Kinh tế Việt Nam giai đoạn 1986- 2001 đã trải qua sự biến động sâu sẵc: từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa; từ tăng trưởng thấp cuối những năm 90, từ khủng hoảng rối loạn chuyển sang ổn định và phát triển. Trong thời gian đó nền kinh tế Việt Nam đã trải qua hai lần biến động giá: trong các năm 1986- 1991 đã xảy ra lạm phát và trong các năm từ 1997- 2001 đã xảy ra tình trạng giảm phát mạnh ở một số nhóm mặt hàng. Giữa hai lần lạm phát
đó là thời kỳ lạm phát được kiềm chế, nền kinh tế tăng trưởng với tỉ lệ khá cao.
Lạm phát là chỉ số tổng hợp phản ánh các biến động quan trọng trong nền kinh tế: tiêu dùng, đầu tư, cung cầu hàng hoá; biểu hiện tác động của các chính sách tài chính, tiền tệ. Mức độ cao hay thấp của lạm phát đều biểu thị khía cạnh đó của tình trạng kinh tế. Vì vậy việc nhìn nhận rõ nguyên nhân, bản chất của thực trạng nền kinh tế chính là cơ sở để đưa ra những biện pháp hữu hiệu để phòng chống. Có như vậy nền kinh tế mới phát triển ổn định và bền vững.
Ở nước ta trong những năm gần đây đã xuất hiện hiện tượng giảm sút của giá cả, sự giảm sút giá này nếu hợp lý thì sẽ tạo ra những mặt tích cực của nó. Tuy nhiên thực tiễn cho thấy sự giảm giá vừa qua và hiện nay là không hợp lý bởi vì nó gây khó khăn cho nhiều lĩnh vực sản xuất. Hiện tượng này cũng nguy hiểm không kém gì hiện tượng lạm phát. Nếu không kịp thời ngăn chặn thì nền kinh tế khó đạt được mục tiêu đề ra. Có rất nhiều biện pháp để khắc phục hiện tượng này, mỗi biện pháp đều có mặt phải và mặt trái của nó, biện pháp nào cũng rất quan trọng cho nên nếu biết kết hợp một cách hợp lý các biện pháp đó thì sẽ có tác dụng rất lớn. Khi đó quá trình khắc phục hiện tượng giảm sút của giá cả mới thực sự thành công. Có như vậy nền kinh tế của chúng ta mới tăng trưởng và phát triển, mới đạt được những mục tiêu đã đề ra.
25 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1553 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lạm phát - Nhìn nhận lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
4
II. Các loại lạm phát 5
1. Lạm phát vừa phải 5
2. Lạm phát phi mã 5
3. Siêu lạm phát 6
III. Nguyên nhân dẫn đến lạm phát 6
1. Lạm phát từ phía cầu 6
2. Lạm phát từ phía cung 6
IV. Hậu quả của lạm phát 7
V. Một số biện pháp chống lạm phát 8
Phần II: Nhìn nhận lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 9
I. Bản chất của thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay 9
1. Phải chăng nền kinh tế nước ta đang giải phát 9
2.Chỉ số giá tiêu dùng - phương tiện đánh giá lạm phát ở Việt Nam 11
II. ảnh hưởng của giá cả giảm và phương án khắc phục 13
1. ảnh hưởng của giá cả giảm 13
2. Nguyên nhân của giá cả giảm 14
3. Một số phương án khắc phục 16
Kết luận 23
Tài liệu tham khảo 24
Lời nói đầu
Như chúng ta đã biết: kinh tế tăng trưởng cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có số dư là bốn mục tiêu kinh tế của mọi quốc gia. Bốn mục tiêu trên đều là những mục tiêu cơ bản và có quan hệ chặt chẽ với nhau giống như bốn đỉnh của một tứ giác: tứ giác kinh tế.
Trong bốn mục tiêu đó thì kinh tế tăng trưởng cao, lạm phát thấp là những mục tiêu hàng đầu của điều tiết vĩ mô ở tất cả các nước. Đối với nước ta thì tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao là quan trọng nhất, bởi vì nhiều số liệu cho thấy do xuất phát điểm của nước ta thấp lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh quyết liệt, do đó nước ta vẫn là nước có nền kinh tế kém phát triển, GDP đầu người mặc dù đã tăng nhưng vẫn còn là một trong vài chục nước có GDP đầu người thấp nhất thế giới. Vì vậy, để rút ngắn khoảng cách thì nền kinh tế nước ta phải tăng trưởng cao, nếu không có một tốc độ tăng trưởng kinh tế cao thì không những nước ta không rút ngắn được khoảng cách mà còn đứng trước một nguy cơ lớn nhất trong bốn nguy cơ là tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nuớc trong khu vực và trên thế giới. Hơn nữa, khi đã tụt hậu xa hơn về kinh tế thì các nguy cơ chệch hướng, diễn biến hoà bình và tệ quan liêu tham nhũng cũng sẽ lớn lên theo vì bốn nguy cơ có tác động quan hệ chặt chẽ và có tác động chi phối lẫn nhau, mặt khác, tăng trưởng kinh tế cao tạo tiền đề cho sự cân bằng cung cầu và do đó có điều kiện để kiềm chế lạm phát, tăng trưởng kinh tế cao sẽ làm cho tích luỹ từ nội bộ kinh tế nâng cao, mức sống góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp, đồng thời tăng trưởng kinh tế cao cũng sẽ góp phần đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, nhu cầu tích luỹ đầu tư, giảm bớt nhập siêu, tiến tới cân bằng cán cân thanh toán. Nếu như nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao là mục tiêu quan trọng nhất thì lạm phát thấp lại là mục tiêu quan trọng thứ hai lạm phát không những tác động trực tiếp đến tiêu dùng và đời sống của người tiêu dùng mà còn tác động lớn đến người sản xuất, kinh doanh, đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Phần lớn các nhà kinh tế đều cho rằng ổn định lạm phát ở mức thấp nhất là môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi để khuyến khích tiết kiệm, mở rộng đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nếu quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp, quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với cán cân thanh toán là quan hệ thuận chiều, thì quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát là quan hệ khó nhận biết, lúc thuận, lúc nghịch. Trong một thời gian dài việc kiềm chế lạm phát được coi là một trong những ưu tiên hàng đầu trong chính sách của Chính phủ. Việt Nam đã thành công trong việc kiểm soát lạm phát ở mức thấp và duy trì tốc độ tăng trưởng cao, tuy nhiên từ năm 1999 trở đi chúng ta lại phải đối phó với một thách thức mới: lạm phát ở mức rất thấp điều này đã làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm sút. Như vậy, cả lạm phát quá cao và quá thấp đều ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế, tuy nhiên nếu ta kiểm soát được lạm phát thì nó lại có tác dụng tích cực, thúc đẩy nền kinh tế là một điều hết sức quan trọng đối với mọi quốc gia muốn làm được điều này chúng ta phải hiểu rõ: lạm phát là gì? Nó để lại những hậu quả gì? Nguyên nhân nào dẫn đến lạm phát? Thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay ra sao?...và đây cũng chính là nội dung của đề án này. Do trình độ và thời gian có hạn cho nên bài viết này khó tránh khỏi những thiếu sót. Vậy kính mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy giáo, cô giáo để những bài viết sau của em đạt được kết quả tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn cô Lã Thị Lâm đã hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành đề án này.
phần I. tìm hiểu vài nét về lạm phát.
I. Khái niệm lạm phát.
Lạm phát là vấn đề không còn xa lạ đối với một nền kinh tế. Lạm phát được ví như là căn bệnh kinh niên mà hầu hết các nền kinh tế đều gặp phải nhưng để đưa ra một khái niệm về lạm phát là một điều rất khó bởi vì khi trả lời câu hỏi lạm phát là gì? thì đã có rất nhiều quan điểm khác nhau:
Theo Samoelson: “ Lạm phát là sự tăng lên của mức giá chung”.
Theo FriedMan: “ Lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là một hiện tượng tiền tệ.”
Theo Mác: “Lạm phát là sự tràn đầy các kênh, luồng lưu thông những tờ giấy bạc thừa”.
Theo Keynes: “ Chỉ khi nào có toàn dụng, sử dụng hết nhân công và năng lực sản xuất, mới tạo nên cầu dư thừa và giá cả hàng hóa tăng lên từ cầu cá biệt làm thay đổi cầu tổng quát và mức giá chung từ đó gây ra lạm phát.”
Trên đây chỉ là một số quan điểm trong rất nhiều những quan điểm về lạm phát. Như vậy, khi tìm hiểu về khái niệm lạm phát chúng ta có thể chia ra thành hai trường phái đó là: trường phái những người phản đối thuyết “ số lượng tiền tệ” và trường phái những người ủng hộ hệ thuyết “ số lượng tiền tệ”.
Theo trường phái những người phản đối thuyết “số lượng tiền tệ” cho rằng lạm phát là bởi khối lượng tiền giấy ứ đầy kênh, qúa nhiều so với nhu cầu của lưu chuyển hàng hoá; tiền giấy mất giá so với hàng hoá tiền tệ.(vàng), kết quả là nâng cao giá cả hàng hoá. Trong thời gian lạm phát, giá cả hàng hoá tăng lên nhanh chóng so với mức tăng tiền lương danh nghĩa, vì vậy vừa dẫn đến hạ thấp thu nhập , thực tế của người lao động, vừa làm sâu sắc thêm sự phát triển không đều và không cân đối của các ngành trong nền kinh tế quốc dân. Quan điểm này nghiên cứu lạm phát dựa trên ba vấn đề cơ bản:
Thứ nhất: phân tích mối quan hệ tỉ lệ về số lượng và giá trị giữa tiền giấy với tiền vàng lưu thông trong nền kinh tế quốc dân.
Thứ hai: trong mối quan hệ giữa khối lượng tiền cần thiết trong lưu thông với tổng giá cả hàng hoá lưu thông thì điểm xuất phát là tổng giá cả hàng hoá. Nghĩa là giá cả hàng hoá quyết định khối lượng tiền cần thiết trong lưu thông chứ không phải là ngược lại.
Thứ ba: yêu cầu của quy luật lưu thông là khối lượng tiền thực tế lưu thông phải cân bằng với lượng tiền cần thiết cho lưu thông. Nếu khối lượng tiền thực tế lưu thông lớn hơn khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông thì sẽ xuất hiện lạm phát.
Theo trường phái những người ủng hộ thuyết “ số lượng tiền tệ” thì cho rằng việc tăng giá cả hàng hoá nói chung trong một nền kinh tế mà nó phải chịu đựng qua một khoảng thời gian. Hoặc lạm phát là hiện tượng mức giá nói chung tăng lên do nhu cầu vượt quá khả năng cung ứng dẫn đến việc gia tăng lượng tiền cung ứng.
Quan điểm này nghiên cứu lạm phát dựa trên cơ sở cho rằng:
Thứ nhất: tiền quy ước có giá trị cao hơn với tư cách là phương tiện trao đổi so với bất kỳ cách sử dụng nào khác. Bởi vì giá trị của tiền vượt xa chi phí sản xuất ra nó và giá trị của tiền được đánh giá theo sức mua của nó.
Thứ hai: tiền không có giá trị bên trong (thực thể), chỉ có giá trị trong lĩnh vực lưu thông và lượng giá trị phụ thuộc vào số lượng tiền tệ trong lưu thông theo quan hệ tỉ lệ nghịch. Nghĩa là số lượng tiền trong lưu thông càng lớn thì giá trị một đơn vị tiền tệ càng nhỏ và làm cho giá cả tăng lên.
Thứ ba: trong mối quan hệ giữa số lượng tiền cần thiết trong lưu thông với giá cả hàng hoá và dịch vụ lưu thông thì giá cả hàng hoá dịch vụ phụ thuộc vào số lượng tiền. Do vậy, khi số lượng tiền trong lưu thông tăng lên sẽ làm cho giá cả chung tăng lên.
Những điều kiện trên cho thấy các trường phái kinh tế khác nhau đều thống nhất ở điểm cho rằng: mức giá chung của hàng hoá và dịch vụ tăng lên là biểu hiện của lạm phát. Tuy vậy, họ lại có quan điểm khác nhau căn bản về vấn đề này, đó là:
Sự phân biệt về mức giá tăng lên do lạm phát và không phải do lạm phát gây ra. Cơ sở nghiên cứu lạm phát cũng được giải thích không giống nhau.
II. Các loại lạm phát
Lạm phát vừa phải.
Lạm phát vừa phải còn gọi là lạm phát một con số, có tỉ lệ lạm phát dưới 10% một năm. Lạm phát ở mức độ này không gây ra những tác động nguy hiểm đối với nền kinh tế mà trái lại nó còn có tác dụng kích thích sản xuất thúc đẩy các hoạt động đầu tư.
Lạm phát phi mã.
Lạm phát phi mã hay còn gọi là lạm phát bột phát là lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 hoặc 3 con số trong một năm. Loại lạm phát này khi đã trở nên vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng.
Siêu lạm phát.
Siêu lạm phát xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao vượt xa lạm phát phi mã. Chẳng hạn, như tại Việt Nam năm 1988 tỉ lệ lạm phát ở nước ta là 308% đứng thứ 3 sau Brazil (934%) và Peru (1.722%). Trong tình trạng đó, cuộc sống nói chung trở nên đắt đỏ hơn, thu nhập thực tế giảm sút mạnh mẽ, “thuế lạm phát” là một sắc thuế vô hình, thuế phi chính thức đánh vào những ai đang cầm giữ tiền. Đặc biệt là tình trạng trật tự kinh tế bị rối loạn, không ai dám tính toán đầu tư lâu dài, những hoạt động kinh tế ngắn hạn từng thương vụ, từng đợt, từng chuyến diễn ra phổ biến.
III. nguyên nhân dẫn đến lạm phát.
Lạm phát từ phía cầu (lạm phát do cầu kéo).
Lạm phát do cầu kéo xảy ra khi tổng cầu tăng lên mạnh mẽ tại mức sản lượng đã đạt hoặc vượt quá tiềm năng. Trong thực tế, khi xảy ra lạm phát cầu kéo người ta thường nhận thấy lượng tiền trong lưu thông và khối lượng tín dụng tăng đáng kể và vượt quá khả năng có giới hạn của mức cung hàng hoá. Như vậy bản chất của lạm phát cầu kéo là chi tiêu quá nhiều tiền để mua một lượng cung hạn chế về hàng hoá có thể sản xuất được trong điều kiện thị trường lao động đã đạt cân bằng.
Lạm phát từ phía cung (lạm phát do chi phí đẩy).
Ngay cả khi sản lượng chưa đạt tiềm năng nhưng vẫn có khả năng và trên thực tế đã xảy ra lạm phát ở nhiều nước, cả ở những nước phát triển cao. Đó là một đặc điểm của lạm phát hiện đại. Kiểu lạm phát này gọi là lạm phát chi phí đẩy, vừa lạm phát vừa suy giảm sản lượng, tăng thêm thất nghiệp nên cũng còn gọi là “lạm phát đình trệ”.
Các cơn sốc giá cả của thị trường đầu vào, đặc biệt là các vật tư cơ bản (xăng, dầu, điện...) là nguyên nhân chủ yếu đẩy chi phí lên cao, đường AS dịch chuyển lên trên. Tuy tổng cầu không thay đổi nhưng giá cả đã tăng lên và sản lượng lại giảm xuống.
Giá cả sản phẩm trung gian (vật tư) tăng đột biến thường do các nguyên nhân sau: thiên tai, chiến tranh, sự biến động chính trị, kinh tế... đã gây ra các cuộc lạm phát đình trệ trầm trọng trên quy mô thế giới.
Lạm phát do tiền tệ.
Do Nhà nước phát hành quá nhiều tiền vào lưu thông để bù đắp thâm hụt ngân sách, làm cho lượng cung tiền tệ tăng lên. Khi đó dân chúng nắm giữ nhiều tiền thì họ sẵn sàng trả mức giá cao hơn cho cùng một đơn vị hàng hoá làm cho giá cả tăng lên dẫn đến lạm phát.
IV. Hậu quả của lạm phát.
Phân phối lại thu nhập và của cải một cách ngẫu nhiên giữa các cá nhân,tập đoàn và các giai tầng trong xã hội, đặc biệt với những người có mức thu nhập cố định như công nhân viên chức, cán bộ hưu trí...Có thể nói lạm phát là một thứ thuế vô hình đánh vào thu nhập ổn định của họ.
Trong khi đó, giới doanh nghiệp dù là nhà sản xuất hay doanh nhân đều có cơ hội kiếm được nhiều lợi nhuận nhờ sự gia tăng giá cả mạnh đối với các mặt hàng tồn kho.
Giá cả tăng đời sống kinh tế trở nên khó khăn hơn. Do số lượng tiền tệ gia tăng qúa nhiều trong khi khối lượng hàng hoá sản xuất ra không tăng kịp hoặc thậm chí giảm sút khiến sức mua đồng tiền giảm sút nghiêm trọng và giá cả gia tăng cao làm cho đời sồng người dân ngày càng khó khăn hơn. Vì giá cả gia tăng quá cao nên cần phải có một khối lượng tiền thật lớn mới mua được một món hàng có giá trị không cao lắm. Ví dụ như trong cuộc siêu lạm phát xảy ra ở Đức sau thế chiến I, với tỉ lệ lạm phát đôi khi vượt 1000% một tháng. Cuối kỳ siêu lạm phát vào năm 1923 mức giá đã tăng lên30 tỉ lần mức đúng 2 năm trước đó. Số lượng tiền cần thiết để mua dù một món đồ tầm thường nhất cũng tốn rất nhiều: có một câu chuyện xảy ra vào gần cuối một cuộc lạm phát là một xe cút kít tiền mặt chỉ đủ mua một ổ bánh mỳ.
Do giá cả tăng nhanh nên tình trạng đầu cơ tích trữ lan tràn. Hàng hoá khan hiếm khiến người mua phải chấp nhận mua bằng mọi giá. Trái với trật tự bình thường “trên thị trường khách hàng là Thượng đế”, trong tình trạng lạm phát thì “nhà sản xuất trở thành vua trên thị trường”. Do giá cả luôn thay đổi vừa bất trắc, vừa bất ổn nên không ai nghĩ đến chuyện đầu tư lâu dài, phần lớn các nhà hoạt động kinh tế chỉ tập trung vào mục tiêu có tính từng đợt, từng thương vụ thu hồi vốn nhanh. Như vậy lạm phát đã gây ảnh hưởng đến trật tự kinh tế.
Lạm phát gây ra những biến dạng về cơ cấu sản xuất và việc làm trong nền kinh tế. Có những doanh nghiệp, ngành nghề có thể phất lên và trái lại cũng có những doanh nghiệp và ngành nghề suy sụp, thậm chí phải chuyển hướng sản xuất kinh doanh.
Lạm phát đã gây ra những khó khăn về tài chính. Khi xảy ra lạm phát thì những món nợ phát sinh trước kỳ lạm phát đã trở nên thuận lợi cho con nợ và bất lợi cho chủ nợ. Hoạt động tín dụng rất khó khăn vì không ai muốn bỏ tiền ra cho vay sau đó thu về một mớ đồng tiền mất giá.
Do đồng tiền mất giá nên không thể thực hiện tốt chức năng đo lường giá trị khiến cho dân chúng có khuynh hướng dùng công cụ khác để đo lường trong trao đổi, tính toán và định giá trị hàng hoá.
V. một số biện pháp chống lạm phát.
- Thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt bằng cách nâng cao tỉ lệ dự trữ bắt buộc tăng lãi suất tái chiết suất, hạn chế tín dụng cung cấp cho các ngân hàng trung gian.
Huy động tiền gửi từ công chúng bằng cách nâng cao lãi suất tiết kiệm, phát hành trái khoán công trái.
Đưa dự trữ vàng và ngoại tệ ra bán để thu hút bớt tiền thừa trong lưu thông.
- Thực hiện chính sách tài khoá thắt chặt, đó là: Hạn chế chi tiêu ngân sách Nhà nước, kiểm soát và chống thất thoát trong chi tiêu ngân sách, chống tham nhũng.
Tăng thu ngân sách bằng cách chống thất thu thuế, vay nợ của dân chúng nhằm rút ngắn cách biệt giữa chi và thu dần dần tiến đến cân bằng thu chi ngân sách.
Cần kết hợp vừa nhập khẩu hàng hoá để sớm đưa vào thị trường các mặt hàng đang thiếu và lên giá, nhằm chặn đứng nhanh chóng và hữu hiệu cơn sốt giá cả vì khan hiếm hàng hoá, làm cho giá cả sớm đi vào ổn định, vừa phải chú ý đến việc gia tăng sản xuất trong nước nhằm gia tăng một cách vững chắc khối lượng hàng hoá, dịch vụ để tạo cơ sở vững chắc cho việc chống lạm phát.
phần hai- nhìn nhận lạm phát ở việt nam trong giai đoạn hiện nay.
I. Bản chất của thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay.
Phải chăng nền kinh tế nước ta đang giảm phát?
Hai mục tiêu có tầm quan trọng hàng đầu đó là tăng trưởng kinh tế cao và lạm phát thấp có mối quan hệ phi tuyến, ta có thể thấy mối quan hệ đó ở nước ta trong 15 năm đổi mới qua bảng sau:
Năm
1986
1987
1988
1989
1990
1991
1992
1993
GDP(%)
2.33
3.64
5.98
4.69
5.10
5.96
8.65
8.07
Tỉ lệ LP (%)
774.7
223.1
393.3
34.7
67.1
67.5
17.5
5.2
Năm
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
6 tháng đầu 2001
GDP(%)
8.84
9.54
9.34
8.8
5.8
4.8
6.7
7.2
Tỉ lệ LP (%)
14.4
12.7
4.5
5.6
9.2
0.1
-0.6
-0.72
Nhìn vào bảng trên ta thấy: vào cuối thập niên 80 nước ta phải đối đầu với nạn siêu lạm phát, đặc biệt là vào năm 1986 lạm phát ở nước ta lúc đó đạt mức kỉ lục 774.7%. Đứng trước nạn lạm phát đó vào cuối những năm 1980 cùng với những chủ trương cải cách kinh tế đồng thời sớm nhận thức được nguyên nhân dẫn đến lạm phát ở Việt Nam là do phát hành tiền quá nhiêù trong lưu thông nhằm giải quyết bội chi ngân sách Nhà nước, cho nên các giải pháp chống lạm phát, ổn định tiền tệ được chọn là nhằm thắt chặt tiền tệ, phấn đấu cân bằng ngân sách.
Thành tích đáng ghi nhận của công cuộc chống lạm phát ở nước ta được đánh dấu bằng thời điểm vào năm 1992 chúng ta đã chấm dứt việc phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách mà thay bằng tăng cường vay vốn trong và ngoài nước. Sau khi khắc phục được lạm phát nền kinh tế nước ta đã bắt đầu tăng trưởng và tăng trưởng với tốc độ cao. Như vậy, từ những số liệu trên ta cũng có thể nhận thấy rằng với một mức lạm phát vừa phải nó đã có tác dụng tích cực thúc đẩy nền kinh tế nước ta tăng trưởng. Nhưng khi đạt được tốc độ tăng trưởng kỷ lục 9.5% năm 1995, nền kinh tế nước ta lại có dấu hiệu đi xuống, chỉ số lạm phát liên tục giảm và chỉ số này giảm chỉ còn 0.1% năm 1999 và -0.6% năm 2000, làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm sút, nó chỉ đạt 4.8% năm 1999 và 6.7% năm 2000. Sang đến năm 2001 chỉ số lạm phát vẫn tiếp tục giảm mạnh: chỉ số lạm phát 6 tháng đầu năm 2001 so với tháng 12 năm 2000 là 99.28% (tức là giảm 0.72%). Đây là một hiện tượng chưa từng có ở nước ta từ trước đến giờ, chưa khi nào chỉ số lạm phát ở nước ta lại thấp như vậy trong thời gian gần đây. Vậy phải chăng nền kinh tế nước ta lâm vào tình trạng giảm phát? Nhưng không phải vậy, bởi vì hiện tượng giảm phát xảy ra khi hai đặc trưng cơ bản của nó cũng xảy ra, đó là:
Các mặt hàng giảm giá liên tục.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm.
* Xét ở đặc trưng thứ nhất: Mặc dù con số thống kê cho thấy năm 2000 và 6 tháng đầu năm 2001 chỉ số giá tiêu dùng CPI là -0.6% và -0.72%. Nhưng nguyên nhân chủ yếu làm cho CPI giảm là do chỉ số giá nhóm hàng lương thực và thực phẩm liên tục giảm, trong đó chỉ số giá nhóm hàng lương thực giảm mạnh nhất (giảm 5.7% trong 6 tháng đầu năm 2001) mà quyền số để tính CPI trong những năm này và cho đến 6 tháng đầu năm 2001 của nhóm hàng lương thực thực phẩm vẫn là 22.44%, như vậy nó chiếm một tỉ trọng lớn trong các hàng hoá tiêu dùng, do đó có thể khẳng định rằng chỉ số giá tiêu dùng giảm không đồng nghĩa với tất cả các mặt hàng đều giảm giá.
Giá lương thực giảm mạnh không những trực tiếp kếo CPI giảm xuống mà nó còn gián tiếp tác động làm cho sức mua và giá cả đối với hàng hoá dịch vụ khác giảm theo. Bởi vì nước ta là một nước nông nghiệp, gần 76% dân số của cả nước đều làm nghề nông, lương thực chính là sản phẩm hàng hoá chủ yếu, là nguồn thu nhập chính của nông dân. Việc giá nông sản giảm đã làm cho nông dân bị thiệt hại rất lớn, khoảng 2500 tỉ đồng trong năm 2000, còn 6 tháng đầu năm 2001, kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản đạt khoảng1.5 tỉ USD, chưa bằng một nửa so với kế hoạch 3.2 tỉ USD. Cả năm 2001 tính riêng mặt hàng gạo, sự thua thiệt của nông dân lên tới 8000 tỉ đồng, nếu tính tất cả hàng nông sản (cà phê, hạt điều, tiêu, chè...) con số này lên tới 15000 tỉ đồng. Do đó giá lương thực nói riêng và giá nông sản nói chung giảm đồng nghĩa với thu nhập của người nông dân giảm, làm cho sức mua của 3/4 dân số ở khu vực nông thôn giảm cho dù sản xuất nông nghiệp vẫn tăng trên 4%.
Đối lập với sự giảm giá ở nhóm mặt hàng lương thực- thực phẩm và một số nhóm mặt hàng khác thì giá nhiều mặt hàng công nghệ phẩm trong 6 tháng đầu năm 2001 đã tăng lên khá cao so với cùng kỳ năm 2000 như: giá nhóm dược phẩm y tế đã tăng 1.7%, nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 2.9%, thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 2.4%... điều này đã gây nên sự bất hợp lý trong quan hệ tỉ giá giữa lương thực- thực phẩm và dịch vụ.
* Xét ở đặc trưng thứ 2: năm 2000 tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 6.7% (kế hoạch tăng từ 5.5- 6%), trong 6 tháng đầu năm 2001 GDP cả nước tăng 7.2%.
Như vậy, xét toàn bộ 2 đặc trưng trên có thể kết luận rằng: Nền kinh tế nước ta không ở trong tình trạng giảm phát mà chỉ là hiện tượng giảm giá đối với một số nhóm mặt hàng nhất định.
2. Chỉ số giá tiêu dùng- phương tiện đánh giá lạm phát ở Việt Nam
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) hiện nay của Việt Nam được tính trên cơ sở chỉ số giá tiêu dùng của 61 tỉnh, thành phố trong cả nước. Chỉ số của từng tỉnh thành phố được tính theo công thức Laspayre với quyền số cố định là cơ cấu chi tiêu hộ gia đình tổng hợp từ kết quả điều tra hộ gia đình đa mục tiêu do tổng cục thống kê tiến hành năm 1995. Danh mục mặt hàng đại diện thu thập giá gồm 296 mặt hàng, được phân chia theo 10 nhóm tiêu dùng cấp I (trong mỗi nhóm đều bao gồm hàng hoá và dịch vụ cho từng loại nhu cầu tiêu dùng), 34 nhóm cấp II và 86 nhóm cấp III, trong mỗi nhóm đều bao gồm cả phần dịch vụ (xem bảng*).Ví dụ trong nhóm tiêu dùng cấp I: lương thực- thực phẩm có 4 nhóm tiêu dùng cấp II là nhóm lương thực, nhóm thực phẩm, nhóm chất đốt dùng cho nấu ăn và nhóm ăn uống ngoài gia đình. Từng nhóm tiêu dùng cấp II lại được chia thành nhiều nhóm tiêu dùng cấp III như nhóm lương thực được chia tiếp thành 3 nhóm: thóc gạo, lương thực khác và lương thực chế biến.
Khi tính chỉ số giá, giá tiêu dùng bình quân năm 1995 được dùng làm giá kỳ gốc cố định. Hàng tháng, tổng cục thống kê sẽ công bố chỉ số CPI với 4 gốc so sánh: kỳ gốc (năm 1995); tháng trước, tháng 12 năm trước. Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ được công bố riêng, không bao gồm trong chỉ số giá tiêu dùng.
Để tính CPI, hàng tháng các tỉnh tiến hành thu thập giá tiêu dùng trên địa bản tỉnh trong 3 ngày (25 tháng trước, ngày 5 và 15 tháng báo cáo). Về nguyên tắc giá tiêu dùng được thu thập từ các chợ đại diện là những chợ bán lẻ có khối lượng hàng hoá lớn, phong phú có đầy đủ các mặt hàng lưu thông trong phạm vi khu vực mà chợ đó đại diện. Số lượng mặt hàng điều tra của các tỉnh có thể khác nhau, khoảng từ 250 đến 300 mặt hàng, riêng thành phố Hồ Chí Minh điều tra tới 340 mặt hàng.
Biểu * Quyền số tính chỉ số giá tiêu dùng
Nhóm hàng hóa dịch vụ
Mã số
Quyền số (%)
Chỉ số chung
Lương thực thực phẩm
Lương thực
Thực phẩm
Chất đốt dùng cho nấu ăn
ăn uống ngoài gia đình
Đồ uống và thuốc lá
May mặc, mũ nón, giày dép
Nhà ở và vật liệu xây dựng
Thiết bị và đồ dùng gia đình
Dược phẩm, y tế
Phương tiện đi lại, bưu điện
Giáo dục
Văn hoá, thể thao, giải trí
Đồ dùng và dịch vụ khác
0
01
02
03
04
1
2
3
4
5
6
7
8
9
100.00
60.86
22.44
29.93
3.83
4.66
4.09
6.63
2.90
4.60
3.53
7.23
2.50
3.79
3.86
Theo như biểu (*) có 10 nhóm hàng hoá và dịch vụ cấp 1 tham gia kết cấu quyền số tính chỉ số giá tiêu dùng, các mức quyền số này đã được tổng cục thống kê tính toán xác định trên cơ sở cơ cấu chi tiêu hộ gia đình trong năm 1995 ở Việt Nam. Trong đó, quyền số cố định của nhóm hàng cấp I lương thực thực phẩm lên tới gần 61% trong khi quyền số cố định của 9 nhóm hàng cấp I còn lại chỉ ở mức một con số, thấp hơn rất nhiều.
Như vậy xu hướng biến động chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam từ nửa cuối những năm 1990 đến nay chủ yếu chịu ảnh hưởng của sự biến động giá cả lương thực, thực phẩm. Qua phân tích ở trên ta thấy cách xác định tỉ lệ lạm phát thực tế ở Việt Nam hiện nay còn khá nhiều điều chưa hợp lý, vì so với thời điểm 1995 đến nay đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ta đã có nhiều thay đổi đáng kể, và mức quyền số của nhóm hàng lương thực- thực phẩm sẽ không còn phù hợp nữa. Mặc dù hiện nay ở nước ta cũng đã đưa ra một số giải pháp đánh giá lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng mới được tính theo công thức Laspoyre với kỳ gốc cố định là giá tiêu dùng bình quân cả năm 2000 tính trên danh mục hàng hoá, dịch vụ mới và quyền số mới. Trong đó danh mục hàng hoá và dịch vụ mới bao gồm 400 loại phổ biến tiêu dùng hiện nay (tăng 100 mặt hàng so với danh mục cũ), quyền số mới cũng thay đổi so với quyền số cũ, cụ thể là cơ cấu chi tiêu cho lương thực- thực phẩm giảm từ 60.86% xuống còn 47.66%. Riêng cơ cấu chi tiêu cho lương thực giảm từ 22.44% xuống còn 13.08%, điều đó có nghĩa là từ nay sự tăng, giảm giá lương thực nói riêng và giá cả lương thực thực phẩm nói chung sẽ không ảnh hưởng nhiều đến sự tăng, giảm của giá tiêu dùng như cách tính trước đây nữa. Tuy nhiên tính đến 6 tháng đầu năm 2001 thì cách tính mới này vẫn chưa được áp dụng.
II.ảnh hưởng của giá cả giảm và phương án khắc phục
ảnh hưởng của giá cả giảm.
a/ Mặt tích cực.
Đối với người tiêu dùng: giá thấp, người tiêu dùng sẽ được lợi, giá càng giảm có nghĩa là tiền lương, thu nhập thực tế của người lao động tăng (vẫn đảm bảo nguyên tắc tốc độ tăng lương nhỏ hơn tốc độ tăng năng suất lao động), đời sống được cải thiện, góp phần ổn định chính trị xã hội.
Đối với sản xuất: giá thấp sẽ là một áp lực thường xuyên buộc các nhà sản xuất kinh doanh phải nhanh chóng thực hiện các biện pháp quản lý hợp lý hoá sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh để thích ứng với thị trường.
Ngoài ra, giá cả giảm một cách có kế hoạch còn làm cho hàng hoá trong nước ngày một rẻ hơn, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng trong nước so với thị trường thế giới, góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán.
b/ Mặt tiêu cực
Đối với những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đang gặp khó khăn chưa kịp chuyển đổi với yêu cầu của thị trường, nếu mà giá cả thấp sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận của các doanh nghiệp, đẩy các doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả tới bờ vực phá sản, làm cho tỉ lệ thất nghiệp tăng lên.
Khi giá tiêu dùng giảm làm cho nhịp độ tăng trưởng kinh tế giảm, điều này được thể hiện: người có vốn sẽ không mở rộng đầu tư mà họ sẽ gửi tiền vào ngân hàng để hưởng lãi đúp (lãi ngân hàng và lãi do đồng tiền lên giá). Ngược lại, người không có vốn lại không muốn vay ngân hàng để đầu tư sản xuất kinh doanh vì giá cả hàng tiêu dùng giảm, mức độ rủi ro lớn. Do giá có xu hướng giảm đã tác động người tiêu dùng chờ khi giá giảm tới mức thấp I sẽ mua, số tiền dư thừa đó gửi vào tiết kiệm có hiệu quả hơn. Do vậy đã ảnh hưởng tới việc tiêu thụ hàng hoá.
Mặt khác, theo số liệu báo cáo thường niên của ngân hàng Nhà nước, tổng phương tiện thanh toán đến 31/12/1999 tăng 39.3%, 31/12/2000 tăng 26.5%. Như vậy, tốc độ tăng trưởng phương tiện thanh toán đã tăng nhanh hơn rất nhiều so với tốc độ tăng trưởng kinh tế và tỉ lệ lạm phát cộng lại. Về phương diện lí luận thì mức tăng trưởng cung tiền phải ngang bằng với mức tăng trưởng kinh tế và tỉ lệ lạm phát cộng lại, điều đó có nghĩa là lượng tiền cung ứng ra nếu không làm tăng lạm phát thì nó phải tham gia vào quá trình trao đổi làm tăng sản lượng của nền kinh tế. Ngược lại, khi nền kinh tế không còn tăng được nữa thì việc cung ứng thêm tiền chỉ dẫn đến sự tăng giá mà thôi. Nhưng thực tế thì mức tăng trưởng cung tiền đã vượt xa mức tăng trưởng kinh tế và tỉ lệ lạm phát cộng lại.
Như vậy, ở nước ta đã và đang xảy ra “qúa trình tích luỹ thầm lặng” của các chủ thể kinh tế. Quá trình này đã hút tiền vào các “kho chứa” đưa nền kinh tế vào tình trạng phát triển cầm chừng. Khi mà vốn được tích luỹ lại không đưa vào quá trình sản xuất hoặc tiêu dùng thì sẽ làm giảm tổng cầu gây suy thoái kinh tế. Tình trạng này kéo dài làm cho các nguồn lực không được sử dụng hết, ảnh hưởng đến thu nhập và công ăn việc làm của toàn quốc gia. Một lượng lớn tiền tệ được đưa vào cất trữ tạo nên nguy cơ tiềm ẩn gây ra một cú sốc lạm phát trong tương lai. Khi các chủ thể kinh tế đang nắm giữ nhiều tài sản dạng tiền, lúc đó tiền tệ tạm thời rút khỏi lưu thông, cân đối tiền hàng vẫn được xác lập, lạm phát không xảy ra, nhưng khi nền kinh tế xuất hiện các dấu hiệu lạm phát, lượng tiền lớn trong cất trữ được đẩy vào lưu thông để săn lùng hàng hoá làm giảm giá cả tăng vọt và đó chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến tình trạng lạm phát cao.
Nguyên nhân của giá cả giảm
Một là: tình hình diễn biến của kinh tế thế giới đang rất phức tạp, chứa đựng những yếu tố tác động không thuận đến nền kinh tế nước ta. Mức tăng trưởng của kinh tế thế giới năm 2001 dự đoán không chỉ kém năm trước mà còn thấp hơn năm 1998 là năm chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở nhiều nước châu á và thế giới. Sự suy giảm kinh tế của các nước khu vực cùng với các biện pháp hạ lãi suất, giảm giá đồng tiền, tăng hàng rào bảo hộ được áp dụng ở nhiều quốc gia để ứng phó với tình thế khiến cho thị trường tiêu thụ hàng hoá và thu hút đầu tư nước ngoài vào nước ta thêm khó khăn, sức cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam vốn đã yếu lại bị bất lợi thêm về tỉ giá và bị thua thiệt do sự giảm giá trên thị trường thế giới nhất là giá nông sản hàng hoá đang là vấn đề bức xúc cần được tháo gỡ ngay trong 6 tháng cuối năm 2001.
Hai là: sức mua của dân cư còn hạn chế ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường. Hiện nay, ở nhiều địa phương, cơ sở, tập thể, cá nhân có nhu cầu lớn về hàng hoá nhưng không có khả năng thanh toán. Thu nhập của nông dân vùng nông thôn, miền núi đạt thấp, đồng vốn co hẹp, nên sức mua rất thấp. Mặc dù chính phủ có các giải pháp nhằm kích cầu và đầu tư song các biện pháp đó đi vào thực tiễn còn chậm, hiệu quả chưa cao.
Ba là: tình trạng buôn lậu và gian lận thương mại chậm được khắc phục nên hàng nước ngoài tràn vào, giá rẻ làm ảnh hưởng đến sản xuất hàng hoá trong nước. Mặc dù chính phủ, các bộ ngành địa phương có nhiều biện pháp ngăn chặn, song tình trạng buôn lậu và gian lận thương mại qua biên giới, nhất là đường bộ và đường biển vẫn chưa giảm mà có chiều hướng gia tăng. Hàng ngoại tràn vào trốn thuế nên giá trị làm ảnh hưởng đến sản xuất trong nước. Nhiều doanh nghiệp sản xuất hàng hoá không bán được ảnh hưởng đến quá trình tái sản xuất và vòng quay đồng vốn.
Bốn là: các chính sách tiền tệ và quản lý điều hành nền kinh tế còn hạn chế. Ngân hàng đã nhiều lần hạ lãi suất cho vay song tình trạng đọng vốn ở các ngân hàng thương mại vẫn còn lớn. Việc cho vay đến hộ sản xuất kinh doanh còn nhiều phiền hà, chậm trễ, khiến cho nhiều hộ chưa phấn khởi đầu tư mở rộng và phát triển sản xuất.
Năm là: việc thực hiện bước đầu của luật thuế mới (thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu, thuế đầu tư nước ngoài...) đã từng bước đi vào thực tiễn cuộc sống, song vấn đề quản lý thực hiện làm cho nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không ổn định, ảnh hưởng đến nguồn thu thuế và ngân sách. Vấn đề đặt ra là cần tiếp tục cải cách hệ thống thuế cho phù hợp với tình hình đất nước và các cam kết quốc tế. Hoàn thiện đơn giản các sắc thuế để áp dụng một hệ thống thuế thống nhất, không phân biệt doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
Một số phương án khắc phục.
Mặt bằng giá của nước ta hiện nay về cơ bản sự giảm sút nó có những vấn đề cung cầu như đã phân tích; song cũng phải thấy rằng dù còn “nhỏ bé” liều lượng phản ảnh còn ít chưa thật rõ nét nhưng sự giảm sút giá cả vừa qua đã xuất hiện những dấu hiệu của nền kinh tế đưa lại, hay nói cách khác là giá thâp đã bước đầu phản ánh những chuyển biến tích cực về chất của nền kinh tế. Đó là việc năng suất lao động trong các nghành kinh tế tăng lên làm cho chi phí sản xuất trên một đơn vị sản phẩm giảm xuống. Cụ thể, trong nông nghiệp, năng suất lúa tăng đã góp phần làm cho chi phí sản xuất một tấn thóc giảm thấp hơn so với những năm trước đây. Trong công nghiệp, năng lực sản xuất đang được huy động cao hơn trước, khả năng nếu “cầu” phục hồi thì có thể công suất sẽ được huy động đến mức tối ưu đang còn là tiềm năng rất lớn của ngành công nghiệp...Nếu như giá vận động theo hướng tích cực này thì đây là những dấu hiệu tốt.
Tuy có những dấu hiệu đáng mừng ấy nhưng thực tế đã cho thấy rằng sự giảm giá vừa qua và hiện nay là không hợp lý, bởi nó đang gây tác động gây khó khăn cho nhiều lĩnh vực sản xuất kinh doanh (khu vực doanh nghiệp: đặc biệt là việc “phát huy nội lực” huy động “sức người sức mua” cho sản xuất kinh doanh).
Vì thế phải điều hành để giá cả vận động theo hướng nâng mặt bằng giá lên so với hiện tại.
a/ Nguyên nhân chủ yếu làm cho chỉ số giá tiêu dùng (CPI) ở nước ta liên tục giảm là do chỉ số giá nhóm hàng lương thực- thực phẩm giảm, do đó giải pháp đầu tiên được đặt ra là: làm thế nào chặn đứng được tình trạng giá nông sản giảm, thu nhập và sức mua ở nông thôn giảm, để làm được điều này cần phải:
Một là: Về sản xuất nhà nước cần quy hoạch sản xuất các sản phẩm nông nghiệp theo hướng thị trường rõ nét hơn. Chính sách và cơ cấu đầu tư cần chuyển mạnh sang đầu tư chiều sâu để nâng cao chất lượng nông sản hàng hoá phù hợp với yêu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu, khắc phục tình trạng chạy theo năng suất sản lượng bằng mọi giá nhưng lại không quan tâm đến chất lượng và yêu cầu của thị trường dẫn đến cung vượt cầu và ứ đọng sản phẩm, nhà nước chỉ nên đầu tư vào những nông sản thị trường cần với số lượng và chất lượng được tiêu chuẩn hoá, kể cả lúa gạo, ngô, cao su, cà phê, thịt, thuỷ sản.
Để nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành, tăng sức cạnh tranh sản phẩm hàng hoá thì phải phát triển khoa học công nghệ: chọn tạo, phổ biến giống cây trồng vật nuôi, cây lâm nghiệp, giống thuỷ sản có năng suất chất lượng cao trên cơ sở áp dụng công nghệ sinh học, đảm bảo trên 70% giống được dùng trong sản xuất là giống tiến bộ kỹ thuật; áp dụng công nghệ hiện đại để bảo quản chế biến sản phẩm, đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng, đặc biệt là sản phẩm xuất khẩu. Trước mắt, thay thế ngay các trang thiết bị công nghệ lạc hậu bằng thiết bị mới. Việc xây dựng các nhà máy mới phải sử dụng thiết bị, công nghệ tiên tiến, làm ra sản phẩm phù hợp nhu cầu thị hiếu của thị trường; Từng bước cơ giới hoá sản xuất công nghiệp, nâng mức cơ giới hoá làm đất lên trên 70%. áp dụng công nghệ tưới tiết kiệm nước, hiệu quả cao; Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, cơ cấu vụ mùa, nghiên cứu kinh tế và quản lý, nhất là nghiên cứu về thị trường trong nước và quốc tế; Nghiên cứu xây dựng mới, xem xét lại tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, quy trình quy phạm phù hợp với yêu cầu tiêu dùng trong nước và tham gia hội nhập kinh tế.”
Hai là: ổn định giá phân bón, vật tư nông nghiệp và giá dịch vụ đầu vào để nông dân yên tâm đầu tư thâm canh chiều sâu, tăng năng suất cây trồng vật nuôi và tăng chất lượng nông sản hoá.
Ba là: Về lưu thông và tiêu thụ nông sản: tổ chức lại mạng lưới thu mua nông sản theo hướng thuận tiện, nhanh chóng và hợp lí, khắc phục tình trạng tranh mua, tranh bán, ép cấp ép giá, nhất là các vùng sản xuất hàng hoá tập trung các nông sản phục vụ chế biến và xuất khẩu như lúa gạo, cà phê, cao su, mía đường, rau quả đảm bảo hài hoà về lợi ích giữa nông dân với các tổ chức doanh nghiệp thương mại, phát triển mạnh công nghiệp chế biến nông sản, mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản. Trước mắt cần khuyến khích các thành phần kinh tế ký thêm các hợp đồng xuất khẩu gạo, cà phê, cao su, điểu để tiêu thụ thêm nông sản hàng hoá. Sử dụng quỹ hỗ trợ xuất khẩu để trợ giá đối với các doanh nghiệp, xuất khẩu gạo, cà phê ngoài kế hoạch. Mạnh dạn áp dụng phương thức xuất khẩu trả chậm, trả nợ.
Cơ sở hạ tầng nông thôn cần được phát triển đáp ứng yêu cầu nền kinh tế hàng hoá. Theo đó, công tác thuỷ lợi cần hướng tới việc thực hiện đa dạng hoá. Mục tiêu, hiện đại hoá quản lý và xã hội hoá đầu tư, phát triển giao thông nông thôn đảm bảo cho phương tiện cơ giới đi đến tất cả các xã hoặc cụm xã, các thị trấn, thị tứ, thị xã, các tụ điểm công nghiệp ở nông thôn trong mọi thời tiết; hoàn thành hệ thống cấp điện nông thôn, phấn đấu sớm hoàn thành việc đưa điện lưới đến hầu hết các xã; Phát triển thuỷ điện nhỏ và các loại hình cấp điện khác phục vụ vùng cao vùng xa; hệ thống thông tin cần đựoc nhanh chóng hiện đại hoá; Hoàn thành hệ thống và phát triển hệ thống chợ nông thôn, điều này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhằm tăng cường lưu thông hàng hoá, đưa nền kinh tế nông thôn phát triển toàn diện, đẩy mạnh quá trình phân công lao động trong nông thôn, góp phần giải quyết “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất, nâng cao mức sống dân cư
Bốn là: Về thuế và tín dụng: giảm giá lúa tính thuế sử dụng đất nông nghiệp đến mức hợp lý (thấp hơn giá thị trường), đảm bảo cho người nông dân, nhất là nông dân cấy lúa có được tỉ lệ lãi ít nhất 30%. Đối với 1800 xã nghèo và hộ nghèo nhà nước nên bỏ thuế sử dụng đất nông nghiệp, chưa đánh thuế thu nhập đối với các nông dân có thu nhập cao, hộ trang trại, thuế phụ thu trên diện tích đất vượt hạn điền. Thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi đối với các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản và vật tư nông nghiệp cũng như các trang trại, các hộ nông dân theo hướng giảm lãi suất, đơn giản hoá các thủ tục cho vay trung và dài hạn. Nâng mức cho vay không thế chấp tài sản lên mức 20 triệu đồng và đơn giản hoá thủ tục đối với hộ nông dân sản xuất giỏi, hộ trang trại với sự bảo lãnh của chính quyền xã. Ngân hàng người nghèo cần bổ sung cơ chế cho vay và tổ chức việc cho vay đỗi với các hộ nghèo ở nông thôn với thủ tục đơn giản nhất, phương thức thuận lợi nhất và bỏ các lệ phí, chứng thư đối với các loại hồ sơ của hộ vay vốn.
Trên thị trường hàng nông sản: giá cả biến động không chỉ tuỳ thuộc vào tương quan cung- cầu hàng hoá mà còn chịu tác động gay gắt của các yếu tố tự nhiên thời tiết. Do vậy cần có các hình thức bảo hiểm cây trồng, hình thành quỹ: bảo hiểm từng ngành hàng. Trước mắt cần thành lập các quỹ bảo hiểm các nông sản: lúa, gạo, cà phê, cao su, thịt lợn...Quỹ này dùng để can thiệp thị trường khi giá thị trường đột biến xuống dưới giá sàn, định hướng và giúp đỡ sản xuất trong những trường hợp đặc biệt khó khăn do thiên tai. Quỹ được trích từ phần thuế xuất khẩu, các khoản thu và đóng khác.
Năm là: Về kích cầu ở nông thôn: trong điều kiện giá nông sản giảm, thu nhập ở nông thôn còn thấp, sức mua giảm, thị trường nông thôn cần đa dạng về chủng loại, nhưng giá cả phải phù hợp với túi tiền người nông dân. Vì vậy, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế sản xuất hàng công nghiệp và dịch vụ trong nước cần nghiên cứu, tìm hiểu kỹ thị trường nông thôn và thị hiếu của nông dân để giảm giá bán và mở rộng phương thức mua trả chậm các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ phù hợp với khả năng và thị hiếu của đại đa số hộ nông dân.
Sáu là: Tiếp tục triển khai chủ trương kiên cố hoá kênh mương nội đồng theo phương thức nhà nước đầu tư vốn, vật tư, nông dân góp công lao động. Các cơ quan ở trung ương và địa phương cần phối hợp tìm giải pháp tích cực để giải ngân các nguồn vốn của các chương trình quốc gia, đánh bắt cá xa bờ, trồng mới 5 triệu ha rừng, xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm ở nông thôn...để tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho nông dân, nhất là ở những vùng nghèo, hộ nghèo.
b/ Hiện nay ở nước ta sức mua giảm cung đang lớn hơn cầu, do đó để nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vận hành thông suốt, giá cả biến động có lợi cho tăng trưởng kinh tế cao, bền vững thì phải áp dụng biện pháp kích cầu. Kích cầu là kích thích nhu cầu tiêu dùng và nhu cầu đầu tư cho sản xuất. Cụ thể là làm tăng sức mua của toàn xã hội về hàng hoá tiêu dùng và tư liệu cho sản xuất mà quan trọng là hàng tiêu dùng vì hàng tiêu dùng sẽ quyết định đến sản xuất. Tiêu dùng có tăng thì mới thúc đẩy sản xuất phát triển. Sau đây là một số biện pháp kích cầu:
Hạ lãi suất tiền gửi và tiền vay ngân hàng. Lãi suất tiền gửi giảm sẽ làm cho một số bộ phận người có tiền gửi rút tiền để đầu tư cho sản xuất (nếu xét thấy có lợi hơn) hoặc mua sắm hàng tiêu dùng, sửa sang hoặc xây dựng nhà cửa, góp phần làm tăng cầu trên thị trường. Còn lãi suất tiền vay giảm kích thích các nhà sản xuất mạnh dạn vay vốn đầu tư vào sản xuất (góp phần làm tăng cầu về vật tư nguyên vật liệu). Hơn thế nữa lãi suất tiền vay giảm còn góp phần làm giảm giá thành sản xuất giúp người sản xuất có điều kiện để giảm giá bán sản phẩm của mình.
Trong tình hình nước ta hiện nay kể cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, vốn tự có rất thấp hầu hết lại nằm trong nhà xưởng, còn phần lớn vốn kinh doanh phải vay ngân hàng và lợi nhuận làm ra vẫn không đủ để trả tiền vay ngân hàng. Việc giảm lãi suất tiền vay sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tăng lợi nhuận, kích thích sản xuất. Đối với hộ nông dân: hiện nay có khoảng 4 triệu hộ nông dân đang có quan hệ và thường xuyên có quan hệ tín dụng với ngân hàng, việc hạ lãi suất sẽ chắc chắn có lợi cho họ và sẽ có tác động tích cực.
Tuy nhiên cũng không thể xem việc giảm lãi suất sẽ góp phần kích cầu, mà nó chỉ có tác dụng trong chừng mực nhất định, phạm vi nhất định và thời gian nhất định. Việc cắt giảm lãi suất tiền gửi và tiền vay sẽ tác động lớn đến quan hệ tích luỹ- đầu tư- tiết kiệm- tiêu dùng; lãi suất tiền gửi giảm xuống sẽ dẫn tới một bộ phận dân cư sẽ hạn chế gửi tiền vào ngân hàng, mà chuyển sang tiêu dùng, có cái lợi là tiêu dùng sẽ kích thích sản xuất tăng mức độ lưu chuyển hàng hoá dịch vụ trên thị trường, song nền kinh tế sẽ thiếu vốn cho đầu tư phát triển, nguồn vốn cho vya của các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng sẽ bị giảm sút và có thể thiếu hụt để cho vay, do đó khó huy động được vốn bởi lãi suất thấp. Ngược lại, doanh số cho vay thì tăng lên, kèm theo số nợ khó đòi tăng lên và có thể là gia tăng lạm phát. Đối với các doanh nghiệp lãi suất chỉ là một nhân tố quan trọng chứ không phải là nhân tố quyết định cho việc thúc đẩy sự phát triển kinh doanh. Nếu lãi suất hạ mà không có sự cải tổ, các nhà doanh nghiệp nhà nước không tổ chức sắp xếp lại sẽ không nâng cao được năng lực tổ chức kinh doanh, không năng động tìm kiếm thị trường trong và ngoài nước, không đổi mới mẫu mã sản phẩm, tiết kiệm chi phí, đổi mới công tác quản lý thì dù có được vay vốn với lãi suất thấp thì các doanh nghiệp cũng không hấp thụ được, vốn ngân hàng không vào được và không phát huy được hiệu quả. Đối với nông dân, nhu cầu về vay vốn chỉ tập trung vào những thời điểm, thời vụ nhất định, nếu hạ lãi suất tiền vay không đúng vào thời vụ nông dân cần thì cũng không phát huy được tác dụng.
Cần phải có chính sách để đẩy mạnh xuất khẩu, giảm thuế, không thu thuế thậm chí hỗ trợ phân bố khi gặp rủi ro trong xuất khẩu (chỉ những mặt hàng tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động và đặc biệt là hàng nông sản). Khen thưởng đối với những tổ chức, doanh nghiệp có lượng hàng hoá xuất khẩu cao. Chú trọng phát triên hàng hoá xuất khẩu sang thị trường có tổng cầu cao và ổn định. Thực tế cho thấy, kích thích tổng cầu, quan tâm đến thị trường trong nước là cách làm cơ bản lâu dài cho sự tăng trưởng ổn định. Tuy vậy chúng ta cần coi trọng thị trường ngoài nước như Tây Âu và Bắc Mĩ có thị trường ổn định, có tổng cầu cao. Phát triển được xuất khẩu vào thị trường có tổng cầu cao, ổn định có nghĩa là bảo vệ được giá xuất khẩu, tạo ổn định đầu ra và việc làm của người lao động trong nước. Như vậy sẽ gián tiếp kích thích tổng cầu nội địa. Trong thời điểm hiện nay đồng đô la Mĩ lên giá, những người làm hàng xuất khẩu trong nước là có lợi, vì họ thu về bằng USD trong khi giá đầu vào không thay đổi.
Ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như đường giao thông, điện, bưu điện, thông tin liên lạc, đặc biệt là ở các vùng nông thôn và miền núi. Đầu tư vào lĩnh vực này sẽ có những cái lợi sau: làm tăng cầu về xi măng, sắt, thép, giải quyết được tình trạng ứ đọng xi măng sắt thép hiện nay; đồng thời góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Hơn nữa, khi đường giao thông về các vùng nông thôn và miền núi được đầu tư xây dựng sẽ góp phần cho lưu thông hàng hoá được thuận lợi hơn, việc trao đổi hàng hoá công nghiệp và nông sản phẩm giữa thành thị và nông thôn tăng lên. Đường điện vươn đến các khu vực nông thôn và miền núi sẽ làm tăng nhu cầu về sử dụng điện (như quạt điện, ti vi, radio...đây là những hàng hoá mà hiện nay ở thành phố gần như đã bão hoà).
Việc đầu tư này sẽ có tác dụng rất lớn để khai thác tiềm năng thị trường mà lâu nay gần như bị lãng quên, đánh thức nhu cầu của các vùng này.
Để có thể tăng sức mua của khu vực thành thị mà chủ yếu là cán bộ công nhân viên chức thì biện pháp cải cách tiền lương là rất quan trọng, cải cách tiền lương mà chủ yếu là phải tăng lương, đưa phần lớn thu nhập ngoài lương vào tiền lương chính nhằm tăng mặt bằng thu nhập lên một cách đồng đều, tránh tình trạng tiền chảy về một phía, điều này sẽ làm cho những người có thu nhập thấp sẽ được cải thiện. Khi người lao động có thu nhập tăng thì sẽ có điều kiện để thực hiện nhu cầu tiêu dùng của minh (cầu tăng), kích thích các ngành sản xuất phát triển.
Song song với việc thực hiện các biện pháp kích cầu ở cấp vĩ mô, như đã nêu trên thì cần phải thực hiện các biện pháp kích cầu ở cấp vĩ mô: Đối với từng xí nghiệp, phải tìm mọi biện pháp để tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, cải tiến và hiện đại hoá dây chuyền công nghệ, theo kịp với công nghệ tiên tiến thế giới; Thay đổi mẫu mã sản phẩm làm cho sản phẩm luôn có sự mới lạ hấp dẫn, phù hợp với người tiêu dùng và không bị tụt hậu so với sản phẩm cùng loại trên thế giới.
Quảng cáo: chi phí cho quảng cáo trong thời gian này cần thiết phải tăng lên, kết hợp nhiều hình thức quảng cáo: vô tuyến, đài, báo chí, hội chợ, tiếp thị trực tiếp...
Khuyến mãi: mở các đợt bán hàng có thưởng, hạ giá đặc biệt chú trọng đến thị trường nông thôn, quảng cáo và khuyến mãi, tiếp thị từ trước đến nay các xí nghiệp quốc doanh của ta còn yếu kém đặc biệt là các xí nghiệp quốc doanh miền bắc do còn nặng tư tưởng thời bao cấp nên không chú trọng đến nghệ thuật quảng cáo, khuyến mãi, tiếp thị.
Việc kết hợp các biện pháp kích cầu ở cả cấp vĩ mô và vi mô nếu được quan tâm chú ý đến thì nhu cầu sẽ tăng lên, hàng hoá sẽ bán chạy hơn, cầu tăng sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển và nếu kinh tế sẽ có tốc độ tăng trưởng cao hơn.
c/ Lãi suất thấp sẽ kích thích tiêu dùng, góp phần kích cầu của nền kinh tế nhưng nguy hại hơn là lãi suất VNĐ quá thấp so với lãi suất USD, điều này sẽ kích thích tình trạng đô la hoá và tạo nguy cơ bùng nổ lạm phát cao. Khi đó, mọi người sẽ tìm cách đổi nội tệ ra USD làm cho USD tăng giá, đẩy tỉ giá tăng lên, tỉ giá leo thang càng làm cho giá trị nội tệ giảm, làm mất dần uy tín tiền trong nước. Như vậy, việc giữ mối quan hệ hợp lý giữa lãi suất VNĐ và lãi suất USD là điều quan trọng vừa góp phần ổn định giá trị tiền tệ vừa có tác dụng hạn chế tình trạng đô la hoá và kiểm soát tỷ giá, cần phải giảm lãi suất tiền gửi ngoại tệ. Nâng cao tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ tại các ngân hàng, nâng dần lãi suất tiền gửi tiết kiệm NVĐ và hạ lãi suất tiền gửi tiết kiệm USD.
kết luận
Kinh tế Việt Nam giai đoạn 1986- 2001 đã trải qua sự biến động sâu sẵc: từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa; từ tăng trưởng thấp cuối những năm 90, từ khủng hoảng rối loạn chuyển sang ổn định và phát triển. Trong thời gian đó nền kinh tế Việt Nam đã trải qua hai lần biến động giá: trong các năm 1986- 1991 đã xảy ra lạm phát và trong các năm từ 1997- 2001 đã xảy ra tình trạng giảm phát mạnh ở một số nhóm mặt hàng. Giữa hai lần lạm phát
đó là thời kỳ lạm phát được kiềm chế, nền kinh tế tăng trưởng với tỉ lệ khá cao.
Lạm phát là chỉ số tổng hợp phản ánh các biến động quan trọng trong nền kinh tế: tiêu dùng, đầu tư, cung cầu hàng hoá; biểu hiện tác động của các chính sách tài chính, tiền tệ. Mức độ cao hay thấp của lạm phát đều biểu thị khía cạnh đó của tình trạng kinh tế. Vì vậy việc nhìn nhận rõ nguyên nhân, bản chất của thực trạng nền kinh tế chính là cơ sở để đưa ra những biện pháp hữu hiệu để phòng chống. Có như vậy nền kinh tế mới phát triển ổn định và bền vững.
ở nước ta trong những năm gần đây đã xuất hiện hiện tượng giảm sút của giá cả, sự giảm sút giá này nếu hợp lý thì sẽ tạo ra những mặt tích cực của nó. Tuy nhiên thực tiễn cho thấy sự giảm giá vừa qua và hiện nay là không hợp lý bởi vì nó gây khó khăn cho nhiều lĩnh vực sản xuất. Hiện tượng này cũng nguy hiểm không kém gì hiện tượng lạm phát. Nếu không kịp thời ngăn chặn thì nền kinh tế khó đạt được mục tiêu đề ra. Có rất nhiều biện pháp để khắc phục hiện tượng này, mỗi biện pháp đều có mặt phải và mặt trái của nó, biện pháp nào cũng rất quan trọng cho nên nếu biết kết hợp một cách hợp lý các biện pháp đó thì sẽ có tác dụng rất lớn. Khi đó quá trình khắc phục hiện tượng giảm sút của giá cả mới thực sự thành công. Có như vậy nền kinh tế của chúng ta mới tăng trưởng và phát triển, mới đạt được những mục tiêu đã đề ra.
tài liệu tham khảo
Giáo trình Lý thuyết Tiền tệ Trường Đại học Tài chính Kế toán Hà Nội.
PGS- PTS Nguyễn Sinh Cúc: Giải pháp nào để chặn đứng tình trạng giá nông sản giảm, thu nhập và sức mua ở nông thôn giảm
(Tạp chí thị trường giá cả số 10 năm 2000).
Võ Trung Dũng: Phân tích biến động chỉ số giá qua “lạm phát 1986” và “giảm phát năm 2000”. (Tạp chí tài chính - 8. 2001).
Đinh Sơn Hùng: Lạm phát- vài nét lý luận và thực tiễn.
(Phát triển kinh tế 10.1995).
Nguyễn Minh Kiều- MBA Trường ĐH Kinh tế- ĐH Quốc gia TP HCM: Tiền tệ- Ngân hàng (NXB Thống kê- 1998).
Tiến sĩ Phạm Ngọc Long: Khắc phục giảm phát và kiểm soát lạm phát (Thị trường tài chính tiền tệ 2.2000)
PGS- TS Ngô Trí Long: Những giải pháp kích cầu
(Báo Nhân dân chủ nhật 20.5.2001).
Lê Hải Mơ: Nên tiếp tục kích cầu hay chuyển cầu ra bên ngoài
(Bản thảo tài chính Việt Nam số 97 năm 2001).
Lê Hải Mơ: Nhìn lại chương trình kích cầu đầu tư và hạn chế tác động của giảm phát (Tài chính 1. 2001).
Nguyễn Võ Ngoạn: Hiểu phát kéo dài, nhìn từ phía tổng cầu
(Tạp chí ngân hàng 7.2000).
Vũ Ngọc Nhung: Lãi suất và chính sách tiền tệ
(Tạp chí thương mại số 18 năm 2001).
Mai Thanh Quế: Bàn về mối quan hệ giữa cung ứng tiền tệ với tăng trưởng kinh tế và lạm phát.( Tạp chí ngân hàng 07. 2001).
Thạc sĩ Nguyễn Thị Minh Tâm: Một số giải pháp cho vấn đề tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. (Phát triển kinh tế số 107 năm 1999).
Đinh Thị Thuỷ: Một số giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu ở nước ta hiện nay.
(Thông tin lý luận số 12 năm 2001).
Nguyễn Tiến Thoả: Giá cả 6 tháng đầu năm giảm 0.7% những tháng khác còn lại (Tạp chí Thị trường giá cả - 7.2001).
Nguyễn Tiến Thoả: Giá cả không hợp lý, cần tác động để nó vận động đến mức hợp lý (Tạp chí Thị trường giá cả 6.2001)
Nguyễn Đồng Tiến: Cần có cách nhìn thật đúng đắn khi đánh giá lạm phát ở Việt Nam (Tạp chí Ngân hàng 9.2000).
Đỗ Hữu Tụ: Kích cầu thách thức và triển vọng.
(Tạp chí Ngân hàng 7.2000).
Trần Tô Tử: Lạm phát ở Việt Nam, những vấn đề đặt ra.
(Phát triển kinh tế 10. 1995).
PGS- PTS Lê Văn Tư: Các quan niệm về lạm phát và giảm phát trong lịch sử kinh tế cận đại (Phát triển kinh tế 10. 1995).
David Begg Stanley Fischer Rudiger Dornboush: Kinh tế học.
Fredic S.Mishkin: Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính.
(NXB Kỹ thuật Hà Nội 1996).
Trường ĐH Kinh tế quốc dân- Bộ môn kinh tế vĩ mô: Kinh tế vĩ mô (NXB Thống kê - 1998).
Bộ thương mại- Viện nghiên cứu thương mại: Thông tin tổng quan (Kinh tế thương mại 07. 1999).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29614.doc