Lạm phát và tăng trường kinh tế là hai vấn đề có quan hệ rất chặt chẽ, phức tạp. Lạm phát có thể là động lực thúc đẩy kinh tế ngược lại cũng có thể là tác nhân kìm hãm sự phát triển kinh tế thậm chí . Vì vậy cần chú trọng sự cân đối, mối quan hệ hài hoà giữa hai vấn đề này ,chỉ có vậy mới đảm bảo sự phát triển bền vững của Viêt Nam trong giai đoạn đổi mới hiện nay. Trong những năm vừa qua Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định về kinh tế đó cũng là nhờ một phần đóng góp của các chính sách điều chỉnh tỉ lệ lạm phát hợp lí. Tuy nhiên những bất ổn sự mất cân đối giữa lạm phát trong một số thời gian là dấu hiệu để chúng ta cần điều chỉnh và đưa ra những chính sách có hiệu quả. Hiểu rõ và giải quyết được tốt vấn đề này sẽ góp phần không nhỏ cho công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế ở nước ta.
16 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1831 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Lạm phát, hiện trạng và giải pháp kiềm chế lạm phát hiện nay ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I - Lời nói đầu
Lạm phát, và những giảI pháp trong nềng kinh tế là hai vấn đề cơ bản và lớn trong kinh tế vĩ mô. Sự tác động qua lại của tăng trưởng kinh tế và lạm phát hết sức phức tạp và không phải lúc nào cũng tuân theo những qui tắc kinh tế . Lạm phát là một vấn đề không phải xa lạ và là một đặc diểm của nền kinh tế hàng hoá và ở mỗi thời kì kinh tế với các mức tăng trưởng kinh té khác nhau sẽ có những mức lạm phát phù hợp. Do vậy vấn đề lạm phát và ảnh hưởng của lạm phát tới tăng trưởng kinh tế là một đề tài rất hấp dẫn, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế hiện nay vấn đề này càng trở nên cần thiết. Việc xác định mối quan hệ tăng trưởng kinh tế và lạm phát đã và đang thu hút sự chú ý của nhiều nhà kinh tế. Còn không, các nhà hoạch định chính sách phải cân nhắc các giải pháp vĩ mô để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và yếu tố lạm phát trở thành thứ yếu. Mặc dù vẫn phải duy trì mức độ kiểm soát. ở nước ta trong bối cảnh đổi mới kinh tế dưới sự lãnh đạo của Đảng, vấn đề lạm phát không những là một tiêu thức kinh tế mà còn kiến mang ý nghĩa chính trị nữa. Xuất phát từ những kiến thưc bài giảng của thầy cô, và cần thiết hiểu biết về lạm phát, vì vậy em quyết định chọn đề tài nghiêm cứu: “ Lạm phát, hiện trạng và giải pháp kiềm chế lạm phát hiện nay ở Việt Nam”.
Do kiến thức hiểu biết còn chưa sâu, và sự nắm bắt về hiện trạng về lạm phát hiện nay ở nước ta còn chưa được đầy đủ nên còn nhiều sai sót mong thầy chỉnh sửa và đóng góp ý kiến để bài viết em được hoàn thành tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
II –Phần Nội dung
a: Những lý luận chungvề lạm phát
1. Khái niệm
Đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về lạm phát và mỗi quan điểm đều có sự chắc chắn về luận điểm và những lý luận của mình.
Theo L.V.chandeler, D.C cliner với trường phái lạm phát giá cả thì khẳng định :lạm phát là sự tăng giá hàng bất kể dài hạn hay ngắn hạn , chu kỳ hay đột xuất.
G.G. Mtrukhin lại cho rằng : Trong đời sống, tổng mức giá cả tăng trước hết thông qua việc tăng giá không đồng đều ở từng nhóm hàng hoá và rút cuộc dẫn tới việc tăng giá cả nói chung. Với ý nghĩa như vậy có thể xem sự mất giá của đồng tiền là lạm phát. Ông cũng chỉ rõ: lạm phát, đó là hình thức tràn trề tư bản một cách tiềm tàng ( tự phát hoặc có dụng ý) là sự phân phối lại sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân thông qua giá cả giữa các khu vực của quá trình tái sản xuất xã hội, các ngành kinh tế và các giai cấp, các nhóm dân cư xã hội.
ở mức bao quát hơn P.A.Samuelson và W.D.Nordhaus trong cuốn “Kinh tế học” đã được dịch ra tiếng việt, xuất bản năm 1989 cho rằng lạm phát xẩy ra khi mức chung của giá cả chi phí tăng lên.
Với luận thuyết “Lạm phát lưu thông tiền tệ “ J.Bondin và M. Friendman lại cho rằng lạm phát là đưa nhiều tiền thừa vào lưu thông làm cho giá cả tăng lên. M.Friedman nói “ lạm phát ở mọi lúc moị nơi đều là hiện tượng của lưu thông tiền tệ. Lạm phát xuất hiện và chỉ có thể xuất hiện khi nào số lượng tiền trong lưu thông tăng lên nhanh hơn so với sản xuất”
Như vậy, tất cả những luận thuyết, những quan điểm về lạm phát đã nêu trên đều đưa ra những biểu hiện ở một mặt nào đó của lạm phát, và theo quan điểm của tôi về vấn đề này sau khi nghiên cứu một số luận thuyết ở trên thì nhận thấy ở một khía cạnh nào đó của lạm phát thì: khi mà lượng tiền đi vào lưu thông vượt mức cho phép thì nó dẫn đến lạm phát, đồng tiền bị mất giá so với tất cả các loại hàng hoá khác.
2. Khái niệm lạm phát trong điều kiện hiện đại
Trong điều kiện hiện đại khi mà nền kinh tế của một nước luôn được gắn liền với nền kinh tế thế giới thì biểu hiện của lạm phát được thể hiện qua một số yếu tố mới.
a. Sự mất giá của các loai chứng khoán có giá.
Song song với sự tăng giá cả của các loai hàng hoá, giá trị các loại chứng khoán có giá trị bị sụt giảm nghiêm trọng, Vì việc mua tín phiếu là nhằm để thu các khoản lợi khi đáo hạn. Nhưng vì giá trị của đồng tiền sụt giảm nghiêm trọng nên người ta không thích tích luỹ tiền theo hình thức mua tín phiếu nữa. Người ta tích trữ vàng và ngoại tệ.
b. Sự giảm giá của đồng tiền so với ngoại tệ và vàng.
Trong điều kiện mở rộng quan hệ quốc tế, vàng và ngoại tệ mạnh được coi như là tiền chuẩn để đo lường sự mất giá của tiền quốc gia. Đồng tiền càng giảm giá so với vàng và USD bao nhiêu nó lại tác động nâng giá hàng hoá lên cao bấy nhiêu. ở đâu người ta bán hàng dựa trên cơ sở “qui đổi” giá vàng hoặc ngoại tệ mạnh để bán mà không căn cứ vào tiền quốc gia nữa (tiền giấy do Ngân hàng Nhà nước phát hành)
c. Lạm phát còn thể hiện ở chỗ khối lượng tiền ghi sổ tăng vọt nhanh chóng.
Bên cạnh khối lượng tiền giấy phát ra trong lưu thông. Nhưng điều cần chú ý là khi khối lượng tiền ghi sổ tăng lên có nghĩa là khối lượng tín dụng tăng lên, nó có tác động lớn đến sự tăng trưởng của nền kinh tế. Như vậy lạm phát trong điều kiện hiện đại còn có nghĩa là sự gia tăng các phương tiện chi trả trong đó có khối lượng tín dụng ngắn hạn gia tăng nhanh
d. Lạm phát trong điều kiện hiên đại còn là chính sách của Nhà nước
Nhằm kích thích sản xuất, chống lại nạn thất nghiệp, bù đắp các chi phí thiếu hụt của ngân sách.
3. Các Loại hình của lạm phát
Cũng như ở trên đã có rất nhiều cách hiểu ở các góc độ khác nhau về lạm phát thì ở phần này cũng như vậy người ta có thể phân loại lạm phát theo nhiều tiêu chí khác nhau.
Căn cứ vào mức độ người ta chia lam ba loại
- Lạm phát vừa phải :Loai lạm phát này xẩy ra với mức tăng chậm của gía cả được giới hạn ở mức độ một con số hàng năm (tức là > 10%). Trong điều kiện lạm phát thấp gía cả tương đối thay đổi chậm và được coi như là ổn đị
- Lạm phát phi mã :Mức độ tăng của gía cả đã ở hai con số trở lên hàng năm trở lên. Lạm phát phi mã gây tác hại nghiêm trọng trong nền kinh tế. Đồng tiền mất giá một cách nhanh chóng-lãi suất thực tế giảm xuống dưới 0 (có nơi lãi suất thực tế giảm xuống tới 50-100/năm), nhân dân tránh giữ tiền mặt.
- Siêu lạm phát:Tiền giấy được phát hành ào ạt, gía cả tăng lên với tốc độ chóng mặt trên 1000 lần/năm. Siêu lạm phát là thời kì mà tốc độ tăng giá vượt xa mức lạm phát phi mã và vô cùng không ổn định.
Căn cứ vào nguyên nhân chủ yếu gây ra lạm phát người ta phân biệt
- Lạm phát để bù đắp các thiếu hụt của ngân sách: Đây là nguyên nhân thông thường nhất do sự thiếu hụt ngân sách chi tiêu của Nhà nước (y tế, giáo dục, quốc phòng) và do nhu cầu khuếch trương nền kinh tế. Nhà nước của một quốc gia chủ trương phát hành thêm tiền vào lưu thông để bù đắp cho các chi phí nói trên đang thiếu hụt.
ở đây chúng ta thấy vốn đầu tư và chi tiêu của Chính phủ được bù đắp bằng phát hành, kể cả tăng mức thuế nó sẽ đẩy nền kinh tế đi vào một thế mất cân đối vựợt quá sản lượng tiềm năng của nó. Và khi tổng mức cần của nền kinh tế vượt quá khả năng sản xuất của nền kinh tế (vì các yếu tố sản xuất của một nền kinh tế là có giới hạn) lúc đó cầu của đồng tiền sẽ vượt quá khả năng cung ứng hàng hoá và lạm phát sẽ xẩy ra, gía cả hàng hoá tăng lên nhanh chóng.
-Lạm phát do nguyên nhân chi phí : Trong điều kiện cơ chế thị trường, không có quốc gia nào lại có thể duy trì được trong một thời gian dài với công ăn viêc làm đầy đủ cho mọi người, gía cả ổn định và có một thị trường hoàn toàn tự do.
Trong điều kiện hiện nay, xu hướng tăng gía cả các loại hàng hoá và tiền lương công nhân luôn luôn diễn ra trước khi nền kinh tế đạt được một khối lượng công ăn việc làm nhất định. Điều đó có nghĩa là chi phí sản xuất đã đẩy gía cả tăng lên ngay cả trong các yếu tố sản xuất chưa được sử dụng đầy đủ, lạm phát xẩy ra.
Lạm phát như vậy có nguyên nhân là do sức đẩy của chi phí sản xuất.
Một số nhà kinh tế tư bản cho rằng việc đẩy chi phí tiền lương tăng lên là do công đoàn gây sức ép. Tuy nhiên một số nhà kinh tế khác cho rằng chính công đoàn ở nước tư bản đã đóng vai trò quan trọng trong việc làm giảm tốc độ tăng của lạm phát và giữ không cho lạm phát giảm xuống quá nhanh khi nó giảm . Vì các hợp đồng lương của các công đoàn thuờng là dài hạn và khó thay đổi.
Ngoài ra các cuộc khủng hoảng về các loai nguyên liệu cơ bản như dầu mỏ, sắt thép...đã làm cho giá cả của nó tăng lên (vì hiếm đi) và điều đó đã đẩy chi phí sản xuất tăng lên. Nói chung việc tăng chi phí sản xuất do nghiều nguyên nhân, ngay cả việc tăng chi phí quản lý hành chính hay những chi phí ngoài sản xuất khác cũng làm cho chi phí sản xuất tăng lên và do vậy nó đẩy gía cả tăng lên.
Có thể nói nguyên nhân ở đây là sản xuất không có hiệu quả, vốn bỏ ra nhiều hơn nhưng sản phẩm thu lại không tăng lên hoặc tăng rất chậm so với tốc độ tăng của chi phí.
- Lạm phát ỳ : Là lạm phát chỉ tăng với một tỷ lệ không đổi hàng năm trong một thời gian dài. ở những nước có lạm phát ỳ xẩy ra, có nghĩa là nền kinh tế ở nước đó có một sự cân bằng mong đợi, tỷ lệ lạm phát là tỷ lệ được trông đợi và dược đưa vào các hợp đồng và các thoả thuận không chính thức. Tỷ lệ lạm phát đó được Ngân hàng Trung ương, chính sách tài chính của Nhà nước, giới tư bản và cả giới lao động thừa nhận và phê chuẩn nó. Đó là một sự lạm phát nằm trong kết cấu biểu hiện một sự cân bằng trung hoà và nó chỉ biến đổi khi có sự chấn động kinh tế xảy ra (tỷ lệ ỳ tăng hoặc giảm). Nếu như không có sự chấn động nào về cung hoặc cầu thì lạm phát có xu hướng tiếp tục theo tỷ lệ cũ.
- Lạm phát cầu kéo :Lạm phát cầu kéo xảy ra khi tổng cầu tăng lên mạnh mẽ tại mức sản lượng đã đạt hoặc vượt quá tiềm năng. Khi xảy ra lạm phát cầu kéo người ta thường nhận thấy lượng tiền không lưu thông và khối lượng tín dụng tăng đáng kể và vượt quá khả năng có giới hạn của mức cung hàng hóa. Bản chất của lạm phát cầu kéo là chi tiêu quá nhiều tiền để mua một lượng cung hạn chế về hàng hóa có thể sản xuất được trong điều kiện thị trường lao động đã đạt cân bằng.
Chính sách tiền tệ lạm phát có thể xảy ra khi mục tiêu công ăn việc làm cao. Ngay khi công ăn việc làm đẩy đủ, thất nghiệp lúc nào cũng tồn tại do những xung đột trên thị trường lao động. Tỷ lệ thất nghiệp khi có công ăn việc làm đẩy đủ (tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên) sẽ lớn hơn 0. Nếu ấn định một chỉ tiêu thất nghiệp thấp dưới tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên sẽ tạo ra một địa bàn cho một tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cao hơn và lạm phát phát sinh.Như vậy theo đuổi một chỉ tiêu sản phẩm quá cao hay tương đương là một tỷ lệ thất nghiệp quá thấp là nguồn gốc sinh ra chính sách tiền tệ lạm phát.
- Lạm phát chi phí đẩy: Ngay cả khi sản lượng chưa đạt mức tiềm năng nhưng vẫn có thể xảy ra lạm phất ở nhiều nước, kể cả ở những nước phát triển cao. Đó là một đặc điểm của lạm phát hiện tại. Kiểu lạm phát này gọi là lạm phát chi phí đẩy, vừa lạm phát vừa suy giảm sản lượng, tăng thêm thất nghiệp nên cũng gọi là “lạm phát đình trệ”.
Các cơn sốc giá cả của thị trường đầu vào, đặc biệt là các vật tư cơ bản: xăng, dầu, điện... là nguyên nhân chủ yếu đẩy chi phí lên cao, đường AS dịch chuyển lên trên. Tuy tổng cầu không thay đổi nhưng giá cả lại tăng lên và sản lượng giảm xuống. Giá cả sản phẩm trung gian (vật tư) tăng đột biến thường do các nguyên nhân như thiên tại, chiến tranh, biến động chính trị kinh tế...
Lạm phát chi phí cũng có thể là kết quả của chính sách ổn định năng động nhằm thúc đẩy một mức công ăn việc làm cao. Nó xảy ra do những cú sốc cung tiêu cực hoặc do việc các công nhân đòi tăng lương cao hơn gây nên
Căn cứ vào quá trình bộc lộ hiện hình lạm phát người ta phân biệt
-Lạm phát ngầm đây là loại lạm phát đang ở giai đoạn ẩn náu, bị kiềm chế về t ốc độ tăng giá.
-Lạm phát công khai đây là loại lạm phát mà sự tăng giá cả hàng háo, dịch vụ rõ rệt trên thị trường.
4. Những hậu quả của lạm phát
Qua thực tế của lạm phát ta thấy rằng hậu quả của nó để lại cho nền kinh tế là rất trầm trọng, nó thể hiện về mọi mặt của nền kinh tế, đặc biệt là một số hậu quả sau:
- Xã hội không thể tính toán hiệu qủa hay điều chỉnh các hoạt động kinh doanh của mình một cách bình thường được do tiền tệ không còn giữ được chức năng thước đo giá trị hay nói đúng hơn là thước đo này bị co giãn thất thường.
- Tiền tệ và thuế là hai công cụ quan trọng nhất để nhà nước điều tiết nền kinh tế đã bị vô hiệu hoá, vì tiền mất giá nên không ai tin vào đồng tiền nữa, các biểu thuế không thể điều chỉnh kịp với mức độ tăng bất ngờ của lạm phát và do vậy tác dụng điều chỉnh của thuế bị hạn chế, ngay cả trường hợp nhà nước có thể chỉ số hoá luật thuế thích hợp với mức lạm phát, thì tác dụng điều chỉnh của thuế cũng bị hạn chế.
- Phân phối lại thu nhập làm cho một số người nắm giữ các hàng hoá có giá cả tăng đột biến giầu lên nhanh chóng và những người có các hàng hoá mà giá cả của chúng không tăng hoặc tăng chậm và người giữ tiền bị nghèo đi.
- Kích thích tâm lý đầu cơ tích trữ hàng hoá, bất động sản, vàng bạc... gây ra tình trạng khan hiếm hàng hoá không bình thường và lãng phí.
- Xuyên tạc, bóp méo các yếu tố của thị trường làm cho các điều kiện của thị trường bị biến dạng. hầu hết các thông tin kinh tế đều thể hiện trên giá cả hàng hoá, giá cả tiền tệ, giá cả lao động... một khi những giá cả này tăng hay giảm đột biến và liên tục , thì các yếu tố của thị trường không thể tránh khỏi bị thổi phồng hoặc bóp méo.
- Sản xuất phát triển không đều, vốn chạy vào những ngành nào có lợi nhuận cao.
- Ngân sách bội chi ngày càng tăng trong khi các khoản thu ngày càng giảm về mặt giá trị.
- Đối với ngân hàng, lạm phát làm cho hoạt động bình rhường của ngân hàng bị phá vỡ, ngân hàng không thu hút được các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội.
- Đối với tiêu dùng: làm giảm sức mua thực tế của nhân dân về hàng hoá tiêu dùng và buộc nhân dân phải giảm khối lượng về hàng hoá tiêu dùng, đặc biệt là đời sống cán bộ công nhân viên ngày càng khó khăn. mặt khác lạm phát cũng làm thay đổi nhu cầu tiêu dùng, khi lạm phát gay gắt sẽ gây nên hiện tượng mọi người tìm cách tháo chạy khỏi đồng tiền tức là không muốn giữ và cất giữ đồng tiền mất giá bằng cách họ xẽ tìm mua bất kỳ hàng hoá dù không có nhu cầu để cất trữ từ đó làm giầu cho những người đầu cơ tích trữ.
Chính vì các tác hại trên của lạm phát nên việc kiểm soát lạm phát và giữ lạm phát ở mức độ vừa phải đã trở thành một trong những mục tiêu lớn của mọi nền kinh tế hàng hoá. Tuy nhiên, mục tiêu kiềm chế lạm phát không có nghĩa là phải đưa lạm phát ở mức bằng không tức là nền kinh tế không có lạm phát mà phải duy trì mức lạm phát ở một mức độ nào đó phù hợp vơí nền kinh tế bởi vì lạm phát không phải hoàn toàn là tiêu cực, nếu như một quốc gia nào đó có thể duy trì được mức lạm phát vừa phải và kiềm chế, có lợi cho sự phát triển kinh tế thì ở quốc gia đó lạm phát không còn là mối nguy hại cho nền kinh tế nữa mà nó đã trở thành một công cụ đắc lực giúp điều tiết và phát triển kinh tế một cách hiệu quả
B __ THựC TRạNg LạM PHáT ở Việt nam hiện nay
1.Nguyên nhân lạm phát
- Lạm phát là một phạm trù kinh tế khách quan, là vấn đề của mọi thời đại, mọi nền kinh tế tiền tệ. Chừng nào còn tồn tại nền kinh tế tiền tệ, thì còn lạm phát, người ta chỉ có thể kiềm chế mức độ lạm phát sao cho phù hợp với sự phát triển nền kinh tế, mà ít gây ra những hậu quả tai hại. Từ đó, có thể phân định nhiều mức độ lạm phát sao cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, từ lạm phát “nước kiệu” (chung quanh 10%) tới lạm phát “phi mã”, thậm chí là siêu tốc, tức là tình trạng bùng nổ giá cả hoàn toàn không thể kiểm soát được, trong trường hợp này dấu hiệu tiền tệ hầu như không còn ý nghĩa nữa.ất
a). Nguyên nhân thứ nhất :
- Lạm phát bởi tăng cầu, khi cầu không kèm theo sự gia tăng sản xuất, hàng hoá, dịch vụ. Vậy tạo tiền thái quá của lượng tiền tệ diễn ra trong bối cảnh này.
b). Nguyên nhân thứ hai :
- Lạm phát do tăng chi phí sản xuất, khi việc tăng chi phí sản xuất làm tăng giá sản xuất. Có thể do nhiều nguyên nhân :
+ Tăng những phương tiện đặc thù riêng của sản xuất.
+ Tăng chi phí phân xưởng.
2. Thực tiễn trong mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế :
a).Các bằng chứng thực nghiệm:
Nghiên cứu gần đây nhất là của M.Khan và A.Senchadji (năm 2000). Các tác giả đã sử dụng các kỹ thuật phân tích hiện đại nhất để kiểm định mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng. Công trình của các ông bao quát số liệu của 140 nước trong đó có cả các nước phát triển và các nước đã công nghiệp hoá trong giaiđoạn 1960-1998. Một lần nữa kết quả cho thấy có tồn tại một mức ngưỡng mà dưới đó lạm phát và tăng trưởng có mối tương quan dương và trên đó lạm phát gây ra ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng. Một phát kiến rất có ý nghĩa của các tác giả là mức ngưỡng đó khác nhau giữa các khối nước ở các nước công nghiệp, mức ngưỡng này rất thấp chỉ vào khoảng 1-3% năm, trong khi đó ở các nước đang phát triển mức ngưỡng này vào khoảng 7-11%.
Bằng chứng thực nghiệm ở Việt Nam dường như cũng phù hợp với kết quả ở trên. Bảng dưới đây cho thấy mối quan hệ phi tuyến giữa lạm phát và tăng trưởng trong 14 năm đổi mới. Vào những năm 80, lạm phát đã khiến nền kinh tế lâm vào khủng hoảng. Song từ năm 1992 khi chúng ta đã kiềm chế được lạm phát, tốc độ tăng trưởng kinh tế không ngừng được cải thiện. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 1992-1997 là 8,8%, trong khi tỷ lệ lạm phát bình quân là 9,7%. Nhưng từ năm 1997 trở lại đây lạm phát ở mức rất thấp và GDP cũng tăng chậm. NĂm 1998-1999 tốc độ giảm xuống dưới 6%_một hiện tượng đáng lo ngại với một nền kinh tế như nước ta có tốc độ tăng dân số 2% năm, tỷ lệ tăng năng suất lao động khoảng 5-7% năm và tỷ lệ thất nghiệp 7%.
Tóm lại, cả lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế có thể biểu diễn bằng hình chữ “U” ngược. Điều đó hàmý rằng ở mỗi nước tồn tại một phạm vi lạm phát “an toàn” khi mà lạm phát và tăng trưởng có mối quan hệ cùng chiều. Trong trường hợp đó, lạm phát là cái giá phải trả cho tăng trưởng kinh tế. Nới lỏng tài khoá và tiền tệ, một mặt, có xu hướng làm tăng lạm phát, mặt khác, sẽ có tác dụng khuyến khích đầu tư, mở rộng tổng cầu và do vậy cho phép sử dụng đầy đủ hơn các nguồn lực hiện có và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, lạm phát quá cao chắc chắn sẽ ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng kinh tế. Trong cả hai trường hợp_lạm phát quá cao hoặc quá thấp_chính phủ đều cần có các biện pháp điều chỉnh sao cho có lợi cho tăng trưởng kinh tế dài hạn trong khi vẫn đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô.
Trên cơ sở khuôn khổ lý thuyết, kinh nghiệm quốc tế diễn biến lạm phát và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam những năm qua, nhiều học giả cho rằng mức lạm tối ưu đối với Việt nam có thể nằm trong khoảng 5-7% năm.
b). Thực tiễn của vấn đề :
- Trong mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế, câu hỏi đặt ra là nước có lạm phát cao tăng trưởng nhanh hơn hay chậm hơn nước có lạm phát thấp ? Thực tế đã đưa ra lời giải không cùng một đáp số. Trong thời kỳ 1971-1991, Thuỵ Sĩ tăng trưởng bình quân 1.1% năm, mặc dù đây là nước có mức lạm phát thấp thứ hai trong số 20 nước được nghiên cứu. Trong khi đó Italy, Tây Ban Nha, Iceland lại đạt được sự tăng trưởng cao dù mức lạm phát hơn 10%.
- Về mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp, lý thuyết của J.M.Keynes với luận điểm lấy lạm phát và bội chi ngân sách để xoá khủng hoảng và thất nghiệp đã được nhiều nước tư bản ứng dụng thành công sau thập kỉ 1933. Nhưng tiếp đó, từ những năm 1960, lạm phát tràn lan mà vẫn không loại trừ được thất nghiệp. Trong khi đó thời kỳ1974-1991, các nước lạm phát thấp cũng có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất.
- Trong mối quan hệ gia tăng lượng tiền trong lưu thông với mức độ lạm phát
thực tế cũng không diễn ra hoàn toàn trùng hợp với lý thuyết. Năm 1990, chúng ta tăng khối lượng tiền giấy trong lưu thông thêm 73%, tỷ lệ lạm phát lên 67%. Nhưng năm 1991, tiền giấy lưu thông chỉ tăng 41%, tỷ lệ lạm phát lại lên tới 64%; Trong khi đó hai năm 1992 và 1993 tiền phát hành thêm tới 70-80% nhưng tỷ lệ lạm phát lại được kéo xuống 17,6% (1992) và 5,2% (1993).
ở nước ta, quá trình kéo lạm phát xuống và kiềm chế lạm phát ở mức thấp cũng được ghi nhận là thành tựu nổi bật trong công cuộc đổi mới.
Bảng trên chothấy sau nhiều năm liền lạm phát ở mức 3 con số/năm, năm 1989 lần đầu tiên ta đã kéo lạm phát xuống hai con số. Đặc biệt năm 1993, lạm phát từ 17,6% (1992) xuống 5,2%, nhưng GDP vẫn đạt mức tăng cao 7,2%.
Tuy vậy chúng ta vẫn chưa đưa được lạm phát xuống mức mong muốn và đặc biệt là những khó khăn trong tương lai. Do chỗ mức lạm phát không được dự báo chính xác trong nhiều trường hợp đã hạn chế tính ham muốn chấp nhận rủi ro của các nhà đầu tư. Đồng thời gây khó khăn cho việc thực hiện các hợp đồng kinh tế, hoạch định chính sách tiền lương, lãi suất và thuế. Vì vậy, cùngvới việc kéo lạm phát xuống 1 con số còn nổi lên một vấn đề rất trọng yếu là phải giữ được mức lạm phát đó ổn định. Để thực hiện công việc trên nhiều công trình nghiên cứu đã đề cập đến yêu cầu xây dựng hệ thống chính sách tiền tệ, tài chính hiệu quả; tỷ giá hối đoái linh hoạt; dữ trữ quốc gia đủ mạnh và can thiệp vào nền kinh tế đúng lúc...
Xin nhấn mạnh thêm một số điểm như sau :
+ Thứ nhất : Đẩy mạnh hơn nữa quá trình chuyển đổi nền kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế. Trên cơ sở đó có thể tận dụng tối đa ưu thế của thị trường và khai thác tối ưu tiềm năng của nền sản xuất xã hội. Nhờ vậy màtăng nhanh số lượng chủng loại vàchất lượng hàng hoá cung ứng ra thị trường.
+ Thứ hai : ổn định giá cả những mặt hàng thiết yếu và những mặt hàng mà nhà nước độc quyền sản xuất kinh doanh.
+ Thứ ba : Thước đo thông thường nhất của lạm phát là CPI, nhưng việc đo lường CPI không phải luôn chính xác. Vì nó vừa không thể hiện được đầy đủ những biến đổi chất lượng hàng hoá và do nhưng sai sót về mặt kỹ thuất tính toán.
+ Thứ tư : Cần nhận thức rằng chống và kiềm giữ lạm phát không phải là mục đích của điều tiết kinh tế vĩ mô, mà chỉ là công cụ, phương tiện, cách thức để tạo môi trường và kích thích tăng trưởng kinh tế. Nghĩa là toàn bộ công cụ, cách thức vĩ mô đều phải hướng tới một mục đích duy nhất là thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và bền vững Tóm lại, chống và kiềm giữ lạm phát đòi hỏi phải vừa sử dụng kết hợp nhiều công cụ, biện pháp đồng bộ; vừa phải nghiên cứu lý thuyết không ngừng và kiểm nghiệm thường xuyên mọi lý thuyết trong thực tiễn.
C _ Các giải pháp khắc phục lạm phát
1. Những biện pháp tình thế
Những biện pháp này được áp dụng với mục tiêu giạm tức thời “cơn sốt lạm phát “ trên cơ sở đó sẽ áp dụng các biện pháp ổn định tiền tệ lâu dài . Các biện pháp này thường được áp dụng khi nền kinh tế lâm vào tình trạng siêu lạm phát .
Thứ nhất :các biện pháp tình thế thường được chính phủ các nước áp dụng , trước hết là giảm lượng tiền giấy trong nền kinh tế như ngừng phát hành tiền vào lưu thông . Biện pháp này còn gọi là chính sách đóng băng tiền tệ . Tỷ lệ lạm phát tăng cao ngay lập tức ngân hàng trung ương phải dừng các biện pháp có thể đưa đến tăng cung ứng tiền tệ như ngừng thực hiện các nghiệp vụ triết khấu và tái triết khấu đối với các tổ chức tín dụng , dừng việc mua vào các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ , không phát hành tiền bù đắp bội chi ngân sách. Nhà nước áp dụng các biện pháp làm giảm lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế như: ngân hàng trung ương bán ra các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ , bán ngoại tệ vàvay , phát hành các công cụ nợ của chính phủ để vay tiền trong nền kinh tế bù đắp cho bội chi ngân sách nhà nước , tăng lãi suất tiền gửi đặc biệt là tăng lãi suất tiền gửi tiét kiệm dân cư . các biện pháp này rất có hiệu lực vì trong một thời gian ngắn nó có thể giảm bớt được một khối lươngj khá lớn tiền nhàn rỗi trong dân cư do đó giảm được sức ép lên giá cả hàng hoá vầ dịch vụ trên thị trường . ở việt nam các biện pháp này đã dược áp dụng thành công vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 .
Thứ hai :thi hành chính sách tài chính thắt chặt như tạm hoãn những khoản chi chưa cần thiết trong nền kinh tế , cân đối lại ngân sách và cắt giảm chi tiêu đến mức có thể được .
Thứ ba : tăng quỹ hàng hoá tiêu dùng để cân đối với số lượng tiền có trong lưu thông bằng cách khuyến khichs tự do mậu dịch , giảm nhẹ thuế quan và các biện pháp cần thiết khác để thu hút hàng hoá từ ngoài vào.
Thứ tư : đi vay và xin viện trợ từ nước ngoài .
Thứ năm : cải cách tiền tệ , đây là biện pháp cuối cùng khi các biện pháp trên chưa đem lại hiệu quả mong muốn .
2. Những biện pháp chiến lược
Đây là những biện pháp có tác động lâu dài đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân . Tổng hợp các biện pháp này sẽ tạo ra sức mạnh kinh tế lâu dài cho đất nước
Thứ nhất : thúc đẩy sự phát triển sản xuất hàng hoá và mở rộng lưu thông hàng hoá. Đây là biện pháp chiến lược hàng đầu để hạn chế lạm phát , duy trì sự ổn định tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân . Sản xuất trong nước càng phát triển thì càng tạo tiền đề vững chắc cho sự ổn định tiền tệ . Chú trọng thu hút ngoại tệ qua việc xuất khẩu hàng hoá , phát triển ngành du lịch …
Thứ hai : kiện toàn bộ máy hành chính , cắt giảm biên chế quản lý hành chính . Thực hiện tốt biện pháp này sẽ góp phần to lớn vào việc giảm chi tiêu thường xuyên của ngân sách do đó giảm bội chi ngân sách nhà nước .
Thứ ba : tăng cường công tác quản lý điều hành ngân sách nhà nước trên cơ sở tăng các khoản thu cho ngân sách một các hợp lý , chống thất thu , đặc biệt là thất thu về thuế , nâng cao hiệu quả của các khoản chi ngân sách nhà nước .
3. Một số biện pháp chủ yếu để kiềm chế lạm phát ở nước ta hiện nay
Tình hình kinh tế tài chính của nước ta trong những năm vừa qua đạt được sự ổn định và có chiều hướng tốt, nạn lạm phát đã được kiềm chế và đẩy lùi từ 67.5% năm 1991 xuống còn 17,5% năm 1992, 5,2% (1993), 14.2% (1994), trong khi đó vẫn đảm bảo mức tăng trưởng kinh tế 8,6% (!992), 8,1% (1993), 8,7% (1994). Tỷ giá VNĐ so với đôla Mỹ từ cuối năm 1991 là 14,194 VNĐ đã lên giá dần và giữ ở mức trên dưới 10.800 VNĐ/USD từ tháng 11.1992 cho đến nay. Đồng thời cán cân thanh toán được cải thiện rõ rệt. Mặt khác xuất nhập khẩu có xu hướng tăng lên.
Để khắc phục và kiềm chế lạm phát trong giai đoạn hiện nay cần phải thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ như sau :
Trước hết phải khống chế tỷ lệ bội chi ngân sách ở dưới mức 5% GDP. Bởi và bội chi ngân sách là một nhân tố quan trọng gâỵ ra sự mất cân đối giữa cung và cầu.
- Phải nâng cao sản lượng hàng hoá trên cơ sở đẩy mạnh phát triển sản xuất công, nông nghiệp, cụ thể là tạo ra nhiều lương thực, thực phẩm, một số hàng hoá là tư liệu sản xuất và các loại hàng hoá là nhiên liệu, năng lượng. Mặt khác cần tiếp tục đổi mới cơ cấu kinh tế và cải tiến công nghệ, cải tiến kỹ thuật đảm bảo từng bước giảm chi phí sản xuất.
Về lĩnh vực ngân hàng với trách nhiệm là một ngành đóng vai trò quan trọng nhất trong việc kiềm chế lạm phát, cần tiến hành các bước sau :
+ Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng trên cơ sở tích cực huy động vốn và cho vay hiệu quả các dự án
+ Kiểm soát chặt chẽ cung ứng tiền tệ của ngân hàng nhà nước cho mục tiêu ngoại tệ, ổn định thị trường ngoại tệ và tỷ giá đồng Việt Nam.
+ Nâng cao hiệu quả sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc.
+ Tăng cường hiệu lực của công tác thanh tra đối với ngân hàng thương mại.
+ Xử lý tôt mối quan hệ với ngân sách nhà nước, phát triển thị trường vốn, đồng thời xúc tiến nhanh việc thiết lập thị trường chứng khoán ở Việt Nam và sự hoà nhập của thị trường này vào cộng đồng kinh tế quốc tế, nhất là từ khi Việt Nam trở thành thành viên thứ 7 của khối ASEAN để thuhútnhanh chóng hơn nữa nguồn vốn nước ngoài góp phần phát triển kinh tế đất nước.
Ngoài ra cần tổ chức quản lý nợ nước ngoài có kế hoạch và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn vào Việt Nam dưới nhiều hình thức khác nhau như vay vốn của IMF, WB, ADB,..
Tóm lạ, trong tình hình hiện nay cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp trong việc thực hiện có hiệu quả về chính sách kinh tế vi mô và vĩ mô của nhà nước (giải quyết tốt vấn đề thâm hụt ngân sách, chấn chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu, điều hành tốt giá cả và lưu thông hàng hoá,..) để đảm bảo vừa tăng trưởng kinh tế vừa kiềm chế lạm phát ở mức tốt nhất.
III__ Kết luận
Lạm phát và tăng trường kinh tế là hai vấn đề có quan hệ rất chặt chẽ, phức tạp. Lạm phát có thể là động lực thúc đẩy kinh tế ngược lại cũng có thể là tác nhân kìm hãm sự phát triển kinh tế thậm chí . Vì vậy cần chú trọng sự cân đối, mối quan hệ hài hoà giữa hai vấn đề này ,chỉ có vậy mới đảm bảo sự phát triển bền vững của Viêt Nam trong giai đoạn đổi mới hiện nay. Trong những năm vừa qua Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định về kinh tế đó cũng là nhờ một phần đóng góp của các chính sách điều chỉnh tỉ lệ lạm phát hợp lí. Tuy nhiên những bất ổn sự mất cân đối giữa lạm phát trong một số thời gian là dấu hiệu để chúng ta cần điều chỉnh và đưa ra những chính sách có hiệu quả. Hiểu rõ và giải quyết được tốt vấn đề này sẽ góp phần không nhỏ cho công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế ở nước ta.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình kinh tế chính trị
2.Tạp chí thông tin kinh tế
3. Tạp chí Thông tin tài chính
4. Tạp chí Phát triển kinh tế
Phụ lục
Trang
I: Lời nói đầu 1
II: PHầN NộI DUNG 2
a. Lý LUậN CHUNG Về LạM PHáT 2
1. Khái niệm
2. Khái niệm lạm phát trong điều kiện hiện đại
3. Các Loại hình của lạm phát
4. Những hậu quả của lạm phát
B. THựC TRạNG LạM PHáT ở VIệT NAM 8
C. NHữNG GIảI PHáT KHắC PHụC LạM PHáT 11
III. Kết luận 14
Tài liệu tham khảo 15
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 27044.doc