hành pháp luật nhà nước về gía. Hiệp hội DN phải tăng cường vai trò trong việc phối hợp quản lý thị trường, thống nhất việc xác định mức giá bán hợp lý; thể chế hóa các cam kết của hội viên... Nhóm giải pháp thứ bảy, Đối với lĩnh vực kinh doanh bất động sản: Các DN rà soát các hạng mục đầu tư bất động sản, tránh tràn lan; phù hợp với địa phương đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng; hạn chế các khâu trung gian Nhóm giải pháp thứ tám, coi trọng tăng cường các biện pháp hỗ trợ ổn định đời sống nhân dân.Các DN phải tích cực khai thác và tham gia phát triển thị trường cho người nghèo; đẩy mạnh tổ chức và mở rộng mạng lưới sản xuất và cung ứng hàng hóa từ người nghèo; quan tâm tới đời sống người lao động, thực hiện nghiêm túc các quy định về an sinh xã hội đối với người lao động... Và nhóm giải pháp cuối cùng cần tạo ra sự thống nhất cao trong tất cả các nghành,các cấp để thực hiện mục tiêu chống lạm phát. Song song với từng nhóm giải pháp, các doanh nghiệp cũng đưa ra những kiến nghị đối với Chính phủ để thực hiện triệt để công cuộc chống lạm phát. Điều được các doanh nghiệp quan tâm nhiều nhất đó là việc kiến nghị chính phủ tăng cường các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm hạn chế sự phá sản hàng loạt của các doanh nghiệp này gây tác động xấu đến vấn đề công ăn việc làm. Ngoài ra, các DN cũng kiến nghị các cơ quan Nhà nước cần cải cách thủ tục hành chính trong đăng ký kinh doanh, đăng ký đầu tư để khuyến khích thành lập DN, chuyển đổi hộ kinh doanh cá thể lên DN để tăng cường hiệu quả kinh doanh, khẩn trương xây dựng và triển khai thực hiện cơ chế ba bên trong quá trình giải quyết các tranh chấp lao động; sớm ban hành Nghị định về hiệp hội DN để những tổ chức này có đủ điều kiện, hành lang pháp lý để tập hợp doanh nghiệp,cùng Chính phủ giải quyết những vấn đề kinh tế vĩ mô Nhiều DN kiến nghị chính phủ cần giảm thuế suất nhập khẩu một số mặt hàng, ổn định tỷ giá, giảm lãi suất cho vay, ưu tiên tạo điều kiện về vốn cho hoạt động xuất khẩu, ngăn chặn tình trạng buôn lậu và gian lận thương mại; có chiến lược dự trữ quốc gia đối với một số mặt hàng thiết yếu, tích cực kiểm soát dịch bệnh trong nông nghiệp, hỗ trợ các DN nhỏ và vừa trong việc thay thế trong việc thay thế các thiết bị công nghệ tiêu hao năng lượng. 3.2.2. Tám nhóm giải pháp của chính phủ 1. Thắt chặt tiền tệ 2. Cắt giảm đầu tư, chi phí không cần thiết; 3. Đẩy mạnh sản xuất; 4. Đảm bảo cân đối các mặt hàng chủ yếu, đẩy mạnh xuất khẩu, chống nhập siêu; 5. Triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng 6. Quản lý thị trường, chống đầu cơ; 7. Triển khai mở rộng các chính sách an sinh xã hội; 8. Đồng tâm hiệp lực để ổn định tình hình kinh tế xã hội Bên cạnh 8 nhóm giải pháp này, chính phủ cũng đưa ra 4 nhiệm vụ dành cho khối doanh nghiệp nhà nước. Rà soát và đẩy mạnh sản xuất; Quyết liệt chống lại việc đầu tư không cần thiết và kém hiệu quả; Đảm bảo tốt cân đối lớn của nền kinh tế, không để xảy ra khủng hoảng; DNNN là lực lượng nòng cốt giữ bình ổn giá. Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong công cuộc chống lạm phát nhờ áp dụng các giải pháp nêu trên. Điều đó không có nghĩa là những giải pháp mẫu mực hoàn hảo đủ để quyết định vấn đề chống lạm phát một cách hoàn hảo đủ để quyết định vấn đề chống lạm phát một cách căn bản. Tuỳ từng hoàn cảnh, từng giai đoạn mà chúng ta có thể linh hoạt sử dụng các biện pháp khác nhau nhằm đạt được hiệu quả kinh tế lớn. Vì phát triển kinh tế có hiệu quả lại liên quan đến những vấn đề to lớn và rộng như chiến lược kinh tế - xã hội hay đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam. Kết luận Chúng ta nhận thức rằng quá trình đấu tranh chống lạm phát không đơn giản ngày một ngày hai. Nó là căn bệnh kinh niên nhưng việc xoá bỏ hoàn toàn lạm phát thì cái giá phải trả không tương xứng với lợi ích đem lại. Tình hình diễn biến lạm phát và khắc phục nó tại Việt Nam rất phức tạp. Lạm phát đã hoành hành công khai khi Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế xã hội, xoá bỏ cơ chế bao cấp, quan liêu. Sự cải cách không đồng bộ giữa giá cả và quản lý kinh tế dẫn đến khủng hoảng trầm trọng. Thành công trong công cuộc chống lạm phát 1989 đưa đất nước vượt lên chính là sự đổi mới trong nhận thức quản lý kinh tế của Đảng và nhà nước ta. Kinh tế ổn định đã làm tiền đề cơ sở cho sự thành công của các thành tựu trong lĩnh vực giáo dục, khoa học, chính trị... Những thành tựu to lớn mà chúng ta đạt đựơc trong công cuộc chống lạm phát cũng không vì thế mà làm chúng ta chủ quan, nới lỏng. Lạm phát luôn rình rập và đe doạ chúng ta bất cứ lúc nào. Chính vì vậy Đảng và nhà nước cần phải luôn thận trọng trong mỗi bước đi của mình để đảm bảo cho nền kinh tế nước ta phát triển vững mạnh làm nền tảng để phát triển khoa học, giáo dục, đuổi kịp sự phát triển của các nước trong khu vực nói riêng và các nước trên thế giới nói chung. Điều này không chỉ của riêng ai mà một phần không nhỏ dành cho các nhà doanh nghiệp trẻ góp phần làm rạng danh đất nước trong nhiều năm tới này. Lạm phát đã và đang sẽ là vấn đề nổi cộm trong lý thuyết Tài chính - Tiền tệ. Tuy vậy, em đã cố gắng tới mức cao nhất hoàn thành đề án trong khả năng của mình. Bài viết này chỉ là những thu nhặt bước đầu mang tính chất cơ sở cho việc phát triển nhận thức sau này.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6211.doc
Tài liệu liên quan