Đề tài Lạm phát của Việt Nam qua hai năm 2007- 2008, nguyên nhân - Thực trạng và giải pháp

Lạm phát ở Việt Nam cũng có những biểu hiện chung giống với lạm phát ở các quốc gia khác như: chỉ số giá cả nói chung tăng phổ biến do vậy giá trị của đồng tiền giảm. Song lạm phát ở Việt Nam có đặc trưng riêng do điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể: - Lạm phát của một nền kinh tế kém phát triển trong đó khu vực kinh tế nhà nước có địa vị thống trị. Nền kinh tế Việt Nam thuộc loại kém phát triển nhất thế giới, các chỉ tiêu bình quân đầu người rất thấp. Khu vực kinh tế nhà nước ở Việt Nam chiếm 1 tỷ trọng lớn hiếm có trên thế giới. Mặc dù khu vực nhà nước chiếm phần lớn số vốn đầu tư và chất xám trong cả nước nhưng lại chỉ có thể làm ra từ 30% - 37% tổng sản phẩm xã hội. Các xí nghiệp quốc doanh nhìn chung đã nộp cho ngân sách nhà nước một số tiền thấp rất xa so với số tiền nhà nước cung cấp cho nó qua bù lỗ, bù giá, cấp phát tín dụng, lãi suất thấp. Đúng ra khu vực kinh tế nhà nước phải đem lại nguồn thu chủ yếu cho xã hội thì ở đây lại ngược lại. Khu vực kinh tế tư nhân làm ăn có hiệu quả hơn và đóng góp một phần quan trọng trong ngân sách của nhà nước. Chính hoạt động của các hãng kinh tế nhà nước với lãi giả, lỗ thật đã đẩy nền kinh tế lạm phát, thị trường rối loạn, lỗ lãi khó kiểm tra. Sự giảm sút hiệu quả sản xuất kinh doanh dẫn đến đến vòng luẩn quẩn. Hiệu quả giảm sát dẫn đến thu không đủ bù chi và lạm phát, rồi lạm phát làm cho hiệu quả kinh doanh tiếp tục giảm sút, cứ như vậy nó làm cho nền kinh tế Việt Nam càng lún sâu vào đói nghèo, lạc hậu. - Lạm phát của một nền kinh tế độc quyền mà nhà nước có địa vị thống trị trên mọi lĩnh vực, cơ chế kinh tế quan liêu bao cấp. Trong nền kinh tế thị trường sự cạnh tranh ắt sinh ra một công ty thắng thế chiếm vị trí độc quyền. Để đạt được điều đó, phải tiến hành cải tiến máy móc, trang thiết bị, tổ chức lao động, tập trung nguồn vốn . Nhưng khi ở vị trí độc quyền công ty sẽ bóp chết các địch thủ khác và cũng ít chú ý hơn đến việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật dẫn đến sự suy thoái trong kinh doanh. Nếu công ty này nhỏ thì sự ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế sẽ không có nhiều hiệu quả tiêu cực. nhưng nếu đó là một công ty lớn thì sự suy thoái này sẽ kéo theo cả nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng. Trên thực tế, độc quyền ở Việt Nam cũng như ở các nước XHCN khác đã khống chế toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chế độ độc quyền nhà nước và cơ chế hoạch định quan liêu, mệnh lệnh đã triệt tiêu mất các quan hệ thị trường ở Việt Nam làm cho nền kinh tế Việt Nam xa lạ với thị trường. Đây cũng là nguyên nhân đáng chú ý trong việc góp phần tăng lạm phát.

doc34 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1158 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lạm phát của Việt Nam qua hai năm 2007- 2008, nguyên nhân - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớc ngoài. Những tác động của lạm phát: Lạm phát có nhiều loại, cho nên cũng có nhiều mức độ ảnh hưởng khác nhau đối với nền kinh tế. Xét trên góc độ tương quan, trong một nền kinh tế mà lạm phát được coi là nỗi lo của toàn xã hội và người ta có thể nhìn thấy tác động của nó. a) Đối với lĩnh vực sản xuất: Đối với nhà sản xuất, tỷ lệ lạm phát cao làm cho giá đầu vào và đầu ra biến động không ngừng, gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình sản xuất. Sự mất giá của đồng tiền làm vô hiệu hoá hoạt động hạch toán kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh - sản xuất ở một vài danh nghiệp có thể thay đổi, gây ra những xáo động về kinh tế. Nếu một doanh nghiệp nào đó có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn. b) Đối với lĩnh vực lưu thông: Lạm phát thúc đẩy quá trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng hoá. Các nhà doanh nghiệp thấy rằng việc đầu tư vốn vào lĩnh vực lưu thông. Thậm chí khi lạm phát trở nên khó phán đoán thì việc đầu tư vốn vào lĩnh vực sản xuất sẽ gặp phải rủi ro cao. Do có nhiều người tham giâ vào lĩnh vực lưu thông nên lĩnh vực này trở nên hỗn loạn. Tiền ở trong tay những người vừa mới bán hàng xong lại nhanh chóng bị đẩy vào kênh lưu thông, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng vọt và điều này làm thúc đẩy lạm phát gia tăng. c) Đối với lĩnh vực tiền tệ, tín dụng: Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàn bị thu hẹp. Số người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều. Về phía hệ thống ngân hàng, do lượng tiền gửi vào giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay, cộng với việc sụt giá của đồng tiền quá nhanh, sự điều chỉnh lãi suất tiền gửi không làm an tâm những người hiện đang có lượng tiền mặt nhàn rỗi trong tay. Về phía người đi vay, họ là những người có lợi lớn nhờ sự mất giá đồng tiền một cách nhanh chóng. Do vậy, hoạt động của hệ thống ngân hàng không còn bình thường nữa. Chức năng kinh doanh tiền bị hạn chế, các chức năng của tiền tệ không còn nguyên vẹn bởi khi có lạm phát thì chẳng có ai tích trữ của cải hình thức tiền mặt. d) Đối với chính sách kinh tế tài chính của nhà nước: Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hoá, khi lạm phát xảy ra những thông tin trong xã hội bị phá huỷ do biến động của giá cả làm cho thị trường bị rối loạn. Người ta khó phân biệt được những doanh nghiệp làm ăn tốt và kém. Đồng thời lạm phát làm cho nhà nước thiếu vốn, do đó nhà nước không còn đủ sức cung cấp tiền cho các khoản dành cho phúc lợi xã hội bị cắt giảm... các ngành, các lĩnh vực dự định đựơc chính phủ đầu tư và hỗ trợ vốn bị thu hẹp lại hoặc không có gì. Một khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì các mục tiêu cải thiện và nâng cao đời sống kinh tế xã hội sẽ không có điều kiện thực hiện được. II. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam 1. Lịch sử của lạm phát: - Giai đoạn thứ nhất: Từ năm 1890 trở về trước, lạm phát được hiểu giống hoàn toàn định nghĩa của Marx, cho nên chống lạm phát là tìm tòi mọi cách hạn chế việc phát hành tiền vào lưu thông. - Thời kỳ 1938 - 1945: Ngân hàng Đông Dương cấu kết với chính quyền thực dân Pháp đã lạm phát đồng tiền Đông Dương để vơ vét của cải nhân dân Việt Nam đem về Pháp đóng góp cho cuộc chiến tranh chống phát xít Đức và sau đó để nuôi mấy chục vạn quân nhận bán Đông Dương làm chiếc cầu an toàn đánh Đông Nam á. Hậu quả nặng nề của lạm phát nhân dân Việt Nam phải chịu giá sinh hoạt từ 1939 - 1945 bình quân 25 lần. - Thời kỳ 1946 - 1954: Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo đã phát hành đồng tài chính thay đồng Đông Dương và sau đó là đồng ngân hàng để huy động sức người, sức của của toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến 9 năm đánh đuổi quân xâm lược Pháp, kết quả giải phòng hoàn toàn nửa đất nước. - Thời kỳ 1955 - 1965: Chính phủ tay sai Mỹ kế tiếp nhau ở miền Nam Việt Nam liên tục lạm phát đồng tiền Miền Nam để bù đắp lại cuộc chiến tranh chống laị phong trào giải phóng dân tộc ở Miền Nam. Mặc dù được chính phủ Mỹ đổ vào miền Nam một khối lượng hàng viện trợ khổng lồ, giá trị hàng trăm tỷ USD cũng không thể bù đắp lại chi phí. Nguyễn Văn Thiệu - Chính phủ đã lạm phát hàng trăm tỷ đồng tiền lưu thông ở miền Nam năm 1975 gấp 5 lần. Năm 1969 lên tới 600 triệu đồng, giá sinh hoạt tăng hàng trăm lần so với năm 1965. - Thời kỳ 1965 - 1975: ở miền Bắc Việt Nam chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà phải tiến hành một cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, chống chiến tranh phá hoại ở Mỹ tại miền Bắc, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, đã phát hành số tiền lớn (gấp 3 lần tiền lưu thông của năm 1965 ở miền Bắc) để huy động lực lượng toàn dân, đánh thắng độc quân xâm lược ở Mỹ và tay sai ở cả hai miền. Nhưng nhờ có sự viện trợ to lớn và có hiệu quả của Liên xô, Trung Quốc và các nước Xã Hội Chủ Nghĩa(XHCN) anh em đã hạn chế được lạm phát trong thời gian này. - Thời kỳ 1976 đến nay: Sau khi thống nhất đất nước, chúng ta thiếu nhiều kinh nghiệm trong thời bình nên duy trì quá lâu cơ chế thời chiến tập trung quan liêu bao cấp toàn diện, không mở rộng sản xuất hàng hoá. XHCN không tiến hành hạch toán kinh doanh nên đã tự gây cho mình nhiều khó khăn, sản xuất không đủ tiêu dùng, ngân sách không đủ chi tiêu, lạm phát tiền giấy liên tục và bùng nổ dữ dội tới 3 con số. Nhưng kể từ năm 1999 đến nay với sự chỉ đạo đúng đắn của nhà nước thì lạm phát hiện nay chỉ còn dừng lại ở mức độ tốt cho sự phát triển nền kinh tế tức là chỉ ở mức 15-17% có thể nói đây cũng là một thành công không nhỏ của nhà nước ta. 2. Đặc trưng lạm phát ở nước ta: Lạm phát ở Việt Nam cũng có những biểu hiện chung giống với lạm phát ở các quốc gia khác như: chỉ số giá cả nói chung tăng phổ biến do vậy giá trị của đồng tiền giảm. Song lạm phát ở Việt Nam có đặc trưng riêng do điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể: - Lạm phát của một nền kinh tế kém phát triển trong đó khu vực kinh tế nhà nước có địa vị thống trị. Nền kinh tế Việt Nam thuộc loại kém phát triển nhất thế giới, các chỉ tiêu bình quân đầu người rất thấp. Khu vực kinh tế nhà nước ở Việt Nam chiếm 1 tỷ trọng lớn hiếm có trên thế giới. Mặc dù khu vực nhà nước chiếm phần lớn số vốn đầu tư và chất xám trong cả nước nhưng lại chỉ có thể làm ra từ 30% - 37% tổng sản phẩm xã hội. Các xí nghiệp quốc doanh nhìn chung đã nộp cho ngân sách nhà nước một số tiền thấp rất xa so với số tiền nhà nước cung cấp cho nó qua bù lỗ, bù giá, cấp phát tín dụng, lãi suất thấp... Đúng ra khu vực kinh tế nhà nước phải đem lại nguồn thu chủ yếu cho xã hội thì ở đây lại ngược lại. Khu vực kinh tế tư nhân làm ăn có hiệu quả hơn và đóng góp một phần quan trọng trong ngân sách của nhà nước. Chính hoạt động của các hãng kinh tế nhà nước với lãi giả, lỗ thật đã đẩy nền kinh tế lạm phát, thị trường rối loạn, lỗ lãi khó kiểm tra. Sự giảm sút hiệu quả sản xuất kinh doanh dẫn đến đến vòng luẩn quẩn. Hiệu quả giảm sát dẫn đến thu không đủ bù chi và lạm phát, rồi lạm phát làm cho hiệu quả kinh doanh tiếp tục giảm sút, cứ như vậy nó làm cho nền kinh tế Việt Nam càng lún sâu vào đói nghèo, lạc hậu. - Lạm phát của một nền kinh tế độc quyền mà nhà nước có địa vị thống trị trên mọi lĩnh vực, cơ chế kinh tế quan liêu bao cấp. Trong nền kinh tế thị trường sự cạnh tranh ắt sinh ra một công ty thắng thế chiếm vị trí độc quyền. Để đạt được điều đó, phải tiến hành cải tiến máy móc, trang thiết bị, tổ chức lao động, tập trung nguồn vốn ... Nhưng khi ở vị trí độc quyền công ty sẽ bóp chết các địch thủ khác và cũng ít chú ý hơn đến việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật dẫn đến sự suy thoái trong kinh doanh. Nếu công ty này nhỏ thì sự ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế sẽ không có nhiều hiệu quả tiêu cực. nhưng nếu đó là một công ty lớn thì sự suy thoái này sẽ kéo theo cả nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng. Trên thực tế, độc quyền ở Việt Nam cũng như ở các nước XHCN khác đã khống chế toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chế độ độc quyền nhà nước và cơ chế hoạch định quan liêu, mệnh lệnh đã triệt tiêu mất các quan hệ thị trường ở Việt Nam làm cho nền kinh tế Việt Nam xa lạ với thị trường. Đây cũng là nguyên nhân đáng chú ý trong việc góp phần tăng lạm phát. - Lạm phát của một nền kinh tế đóng, phụ thuộc một chiều vào các nguồn tài trợ từ bên ngoài. Việt Nam đóng cửa nền kinh tế, không quan hệ kinh tế với các nước tư bản chủ nghĩa. Chính sách này ra đời do sự thù địch, cấm vận của Mỹ. Nguyên nhân nữa dẫn đến sự đóng góp của nền kinh tế là do sự đối đầu đông tây mà Việt Nam và các nước XHCN là 1 cực. Sự bó hẹp nền kinh tế này đã dẫn đến những khó khăn đáng kể cho sản xuất kinh doanh. - Ngoài những đặc điểm trên thì lạm phát Việt Nam có cơ cấu của nó bao gồm những ngành kém hiệu quả có được sự ưu tiên phát triển. Mọi người đều thấy sự mất cân đối khi ưu tiên phát triển công nghiệp nặng (vốn lớn, thu hồi lãi chậm). - Lạm phát ở một nước chịu ảnh hưởng nặng nề của các cuộc chiến tranh kéo dài do đó chi phí cho lĩnh vực quốc phòng lớn, tiền trợ cấp gia đình chính sách... Những khoản này đã làm tăng thêm thâm hụt ngân sách và tăng lạm phát. - Việt Nam là nước nông nghiệp mà luôn chịu ảnh hưởng của thiên tai, hạn hán, mất mùa... Do đó, ngân sách hụt đi do phải chi ra 1 khoản trợ cấp cho các vùng thiên tai. 3. Thực trạng Năm 2007, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục đà tăng trưởng ấn tượng đạt 8,48%, cao hơn mức trung bình 5 năm giai đoạn 2003- 2007, là một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất trên thế giới. Tuy nhiên, vào những tháng cuối năm 2007 và đầu 2008, cùng với đà suy thoái kinh tế thế giới, đồng USD mất giá, giá dầu thô tăng cao, giá cả lương thực và nguyên nhiên vật liệu tăng đột biến cộng với tác động của thiên tai, dịch bệnh đã làm cho nền kinh tế Việt Nam bộc lộ những nhược điểm cố hữu của một nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi.   Năm 2007 là năm hội tụ của những “cơn bão” tệ hại cho nền kinh tế nước ta: thiên tai bão lụt, dịch bệnh và đặc biệt là cơn bão tăng giá kéo dài và bất kham, lạm phát của nước ta tăng cao và rơi vào tình trạng khó kiểm soát, tỉ lệ lạm phát cao ở mức 13%, chỉ số giá tiêu dùng tăng vọt từ hơn 6% năm 2006 lên 12,69% năm 2007. Tính chung cả năm 2007, CPI ước khoảng trên 10,5- 11%, phần nào phản ánh tốc độ trượt giá và lạm phát của năm nay.   Theo thống kê sơ bộ của tổng cục thống kê, tính đến cuối tháng 10/2007, mức tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đã lên đến hơn 9.34% so với cùng kỳ năm trước, và khoảng 8,12% so với đầu năm. Bảng 1 cập nhất diễn biến tăng giá trong thời gian vừa qua. Bảng 1: Tình hình tăng giá đến cuối tháng 10/2007 Các nhóm hàng và dịch vụ Quyền số (%) Tháng 10/07 so với 8/06 Tổng chi dùng 100.00 109.34 01 Hàng ăn và dịch vụ ăn uống 42.85 113.94 011 Trong đó: 1. Lương thực 9.86 115.98 012 2. Thực phẩm 25.20 114.19 02 Đồ uống và thuốc lá 4.56 105.75 03 May mặc, mũ nón, giầy dép 7.21 105.82 04 Nhà ở, điện, nước, chất đốt và VLXD 9.99 111.72 05 Thiết bị và đồ dùng gia đình 8.62 105.90 06 Thuốc và dịch vụ y tế 5.42 106.46 07 Giao thông, bưu chính viễn thông 9.04 102.33 08 Giáo dục 5.41 102.02 09 Văn hoá, giải trí và du lịch 3.59 102.05 10 Hàng hoá và dịch vụ khác 3.31 108.08 Nguồn: mức tăng giá từ Thời báo Kinh tế Việt Nam, ngày 29/10/2007, quyền số từ Nguyễn Văn Công (2006), tr. 65. Từ bảng này, chúng ta thấy mức tăng CPI bắt nguồn chủ yếu từ việc gia tăng giá lương thực và thực phẩm. Đây là nguyên nhân giải thích tới hơn 60% trong tổng mức tăng CPI. Kế đó là sự gia tăng của nhóm nhà ở, điện nước và vật liệu xây dựng, đóng góp 12%. Các nhóm mặt hàng khác có mức tăng trung bình khoảng 5-6%, và do tỷ trọng trong tổng tiêu dùng nhỏ (dưới 10%) nên mức đóng góp của mỗi nhóm chỉ khoảng trên dưới 3%. Nhưng nhìn chung, mặt bằng giá của tất cả các mặt hàng đều tăng khoảng 5%, ngoài hai nhóm đề cập đầu tiên là tăng hơn 10%. Người tiêu dùng đang phải vật lộn với giá cả ngày một gia tăng. Xăng dầu là một trong những mặt hàng có sự tăng giá do được "giải phóng" khỏi sự kiểm soát của Nhà nước. Giá cả nhiều mặt hàng tăng lên, trong đó có thực phẩm. Bảng 2: Chỉ số lạm phát tiêu dùng và chỉ số lạm phát cơ bản 2006 2007 2007(quý 3) 2007(quý 4) 02-2008 Chỉ số lạm phát giá tiêu dùng ( Headline Inflation ) Việt Nam 7.4 8.3 8.6 10.7 15.7 Đóng góp của tăng giá lương thực vào CPI 3.7 4.8 5.1 6.7 10.8 Trung Quốc 1.5 4.8 6.2 6.7 8.7 Thái Lan 4.6 2.2 1.6 2.9 5.4 Phi-lip-pin 6.2 2.8 2.5 3.3 5.4 Chỉ số lạm phát “cơ bản”( “Core” Inflation ) Trung Quốc 0.8 0.9 0.8 1 1.1 Thái Lan 2.3 1 0.7 1.1 1.5 Phi-lip-pin 5.6 0 2.8 2.4 4 Nguồn: East Asia & Pacific Update (4-2008) Bảng 2 chỉ ra rằng, gia tăng lạm phát trong thời gian gần đây chủ yếu do tăng giá lương thực theo diễn biến chung trên thế giới. Nguyên nhân làm cho lạm phát ở Việt Nam cao hơn nước ngoài là do chế độ tỷ giá bất lợi làm cho Việt Nam phải nhập khẩu lạm phát giá lương thực tính theo USD, và làm khuếch đại mức tăng giá cả lương thực tương đối so với các nước khác. Những tháng đầu năm 2008, mức lạm phát của Việt Nam đã tăng đến 25,2% trong tháng 5, cao nhất kể từ năm 1992, tạo ra thách thức cho chính phủ khi họ cố gắng kìm chế nền kinh tế đang phát triển quá nóng. Mức tăng giá, ở tháng tư là 21%, vì mức tăng 67,8% của giá gạo – nông sản chủ yếu chịu trách nhiệm cho sự tăng gía 42,8% của hàng hoá và dịch vụ khi chúng ta tinh toán mức lạm phát. Chi phí xây dựng và tiền thuê nhà cũng tăng 22,9% so với năm ngoái. Đến tháng bảy, tỷ lệ lạm phát lại một lần nữa tăng lên tới 27%, chính phủ cho hay, khi giá thực phẩm và nhiên liệu đã kìm hãm nền kinh tế nơi mà Việt Nam hiện nay đang phải đối phó với trận chiến chống lạm phát tàn khốc nhất vùng Á Châu. Con số lạm phát này chỉ cao hơn tháng 6 chút đỉnh (26,8%), nhưng người ta tiên đoán con số này trong thực tế sẽ cao hơn rất nhiều trong tương lai gần, sau khi nhà nước Việt Nam quyết định tăng đột xuất giá xăng dầu hơn 30% và chấm dứt phụ cấp xăng dầu cho một số doanh nghiệp nhà nước. Giá xăng có thời điểm đã lên mức 19.000đ/lít vào ngày 21/7/2008, đã lập tức gây xáo trộn trong sinh hoạt trực tiếp của người dân. Chỉ nội trong tháng 7, giá thực phẩm tăng 44,7%, trong lúc giá lương thực chủ yếu và ngũ cốc tăng 72,7%. Giá nhà và vật liệu xây dựng tăng 24,9%, giá áo quần và giày dép tăng 10,9%, giá khám chữa bệnh và tiền thuốc men tăng 9,5% trong tháng. Lần đầu tiên trong 7 tháng, chỉ số giá tiêu dùng đã tăng 21,28%. Nhưng trái ngược với dự đoán của các chuyên gia kinh tế về sự suy giảm của nền kinh tế thì chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của cả nước trong tháng 10 đã giảm 0,19% so với tháng 9, đưa chỉ số CPI 10 tháng qua tăng ở mức 21,64% so với tháng 12-2007 và tăng 23,15% so với cùng kỳ năm 2007.Sở dĩ CPI tháng 10 giảm là do 3 nhóm hàng hóa chiếm trọng số lớn nhất trong rổ hàng hóa chung giảm rõ rệt. Trong đó, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống (bao gồm lương thực, thực phẩm) đã giảm 0,42%; hai nhóm còn lại tiếp tục đà giảm của tháng 9: nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng giảm mạnh với mức giảm 1,08%, nhóm phương tiện đi lại và bưu điện giảm 0,94%. Điểm nổi bật trong CPI tháng 10 đó là mức giảm giá đáng kể của mặt hàng xăng dầu và lương thực. Trong tháng 10, mặt hàng xăng dầu đã được điều chỉnh giảm với mức giảm tổng cộng là 1.500 đồng/lít cũng đã tác động không nhỏ tới CPI tháng 10. Đến đầu tháng 11, giá xăng tiếp tục giảm đứng ở mức 14.000đ/lít. Nền kinh tế tuy chưa có động thái gì lớn nhưng đã có dấu hiệu hạ nhiệt Trong 10 nhóm hàng hóa để tính CPI thì nhóm lương thực đã chiếm tỉ trọng gần 43% nên khi giá lương thực giảm thì sức ép lên CPI được giải toả rất nhiều. Trước đó, CPI tháng 9 đã giảm tốc mạnh và chỉ tăng 0,18%, CPI tháng 8 tăng 1,56%, CPI tháng 7 tăng 1,13%, CPI tháng 6 tăng 2,14% và CPI tháng 5 tăng 3,91%. Theo sự đánh giá của ngân hàng phát triển châu Á (ADB), nỗ lực của Chính phủ nhằm kiểm soát tình hình lạm phát cũng như sự suy yếu dự kiến về nhu cầu bên ngoài sẽ khiến tăng trưởng của nền kinh tế chậm lại ở mức 7% trong năm 2008 và dự kiến tăng trở lại mức 8,1% vào năm 2009. Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam phục hồi đà tăng trưởng vào năm 2009, với mức tăng GDP dự kiến đạt 8,1%, tăng trưởng xuất khẩu vươn lên mức 23,5% và tỉ lệ lạm phát sẽ giảm dần xuống còn 10,2% nếu tính bình quân giai đoạn và 7,6% tính theo chỉ số cuối kỳ. 4. Nguyên nhân dẫn đến lạm phát ở Việt Nam tăng nhanh trong 2 năm 2007- 2008. Phần trước, chúng ta đã đề cập đến nguyên nhân lạm phát nói chung, bây giờ ta xét trong thời điểm cụ thể và ở quốc gia cụ thể. Lạm phát ở Việt Nam có nhiều nguyên nhân và ý kiến khác nhau. Lạm phát như biểu hiện vừa qua có nguyên nhân sâu xa và nguyên nhân trực tiếp. Những yếu kém vốn có của nền kinh tế đã tồn tích từ nhiều năm nhưng chậm được xử lý, khắc phục, đến thời điểm nền kinh tế chịu những tác động bất lợi từ kinh tế thế giới ( giá năng lượng tăng cao, kinh tế thế giới suy giảm...) cộng hưởng với tác động bất lợi kinh tế trong nước( thiên tai dồn dập cuối năm 2007, đầu 2008, tập trung vào những vùng trọng điểm khó khăn, dịch bệnh kéo dài trên diện rộng ) thì lạm phát mới bộc lộ. Những nguyên nhân chủ yếu là: a.Nguyên nhân sâu xa: -Trình độ phát triển, chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế thấp, sức cạnh tranh chưa cao. Theo xếp hạng của diễn đàn kinh tế thế giới năm 2007, nước ta ở nhóm trung bình thấp về sức cạnh tranh trong số 131 quốc gia được đánh giá, vị trí 68/131 ( Trung Quốc đứng thứ 34, Xin-ga-po:7 , Thái Lan: 28 ), trong khi độ mở của nền kinh tế lớn xét về cả đầu ra – kim ngạch xuất nhập khẩu tính trên GDP bằng 150% ( Trung Quốc là 63% ). Vì vậy, nền kinh tế dễ bị tổn thương khi thị trường thế giới có những biến động bất lợi về giá cả, cung cầu, tăng trưởng kinh tế -Chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế còn thấp. Cơ cấu kinh tế chậm cải thiện; công nghiệp khai thác tài nguyên và gia công vẫn chiếm tỷ trọng lớn, công nghiệp phụ trợ chậm phát triển, phần lớn vật tư, nguyên liệu trung gian cho sản xuất phải nhập khẩu; giá trị gia tăng sản xuất công nghiệp thấp. -Chính sách tiền tệ nới lỏng trong nhiều năm dẫn đến tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán gây sức ép lạm phát lên nền kinh tế -Chính sách tài chính nới lỏng trong nhiều năm, lấy tăng đầu tư là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ( tổng vốn đầu tư xã hội trên GDP các năm 2000-2005 ở mức bình quân 37,5% GDP, năm 2006 và 2007 khoảng 40% GDP ) chưa đi liền với nâng cao chất lượng và hiệu quả đầu tư. Tình trạng đầu tư dàn trải, nhiều công trình dở dang, chậm đưa vào khai thác, sử dụng, kém hiệu quả khá phổ biến và kéo dài nhiều năm ở cả trung ương lẫn địa phương nhưng chậm được khắc phục. Hệ số ICOR của nền kinh tế cao: chỉ số ICOR của nước ta trong giai đoạn: 2001-2006 khoảng 4,4 (của Trung Quốc giai đoạn này là 4,0; của một số nước khu vực ASEAN: Thái lan,Xin-ga-po...là 3-3,5 ). Điều đó thể hiện các chi phí đầu vào ( cả chi phí trực tiếp và chi phí trung gian ) để đầu tư cao nhưng hiệu quả đầu tư kém, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp. Tỷ trọng chi phí nguyên nhiên vật liệu trên 1 đơn vị sản phẩm lớn, ví dụ: chi phí tiêu thụ điện để sản xuất ra 1 USD GDP của nước ta: 1,02 kwh, trong khi Thái Lan: 0,761 kwh; Phi-lip-pin: 0,512 kwh; Hồng Kông: 0,22 kwh. Đây là nguyên nhân quan trọng đẩy chi phí thực của nền kinh tế Việt Nam tăng cao hơn các nước. -Nhu cầu tiêu dùng xã hội tăng cao, thể hiện ở tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội giai đoạn 2000-2007 tăng bình quân trên 20%/ năm (năm 2006: tăng 20,8%; năm 2007: tăng 25,1%; 4 tháng đầu năm 2008: tăng 29,5%); nếu trừ yếu tố tăng giá thì tốc độ tăng vẫn trên 10%/năm; Nhà nước điều chỉnh chính sách tiền lương, trợ cấp cho cán bộ công nhân viên chức, lực lượng vũ trang, người về hưu, gia đình chính sách. -Năng lực kiểm tra, giám sá, dự báo và cảnh báo, phát hiện và đề xuất các chính sách vĩ mô ( tiền tệ, tài chính, cung cầu ) của các bộ, ngành tổng hơp chậm được tăng cường, không theo kịp tình hình khi nền kinh tế chuyển mạnh sang hoạt động theo cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Hệ thống thông tin, dữ liệu phục vụ việc hoạch định chính sách còn yếu và chưa đủ độ chuẩn xác. b. Nguyên nhân trực tiếp: -Nửa cuối năm 2007 đầu năm 2008, gía dầu thô, nguyên liệu cơ bản, lương thực thực phẩm thiết yếu tăng cao (4 tháng đầu năm 2008 so với cùng kỳ năm 2007, gía xăng dầu thế giới đã tăng 51,24%, phôi thép tăng 43%, phân bón tăng 67%, giá ngô tăng 31%, đậu tương tương 87%, lúa mì tăng 130%...), trong khi đó 70% nhập khẩu của Việt Nam là các mặt hàng nguyên nhiên vật liệu, máy móc thiết bị phục vụ sản xuất trong nước; nhiều mặt hàng có tỷ trọng nhập khẩu cao như: xăng dầu ( 100% ), phôi thép (65% - 70% ), nguyên liệu sẩn xuất thuốc ( 60% )..., phụ thuộc hoàn toàn vào giá thế giới. Sự nhập khẩu lạm phát từ kênh nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ cho nền kinh tế là khá rõ trong 2 năm qua. - Lượng ngoại tệ tăng mạnh cũng đã góp phần đẩy lạm phát lên cao. Lượng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào VN năm nay lên tới con số kỷ lục 15 tỷ USD, tương đương 25% GDP của năm 2006. Điều này khiến cho tất cả dấu hiệu “bội thực” ngoại tệ hiển hiện rõ nét trên nền bức tranh kinh tế VN: bùng nổ tiêu dùng và xây dựng, đầu tư đất đai và chứng khoán... Ước tính dự trữ ngoại tệ của VN năm nay lên tới gần 20 tỷ USD, cao hơn 9 tỷ USD so với năm 2006. Trong khi vài năm trước, chỉ vài chục tỷ đồng được Ngân hàng Nhà nước bỏ ra mua ngoại tệ cũng đã đủ làm “khuynh đảo” thị trường tiền tệ trong nước. Dấu hiệu của nền kinh tế "bội thực" ngoại tệ Ngoại tệ tăng mạnh đẩy lạm phát lên cao -Dòng vốn nước ngoài qua đầu tư trực tiếp, gián tiếp vào Việt Nam cao hơn những năm trước đây, trong khi khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế chưa tốt, đã gây sức ép tăng tổng phương tiện thanh toán và làm biến động tỷ giá hối đoái. Việc gia tăng dư nợ của các tổ chức tín dụng cũng là nguyên nhân làm tăng lượng tiền cung ứng. Việc chống đầu cơ, đồng thời tháo gỡ vướng mắc cho sự phát triển lành mạnh của thị trường bất động sản còn chưa có hiệu quả nên giá cả bất động sản, nhất là ở các đô thị lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh đã ở mức quá cao, vượt xa hơn nhiều giá trị thực gây cản trở phát triển thị trường bất động sản lành mạnh, phát triển công nghiệp và góp phần tăng thêm tình hình lạm phát. -Gía một số hàng hóa dich vụ được duy trì ở mức “bao cấp”, thấp hơn giá thành sản xuất trong thời gian dài, nhất là các vật tư hàng hóa là đầu vào của nền kinh tế ( so với giá thành, giá bán điện sinh hoạt 100Kw đầu tiên bằng 64,21%; giá bán dầu đi-ê-zen bằng khoảng 76%, than cho sản xuất điện bằng 52% - 56%; than cho sản xuất xi – măng, phân bón, giấy bằng khoảng 64% -82%...); nhiều loại có giá thấp hơn các nước ( giá điện bằng 62% của Thái Lan, 40% của Xin-ga-po, 30% của Phi-lip-pin; gía dầu đi-ê-zen bằng 82% của Xin-ga-po, 91% của In-đô-nê-xi-a, 85% của Lào, Cam-pu-chia...). Do vậy, khi giá thị trường thế giới tăng cao, đòi hỏi phải điều chỉnh giá trong nước, để thực hiện lộ trình giá thị trường thì mức độ điều chỉnh lại lớn đã tác động manh tính dây chuyền đến giá cả hàng hóa dịch vụ khác. -Tính liên kết giữa sản xuất lưu thông và thị trường lỏng lẻo; hạ tầng thương mại chưa phát triển, hệ thống phân phối yếu kém,nhiều tầng nấc khó kiểm soát. Yếu tố tâm lý, sự kỳ vọng lạm phát đã tác động mạnh đến thị trường, gây tác động tăng giá dây chuyền. -Thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp gây thiệt hại về đàn gia súc, gia cầm, rau màu... làm giảm nguồn cung, gây tăng giá. -Công tác tuyên truyền, phổ biến, giải thích tình hình không kịp thời, nhất là trong những trường hợp ban hành các chính sách, giải pháp mới có tính nhạy cảm, ảnh hưởng đến lợi ích của nhân dân và nhà đầu tư, gây tâm lý lo lắng trong xã hội. III. Các giải pháp hạn chế lạm phát ở nước ta hiện nay 1. Những bài học về kiềm chế lạm phát ở Trung Quốc Để kiềm chế lạm phát, Chính phủ trung quốc thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp cả về tiền tệ, thị trường, sản xuất...Báo cáo tại kỳ họp quốc hội trung quốc này 5/3/2008, thủ Tướng Ôn Gia Bảo đưa ra các nhóm giải pháp cấp bách để kiềm chế lạm phát Một là, hỗ trợ thúc đẩy phát triển sản xuất, nhất là sản xuất các mặt hàng thiết yếu như: lương thực, thực phẩm, dầu thực vật, thịt... Hai là, kiểm soát chặt chẽ ngành công nghiệp sử dụng nguyên liệu là lương thực - thực phẩm. Ba là, đẩy mạnh và kiện toàn hệ thống dự trữ, điều tiết xuất nhập khẩu, bình ổn giá thị trường trong nước. Bốn là, thực hiện tốt khâu quản lý và điều tiết, điều hành giá cả, ngăn chặn tình trạng đua nhau tăng giá. Năm là, giám sát việc thu phí và lệ phí giáo dục, y tế, giá cả mặt hàng dược phẩm và nguyên nhiên vật liệu phục vụ nông nghiệp... kiên quyết xử lý các trường hợp liên kết đầu cơ trục lợi. Sáu là, hoàn thiện và thực hiện các biện pháp trợ cấp đối với người có thu nhập thấp. Bảy là, ngăn chặn kịp thời tình trạng giá cả nguyên nhiên vật liệu leo thang. Tám là, kiên trì thực hiện “chế độ trách nhiệm bao gạo” đối với tỉnh trưởng và “chế độ trách nhiệm rổ rau” đối với thị trưởng. Như vậy, biện pháp thắt chặt tiền tệ phải được tiến hành có liều lượng, có lộ trình và đồng thời với quản lý thị trường, quản lý giá cả, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển và hỗ trợ người dân có thu nhập thấp. Song đối với Việt Nam thì dường như nghiêng quá nhiều về tiền tệ. Thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh. Sản xuất kinh doanh rơi vào tình trạng khó khăn,hiệu quả thấp... có thể dẫn đến tăng trưởng chậm và trì trệ, nạn thất nghiệp gia tăng. Nhà đầu tư mất lòng tin vào thị trường chứng khoán...Tất cả những điều đó đều cần được quan tâm và tìm biện pháp để phục hồi! Kinh nghiệm của Trung Quốc, một số nước khác trong khu vực nền được tham khảo tích cực trong xử lý các bài toán về điều hành nền kinh tế vĩ mô hiện nay. 2. Giải pháp chống lạm phát ở nước ta 2.1. Những giải pháp cơ bản Căn cứ vào thực tế thực thi và các giải pháp chống lạm phát, chúng ta có thể kể đến một số giải pháp chủ yếu sau: a. Giải pháp đầu tiên: Là Đảng cần nâng cao nhận thức chính trị, nhận thức kinh tế cán bộ, Đảng viên theo hướng đổi mới. Không được trang bị tư duy mới, kiến thức mới thì cán bộ không thể thực hiện được những yêu cầu đổi mới trên mọi lĩnh vực. Đồng thời nhà nước phải vững mạnh chuyên chính vô sản, lập lại trật tự kỷ cương xã hội, giữ vững phép nước phải kiên quyết thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong hệ thống Đảng và các cơ quan nhà nước, đấu tranh không khoan nhượng, xóa bỏ những đặc quyền, đặc lợi, những tư tưởng cục bộ địa phương đang làm trì trệ, tê liệt những chủ trương chính sách của nhà nước. Để làm việc này, nhà nước cần ban hành những đạo luật chung về kinh tế, các đạo luật cụ thể về giá cả, lao động, tài chính, ngân hàng... làm cơ sở thống nhất cho việc thi hành trong cả nước đồng thời phải đề cao chức năng thoái soát kiểm kê của nhà nước đối với các hoạt động kinh tế, hoạt động xã hội. b. Các biện pháp về tiền tệ, tín dụng, thanh toán và ngân hàng trong việc chống lạm phát. "Kiên quyết đẩy lùi và khống chế lạm phát, ổn định về tăng cường nền tài chính, tiền tệ, tạo môi trường cho sản xuất hàng hoá phát triển có hiệu quả" Như vậy, Đảng đã thấy rõ tầm quan trọng của việc đẩy lùi và kiềm chế lạm phát với việc thi hành các chính sách tài chính, tín dụng, tiền tệ, xây dựng một nền tài chính lành mạnh. Nghị quyết TW II còn vạch rõ: + Xoá bao cấp qua tín dụng + Đổi mới cơ chế quản lý ngoại hối, hạ cơn sốt ngoại tệ + Đổi mới cơ cấu và phương thức cân đối ngân sách + Cải tiến việc phân cấp quản lý ngân sách. + Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý, giáo dục việc thực hiện các giải pháp này không nằm ngoài nội dung hoàn thiện chính sách lãi suất. Giảm hoặc rút bớt về một khối lượng tuyệt đối giấy bạc để thực hiênj biện pháp này, thông thường chính phủ và ngân hàng sử dụng các hình thức thu hút vốn vào quỹ ngân hàng như sau: + Khuyến khích vào mở rộng tiền vốn ngân hàng (bao gồm cả gửi tiết kiệm của nhân dân bằng cách nâng cao mức lãi suất gửi tiết kiệm vào ngân hàng trên mức lạm phát, với sự sụt giá đồng bảng và chính sách bảo vệ bảo hiểm giá trị đồng vốn gửi vào ngân hàng. + Phát hành công trái,trái phiếu và xổ số kiến thiết với quy mô mở rộng và bâừng những biện pháp hành chính cưỡng bức với người sản xuất, kinh doanh trong việc mua công phiếu trái phiếu hoặc bằng những chế độ thưởng hiện vật và giải cao, phòng giúp kích khích. +Thu hẹp khả năng thanh toán cuối cùng các hối phiếu hoặc kỳ phiếu thương mại đối với ngân hàng thương mại thông qua việc hạn chế chiết khấu và các chiết khấuvà nâng cao tỷ lệ quỹ vốn lao động. + ấn định giá hối đoái, hợp lý đồng bạc quốc gia theo chế độ 1 giá hối đoái và thực hiện nghiêm ngặt điều kiện quản lý ngoại hối, biện pháp này cho phép ngân hàng nhà nước thu về một khối lượng tiền tệ đáng kể trênthị trưởng tăng thu nhập ngân sách, đó là một cách để thấy và bù đắp một phần thiếu hụt cán cân thu chi ngân sách. + Hạn chế và thu hẹp tín dụng ngân hàng nói chung, nhất là tín dụng do hoạt động thương mại thuần tuý,, hối đoái trong điều kiện sản xuấtnhất là sản xuất hàng tiêu dùng bị đình đốn. Song có thể gia tăng khối lượng tiêu dùng ngắn hạn hướng vào sản xuất hàng tiều dùng thiết yếu bằng số ngoại tệ thu được qua xuất khẩu, cung ứng dịch vụđối ngoại hoặc vay nợ, viện trợ. -Với biện phát này có thể giảm đi một khối lượng tiền tệ đáng kể do việc buôn bán vòng vèo ăn chênh lệch giá và bấy lâu nay không sao kiểm soát nổi. Mặt khác do hướng tín dụng ngân hàng có lựa chọn và chú trọng tính hiệu quả của nó có thể tạo ra được một khối lượng hàng hoá nhất định bán và thu tiền về, đồng thời giảm đi một khối lượng đáng kể số tiền sẽ chi cho các kỳ phiếu thương mại giữa ngân hàng và khách hàng cũng như các hoạt động tái chiết khấu và tín dụng cuối cùng của ngân hàng nhà nước và ngân hàng thương mại. - Để hạn chế và điều hoà tín dụng, ngân hàng TW thường sử dụng các biện pháp: Tăng hay giảm lãi suất để giảm hay tăng khối lượng tín dụng, nghĩa là đối với công cụ lãi suất này sẽ khuyến khích hoặc hạn chế ai trong hoạt động kinh doanh, thực hiện mua hay bán các chứng khoán tại thị trường bỏ ngỏ. c. Nhà nước thực hiện thả nổi giá cả hầu hết trên các mặt hàng, giờ đây giá cả của hàng hoá do thị trường định đoạt. Nhà nước chỉ dừng lại ở mức quy định một ít mặt hàng treo giá của nhà nước đưa ra. Từ năm 1989 giá cả hầu hết các hàng hoá đựơc thị trường xác định, đến nay nhà nước chỉ còn xác định giá cước tải liên lạc, giá năng lượng, xăng dầu. Một số mặt hàng quan trọng nhà nước can thiệp bằng các biện pháp kinh tế tích cực. Chẳng hạn giá gạo hạ thấp, nhà nước bỏ tiền ra mua với giá gạo cao hơn thị trường tự do để giữ vững và khuyến khích sản xuất nông nghiệp. Giá vàng lên cao, ngân hàng nhà nước bán vàng ra thị trường với mức giá thấp hơn để kéo vàng hạ xuống. Với giải pháp này nhà nước đã xóa bỏ tình trạng ngân sách phải bao cấp cho các xí nghiệp và các tổ chức kinh tế thông qua hệ thống giá thấp. Do trực tiếp chịu sự quy định của quan hệ cung cầu, của người sản xuất 2耀 người tiêu dùng... là chức năng điều tiết giá cả do thị trường đảm nhận đã được khôi phục trở lại. Trên thị trường giá cả đã có sự co giãn lên xuống và thực sự trở thành tấm gương phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế. Giá cả trở thành mệnh lệnh của thị trường và nó cũng rất khắc nghiệt. Đồng thời giá cả có tác động đến nhu cầu, làm cho nhu cầu được điều chỉnh tốt hơn theo hướng đa dạng, tiết kiệm... Mọi người tiêu dùng đã tính toán được các khoản chi tiêu không cần thiết. Nhà nước Việt Nam cho phép ngân hàng quốc gia được xác định tỷ giá ngoại tệ xấp xỉ với thị trường tự do, biện pháp này có tác dụng xoá bỏ hiện tượng đầu cơ vàng và ngoại tệ gây rối loạn thị trường. Hiện nay nhà nước cùng với ngân hàng TW đang tiến dần đến việc điều chỉnh giá vàng và giá đôla theo mức giá cả của thị trường thế giới, đây là một trong những kế hoạch hoà nhập kinh tế Việt Nam với thế giới. d. Thứ tư: Tạo điều kiện phát triển nền kinh tế ngoài quốc doanh. Nhà nước cho phép các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh được kinh doanh trên nhiều lĩnh vực. Hiện nay nền kinh tế nước ta có 5 thành phần kinh tế tham gia cùng hoạt động. Pháp luật của nhà nước đảm bảo các quyền lợi, quyền bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế. Nhiều thành phần kinh tế cũng hoạt động tạo được sự cạnh tranh, gây sức ép với nhau buộc để đổi mới. Việc mở rộng các thành phần kinh tế để giải quyết việc làm cho người lao động. Mục tiêu cụ thể giảm tỷ lệ lạm phát xuống khoảng 30 - 40% năm 1994 và dưới 12% năm 1997 và năm 1996 lạm phát giảm xuống còn 3,6% năm 1999, nhưng có nghĩa lạm phát đã giảm xuống mà đến đầu năm 1998 lạm phát đang dần dần tăng lên. Những thông tin gần đây về kiểm soát lạm phát thời kỳ 1993 - 1997 đã đựơc nói đến: "Nếu như năm 1992 - 1993 còn lạm phát ở mức 70% mỗi năm thì năm 1994 đã kéo xuống 15%. Tính từ tháng 3 năm 1994 chỉ số giữa bình quân chỉ còn 0,5% (Việt Nam). e. Thứ năm: Nhà nước mở rộng quyền xuất nhập khẩu mở cửa biên giới khuyến khích các nguồn nhập khẩu vào Việt Nam, đã làm cho thị trường ngày càng phong phú, làm cho cung và cầu trở lên cân bằng hơn, việc nhập khẩu vào Việt Nam còn có tác dụng gây sức ép với hàng hoá trong nước buộc họ phải nâng cao chất lượng để đáp ứng thị hiếu của khách hàng, hoạt động nhập khẩu cần có nhiều vốn ngoại tệ từ đó mà xuất khẩu gia tăng. Nhà nước sớm thực hiện chính sách bảo hộ một số ngành trong nước, việc bảo hộ này không có nghĩa là cấp nhập khẩu mà là đầu tư vốn, kỹ thuật để chất lượng hàng hoá đạt tiêu chuẩn, giá thành hạ để đủ sức cạnh tranh với thị trường quốc tế. 2.2. Nhóm giải pháp của chính phủ kiềm chế lạm phát trong ngắn hạn 2.2.1. Chín nhóm giải pháp cho khối doanh nghiệp (DN). Nhóm giải pháp thứ nhất là phải cắt giảm đàu tư chi phí không cần thiết, nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách. Để thực hiện nhóm giải pháp này, các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước cần rà soát lại các hạng muc đầu tư, đảm bảo việc đầu tư được thực hiện không giàn trải, đúng với năng lực cốt lõi và lợi thế cạnh tranh của mình; đẩy mạnh hợp tác tư công trong đầu tư để kiểm soát hiệu quả các hạng mục đầu tư, đặc biệt là trong các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng; tăng cường thu hồi nợ, giảm lượng vốn bị khách hàng chiếm đoạt; thực hiện tốt công tác quản trị tài chính, thu hút, tìm kiếm các nguồn vốn phục vụ hoạt động sản xuât kinh doanh. Nhóm giải pháp thứ hai thuộc về lĩnh vực ngân hàng tài chính: các ngân hàng hưởng ứng với 8 giải pháp của chính phủ, tuân thủ nghiêm túc quy định của NHNN; đa dạng hóa thị trường, ngoại tệ thanh toán; chủ động tìm khách hành trong khối doanh nghiệp tư nhân; đa dạng hóa nguồn vốn... Nhóm giải pháp thứ ba, các doanh nghiệp tập trung phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, tăng cường và có chiến lược đầu tư vào khoa học công nghệ,nghiên cứu phát triển, tăng hàm lượng giá trị, giả hàm lượng nguyên vật liệu, lao động, tăng hiệu quả sử dụng các nguồn đầu vào không tái tạo như xăng dầu, điện nước...; các doanh nghiệp cần chủ động nghiên cứu thị trường trong nước và quốc tế để xây dựng chiến lược kinh doanh; tích cực khai thác thị trường ; nâng cao năng lực kiểm soát rủi ro... Song song với đó, các hiệp hội doanh nghiệp cũng phải tạp trung xây dựng các dịch vụ hỗ trợ DN nâng cao hàm lượng tri thức và giá trị gia tăng cho sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp. Nhóm giải pháp thứ tư là phải đảm bảo cân đối cung cầu về hàng hóa, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu. Để thực hiện giải pháp này, bên cạnh nỗ lực từ các doanh nghiệp, các hiệp hội DN cũng phải điều phối hiệu quả các hoạt động xuất nhập khẩu, cùng với DN đưa ra chiến lược đàm phán về giá với khách hàng và nhà cung cấp, hạn chế tình trạng tranh mua tranh bán. Nhóm giải pháp thứ năm, giải pháp triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng như tiết kiệm điện, năng lượng, đầu tư vào các công nghệ tiêu hao ít năng lượng, nghiên cứu dùng nguồn nguyên liệu giá rẻ thay thế; chấp nhận giảm lãi để ổn định giá thành, kéo giá bán thấp hơn tốc độ tăng giá... Nhóm giải pháp thứ sáu là về giá: Phải tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm soát việc chấp hành pháp luật nhà nước về gía. Hiệp hội DN phải tăng cường vai trò trong việc phối hợp quản lý thị trường, thống nhất việc xác định mức giá bán hợp lý; thể chế hóa các cam kết của hội viên... Nhóm giải pháp thứ bảy, Đối với lĩnh vực kinh doanh bất động sản: Các DN rà soát các hạng mục đầu tư bất động sản, tránh tràn lan; phù hợp với địa phương đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng; hạn chế các khâu trung gian Nhóm giải pháp thứ tám, coi trọng tăng cường các biện pháp hỗ trợ ổn định đời sống nhân dân.Các DN phải tích cực khai thác và tham gia phát triển thị trường cho người nghèo; đẩy mạnh tổ chức và mở rộng mạng lưới sản xuất và cung ứng hàng hóa từ người nghèo; quan tâm tới đời sống người lao động, thực hiện nghiêm túc các quy định về an sinh xã hội đối với người lao động... Và nhóm giải pháp cuối cùng cần tạo ra sự thống nhất cao trong tất cả các nghành,các cấp để thực hiện mục tiêu chống lạm phát. Song song với từng nhóm giải pháp, các doanh nghiệp cũng đưa ra những kiến nghị đối với Chính phủ để thực hiện triệt để công cuộc chống lạm phát. Điều được các doanh nghiệp quan tâm nhiều nhất đó là việc kiến nghị chính phủ tăng cường các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm hạn chế sự phá sản hàng loạt của các doanh nghiệp này gây tác động xấu đến vấn đề công ăn việc làm. Ngoài ra, các DN cũng kiến nghị các cơ quan Nhà nước cần cải cách thủ tục hành chính trong đăng ký kinh doanh, đăng ký đầu tư để khuyến khích thành lập DN, chuyển đổi hộ kinh doanh cá thể lên DN để tăng cường hiệu quả kinh doanh, khẩn trương xây dựng và triển khai thực hiện cơ chế ba bên trong quá trình giải quyết các tranh chấp lao động; sớm ban hành Nghị định về hiệp hội DN để những tổ chức này có đủ điều kiện, hành lang pháp lý để tập hợp doanh nghiệp,cùng Chính phủ giải quyết những vấn đề kinh tế vĩ mô Nhiều DN kiến nghị chính phủ cần giảm thuế suất nhập khẩu một số mặt hàng, ổn định tỷ giá, giảm lãi suất cho vay, ưu tiên tạo điều kiện về vốn cho hoạt động xuất khẩu, ngăn chặn tình trạng buôn lậu và gian lận thương mại; có chiến lược dự trữ quốc gia đối với một số mặt hàng thiết yếu, tích cực kiểm soát dịch bệnh trong nông nghiệp, hỗ trợ các DN nhỏ và vừa trong việc thay thế trong việc thay thế các thiết bị công nghệ tiêu hao năng lượng. 2.2.2. Tám nhóm giải pháp của chính phủ 1. Thắt chặt tiền tệ 2. Cắt giảm đầu tư, chi phí không cần thiết; 3. Đẩy mạnh sản xuất; 4. Đảm bảo cân đối các mặt hàng chủ yếu, đẩy mạnh xuất khẩu, chống nhập siêu; 5. Triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng 6. Quản lý thị trường, chống đầu cơ; 7. Triển khai mở rộng các chính sách an sinh xã hội; 8. Đồng tâm hiệp lực để ổn định tình hình kinh tế xã hội Những kết quả bước đầu đạt được: Thời gian qua, Chính phủ đã tập trung sức chỉ đạo đồng bộ, quyết liệt, các Bộ, ngành, địa phương đã tích cực triển khai, thực hiện nghiêm 8 nhóm giải pháp. Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 6/2008 cho thấy, từ những quyết tâm đó, lạm phát đã cơ bản được kiềm chế và có xu hướng giảm. Cụ thể, lạm phát tháng 6 giảm mạnh, chỉ số CPI chỉ tăng 2,14%, là mức thấp nhất trong 6 tháng qua (T1: 2,38%; T2: 3,56%; T3: 2,99%; T4: 2,2%; T5: 3,91%). Tiết kiệm chi thường xuyên gần 3 nghìn tỷ đồng Các ngành, các cấp, các doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện nghiêm chỉ đạo của Chính phủ về tiết kiệm 10% chi thường xuyên trong năm 2008 (trừ các khoản liên quan đến người lao động). Đến nay, theo báo cáo của các Bộ, ngành, địa phương sẽ tiết kiệm được khoảng 2.700 tỷ đồng, bằng 25% tổng dự phòng ngân sách Nhà nước 2008, trong đó các Bộ, ngành tiết kiệm được khoảng 700 tỷ đồng, các địa phương tiết kiệm khoảng 2 nghìn tỷ đồng. Số tiền tiết kiệm này được bổ sung vào nguồn thực hiện chính sách an sinh xã hội; phòng, chống, khắc phục thiên tai, dịch bệnh và các nhiệm vụ cấp bách khác. Báo cáo kiểm điểm sự chỉ đạo, điều hành 6 tháng đầu năm và chương trình công tác 6 tháng cuối năm 2008 của Chính phủ do Bộ trưởng, Chủ nhiệm văn phòng Chính Phủ Nguyễn Xuân Phúc trình bày cho thấy, chi phí cho hội họp đã được tiết giảm, công tác ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ đã có bước phát triển mới và phát huy tác dụng. Hệ thống thư điện tử công vụ của Chính phủ đã được các thành viên Chính phủ, lãnh đạo các Bộ, địa phương sử dụng hiệu quả trong quan hệ công tác, trao đổi thông tin, báo cáo phục vụ cho hoạt động chỉ đạo, điều hành. Thủ tướng, Phó Thủ tướng Chính phủ, lãnh đạo các Bộ đã thực hiện thành công nhiều cuộc hội nghị, giao ban truyền hình trực tuyến qua mạng, góp phần nâng cao hiệu quả chỉ đạo, điều hành và tiết kiệm ngân sách nhà nước. Đình hoãn, giãn tiến độ gần 2 nghìn dự án, công trình Việc rà soát lại các công trình, dự án, danh mục dự án đầu tư sử dụng vốn từ nguồn ngân sách nhà nước cần phải đình hoãn hoặc giãn tiến độ cũng được các Bộ, ngành, địa phương triển khai nghiêm túc. Theo đó, tổng số công trình, dự án đình hoãn, ngừng triển khai thực hiện và giãn tiến độ thực hiện trong kế hoạch năm 2008 là 1.736 dự án, với tổng số vốn là 5.625 tỷ đồng.Trong đó, tổng số dự án điều chỉnh giảm của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước là 290 dự án với tổng số vốn là 4.775 tỷ đồng. Kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, giảm nhập siêu Bộ Công Thương và Bộ Tài chính đã tích cực rà soát các thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động xuất khẩu, đặc biệt là thủ tục hải quan, thuế... Triển khai nghiên cứu xây dựng các hàng rào kỹ thuật và các biện pháp phù hợp với cam kết quốc tế để giảm nhập siêu. Về điều hành xuất khẩu, các Bộ, ngành chức năng đã thực hiện các chính sách để tăng tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó tiếp tục xuất khẩu gạo nhằm bảo đảm an ninh lương thực và bình ổn giá gạo thế giới. Căn cứ vào khả năng cân đối thực tế và bảo đảm an ninh lương thực trong nước, năm nay nước ta có thể xuất khẩu gạo từ 4 đến 4,5 triệu tấn. Do tác động trực tiếp của một số chính sách hạn chế nhập khẩu như tăng thuế nhập khẩu ô tô, linh kiện ô tô...; kiểm soát chặt nguồn ngoại tệ cho nhập khẩu nên nhập khẩu đang có xu hướng giảm dần, đặc biệt là nhập khẩu những mặt hàng không thiết yếu (quý I/2008 nhập siêu bằng 62,7% kim ngạch xuất khẩu, quý II bằng 39,2%, riêng tháng 6 bằng 23,6% kim ngạch xuất khẩu). Đẩy mạnh sản xuất và bảo đảm cân đối cung cầu Việc khắc phục hậu quả thiên tai và dịch bệnh đã được thực hiện tích cực để đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp. Thời gian qua, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã thực hiện tốt các chính sách khôi phục sản xuất lúa Đông Xuân năm 2007-2008 và chăn nuôi trâu, bò bị thiệt hại do ảnh hưởng của đợt rét đậm, rét hại. Các Bộ, ngành địa phương đã tích cực tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về thủ tục hành chính đối với việc phát triển sản xuất kinh doanh. Qua việc thực hiện các giải pháp trên, các hoạt động sản xuất kinh doanh được duy trì tốt, giá các mặt hàng trọng yếu trên thị trường về cơ bản được bình ổn, đặc biệt là kịp thời hạ nhiệt giá gạo và xi măng; cơ bản bảo đảm cung - cầu các mặt hàng trên thị trường; góp phần đưa GDP đạt mức tăng trưởng khá trong 6 tháng đầu năm (6,5%) trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn. Cấp hơn 7.300 tỷ đồng thực hiện chính sách an sinh xã hội Trong thời gian qua, các Bộ, ngành, địa phương đã khẩn trương, tích cực, kịp thời giải quyết tình trạng thiếu đói, hỗ trợ sản xuất, sinh hoạt và đời sống cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách, khó khăn; giữ ổn định mức thu học phí, viện phí; tiếp tục cho sinh viên, học sinh đại học, cao đẳng, học nghề có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn để học tập; tăng mức hỗ trợ mua bảo hiểm y tế cho người nghèo; bảo đảm cung - cầu những mặt hàng thiết yếu phục vụ nhân dân. Đến nay, ngân sách Trung ương đã cấp hơn 7.300 tỷ đồng để thực hiện các chính sách an sinh xã hội. Nguồn: Cổng TTĐT Chính phủ Một số đối tượng sẽ được trợ cấp do lạm phát tăng cao Việt Nam đã đạt được những thành công bước đầu trong công cuộc chống lạm phát nhờ áp dụng các giải pháp nêu trên. Điều đó không có nghĩa là những giải pháp trên đủ để quyết định vấn đề chống lạm phát một cách hoàn hảo và căn bản. Tuỳ từng hoàn cảnh, từng giai đoạn mà chúng ta có thể linh hoạt sử dụng các biện pháp khác nhau nhằm đạt được hiệu quả kinh tế lớn, điều cần thiết nhất là sự đồng lòng chung sức của cả cộng đồng chung tay chống lạm phát, trước sự suy thoái dây chuyền của nền kinh tế thế giới đang ngày một lan rộng! Kết luận Chúng ta nhận thức rằng quá trình đấu tranh chống lạm phát không đơn giản ngày một ngày hai. Nó là căn bệnh kinh niên nhưng việc xoá bỏ hoàn toàn lạm phát thì cái giá phải trả không tương xứng với lợi ích đem lại. Tình hình diễn biến lạm phát tại Việt Nam trong 2 năm qua diễn biến rất phức tạp và việc khắc phục nó không phải là điều đơn giản. Những kết quả bước đầu mà chúng ta đạt đựơc trong công cuộc chống lạm phát cũng không vì thế mà làm chúng ta chủ quan, nới lỏng. Chính vì vậy Đảng và nhà nước, đặc biệt là chính phủ, cơ quan trực tiếp điều hành nền kinh tế vĩ mô, cần phải luôn thận trọng trong mỗi bước đi của mình để đảm bảo cho nền kinh tế nước ta phát triển vững mạnh làm nền tảng để phát triển khoa học, giáo dục, đuổi kịp sự phát triển của các nước trong khu vực nói riêng và các nước trên thế giới nói chung, khi mà chúng ta đã hội nhập với quốc tế băng việc tham gia vào các tổ chức,diễn đàn lớn như WTO, APEC... Lạm phát đã và đang sẽ là vấn đề nổi cộm trong quá trình điều hành nền kinh tế, cần có thời gian cũng như những chính sách tối ưu nhằm ổn định nền kinh tế vĩ mô. Vì thời gian cũng như khả năng có hạn, nên bài viết còn nhiều hạn chế, tuy nhiên em đã cố gắng tới mức cao nhất hoàn thành đề án trong khả năng của mình. Bài viết này chỉ là những thu nhặt bước đầu mang tính chất cơ sở cho việc phát triển nhận thức sau này. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn cô giáo Tiến sĩ Đỗ Hải Hà đã giúp em hoàn thành đề án này! Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình kinh tế vĩ mô 1, PGS/ TS Nguyễn Văn Công, Nhà Xuất bản Lao Động, năm 2005 Giáo trình kinh tế vĩ mô 2, PGS/ TS Nguyễn Văn Công, Nhà Xuất bản Lao Động, năm 2006 www.gov.vn: trang thông tin điện tử của chính phủ www.vnexpress.net www.google.com/lamphat www.vietnamnet.vn/chinhtri/2008/04/776861/ Trích “Bộ chính trị kết luận về tình hình lạm phát www.vietnamnet.vn/kinhte/2008/05/782-897 Thời báo Kinh tế Việt Nam, ngày 29/10/2007 “Chính sách tiền tệ và chế độ tỷ giá trong nền kinh tế mở” của Nguyễn Đình Thọ, Tạp chí Kinh tế Đối ngoại, số 30 năm 2007. Báo Lao Động số 75 Ngày 03/04/2008 NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: ......................................................................................................................... ......................................................................................................................... ......................................................................................................................... ......................................................................................................................... ......................................................................................................................... ......................................................................................................................... ......................................................................................................................... ......................................................................................................................... ......................................................................................................................... ......................................................................................................................... ......................................................................................................................... ......................................................................................................................... ......................................................................................................................... ......................................................................................................................... ......................................................................................................................... ......................................................................................................................... ......................................................................................................................... ......................................................................................................................... ......................................................................................................................... ......................................................................................................................... ......................................................................................................................... ......................................................................................................................... ......................................................................................................................... ......................................................................................................................... ......................................................................................................................... ......................................................................................................................... ......................................................................................................................... ......................................................................................................................... ......................................................................................................................... .........................................................................................................................

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6222.doc
Tài liệu liên quan