Lạm phát, với bất kỳ quốc gia hay nền kinh tế nào cũng là một vấn đề hết sức phức tạp cần phải đối phó. Làm sao để có thể vừa kìm chế lạm phát, vừa có thể duy trì tăng trưởng hợp lý luôn làm đau đầu mọi nhà kinh tế. Đặc biệt đối với những nước đang phát triển như nước ta, tác động của lạm phát gây tổn hại to lớn mọi mặt kinh tế và xã hội. Mặc dù đã có nhiều chính sách và biện pháp được đưa ra, nhưng vẫn chưa đạt được hiệu quả cần thiết. Bởi thế chúng ta cần hoàn thiện hơn nửa chính sách của đất nước, đề phòng và dự báo trước được những tác động kinh tế có thể mang lại. Có thế, mới đem lại sự phát triển bền vững và ổn định cho Việt Nam chúng ta.
68 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2131 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lạm phát tại Việt Nam – thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ưng kết quả là 2 chữ số! Ngay từ các tháng đầu năm 2008 CPI đã tăng vọt thì vấn đề có ưu tiên kiềm chế lạm phát hay không vẫn còn đang bàn thảo. Đến cuối tháng 3, đầu tháng 4 thì hàng loạt biện pháp được đưa ra vừa mạnh tay vừa đột ngột.
Tháng 3/2008, lãi suất cơ bản được nâng từ 8,25% lên 8,75%, tháng 5 là 12% và cuối tháng 6 là 14%. Dự trữ bắt buộc được nâng lên 11% với tiền gửi không kỳ hạn (và có kỳ hạn dưới 12 tháng) và 5% đối với tiền gửi có kỳ hạn 12 đến 24 tháng. Lãi suất của số tiền gửi này là 1,2% năm (sau này nâng lên 3,6% rồi 5% và 10%). Phát hành tín phiếu bắt buộc 20.300 tỉ đồng, với các ngân hàng thương mại lãi suất 7,8% năm. Áp dụng mức trần cung tín dụng và phương tiện thanh toán dưới 30% cả năm. Điều chỉnh tỉ giá (13.139 VNĐ lên 16.461 VNĐ/1 USD, nới rộng biên độ tỉ giá từ +/-1% thành +/- 2% (quyết định vào giữa tháng 6 khi mà đồng tiền VN đang bị sụt giá mạnh, có lúc lên đến trên 19.000 VNĐ/USD)
Bảng 7 : Diễn biến lãi suất suất cơ bản năm 2008
Trước tháng 3
Các tháng
Tháng 11
Tháng 12
3
5
7
10
Đầu tháng
Cuối tháng
Đầu tháng
Cuối tháng
Lãi suất cơ bản (*)
8.25
8,75
12
14
13
13
11
10
8,5
Lãi suất tái cấp vốn
6,5
7,5
15
14
13
12
11
9,5
LS tái chiết khấu
4,5
6
13
12
11
10
9
7,5
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước (*) Lãi suất: % theo năm. Các ngân hàng thương mại cho vay theo lãi suất cơ bản + biên độ tối đa 150%.
Lãi suất huy động của một số ngân hàng vào cuối tháng 6 đầu tháng 7 cũng lên đến 20% năm trong khi lãi suất cho vay được khống chế ở mức 21% năm. Với lãi suất này, Hiệp hội doanh nghiệp ở Tp HCM đã kiến nghị hạ lãi suất cho vay. Từ tháng 9, bắt đầu của quá trình giảm lãi suất, lúc đầu là thận trọng với biên độ mỗi lần giảm 1%, đến tháng 11 có 2 lần cắt giảm, tháng 12 cũng với 2 lần cắt giảm mà lần vào cuối tháng biên độ lên đến 1,5%.
Cũng như lần lạm phát cuối những năm 80, khi lãi suất nâng cao, tỉ giá dao động thất thường thì hàng loạt doanh nghiệp gặp khó khăn.
Lãi suất Việt Nam và một số nước
Bảng 8 : Lãi suất ngắn hạn của Việt Nam và một số nước
2000
2003
2004
2005
2006
2007
VIỆT NAM
7
6,3
6,7
7,8
7,9
8,9
CPI
4
3
7,8
8,3
7,5
12,6
THAI LAN
1,7
1,3
1,2
2,6
4,6
3,8
CPI
0,6
1,8
2,8
4,5
4,7
2,3
PHILIPPINES
7,2
7
7
7,3
7,8
7
CPI
3
3,5
6
7,6
6,2
2,8
MALAISIA
3,8
3,8
3,8
3,78
3,53
3,31
CPI
1,8
1
1,5
3
3,6
2
INDONESIA
12,9
8,3
7,4
9,2
11,6
8,4
CPI
11,5
6,8
6,1
10,5
15,4
6,9
KOREA
4,2
4
3,6
3,3
4,2
4,8
CPI
2,8
3,5
3,6
2,7
2,2
2,5
TRUNG QUỐC
2,7
2,7
3,3
3,3
3,3
3,3
CPI
-0,8
1,2
3,9
1,8
1,5
4,8
Nguồn: The World Bank: East Asia Testing Time Ahead, april 2008
VN: lãi suất tiền gửi 3 tháng, lãi suất cho vay thường cao hơn khoảng 3%.
Bảng trên cho thấy lãi suất của Việt Nam cao hơn so với hầu hết các nước trong khu vực, tỉ lạm phát cũng cao hơn. Việt nam có thể so với Indonesia nước có tỉ lệ lạm phát cao và bất ổn trong thời gian khủng hoảng kinh tế châu Á.
Bảng 9 : Lãi suất VN và một số nước
Năm 2009
Năm 2008
Lạm phát cuối kỳ
3-4/2009
1/2009
12/2008
10/2008
2008
2009
Hoa kỳ
0.25
0,25
1,5
3,1
1,6
EU
1,5-1,25
2
2,5
3,75
2,9
1,7
Nhật
0,1
0,1
0,3
1,9
0,5
Trung Quốc
0,31
5.31
6.66
4.5
5,5
Ấn Độ
5
5,5
6.5
8
9,2
5,1
Indonesia
7,75-7.5
8.75
9,25
9.5
12
7,5
Philippines
4,75
5
5,5
6
12,2
4,3
ThaiLan
1,5-1,25
2
2,75
3,75
4
3.5
Viet Nam
7
7
8.5
13
25
11
Nguồn: www leitzinsen.info; Lạm phát cuối kỳ theo IMF World Economic Oulook 2008
Lãi suất quá cao.
Nhìn chung lãi suất mà các ngân hàng cho doanh nghiệp vay là rất cao. Đỉnh cao lãi suất vào cuối năm 1989 lên đến 230% năm! Những năm sau đó giảm xuống còn khoảng 38% năm (90-93) và 28% năm (94-95). Trong thời kỳ bị ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế châu Á, lãi suất giảm nhưng trung bình cũng ở mức 14-15% (98-99) năm, năm thấp nhất cũng 11%. Đầu năm 2008, khi lãi suất cơ bản lên 14% thì lãi suất ngân hàng thương mại lên đến 21%, vào cuối năm lúc điều chỉnh giảm còn 8,5% thì lãi suất các ngân hàng cũng ở vào mức 12,5% năm.
Với lãi suất trung bình 12-15% năm trong lúc nền kinh tế vận hành bình thường thì khó có thể có lợi nhuận trong hoạt kinh doanh ngoại trừ kinh doanh ngân hàng. Điều đó giải thích vì sao có quá nhiều hồ sơ xin thành lập mới ngân hàng, và có quá nhiều ngân hàng từ chức năng ngân hàng nông thôn được chuyển thành ngân hàng thương mại và chuyển luôn trụ sở chính. Các tổng công ty, tập đoàn nhà nước và các “đại gia” tư nhân tranh thủ để xin có ngân hàng trong tập đoàn của mình.
Lãi suất cao chỉ xuất hiện từ cao điểm chống lạm phát trong các năm 89-92. Trước đó thì lãi suất ngân hàng vốn rất thấp, gọi là lãi suất bao cấp bởi chỉ dành cho DNNN (và Chính phủ). Lãi suất cao trong nhiều năm sau lạm phát 86 liên quan đến chính sách giữ lãi suất tiết kiệm cao. Nhưng nguyên nhân lớn nhất là chi phí của ngân hàng rất cao, rủi ro tín dụng lớn và nỗi lo sợ của các nhà họach định chính sách về sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng.
Các nguyên nhân trên có vấn đề lịch sử và kết cấu vốn cho vay của hệ thống ngân hàng quốc doanh: tập trung cho các DNNN và cho vay theo chỉ định. Nhưng tình hình hiện nay đã thay đổi, nhiều ngân hàng mới được thành lập, có cả chi nhánh của ngân hàng nước ngòai. Lãi suất cao là món quà tặng cho các ngân hàng mới, ngân hàng nước ngòai, ngân hàng liên doanh. Nó kích thích mạnh việc xin thành lập ngân hàng mới.
Lãi suất cao là rào càn đối với các doanh nghiệp nhỏ khi tiếp cận vốn nhưng lại kích thích đổ vốn vào các ngành đầu cơ như chứng khóan, bất động sản.
Lạm phát tác động đến xã hội.
Nhìn chung, lạm phát làm xói mòn mức sống của những nhóm có thu nhập cố định như công nhân, viên chức, người về hưu, những người buôn bán nhỏ không có khả năng điều chỉnh giá mặt hàng của mình theo kịp mức tăng giá. Nó thực sự là thảm hoạ đối với những nhóm dễ tổn thương như phải sống nhờ trợ cấp, không có sức lao động. Còn nhóm chủ doanh nghiệp, nghĩa là những người giàu có, thường không bị ảnh hưởng mấy bởi lạm phát, vì khi giá cả tăng, doanh thu của họ tăng theo.
Có thể nói, đã có sự chuyển giao thu nhập từ người cho vay và người làm công ăn lương sang cho người chủ doanh nghiệp. Bản chất của sự chuyển giao này là người gửi tiền tiết kiệm và người làm công ăn lương thường không thể nương theo lạm phát mà tăng thu nhập cho mình, còn người kinh doanh thì không những có thể nương theo sự tăng giá để bảo toàn thu nhập, mà còn thu thêm được phần sức mua bị mất đi của nhóm kia.
Lạm phát tạo ra một sự chuyển giao thu nhập âm thầm nhưng liên tục từ người nghèo sang người giàu. Do đó, nhiều người cho rằng lạm phát có tính tàn bạo về mặt xã hội.
Đối với Việt Nam, với dân số đông và tăng nhanh, số người nghèo có thể tăng lên cùng với lạm phát. Chỉ một bộ phận nhỏ dân cư mới có thể đầu tư vào tài chính, bất động sản, đầu cơ trên thị trường chứng khoán,…. Để bảo vệ lợi ích của bản thân họ. Việc ồ ạt đầu cơ đã gây nên những cơn sốt ảo trên thị trường nhà đất và lũng loạn thị trường tài chính. Chỉ những người dân có thu nhập thấp chủ yếu dựa vào đồng lương và nông nghiệp là chịu ảnh hưởng tồi tệ nhất.cuộc sống của họ dựa vào thu nhập hàng ngày và không thể chạy đua với giá cả liên tục biến động trên thị trường, càng không có khả năng tích trữ tài chính để bảo vệ lợi ích bản thân. Bởi thế, lạm phát lạm làm giảm sức mua của người nghèo và tăng bất bình đẳng về thu nhập.
Đánh giá các chính sách Việt Nam đã sử dụng để kiềm chế lạm phát.
Lạm phát được kiềm chế và duy trì ở mức thấp từ 1996 đến 2004
Năm 1997, lần đầu tiên cơ chế xơ cứng của tỉ giá được điều chỉnh và đem lại kết quả kỳ diệu. Liên tục trong 4 năm thâm hụt thương mại giảm mạnh để chỉ còn - 1% vào năm 2000. Các năm 1999 và năm 2000 chỉ số giá chỉ tăng 0,1% và -0,6%. Tăng trưởng GDP cũng ở mức thấp: 4,8% năm 1999 và 6,7% năm 2000.
Giải pháp được đưa ra lúc này là kích cầu tăng trưởng thông qua gia tăng chi tiêu công và đầu tư của doanh nghiệp nhà nước. Chi tiêu của nhà nước(so với GDP) đã tăng 5% từ năm 2000 lên trên 8% từ sau năm 2005. tỉ lệ vốn đầu tư/GDP cũng tăng lên đến 34% năm 2000 và 40% năm 2004. Từ đây các nhân tố lạm phát lại được nuôi dưỡng.
Chính sách điều chỉnh tỉ giá hợp lý và ổn định nhằm chống lạm phát và thu hút đầu tư đã đem lại kết quả. Từ năm 1997 - 1999 sức cạnh tranh quốc tế của Việt Nam bắt đầu được cải thiện thể hiện ở chỉ số tỷ giá xuất khẩu lớn hơn chỉ số tỷ giá nhập khẩu và thâm hụt của cán cân thương mại giảm.
Nguyên nhân là do tháng 10/1997, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã quyết định mở rộng biên độ giao dịch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá giao dịch tại các thị trường liên ngân hàng từ (+) (-) 5% lên (+) (-)10%. Nới rộng biên độ giao dịch đã làm cho tỷ giá thị trường tăng mạnh.
Việc điều chỉnh tỷ giá của NHNN trên đây đã có tác động tích cực đối với xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu của Việt Nam, giảm nhập siêu trong các năm 1997-1999. Ngoài ra, giá cả trên thị trường biến động không đáng kể cũng là một nhân tố góp phần cải thiện cán cân thương mại của Việt Nam.
L ạm phát quay trở lại 2004 – 2008.
Sau giai đoạn được kiềm chế và duy trì ở mức thấp. Năm 2004 lạm phát bắt đầu quay trở lại và tăng nhanh trong năm là 9,5%(gần đạt mức 2 con số), và đạt mức 7,8% vào năm 2007. Việc lạm quay trở lại và tăng cao trong thời gian này bắt đầu từ nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan.
Trong đó, việc điều chỉnh chính sách tiền tệ của việt nam là một trong những nguyên nhân tất yếu của lạm phát.
Sau khủng hoảng Đông Á vài năm thì Việt Nam rơi vào suy thoá nhẹ và giảm phát. Để kéo nền kinh tế trở lại thì Chính phủ dùng chính sách kích cầu bằng cách bơm một khối lượng tiền lớn vào nền kinh tế. Trong bối cảnh mà nền kinh tế đang giảm phát, năm 2000 lạm phát âm và năm 2001 nhích lên gần 1%, thì việc bơm tiền để kích cầu có thể không dẫn đến lạm phát và đó là điều nên làm. Tuy nhiên, đến thời điểm này nếu tiếp tục an tâm theo cách làm cũ để nhằm cho mục tiêu tăng trưởng thì khó lòng đạt được lạm phát mục tiêu, nhất là khi nó đã được châm ngòi.
Chính tốc độ bơm tiền nhanh làm nền kinh tế tăng trưởng nóng lên và đẩy lạm phát lên cao. Đặt biệt, các nguồn số liệu khác nhau từ Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) hay của IMF đều thấy lượng tín dụng trong năm 2003 đều tăng lên nhiều hơn hai năm trước đó.
Hơn nữa, mặc dù đã thả lỏng nhiều hơn trong chính sách tỷ giá song điều đó không có nghĩa là tỷ giá hoàn toàn linh hoạt. Chính sách neo tỷ giá chặt này trong thời gian qua là một áp lực lớn đến lạm phát và chính sách tiền tệ để đạt lạm phát mục tiêu. Ngoài ra, chính sách kêu gọi kiều bào đầu tư đã làm lượng kiều hối chuyển về Việt Nam tăng với tốc độ cao trong 2 năm gần đây. Theo số liệu chính thức trong năm 2004 lượng kiều hối chuyển về khoảng 3 tỷ USD, con số này đều cao hơn cả viện trợ chính thức và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đây chỉ là số liệu tiền chuyển qua các ngân hàng chính thức, theo ước lượng số phi chính thức chiếm khoản 30 – 60% lượng tiền chính thức. Ở Việt Nam việc dùng vàng và đô la để thanh toán trong các giao dịch có giá trị cao như bất động sản vẫn diễn ra bình thường (hiện tượng đô la hoá) và lượng tiền này đáng lý ra được đo lường như một phần của khối tiền mạnh M2 nhưng tất cả nằm ngoài tầm kiểm soát của chính phủ.
Tất cả những điều đó làm cung tiền tăng lên rất nhiều, gây áp lực lớn hơn với lạm phát.
Theo số liệu thống kê năm 2004 cho thấy lạm phát hiện tại và lạm phát kỳ vọng đã làm cho lãi suất thực trên thị trường tiền tệ không còn đủ thu hút người dân gửi tiền tiết kiệm. Lãi suất thực trong năm 2004 là âm 3.3% và từ đầu năm 2005 nhiều ngân hàng thương mại của Việt Nam đã tăng lãi suất tiền gửi. Với mức tăng lãi suất ngân hàng lẫn lạm phát hiện nay thì không chắc chắn rằng đảm bảo mục tiêu lãi suất thực trong năm 2005 sẽ dương 0.9% .
Hệ quả tiếp theo, trong môi trường lạm phát cao, mà vốn dĩ dân chúng Việt Nam đã có kinh nghiệm từ những năm 80, sẽ chuyển từ cất giữ tiền mặt sang một loại tài sản hữu hình nào đó hoặc ngoại tệ. Mặc dù hiện nay VND lên giá nhưng sự chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi VND và USD cũng đã bắt đầu có sự dịch chuyển này. Chính điều này sẽ làm cho cân đối giữa nợ và có của các ngân hàng thương mại gặp khó khăn. Để đảm bảo suất sinh lợi, việc nâng lãi suất tiền gửi thì cũng đồng nghĩa là các ngân hàng phải nâng lãi suất cho vay. Nhưng việc này lại làm khó khăn cho các doanh nghiệp. Việt Nam đã tự do hoá lãi suất (từ năm 2001), nhưng điều đó cũng không có nghĩa là phải nâng lãi suất theo mức lạm phát. Tình huống này hoàn toàn có thể dẫn đến khan hiếm tín dụng để đáp ứng đầu tư một khi mà lượng tiền gửi không đáp ứng được. Với áp lực phải đạt tăng trưởng cao, một giải pháp dễ dàng nhất có thể đạt được ngay trong năm là tăng đầu tư nhà nước lẫn đầu tư tư nhân. Chính nhu cầu này sẽ dẫn đến Ngân hàng Nhà nước có thể sẽ bơm thêm tiền cho các tổ chức ngân hàng thương mại hoặc phi ngân hàng, chẳng hạn như Quĩ Đầu tư Phát triển. Nhưng chính sự lựa chọn dễ dàng này sẽ dẫn đến một di hại là lạm phát sẽ tiếp tục tăng.
Tương tự như năm 2004, lạm phát năm 2007 đến từ nguyên nhân tiền tệ. Chỉ có điều khác biệt là Ngân Hàng Nhà Nước đã mua vào 7 tỉ đô la, tức là tương đương với 112000 tỉ đồng, một khoản tiền quá khổng lồ để bơm vào lưu thông, trong khi mà nền kinh tế không thể hấp thụ nổi ngay một lúc lượng tiền này. Một nguyên chính để lạm phát tăng tốc.
Sang năm 2008, tình hình diễn biến lạm phát trở nên phức tạp hơn bao giờ hết. Tỉ lệ lạm phát năm 2008 là 22%, một con số đã gây ra ảnh hưởng và xáo trộn nền kinh tế. Trong 8 tháng đầu năm 2008, chỉ số lạm phát liên tục gia tăng với tốc độ chóng mặt buộc nhà nước phải có chính sách.
3.2.1. Chính sách của nhà nước.
Với nguyên nhân chính từ hệ thống tài chính tiền tệ, lạm phát tiếp tục gia tăng trong năm 2008. Ngày 7/3 thủ tướng chính phủ đã đưa ra một loạt các chính sách nhằm kiềm chế lạm lạm phát và ổn định tình hình.
Theo đó, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sẽ tiếp tục hỗ trợ vốn cho các ngân hàng thương mại (NHTM) để đảm bảo khả năng thanh toán thông qua hoạt động nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ tái cấp vốn khác. Trước mắt, NHNN ấn định mức trần lãi súat trong giao dịch nghiệp vụ thị trường mở xoay quanh 9 – 10%/năm, điều tiết và ổn định lãi suất liên ngân hàng, lãi suất cho vay và huy động của các NHTM, đảm bảo lãi suất thực dương nhưng không gây trở ngại các nhu cầu vay vốn có hiệu quả.
NHNN sẽ vẫn duy trì tỷ lệ dự trữ bắt buộc hiện tại, tiếp tục thực hiện biện pháp bán tín phiếu NHNN vào ngày 17/3 như đã công bố. Tuy nhiên, nếu NHTM gặp khó khăn về nguốn vốn, NHNN sẽ xem xét lùi thời gian cụ thể đối với từng NHTM.
Trước mắt, vẫn giữ ổn định các mức lãi suất như hiện nay (lãi suất cơ bản 8,75%, lãi suất tái cấp vốn 7,5%/năm, lãi suất chiết khấu 6%/năm).
Về chính sách liên quan đến ngoại tệ, từ ngày 10/3/2008, NHNN mở rộng biên độ mua, bán ngoại tệ của các NHTM so với tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng thêm +/-0,25% (lên +/-1%), kết hợp với điều hành linh hoạt tỷ giá giao dịch liên ngân hàng bình quân.
Bộ Tài chính phối hợp với NHNN thực hiện chuyển số dư tiền gửi của Kho bạc Nhà nước tại NHTM hiện nay về NHNN theo một lộ trình nhất định trong năm 2008, phù hợp với quy định của Luật NHNN, điều kiện thực tế nhằm tạo điều kiện thực hiện tốt việc điều hành tiền tệ, đồng thời tránh sự thiếu hụt đột ngột vốn thanh toán của các NHTM làm ảnh hưởng đến thị trường tiền tệ.
Song song với các chính sách này, NHNN cũng yêu cầu các tổ chức tín dụng ủng hộ và chấp hành các biện pháp về tiền tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng nhằm góp phần kiềm chế lạm phát theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Xây dựng, điều chỉnh kế hoạch kinh doanh năm 2008 cho phù hợp với mục tiêu chủ trương và biện pháp của Nhà nước về kiềm chế lạm phát. Kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2008 tối đa là 30% theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Áp dụng lãi suất huy động vốn ở mức hợp lý phù hợp với chính sách lãi suất thực dương theo cơ chế thị trường và quy định của NHNN.
Đặc biệt, các NHTM không được áp dụng các hình thức khuyến mãi bằng tiền và hiện vật đối với người gửi tiền như là một hình thức cạnh tranh không lành mạnh để thu hút tiền gửi, làm dịch chuyển tiền gửi giữa các NHTM, gây xáo trộn thị trường.
Đây là chính sách có tính quyết định và quan trọng nhất của chính phủ nhằm ngăn chặn lạm phát. Ngoài ra, chính phủ còn đưa ra những chính sách khác để ổn định tình hình và giảm tác động của lạm phát.
Cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng ngân sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách. Đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và đầu tư của doanh nghiệp nhà nước chiếm khoảng 45% tổng đầu tư xã hội. Cắt giảm nguồn đầu tư này sẽ làm giảm áp lực về cầu, giảm nhập siêu, góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Chính phủ sẽ quy định cụ thể tỷ lệ vốn đầu tư và chi phí hành chính phải cắt giảm và yêu cầu các Bộ, địa phương xác định các công trình kém hiệu quả, các công trình chưa thực sự cần thiết để có sự điều chỉnh thích hợp. Điều này sẽ được thực hiện một cách kiên quyết ngay trong việc phân bổ lại và cân đối nguồn vốn. Cũng trên tinh thần đó, Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố với tư cách là đại diện chủ sở hữu nhà nước, rà soát chặt chẽ các hạng mục đầu tư của doanh nghiệp nhà nước, kiên quyết cắt bỏ các công trình đầu tư kém hiệu quả. Đồng thời, tạo điều kiện và tập trung vốn cho những công trình sắp hoàn thành, những công trình đầu tư sản xuất hàng hoá thuộc mọi thành phần kinh tế đẩy nhanh tiến độ, sớm đưa vào sản xuất.
tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, khắc phục nhanh hậu quả của thời tiết và dịch bệnh để tăng sản lượng lương thực, thực phẩm. Tiềm năng tăng trưởng của nước ta còn rất lớn, nhất là khi Việt Nam đã là thành viên đầy đủ của Tổ chức Thương mại thế giới, đầu tư nước ngoài và đầu tư tư nhân tăng mạnh, thị trường xuất khẩu được mở rộng, vì vậy, phát triển sản xuất là giải pháp gốc, tạo hiệu quả nhiều mặt, vừa tăng nguồn cung cho thị trường trong nước và xuất khẩu, góp phần kiềm chế lạm phát, giảm nhập siêu, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lại không gây phản ứng phụ. Để thực hiện yêu cầu này, Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho các Bộ trưởng, Chủ tịch UBND các tỉnh và thành phố chỉ đạo quyết liệt, kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về vốn, về thị trường, về thủ tục hành chính, thúc đẩy sản xuất phát triển.
- Bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hoá, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu. Cân đối cung cầu về hàng hoá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời sống nhân dân là tiền đề quyết định để không gây ra đột biến về giá, ngăn chặn đầu cơ. Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng đã và sẽ tiếp tục làm việc với các Hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng thiết yếu, như: lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, xăng dầu, sắt thép, vật liệu xây dựng, phân bón... giao nhiêm vụ cho các đơn vị này phải bảo đảm nguồn hàng, đồng thời có trách nhiệm cùng Chính phủ kiềm giữ giá cả.
Trong khi kiên trì chủ trương thực hiện cơ chế giá thị trường, xoá bỏ bao cấp qua giá, nhưng trong tình hình hiện tại, mặc dầu giá thế giới tăng cao, Chính phủ đã quyết định: cho đến hết tháng 6, chưa tăng giá điện, giá than, giá xăng dầu; giữ ổn định giá ximăng, phân bón, nước sạch, thuốc bệnh, vé máy bay, tàu hoả; giao Bộ Tài chính rà soát để cắt, giảm các loại phí thu từ nông dân...
Để bảo đảm nguồn cung trên thị trường nội địa, giữ vững an ninh lương thực và kiềm chế sự tăng giá quá mức của nhóm hàng này, Chính phủ quy định lượng xuất khẩu gạo năm ở mức 4 triệu tấn và đến hết quý 3 không quá 3,2 triệu tấn. Chính phủ cũng đã giao Bộ Tài chính đề xuất phương án nâng thuế xuất khẩu than, dầu thô và nghiên cứu khả năng áp dụng thuế xuất khẩu gạo.
Trong điều kiện đồng Đôla Mỹ giảm giá so với đồng tiền các nước là thị trường xuất khẩu lớn của nước ta, việc neo giữ quá lâu tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền Việt Nam và đồng Đôla Mỹ không phản ánh đúng quan hệ thực trên thị trường ngoại tệ. Vì vậy, Chính phủ chủ trương áp dụng tỷ giá linh hoạt với biên độ thích hợp, phản ánh quan hệ cung cầu trên thị trường, giúp cho việc kiềm chế lạm phát nhưng không ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu, bảo đảm việc mua bán, chuyển đổi ngoại tệ diễn ra thuận lợi.
Cán cân thương mại là một chỉ tiêu vĩ mô rất quan trọng. Nhập siêu tăng trong năm 2007 và tăng cao hơn trong quý 1 năm 2008, đã đe doạ đến cân đối vĩ mô, đòi hỏi phải áp dụng các biện pháp kiên quyết để hạn chế tình trạng này trên cơ sở đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu. Để làm việc này, Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt thực hiện nhiều giải pháp: Ngân hàng Nhà nước bảo đảm đủ vốn và mua hết ngoại tệ cho các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu, xử lý ngay các ách tắc về tín dụng xuất khẩu cho từng trường hợp cụ thể; tăng cường hỗ trợ công tác xúc tiến thương mại đối với hàng xuất khẩu; cải cách mạnh thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động xuất khẩu để giảm chi phí cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam đi đôi với việc áp dụng các hàng rào kỹ thuật và các biện pháp khác phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta để giảm nhập siêu, kể cả việc tăng thuế nhập khẩu những mặt hàng không thiết yếu.
- Triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng. Hiện nay, tình trạng lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng diễn ra khá phổ biến ở các cơ quan, đơn vị. Tiềm năng tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng là rất lớn. Vì vậy, Chính phủ yêu cầu các cơ quan nhà nước cắt giảm 10% chi tiêu hành chính, các doanh nghiệp phải rà soát tất cả các khoản chi nhằm hạ giá thành và phí lưu thông. Chính phủ kêu gọi mọi người, mọi nhà triệt để tiết kiệm tiêu dùng, nhất là nhiên liệu, năng lượng. Đây là giải pháp vừa có tác dụng giảm sức ép về cầu, giảm nhập siêu, vừa góp phần nâng cao hiệu quả của cả nền sản xuất xã hội.
Tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm soát việc chấp hành pháp luật nhà nước về giá. Kiên quyết không để xảy ra tình trạng lạm dụng các biến động trên thị trường để đầu cơ, nâng giá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và tiêu dùng, như: xăng dầu, sắt thép, xi măng, thuốc chữa bệnh, lương thực, thực phẩm…; ngăn chặn tình trạng buôn lậu qua biên giới, đặc biệt là buôn lậu xăng dầu, khoáng sản. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải thường xuyên kiểm tra giá bán tại các mạng lưới bán lẻ và các đại lý bán lẻ của doanh nghiệp mình. Chính phủ đã chỉ đạo các Tổng công ty nhà nước phải gương mẫu đi đầu trong việc thực hiện yêu cầu này và chịu trách nhiệm trước Chính phủ về hoạt động của hệ thống bán lẻ và đại lý bán lẻ của doanh nghiệp. Chính phủ cũng yêu cầu các Hiệp hội ngành hàng tham gia tích cực, ủng hộ các chủ trương và giải pháp bình ổn thị trường, giá cả.
- Mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội.
Trước tình hình giá cả tăng cao, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân, nhất là vùng nghèo, hộ nghèo, vùng bị thiên tai, người lao động có thu nhập thấp, Chính phủ đã chủ trương mở rộng các chính sách về an sinh xã hội.
Chính phủ đã quyết định tăng 20% mức lương tối thiểu cho những người lao động thuộc khối cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội từ ngày 01 tháng 01 năm 2008. Chính phủ cũng quy định điều chỉnh mức lương tối thiểu theo hướng tăng lên đối với lao động Việt Nam làm việc cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế và cá nhân người nước ngoài tại Việt Nam, lao động làm việc ở công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các tổ chức khác của Việt Nam có thuê mướn lao động. Riêng với người lao động đã qua học nghề (kể cả lao động do doanh nghiệp tự dạy nghề), mức lương tối thiểu quy định cao hơn ít nhất 7% so với mức lương tối thiểu vùng. Ngoài ra, khoảng 1,8 triệu người về hưu và người hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội đã được tăng lương 20%, hơn 1,5 triệu người có công đã được điều chỉnh trợ cấp lên 20% so với mức chuẩn hiện hành.
Hiệu quả của chính sách.
Với những chính sách đưa ra, đã đem lại những kết quả tích cực và khả quan. Tăng trưởng GDP cả năm ước đạt khoảng 6,5 - 7%; GDP bình quân đầu người đạt trên 1.000 USD. Thu ngân sách năm 2008 vượt dự toán. Cán cân thanh toán quốc tế được bảo đảm; ước cả năm 2008 thặng dư khoảng 2,7 tỷ USD. Từ tháng 6 năm 2008, mức tăng giá tiêu dùng đã giảm dần, tháng 9 tăng 0,18%, tính chung 9 tháng giá tiêu dùng tăng 21,87%, dự báo cả năm 2008 tăng khoảng 24%. Xuất khẩu năm 2008 tăng cao. Kim ngạch xuất khẩu 9 tháng đạt 48,6 tỷ USD tăng 39% so với cùng kỳ năm 2007 (cùng kỳ tăng 19,4%); ước cả năm đạt trên 65 tỷ USD, tăng 33,9% là mức tăng cao nhất trong 10 năm qua (năm 2007 tăng 21,9%). Đầu tư trực tiếp nước ngoài cả năm có số vốn đăng ký trên 60 tỷ USD, gấp khoảng 3 lần so với năm 2007, vốn thực hiện khoảng 10 - 11 tỷ USD.
Quan trọng hơn cả, những chính sách này mang lại tác kết quả lâu dài, ổn định trong tương lai. Sang năm 2009, lạm phát đã nằm trong dự toán và được kiểm soát, chỉ số CPI là 6,52% so với tháng 12/2008 và bình quân cả năm chỉ tăng 6,88% so với 2008. Tốc độ tăng trưởng là 5,2% và tỉ lệ thất nghiệp được kiểm soát khi mà nền kinh tế thế giới đang trong khủng hoảng. Cũng trong năm 2009, chủ trương phát triển thị trường trong nước, khuyến khích người Việt dùng hàng Việt đã góp phần tích cực giải quyết khó khăn cho nhiều doanh nghiệp trong tiêu thụ sản phẩm. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tăng 18,6% so với năm 2008, nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì vẫn tăng hơn 10%. Thị trường trong nước phát triển không những là một trong những yếu tố quyết định duy trì tăng trưởng kinh tế năm 2009 mà còn cho thấy đây là một thị trường rất tiềm năng, có khả năng và triển vọng phát triển nhanh, bền vững nếu chúng ta có những chiến lược và kế hoạch, cách thức khai thác hiệu quả.
Về mặt xã hội, các chính sách của chính phủ đã góp phần ổn định giá cả, giảm tình trạng đầu cơ tích trữ, tránh việc giá các mặt hàng tiêu dùng tăng quá cao, ảnh hưởng đến đời sống nhân dân. Chính sách tăng lương, và mở rộng chính sách an sinh xã hội giúp bình ổn tâm lý người dân, đặc biệt là những người nghèo, và người có thu nhập thấp. Không để tình trạng bất bình đẳng phân phối gia tăng. Thực hiện chính sách của chính phủ, các bộ, nghành, địa phương đã tích cực, kịp thời giải quyết tình trạng thiếu đói, hỗ trợ sản xuất, sinh hoạt và đời sống cho đồng bào các dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách, khó khăn. Giữ ổn định mức thu học phí, viện phí, tiếp tục cho sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn để học tập, tăng mức hỗ trợ mua bảo hiểm cho người nghèo, đảm bảo cung – cầu các mặt hàng thiết yếu phục vụ nhân dân. Chính phủ đã cấp hơn 7300 tỷ đồng để thực hiện các chính sách an sinh xã hội.
Chính sách chưa thật sự hoàn thiện.
Các chính sách của chính phủ đưa ra tương đối chậm so với tình hình, chỉ khi tình hình trở nên nghiêm trọng thì mới có phản ứng nên không thể hiện được hết tính hiệu quả. Mặc dù với rất nhiều cố gắng tuy nhiên các chính sách của chính phủ chưa được hoàn thiện.
- Một là: Do nới lỏng tỷ giá hối đoái có thể dẫn đến đồng tiền Việt Nam (VND) bị đánh giá quá cao.
Hàng xuất khẩu tăng giá sẽ ảnh hưởng đến xuất khẩu vì 90% hàng xuất khẩu của nước ta thanh toán bằng USD. Nhập siêu tăng, theo bộ tài chính thì 7 tháng đầu năm 2008 cán cân thương mại thâm hụt, mức nhập siêu tăng cao lên tới hơn 15 tỷ USD bằng gần 70% kim ngạch xuất khẩu.
Trong 7 tháng đầu năm 2008, ngân hàng nhà nước tỏ ra lúng túng trong điều hành quản lý ngoại tệ vì trong khi chỉ đạo bắt buộc các ngân hàng thương mại chỉ được mua vào USD với giá sàn cao hơn nhiều so với giá thị trường để duy trì tỉ giá danh nghĩa thì ngân hàng nhà nước lại không mua lại số ngoại tệ này theo giá sàn chỉ đạo khiến các ngân hàng thương mại từ chôí mua USD. Điều này đã gây ra tác động ngược chiều: lạm phát tiền VND bị đẩy cao trong khi các nhà đầu tư nước ngoài thiếu VND nhưng lại thừa USD, trong khi dự trữ ngoại tệ của nhà nước ta vẫn còn mỏng.
- Hai là: Lãi suất ở Việt Nam là lãi suất thực âm.
Để chống được lạm phát thì một trong các nguyên tắc căn bản là phải thức hiện lãi suất thực dương ( tức là lãi suất tiền cho vay của các ngân hàng phải cao hơn lãi suất huy động và lãi suất huy động phải cao hơn lạm phát, trên thực tế thì từ năm 2007 đến nay, các ngân hàng của nước ta chỉ đảm bảo được một chiều là lãi suất cho vay cao hơn lãi suất huy động, còn lãi suất huy động lại thấp hơn hẳn so với mức lạm phát. Điều này đã dẫn tới chính sách lãi tiền gửi thực âm ( chứ không phải thực dương ), khiến đồng tiền Việt Nam bị mất giá và kéo dài tình trạng thừa tiền trong lưu thông, tính thanh khoản của các ngân hàng yếu, hoạt động cho vay tắc nghẽn vì lãi suất huy động thấp hơn mức lạm phát.
Tuy rằng sau đó NHNN đã điều chỉnh: Không khống chế lãi suất tiền gửi mà khống chế trần lãi suất cho vay nhưng việc vay vốn của các doanh nghiệp vẫn rất khó khăn.
- Ba là: Chính sách tiền tệ thắt chặt làm cho thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản sụt giảm mạnh, ảnh hưởng đến vấn đề nợ đọng, tính thanh khoản và độ an toàn của hệ thống ngân hàng. Giảm chỉ tiêu tăng trưởng từ 8,5% xuống còn 7% làm giảm tốc độ phát triển, tiền mặt trong xã hội không được đưa vào đầu tư gây ứ đọng vốn, nguy cơ gây ra lạm phát ở các chu kỳ sau. Giảm tăng trưởng là biện pháp trước mắt nhưng về lâu dài thì nó lại là nguy cơ tiềm ẩn lạm phát do sản xuất kinh doanh kém phát triển không tương ứng với nhu cầu xã hội. Mặt khác sản xuất không phát triển kéo theo thất nghiệp, không giải quyết việc làm được cho xã hội gây nên tác động ngược chiều trong kiềm chế lạm phát.
Các nguyên nhân chủ yếu gây ra lạm phát năm 2004 – 2008.
Một là, sự tăng lên liên tục của tổng cung và tổng cầu trong dài hạn tạo nên tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đồng thời đã kéo theo sự tăng lên không ngừng trong mức giá. Mặt khác, do năng lực sản xuất (tổng cung) tăng chậm hơn so với tốc độ tăng của tổng cầu nên đã đẩy mức giá tăng cao hơn đáng kể so với tốc độ tăng trưởng kinh tế .
Có thể thể hiện xu hướng này bằng Biểu đồ.
AS
AS
AS
P
E2
P2
E3
P3
E1
P4
AD2
AD1
Năm 1996
Năm 2008
GDP
Dịch chuyển của tổng cung và cầu trong dài hạn
Trong dài hạn, đường tổng cung dịch chuyển sang phải khi năng lực sản xuất tăng lên nhờ các yếu tố nguồn lực đầu vào tăng. Ở Việt Nam, các nguồn lực này tăng rất nhanh, đặc biệt là nguồn vốn (năm 1996 mới chỉ đạt 76,450 nghìn tỷ đồng, đến năm 2006, đã tăng lên đến 398,900 nghìn tỷ đồng (tăng hơn 5 lần) và lao động (năm 1996, số lao động thường xuyên có việc làm là 33,978 triệu người, đến năm 2006, đạt 42,542 triệu người), những năm gần đây, mỗi năm tăng thêm 1,5 triệu việc làm. Đường tổng cầu cũng dịch chuyển sang phải qua các năm vì: tiêu dùng hộ gia đình (C) tăng (năm 1996 là 202,509 nghìn tỷ đồng; năm 2006, đạt 679,706 nghìn tỷ đồng; năm 2007, đạt 726,1 nghìn tỉ đồng, tăng hơn 3 lần); đầu tư (I) tăng nhanh (như đã đề cập ở trên), chi tiêu chính phủ (G) tăng với tốc độ rất cao (từ 22,722 nghìn tỷ đồng năm 1996 lên 319,110 nghìn tỷ đồng năm 2006 và 368.340 nghìn tỉ đồng vào năm 2007, tăng hơn 13 lần) xuất khẩu ròng (NX) mức độ thâm hụt trong một số năm gần đây có tăng nhưng chưa tác động đáng kể đến việc làm giảm tổng cầu của cả nền kinh tế. Như vậy, xét theo quy luật của nền kinh tế thị trường thì lạm phát của những năm gần đây tăng cao có nguyên nhân tất yếu là do tích luỹ mức giá từ quá trình tăng trưởng liên tục trong nhiều năm qua.
Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây là, do năng lực sản xuất của nước ta tăng chậm hơn tốc độ tăng của tổng cầu (hay nói cách khác là cung thay đổi không kịp so với cầu) đã đẩy mức giá tăng nhanh hơn đáng kể so với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Điều này được thể hiện trên biểu đồ đã nêu: Nếu năng lực sản xuất của nước ta tăng nhanh hơn mức tăng thực tế trong những năm qua thì đường tổng cung AS1 (tổng cung thực tế của năm 1996) chuyển dịch mạnh hơn sang bên phải tới vị trí AS3 (giả sử đó là năm 2007) thay vì vị trí AS2 (thực tế của năm 2007). Tại điểm cân bằng E3 (giao điểm AD2 cắt AS3) với mức giá P3 < P2 mức giá thực tế của nước ta năm 2007.
Điều đặt ra là, nhân tố nào quyết định năng lực sản xuất của nền kinh tế? Các mô hình định lượng đều đã đưa ra kết luận, trong dài hạn, năng lực sản xuất do các yếu tố nguồn lực đầu vào là vốn, lao động, tài nguyên thiên nhiên và công nghệ quy định, trong đó công nghệ đóng vai trò quyết định nhất.
Vận dụng lý thuyết trên rất phù hợp cho việc lý giải nền kinh tế nước ta trong thời gian qua: do công nghệ sản xuất của Việt Nam xuất phát từ trình độ thấp và rất chậm được cải thiện, hầu hết công nghệ sản xuất của các doanh nghiệp hiện nay ở mức trung bình và lạc hậu so với khu vực và thế giới (chỉ có khoảng 20% đạt trình độ tiên tiến) nên năng lực sản xuất của chúng ta còn rất hạn chế, đặc biệt là các ngành sản xuất cung cấp sản phẩm trung gian cho nền kinh tế. Điều này đã dẫn đến tổng cung thiếu hụt đáng kể so với tổng cầu và đã đẩy mức giá lên cao hơn hơn đáng kể so với tốc độ tăng của nền kinh tế.
Như vậy, lạm phát của nước ta trong thời gian gần đây tăng đột biến không chỉ là hệ quả tích luỹ của quá tăng trưởng dài hạn mà còn là kết quả của năng lực sản xuất yếu kém do tích tụ của trình độ công nghệ thấp và chậm được cải thiện trong nhiều năm qua.
Hai là, do nhu cầu nhập khẩu lớn và ngày càng tăng trong khi giá cả các mặt hàng ngày tăng nhanh nên nước ta đã nhập khẩu cả tỷ lệ lạm phát từ các nước khác, đặc biệt là từ Trung Quốc. Năng lực sản xuất tăng chậm hơn so với nhu cầu, đặc biệt là nhu cầu về các đầu vào của sản xuất như thép, xăng dầu, phân bón, nguyên liệu phụ kiện của nhiều ngành, nên chúng ta đã phải nhập khẩu rất lớn và với tốc độ ngày càng cao (trung bình trong thời gian dài, đạt trên 20%/năm và 3 tháng đầu năm 2008, tăng trên 40% so với đầu năm 2007), thâm hụt cán cân thương mại tăng nhanh (3 tháng đầu năm 2008, nhập siêu lên tới trên 7 tỷ USD, cao gần 1,4 lần so với cả năm 2005). Với mức giá của hầu hết các mặt hàng nhập khẩu, trong mấy năm gần đây, đã tăng đột biến nên đã gây tác động rất lớn đến việc tăng lên trong mặt bằng giá cả ở Việt Nam. Đặc biệt, nước ta nhập khẩu hàng hoá từ thị trường Trung Quốc với một tỷ trọng đáng kể, trong khi nước này cũng đang trong tình trạng lạm phát cao, dẫn đến Việt Nam đã nhập khẩu thêm cả lạm phát của Trung Quốc.
Từ thực tế trên cho thấy, với tốc độ mở cửa nền kinh tế như Việt Nam, nếu sản xuất trong nước tiếp tục phụ thuộc lớn vào nhập khẩu thì khả năng kiềm chế lạm phát sẽ hết sức khó khăn trước những biến động bất thường trên thị trường thế giới.
Ba là, do những bất cập trong điều hành kinh tế vĩ mô trong thời gian qua không chỉ làm giảm hiệu quả của chính sách cắt giảm lạm phát mà còn kích thích kỳ vọng lạm phát cao trong dân chúng.
Do thiếu sự phối hợp chặt chẽ và thiếu ăn khớp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá đã làm suy giảm đáng kể hiệu quả kiềm chế lạm phát ở nước ta. Vấn đề cần phải đề cập thêm ở đây là, cách công bố và thực thi nhiều chính sách trong thời gian qua, đã có tác động kích thích kỳ vọng lạm phát cao. Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến xu hướng “hình thành một mặt bằng giá mới ở Việt Nam”. Tiêu biểu cho tác động trên có thể kể đến chính sách tiền lương. Quan sát thực tế ở nước ta trong thời gian qua đều cho thấy: khi có nguồn tin Nhà nước sẽ điều chỉnh tiền lương tối thiểu thì chỉ sau một thời gian rất ngắn, hầu hết giá cả hàng hoá đều tăng lên: người tiêu dùng sợ giá cả tăng nên tăng mức mua hàng hoá, làm tăng thêm mất cân đối cung cầu trên thị trường, nhiều doanh nghiệp lợi dụng thực tế này, cộng thêm việc suy tính khả năng tăng giá các đầu vào có thể xẩy ra, đã tăng giá bán ra. Đặc biệt, ở nước ta khi nhận thức còn hạn chế, tâm lý đám đông rất phổ biến nên đã kích thích mạnh mẽ đến thị trường và giá cả trong nền kinh tế. Nhiều nghiên cứu đã kết luận rằng, nếu như tác động của các chính sách của Nhà nước lên các chỉ số khác có độ trễ nhất định thì đối với lạm phát, phản ứng về tâm lý tăng nhanh hơn rất nhiều.
Việc điều chỉnh tiền lương danh nghĩa để góp phần cải thiện (hoặc chí ít là không làm suy giảm) mức sống của người lao động là chính sách cần thiết, phải coi đó là một việc làm thường xuyên và hết sức bình thường của các cơ quan chức năng. Tuy nhiên, việc lựa chọn thời điểm thực hiện và cách thực hiện phải hết sức thận trọng để tránh kích thích, tăng mặt bằng giá của nền kinh tế. Không nên đưa tin tăng lương trên phương tiện thông tin đại chúng nhưng sau một thời gian dài rồi mới thực hiện. Bởi vì, với sự hình thành mặt bằng giá mới, khi đồng lương danh nghĩa tăng thêm đến tay người lao động thì giá cả đã tăng cao hơn nhiều so với mức tăng lương, việc điều chỉnh tiền lương trở nên mất ý nghĩa.
Bên cạnh đó, giá cả tăng lên còn tạo ra sự bất ổn trong môi trường kinh tế xã hội và điều đó đến lượt nó lại có tác động tiêu cực đến hoạt động kinh doanh. PHẦN III. CÁC GIẢI PHÁP LINH HOẠT TRONG KIỀM CHẾ LẠM PHÁT CHO VIỆT NAM.
Một là về phía Đảng và Nhà nước: là Đảng cần nâng cao nhận thức chính trị, nhận thức kinh tế cán bộ, Đảng viên theo hướng đổi mới. Không được trang bị tư duy mới, kiến thức mới thì cán bộ không thể thực hiện được những yêu cầu đổi mới trên mọi lĩnh vực. Đồng thời Nhà nước phải vững mạnh chuyên chính vô sản, lập lại trật tự kỷ cương xã hội, giữ vững phép nước phải kiên quyết thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong hệ thống Đảng và các cơ quan Nhà nước, đấu tranh không khoan nhượng, xoá bỏ những đặc quyền, đặc lợi, nhưng tư tưởng cục bộ địa phương đang làm trì trệ, tê liệt những chủ trương chính sách của Nhà nước. Để làm việc này, Nhà nước cần ban hành những đạo luật chung về kinh tế, các đạo luật cụ thể về giá cả, lao động, tài chính, ngân hàng… làm cơ sở thống nhất cho việc thi hành trong cả nước đồng thời phải đề cao chức năng thoái soát kiểm kê của Nhà nước đối với các hoạt động kinh tế, hoạt động xã hội.
Hai là: Thực hiện chính sách tài chính – tiền tệ năng động và hiệu quả.
Thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt nhưng linh hoạt. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần chủ động, linh hoạt trong việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường, kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng nhưng phải bảo đảm tính thanh khoản của nền kinh tế và hoạt động của các ngân hàng, tổ chức tín dụng. Sử dụng linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ để giảm dần lãi suất huy động theo hướng thực hiện chính sách lãi suất thực dương. Tăng cường kiểm soát và giám sát chặt chẽ hoạt động của các ngân hàng thương mại để bảo đảm việc tuân thủ đúng các quy định về huy động, cho vay và chất lượng tín dụng. Kịp thời phát hiện, xử lý các vi phạm theo đúng quy định của pháp luật để giảm thiểu rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
+ Hạ lãi suất cho vay để khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất trong nước và xuất nhập khẩu, cung cấp hàng hóa cho nền kinh tế.
+ Đổi mới cơ chế quản lý ngoại hối, hạ cơn sốt ngoại tệ
+ Đổi mới cơ cấu và phương thức cân đối ngân sách, cải tiến việc phân cấp quản lý ngân sách
+ Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý, giáo dục. Việc thực hiện giải pháp này không nằm ngoài nội dung hoàn thiện chính sách lãi suất.
Giảm hoặc rút bớt về một khối lượng lớn giấy bạc. Để thực hiện được điều này, chính phủ và ngân hàng thường sử dụng các hình thức thu hút vốn vào quỹ ngân hàng như sau :
- Khuyến khích doanh nghiệp, cá nhân gửi tiền vào ngân hàng (kể cả tiền gửi tiết kiệm của người dân ) bằng cách nâng cao mức lãi suất trên mức lạm phát , với sự sụt giá đồng bảng và chính sách bảo vệ bảo hiểm giá trị đồng vốn gửi vào ngân hàng.
- Thu hẹp khả năng thanh toán cuối cùng các hối phiếu hoặc kỳ phiếu thương mại đối với ngân hàng thương mại thông qua việc hạn chế chiết khấu và nâng cao tỷ lệ quỹ vốn lao động.
- Ấn định giá hối đoái, hợp lý đồng bạc quốc gia theo chế độ một giá hối đoái và thực hiện nghiêm ngặt điều kiện quản ký ngoại hối, biện pháp náy cho phép ngân hàng nhà nước thu về một khối kượng tiền tệ đáng kể trên thị trường tăng thu nhập ngân sách, đó là cách để bù đắp một phần thiếu hụt cán cân thi chi ngân sách.
- Hạn chế và thu hẹp tín dụng ngân hàng nói chung, nhất là tín dụng do hoạt động thương mại thuần tuý, hối đoái trong điều kiện sản xuất là sản xuất hàng tiêu dùng bị đình đốn. Song có thể ra tăng khối lượng tiêu dùng ngắn hạn hướng vào sản xuất háng tiêu dùng thiết yếu bằng số ngoại tệ thu được qua xuất khẩu, cung ứng dịch vụ đối ngoại hoặc vay nợ viện trợ. Biện pháp này có thể giảm đi một khối lượng tiền tệ đáng kể do việc buôn bán vòng vèo, ăn chênh lệch giá mà bấy lâu nay không kiểm soát nổi. Mặt khác do hướng tín dụng ngân hàng có lựa chọn và chú trọng tính hiệu quả của nó có thể tạo ra một khối lượng hàng hoá nhất định bán và thu tiền về, đồng thời giảm đi một khối lượng đáng kể số tiền sẽ chi cho các kỳ phiếu thương mại giữa ngân hàng và khách hàng cũng như các hoạt động tái chiết khấu và tín dụng cuối cùng của ngân hàng nhà nưóc và ngân hàng thương mại.
- Để hạn chế và điều hoà tín dụng, ngân hàng Trung ương thường sử dụng các biện pháp : tăng hay giảm lãi suất để giảm hay tăng khối lượng tín dụng, nghĩa là đối với công cụ lãi suất này sẽ khuyến khích hoặc hạn chế trong hoạt động kinh doanh, thực hiện mua hay bán các chứng khoán tại thị trường bỏ ngỏ.
- Tích cực thu hút ngoại tệ trong dân bằng việc khuyến khích gửi tiết kiệm ngoại tệ với lãi suất hấp dẫn. Thực hiện tỷ giá hối đoái linh hoạt giữa tiền việt với một số ngoại tệ, nhất là ngoại tệ mạng chi phối hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam như USD, EURO, yên, nhân dân tệ… đảm bảo tác động khách quan vào xuất nhập khẩu, không gây thiệt hại chung cho nền kinh tế. Khuyến khích chi tiêu không dùng tiền mặt.
- . Ngân hàng Nhà nước cần có cơ chế kiểm tra giám sát các ngân hàng thương mại, nhất là những ngân hàng thương mại lớn trong việc xây dựng và thực hiện các biện pháp tăng vòng quay đồng tiền, quản lý lượng cung tiền cho lưu thông. Nếu không quản lý và tăng vòng quay tiền tệ sẽ hoàn toàn bị động trong quản lý lượng tiền mặt trong lưu thông, lượng tiền sẽ tăng lên nhiều gây ra những hậu quả xấu và dẫn tới lạm phát thường trực. Mặt khác phải xác định được lượng tiền thực có trong lưu thông, xây dựng chỉ tiêu vòng quay tiền, lấy đó làm mục tiêu phấn đấu của toàn ngành. Trên cơ sở đó, Ngân hàng Nhà nước chủ động giảm lượng tiền trong lưu thông nhằm thúc đẩy các ngân hàng thực hiện các giải pháp tăng vòng quay đồng tiền của mình. Như vậy lượng tiền sẽ được cung ứng trong giới hạn an toàn đối với nền kinh tế.
Ba là điều chỉnh giá cả và sự quản lý của nhà nước.
Nhà nước thả nổi giá cả hầu hết các mặt hàng, giờ đây giá cả hàng hoá do thị trường định đoạt. Nhà nước chỉ dừng lại ở mức quy định một ít mặt hàng theo giá của nhà nước đưa ra. Từ năm 1989, giá cả hầu hết các hàng hoá được thị trường xác định, đến nay nhà nước chỉ còn xác định giá cước tải liên lạc, giá năng lượng, xăng dầu. Một số mặt hàng quan trọng nhà nước can thiệp bằng các biện pháp kinh tế tích cực chẳng hạn như giá gạo hạ thấp, nhà nước bỏ tiền ra mua với giá cao hơn thị trường tự do để giữ vững và khuyến khích sản xuất nông nghiệp, giá vàng lên cao, ngân hàng nhà nước bán vàng ra thị trường với mức giá thấp hơn để kéo giá vàng hạ xuống. Với giải pháp này, nhà nước đã xoá bỏ tình trạng ngân sách phải bao cấp cho các xí nghiệp và các tổ chức kinh tế.
Nhà nước Việt Nam cho phép ngân hàng quốc gia được xác định tỷ giá ngoại tệ xấp xỉ với thị trường tự do, biện pháp này có tác dụng xoá bỏ hiện tượng đầu cơ vàng và ngoại tệ gây rối loạn thị trường. Hiện nay, nhà nước cùng với ngân hàng Trung ương đang tiến dần đến việc điều chỉnh giá vàng và giá đô la thoe mức giá cả của thị trường thế giới, đây là một trong những kế hoạch hoà nhập kinh tế Việt Nam với thế giới.
Bên cạnh đó, nhà nước mở rộng quyền xuất nhập khẩu mở cửa biên giới khuyến khích các nguồn nhập khẩu vào Việt Nam đã làm cho thị trường ngày càng phong phú, làm cho cung và cầu cân bằng hơn. Việc nhập khẩu vào Việt Nam còn có tác dụng gây sức ép với hàng hoá trong nước buộc họ phải nâng cao chất lượng để đáp ứng thị hiếu của khách hàng, hoạt động nhập khẩu cần có nhiều vốn ngoại tệ, từ đó mà xuất khẩu gia tăng. Nhà nước sớm thực hiện chính sách bảo hộ một số nghành trong nước, việc này không có nghĩa là cấp nhập khẩu mà là đầu tư vốn, kỹ thuật để chất lượng hàng hoá đạt tiêu chuẩn, giá thành hạ để đủ sức cạnh tranh với thị trường quốc tế.
Bốn là tiết kiệm chi phí sản xuất xã hội và chi tiêu công, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
điều cốt lõi nhất đối với nước ta hiện nay là phải tập trung tăng năng lực sản xuất trong nước mà trọng tâm hàng đầu là phải tăng cường đầu tư để nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế. Muốn vậy, chính sách của Nhà nước phải hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho khoa học và công nghệ; các ngân hàng thương mại phải dành ưu tiên cho các khoản vay để nâng cao trình độ công nghệ và doanh nghiệp phải coi hoạt động đổi mới là vấn đề sống còn của mình. Đông thời bản thân các doanh nghiệp cần tăng cường quản lý sản xuất theo định mức, kiểm tra chặt chẽ các yếu tố đầu vào theo đúng quy cách, phẩm chất, chủ động nghiên cứu tìm vật tư thay thế với chi phí thấp, nhất là với nguyên vật liệu nhập khẩu. Hoàn thiện, đổi mới trong công nghệ sản xuất cũng như trong quản lý. Chính phủ sẽ phải điều chỉnh chính sách tài khóa theo hướng kiểm soát chặt chẽ, nâng cao hiệu quả chi tiêu công gồm tăng thu ngân sách vượt dự toán, giảm chi phí hành chính. Các hạng mục đầu tư sẽ được rà soát chặt chẽ. Cắt bỏ công trình đầu tư kém hiệu quả, tập trung vốn cho những công trình sắp hoàn thành. Sử dụng chính sách tài khóa hiệu quả hơn nửa, trong năm 2010 trọng tâm trong ngắn hạn của chính sách tài khóa là giữ vững mức động viên vào ngân sách Nhà nước (NSNN) khoảng một phần tư GDP, không giảm nhưng cũng không được tăng để không tăng thêm gánh nặng huy động vào NSNN cho nền kinh tế. Bên cạnh đó, giảm đến mức thấp nhất và tiến tới xóa bỏ sự phân biệt về thành phần kinh tế trong cả thực hiện nghĩa vụ thu nộp NSNN cũng như thụ hưởng các khoản chi NSNN và mang tính chất chi NSNN.
Tiếp nửa là giảm mức độ thâm hụt NSNN trong lộ trình tiến tới cân bằng cán cân NSNN trong dài hạn. Trước mắt, chấm dứt chính sách nới lỏng tài khóa, nhất là nới lỏng thông qua tăng chi đầu tư phát triển, đồng thời xúc tiến chương trình cơ cấu lại chi NSNN theo hướng: ưu tiên đáp ứng đủ chi thường xuyên gắn với cải cách hành chính, tinh giản bộ máy và cắt giảm thủ tục; chi đầu tư phát triển hướng vào thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế; bảo đảm chi trả nợ đầy đủ, trong kế hoạch có thể bố trí trả nợ trước hạn.
Bên cạnh đó, chính sách quản lý nợ, cả nợ công và nợ nước ngoài nên theo hướng không làm tăng quy mô nợ, đồng thời quản lý nợ trên cơ sở bảo đảm hiệu quả cả vay và sử dụng các khoản nợ, đặc biệt chú trọng quản lý rủi ro về vay nợ, vừa tránh tình trạng không phát hành được các công cụ nợ, vừa không sử dụng được nguồn thu từ các công cụ nợ đã phát hành như trong mấy năm gần đây.
Năm là chính phủ thực hiện bán trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc cho dân, thu hồi tiền mặt.
Hoạt động này có tác động rất tích cực làm giảm nhanh lượng tiền mặt trong lưu thông và có tác động trực tiếp đến giảm lạm phát. Trong nhưng trường hợp cần thiết không nên đấu thầu trái phiếu và tín phiếu qua trung gian. Ngân Hàng Nhà Nước, Kho Bạc Nhà Nước nên bán trực tiếp cho nhân dân. Bán trực tiếp sẽ tránh được các khâu trung gian nên mức lãi suất với người mua sẽ cao hơn, thu hút được nhiều người tham gia.
- sáu là chính sách tiền lương phải cần nghiên cứu kỹ lưỡng để đưa ra cách thực hiện phù hợp, nhằm định hướng cho dân chúng có kỳ vọng hợp lý, nhất là đối với vấn đề giá cả.
Chính sách tiền lương có ảnh hưởng rất lớn tới tâm lý người dân lao động có thu nhập, bởi thế nó ảnh hưởng tới tâm lý tiêu dùng, giá cả thị trường. Nên đưa ra chính sách này vào thời điểm phù hợp, tránh gây ra ảnh hưởng tiêu cực trái chiều tác động đến biến đổi giá cả.
bẩy là sử dụng chính sách kịp thời.
chúng ta cần sự đề phòng và có sự chuẩn bị trước khi dự báo tình hình tương lai. Khi đưa ra chính sách phải nhanh chóng, kịp thời ngay từ đầu, tránh việc trì hoàn để tình hình trở nên nghiêm trọng. Với việc cung tiền cần sự chính xác và tính toán cẩn thẩn, việc cung tiền đột ngột và quá lớn sẽ gây ra việc nền kinh tế không kịp hấp thụ, ứ đọng tiền trong lưu thông.
Ngoài các giải pháp nói trên, Nhà nước ta một mặt cũng cần có biện pháp tích cực kiềm chế mức độ tăng giá từ các yếu tố độc quyền, lũng đoạn thị trường, mặt khác cần có giải pháp tích cực về tài chính tiền tệ, bảo đảm tăng thu, giảm chi, nâng cao khả năng đáp ứng vốn tín dụng ngân hàng cho nhu cầu hợp lý của doanh nghiệp, hộ gia đình, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, nhất là xuất khẩu, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng cao và tạo số đông việc làm mới cho người lao động. Đó là giải pháp tích cực để kiềm chế lạm phát, chứ không chỉ tính đến thắt chặt tín dụng, quá thiên về kênh bao cấp qua ngân sách Nhà nước đối với nhiều lĩnh vực, giảm cơ chế xin cho. Từ việc tăng thu, hạn chế chi trợ cấp cho doanh nghiệp, sẽ có thêm nguồn để trợ cấp cho người hưởng lương hưu và hưởng trợ cấp xã hội.
KẾT LUẬN
Lạm phát, với bất kỳ quốc gia hay nền kinh tế nào cũng là một vấn đề hết sức phức tạp cần phải đối phó. Làm sao để có thể vừa kìm chế lạm phát, vừa có thể duy trì tăng trưởng hợp lý luôn làm đau đầu mọi nhà kinh tế. Đặc biệt đối với những nước đang phát triển như nước ta, tác động của lạm phát gây tổn hại to lớn mọi mặt kinh tế và xã hội. Mặc dù đã có nhiều chính sách và biện pháp được đưa ra, nhưng vẫn chưa đạt được hiệu quả cần thiết. Bởi thế chúng ta cần hoàn thiện hơn nửa chính sách của đất nước, đề phòng và dự báo trước được những tác động kinh tế có thể mang lại. Có thế, mới đem lại sự phát triển bền vững và ổn định cho Việt Nam chúng ta.
TÀI LIỆU SỬ DỤNG.
Số liệu từ Tổng Cục Thống Kê, Niên Giám Thống Kê.
Tạp chí kinh tế và dự báo số 6.
Cổng thông tin điện tử chính phủ, “ kết quả thực hiện nhóm giải pháp”
Nghị quyết 10/2/2008 NQCT – 17/4/2008 về các biện pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô đảm bảo an sinh xã hội của chính phủ.
Đánh giá của Giám Đốc VCCI Cần Thơ: Võ Hùng Dũng.
.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31431.doc