MỤC LỤC
Chương I: Lý luận chung về lạm phát 5
1.1. Lạm phát 5
1.1.1. Khái niệm 5
1.1.2.Các phép đo lường 6
1.1.3. Phân loại 8
1.1.4. Các biểu hiện 8
1.1.5.Nguyên nhân 10
1.2.Ổn định tiền tệ 11
1.2.1. Khái niệm 11
1.2.2. Các biện pháp ổn định tiền tệ 11
Chương II: Thực trạng lạm phát ở Việt Nam 22
2.1.Tổng quan tình hình lạm phát của Việt Nam 22
2.1.1 Từ 1951 đến 1988 22
2.1.2 Từ 1988 đến nay 27
2.2 Nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam 32
2.2.1 Các nguyên nhân chính từ bối cảnh kinh tế toàn cầu 32
2.2.2Các nguyên nhân chính từ nội tại nền kinh tế 35
Chương III. Giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam 41
3.1 Dự báo về lạm phát Việt Nam trong thời gian tới 41
3.2. Định hướng 42
3.2.1. Định hướng chiến lược ở Việt Nam từ nay đến năm 2015 42
3.2.2 Định hướng tăng trưởng kinh tế GDP từ 2015-2020. Định hướng duy trì 43
3.3. Giải pháp kiểm soát và kiềm chế lạm phát ở Việt Nam 45
3.3.1 Giải pháp kiểm soát và kiềm chế lạm phát ở Việt Nam 45
3.3.2. Một số kiến nghị đối với chính phủ 50
Chương IV: Kết luận 54
Tài liệu tham khảo 55
55 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2268 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lạm phát tiền tệ ở Việt Nam biện pháp khắc phục và khiềm chế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiền.
Quản lý và hạn chế thật mạnh khả năng “tạo tiền” của ngân hàng thương thương mại bằng cách tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, xiết chặt tín dụng.
Nâng cao lãi suất tín dụng để thu hút tiền mặt trong nền kinh tế-xã hội, làm giảm lượng tiền cung ứng, mặt khác, nâng cao lãi suất tín dụng cũng làm giảm khả năng mở rộng tín dụng của ngân hàng thương mại.
Trường hợp cần thiết có thể áp dụng biện pháp cải cách tiền tệ, phát hành tiền mới thu hồi tiền cũ, lập lại trật tự trong lưu thông tiền tệ.
-Biện pháp với tài chính ngân sách: áp dụng biện pháp về tài chính ngân sách có ý nghĩa quan trọng và then chốt, bởi vì người ta đều đồng ý rằng sau khủng hoảng của hệ thống tài chính Nhà Nước, ngân sách bị thâm hụt là nguyên nhân chính của lạm phát, do đó nếu dập tắt được nguyên nhân này thì tiền tệ sẽ ổn định, lạm phát được kiểm soát.
Trước hết phải tìm cách để giảm dần bội chi tiền tạo thăng bằng thu chi ngân sách bằng cách tiết kiệm chi, nhất là những khoản chi cho bộ máy quản lý hành chính, những khoản chi chưa thật cấp thiết cũng cần phải cắt bớt hoặc giảm thiểu để làm giảm sự căng thẳng của ngân sách.
Tăng cường bồi dưỡng và mở rộng các khoản thu từ nền kinh tế, chống thất thu thuế, đồng thời phải thực hiện thu đúng, thu đủ, công bằng để không gây ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất và đời sống.
Sử dụng tín dụng nhà nước bằng cách vay trong nước và nước ngoài.
Trong nước phát hành trái khoán Nhà nước ngắn hạn, trung và dài hạn như tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ…Tăng các khoản vay và viện trợ từ bên ngoài với các điều kiện ưu đãi.
-Ngăn chặn sự leo thang của giá cả: Sự leo thang của giá cả do tác động bởi nhiều yếu tố như sản xuất xuất kém, cung cầu hàng hóa trên thị trường mất cân đối làm giá cả hàng hóa bị đẩy lên cao, cũng có thể do lượng tiền cung ứng tăng cao hơn tố độ tăng của sản xuất, ngoài ra còn có yếu tố tâm lý, đầu cơ…
Việc áp dụng các biện pháp để ngăn chặn sự leo thang của giá cả trước hết cần phải giải quyết ở khâu lưu thông phân phối như thực hiện mậu dịch tự do, nới lỏng hàng rào thuế quan để đẩy mạnh xuất nhập khẩu hàng hóa.
Có thể can thiệp bằng vàng và ngoại tệ bằng cách bán ra để ổn định giá vàng, giá ngoại tệ, từ đó tạo tâm lý ổn địn giá cả các loại mặt hàng khác. Mặt khác, quản lý thị trường tốt, chống buôn lậu, chống độc quyền, tranh mua tranh bán…
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
Tổng quan về tình hình lạm phát ở Việt Nam
2.1.1 Từ 1951 đến 1988
2.1.1.1. Từ 1951 đến 1976
Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chủ tịch đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, nhưng chính phủ không quốc hữu hóa được Ngân hàng Đông Dương và cũng không thành lập mới được Ngân hàng cho chính quyền cách mạng.
Đến năm 1951 Ngân hàng của Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa được thành lập.
Đến năm 1954 Hiệp định GENEVE chia Việt Nam thành hai vùng với hai chế độ chính trị và kinh tế khác nhau:
Kinh tế Việt Nam Cộng hòa
Chỉ giá chung của nền kinh tế Việt Nam Cộng hòa tương đối ổn định trong thời kỳ trước 1965. Những năm 1957-1958 và 1960, chỉ giá chung không những không tăng mà còn giảm (hiện tượng giảm phát). Sang thời kỳ chiến tranh leo thang, chỉ giá chung của nền kinh tế cũng leo thang mà nguyên nhân là chính quyền phải phát hành tiền nhiều hơn để chi tiêu cho chiến tranh và để đổi cho quân đội Mỹ và đồng minh chiến đấu tại Việt Nam Cộng hòa. Trước xu hướng lạm phát tăng tốc, chính quyền đã triển khai một số biện pháp kìm chế, trong đó có biện pháp phá giá tiền tệ đồng thời đẩy mạnh bán ngoại tệ trong dự trữ ngoại hối nhà nước để có thể thu hồi được nhiều hơn số tiền trong lưu thông về ngân khố quốc gia (biện pháp ngày 17-6-1966), tăng thuế (biện pháp ngày 23-10-1969), tăng lãi suất ngân hàng và áp dụng chế độ tỷ giá song song (biện pháp ngày 5-10-1970).
Biểu đồ 2.1 Tỷ lệ lạm phát (%) ở VNCH (áp dụng riêng cho tầng lớp trung lưu và tầng lớp lao động). giai đoạn 1955-1973
Nguồn:
Kinh tế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Sau khi thành lập Ngân hàng, Ngân hàng của Việt Nam Dân chủ cộng hòa hoạt độngc hủ yếu là nhằm phục vụ cho công cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc.Giai đoạn này được xem là giai đoạn không có lạm phát theo quan niệm chính thống của các nước Xã hội chủ nghĩa trong đó có Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
2.1.1.2 Từ năm 1976 đến 1988
Là giai đoạn được coi là không có lạm phát theo quan niệm kinh tế chính trị phổ biến trong các nước xã hội chủ nghĩa đương thời và không được phản ánh trong các thống kê chính thức .Tuy nhiên, trên thực tế ở việt nam khi đó vẵn có lạm phát, thể hiện ỏ sự khan hiếm hàng hoá ,dịch vụ và sự giảm sút của chúng, đồng thời được hi nhận trong sự diễn biến gia tăng giá bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng trên thị trường xã hội trên dưới 20% trên một năm và đó là lạm phát của nền kinh tế kém phát triển và đang trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế , nơi độc quyền nhà nước còn mang đậm tính chất phi kinh tế và được dung dưỡng bởi các chỉ thị của nhà nước và tồn tại thống trị phổ biến trong tất cả các lĩnh vực. Vào thời kỳ này khu vực kinh tế nhà nước chiếm khoảng 85 - 87% vốn cố định, 95% lao động lành nghềmà chỉ tạo ra 30 – 37% tổng sản phẩm xã hội. Trong khi đó khu vực kinh tế tư nhân chỉ chiếm 13,2% sức lao động xã hội và suốt thời kỳ dài trước năm 1986 bị nhiều sức ép kiềm chế , song lại sản xuất ra tới 32 – 43% tổng sản phẩm xã hội và đạt hiệu quả kinh tế cao nhất so với khu vực kinh tế quốc doanh và hợp tác xã.
Mặt khác lạm phát ở việt nam diễn ra trong suốt nền kinh tế đóng cửa phụ thuộc nhiều vào nguồn viện trợ bên ngoài.Trên thực tế , trước năm 1988 không có đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam. Các biên giới đều bị khép lại với chế độ xuất nhập cảnh cũng như lưu thông hàng hoá rất nghiêm ngặt, phiền phức .Cơ cấu chủ yếu có tính hướng nội ,khép kín ,thay thế hàng nhập khẩu và không khuyết khích xuất khẩu . Cùng với chính sách định hướng phát triển và đầu tư có nhiều bất cập , nên cơ cấu kinh tế Việt Nam bị mất cân đối và không hợp lý nghiêm trọng giữa công nghiệp – nông nghiệp , công nghiệp nặng - công nghiệp nhẹ, nhất là ngành sản xuất hàng tiêu dùng , giữa sản xuất – dịch vụ .
Đó là nguyên nhân dẫn đến tình trạng khan hiếm hàng hoá, dịch vụ, tăng chi phí sản xuất, thiếu hụt ngân sách thiền miên , tăng mức cung tiền không tuân theo quy luật lưu thông tiền tệ…và do đó gây ra lạm phát .
Biểu đồ 2.2 Tỷ lệ lạm phát giai đoạn 1976 - 1986
Nguồn:
Để thực hiện chính sách cai cách giá-lương-tiền của chính phủ ban hành ở quí III năm 1985, Ngân Hàng Nhà nước Việt Nam đã tiến hành đổi tiền tháng 9 năm 1985, việc thu đổi tiền tệ nhằm thực hiện cơ chế cải cách giá-lương-tiền và giảm thiểu tỷ lệ lạm phát đang trên đà leo thang ỏ mức phi mã. Nhưng kết quả của công cuộc đổi tiền lại không như dự kiến và gây ra một cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng, tỷ lệ lạm phát sau khi đổi tiền lại tăng lên tới mức 3 con số vào năm 1986
Vào đầu những năm đổi mới 1986-1988, có sự đổi mới về cơ cấu tổ chức Ngân Hàng và Tài Chính nhưng chưa có hệ thống luật pháp chặt chẽ quy định các hoạt động Tài Chính-Ngân Hàng. Tiền tệ tiếp tục mất giá nhanh. lạm phát vẫn ở mức 3 con số (năm 1986 là 774,7%; năm 1987 là 323,1%, năm 1988 là 393%), các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô mất cân đối nghiêm trọng, đời sống nhân dân gặp vô vàn khó khăn. Nạn sốt giá, nhất là giá vàng vào quý I/1989 tăng gấp 3,2 lần so với đầu năm 1988 (5 triệu đồng/lạng đầu năm 1989 so với 1,6 triệu đồng/lạng năm 1988). Hiện tượng nhập lậu và ế thừa hàng hoá cũng đã xuất hiện ngay trong điều kiện lạm phát. Người nông dân, công nhân càng sản xuất càng lỗ, người gửi tiết kiệm từ những năm 1986, 1987, 1988 nếu rút ra vào các năm sau tương ứng thì cộng cả gốc và lãi cũng không có ý nghĩa gì đáng kể về “hiệu quả” tiết kiệm! Trong dân gian vào những năm đó đã từng có câu châm ngôn: “Bán trâu tậu gà” - nghĩa là ai đó bán 1 con trâu đi để gửi tiết kiệm vào ngân hàng thì 1 năm sau rút ra cả gốc và lãi chỉ còn đủ để tậu 1 con gà!
Một đặc điểm làm cho thị trường bị thiếu cung, tiền nhiều hơn hàng là việc thực hiện lộ trình giá thị trường đối với hầu hết những mặt hàng bao cấp hiện vật bằng tem phiếu định lượng trong thời kỳ trước, tạo ra mặt bằng giá chung mới cao hơn nhiều.
Đến năm 1987 do thiên tai, sản lượng lương thực cuối năm giảm 3,5% và đầu năm 1988 một số địa phương miền Bắc bị đói, giá cả lên cao, lạm phát chi phí đẩy lại tiếp diễn. .Đứng trước tình hình đó, dân chúng tích trữ hàng hoá , lương thực, vàng và đô la càng nhièu vì lo sợ rằng đồng Việt Nam sẽ còn mất giá tạo nên cầu giả tạo, giá cả tăng cao dẫn đến lạm phát cầu kéo, với tỉ lệ lạm phát là 223,1%, mức tăng trưởng GDP chỉ là 3,78%
Biểu đồ 2.3 tỷ lệ lạm phát giai đoạn 1984-1988
Nguồn: wi.wikipedia.org/wiki/Kinh_tế_Việt_Nam
2.1.2 Từ 1988 đến nay
2.1.2.1 Giai đoạn 1988-1992
Đầu năm 1988 một số địa phương miền Bắc lạm phát chi phí đẩy lại tiếp diễn. Đứng trước tình hình đó, dân chúng tích trữ hàng hoá , lương thực, vàng và đô la càng nhièu vì lo sợ rằng đồng Việt Nam sẽ còn mất giá tạo nên cầu giả tạo, giá cả tăng cao dẫn đến lạm phát cầu kéo, với tỉ lệ lạm phát là 223,1%, mức tăng trưởng GDP chỉ là 3,78%.
Chúng ta thấy tình hình kinh tế của nước ta từ năm 1988 đã có những bước khả quan hơn, lạm phát đã giảm từ mức siêu lạm phát xuống còn hai chữ số, đặc biệt từ năm 1992 giảm xuống 17,6% và đến năm 1993 tỉ lệ lạm phát giảm xuống một chữ số là 5,2%. Điều này cho thấy nước ta đã có những biện pháp tương đối có hiệu quả để kiềm chế và kiểm soát lạm phát cũng như thúc đẩy tăng trưởng kinh tế .
Từ năm 1989 đến năm 1991, lạm phát tuy có giảm nhưng vẫn còn khá cao với mức tăng 67% liên tiếp trong hai năm 1990 và 1991, phải từ năm 1992 trở đi tình hình mới lắng dịu và tạm ổn định cho đến năm 1995. Bắt đầu từ năm 1991, thâm hụt ngân sách được trang trải bằng cách phát hành trái phiếu thay vì in thêm tiền như trước đây. Vì thế, mức cung ứng tiền giảm xuống, lạm phát cũng giảm đi. Năm 1992 tỉ lệ lạm phát chỉ là 17,6% so với năm 1991, đặc biệt là năm 1993 chỉ còn lại là 5,2%.
Bảng 2.1 Tỉ lệ lạm phát các năm trong giai đoạn 1988-1992 ở Việt Nam
Năm
1988
1989
1990
1991
1992
Lạm phát(%)
394
34,7
67,4
67,6
17,6
Nguồn: Tổng hợp số liệu từ các báo cáo thường niên của Tổng cục Thống kê.
Biểu đồ 2.4
Nguồn :
2.1.2.2 Giai đoạn 1993-2002
Trong năm 1993 , mặc dù lạm phát đã giảm xuống một chữ số nhưng những tiến bộ vượt bậc đó đã không thể duy trì được và củng cố bằng những chính sách tài chính và chính sách tiền tệ thận trọng nên đén năm 1994 tỉ lệ lạm phát lại tăng lên mức 14,4%.
Cuộc khủng hoảng tài chính -tiền tệ Châu Á bắt đầu từ tháng 7 năm 1997 làm cho nước ta chịu sức ép ngày càng tăng. Kinh tế trải qua hiện tượng giảm giá liên tục, sức mua giảm sút, đầu tư nước ngoài và xuất khẩu có dấu hiệu suy giảm, sản xuất trong nước rơi vào tình trạng trì trệ, hàng hoá ứ đọng nhiều, tỉ lệ thất nghiệp ra tăng ... Một trong những biểu hiện của sự suy giảm nền kinh tế là hiện tượng giảm phát.
Năm 1999 giá cả thị trưòng có nhiều diễn biến bất thường : giá cả liên tục giảm trong 8 tháng liền, từ tháng 3 đến tháng 12. Đặc biệt tháng 10 năm 1999 CPI giảm 0,8% so với tháng 12 năm 1998. Chỉ số giá lương thực tháng 10 năm 1999 sút giảm 10,5% so với tháng 12 năm 1998 , sự sụt giảm giá lương thực làm cho CPI chung hầu như không tăng.
+ Năm 2000, CPI cả năm giảm 0,6% so với năm 1999.
+ Sáu tháng đầu năm 2001 CPI vẫn giảm , CPI tháng 6/2001 giảm 0,3% so với tháng 6/2000 và giảm 0,7% so với tháng 12/2000. CPI giảm liên tục trong 3 tháng liên tiếp,tháng 3 giảm 0,7%, tháng 4 giảm 0,5%, tháng 5 giảm 0,2%. Kết quả là đến cuối năm 2001 nhờ nhiều nỗ lực , chúng ta đã đẩy được tỉ lệ lạm phát lên 0,8%.
Từ năm 1990 đến năm 2003 lạm phát được cải thiện, tỷ lệ lạm phát giảm thấp, CPI ở mức một con số và đạt mức độ mong đợi của Chính Phủ Việt Nam, đặc biệt là giai đoạn 1993-2003.
Bảng 2.2 Tỉ lệ lạm phát các năm trong giai đoạn 1993-2003 ở Việt Nam
Năm
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Lạm phát (%)
5,3
14,4
12,5
4,5
4,0
9,1
1,8
1,0
0,8
4,0
Nguồn: Tổng hợp số liệu từ các báo cáo thường niên của Tổng cục Thống kê.
sss Biểu đồ 2.5
Nguồn :
2.1.2.3 Giai đoạn 2002 đến nay
Tình hình kinh tế năm 2002 có nhiều sự khởi sắc mới , nhờ có sự cố gắng , nỗ lực của các nghành, các cấp năm 2002 chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế .
Mặc dù năm 2002 tình hình kinh tế thế giới có nhiều khó khăn, nhưng nước ta vẫn đạt tỉ lệ tăng trưởng kinh tế là 7,04%, tỉ lệ tăng trưởng cao thứ hai trong khu vực Á chỉ sau có Trung Quốc(8%), các chỉ tiêu kinh tế khác chúng ta hầu hết đều đạt và vượt chỉ tiêu đề ra. Lạm phát trong năm 2002 là 4%, một tỉ lệ lạm phát chấp nhận được mặc dù cao hơn so với mục tiêu 35 của chúng ta đã đề ra.
Tình hình giá cả đầu năm 2002 của chúng ta đã tăng lên tương đối nhanh, 6 tháng đầu năm giá cả đã tăng 2,9%, khi đó rất nhiều nhà kinh tế đã lo ngại rằng nếu chúng ta không kiểm soát được lạm phát thì rất có thể tỉ lệ lạm phát của nước ta sẽ lên tới 6%. Trước tình hình đó nhà nước đã có những chính sách nhằm ổn định giá cả trên thị trưòng một cách hợp lý , nhờ đó đến cuối năm tỉ lệ lạm phát của chúng ta chỉ là 4%.
Trước tình hình đó, nguy cơ giá cả tăng cao rất dễ xảy ra, thực tế trong hai tháng đầu năm 2003 giá cả các mặt hàng của chúng ta đã tăng 3%,vì vậy có nhiều người lo ngại là chúng ta không thể đạt được mục tiêu về lạm phát đã đề ra là tỉ lệ lạm phát không quá 5%.
Hai tháng đầu năm 2003 giá cả các mặt hàng của chúng ta đã tăng 3%,vì vậy có nhiều người lo ngại là chúng ta không thể đạt được mục tiêu về lạm phát đã đề ra là tỉ lệ lạm phát không quá 5%.
Bảng 2.3 Tỉ lệ lạm phát các năm trong giai đoạn 2004-2011 ở Việt Nam
Năm
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
Lạm phát(%)
3,0
9,5
8,4
6,6
12,63
19,9
6,5
11,75
Dự báo 19
Nguồn: Tổng hợp số liệu từ các báo cáo thường niên của Tổng cục Thống kê.
Biểu đồ 2.6
Nguồn :
2.2 .Nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam
2.2.1 Các nguyên nhân chính từ bối cảnh kinh tế toàn cầu:
Thứ nhất: Giá dầu và giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào của sản xuất liên tục gia tăng: Trong 4 năm từ 2003-2006 kinh tế toàn cầu liên tục tăng trưởng cao, đặc biệt là nhóm các nước “mới nổi” ở khu vực Châu Á , nhất là Trung Quốc đã đẩy nhu cầu năng lượng toàn cầu tăng cao đột biến, cùng với những bất ổn và xung đột chính trị quân sự tại khu vực Trung Đông là các nguyên nhân trực tiếp đẩy giá dầu lên cao chưa từng có trong lịch sử 110 USD/thùng trong tháng 3/2008, đồng thời giá các nguyên vật liệu đầu vào khác như sắt thép, phân bón, xi măng cũng liên tục gia tăng. Như vậy, giá dầu đã tăng 72%, sắt thép tăng 114%, phân bón tăng 59,6%, khí hoá lỏng tăng 95% kể từ đầu năm 2007 đến tháng 3/2008 và đây cũng là mức tăng cao nhất từ trước tới nay.
Biểu đồ 2.7
Nguồn :
Thứ hai: Giá lương thực, thực phẩm liên tục gia tăng: xuất phát từ quá trình biến đổi khí hậu toàn cầu, thiên tai dịch bệnh diễn ra liên tiếp, cùng với những năm tăng trưởng kinh tế mạnh trên thế giới – là những năm quá trình công nghiệp hoá được đẩy mạnh khiến diện tích đất sử dụng cho trồng trọt, chăn nuôi bị thu hẹp. Tất cả những điều trên làm sản lượng lương thực – thực phẩm ngày càng giảm mạnh. Ngoài ra, giá năng lượng tăng cao đã khiến nhiều nước sử dụng một sản lượng lớn ngũ cốc chuyển sang sản xuất nhiên liệu sinh học càng làm cho nguồn cung lương thực đã giảm càng giảm sút.
Biểu đồ 2.8 Giá một số mặt hàng thực phẩm tháng 7/2010 và tháng 6 năm 2011.
Nguồn số liệu: Cục Thống kê Hà Nội
Thứ ba: Một khối lượng tiền lớn được đưa ra nền kinh tế toàn cầu: Trước việc giá dầu và giá lương thực – thực phẩm liên tục leo thang đã tạo nên cú sốc cung rất lớn đẩy lạm phát toàn cầu tăng cao, tình hình này đã buộc các NHTW phải tăng các mức lãi suất chủ chốt để kiềm chế lạm phát, cụ thể: Nhật Bản tăng 1 lần từ 0,25%- 0,5%/năm; khu vực đồng Euro tăng 2 lần từ 3,5%-3,75%-4,0%/năm; Anh tăng 3 lần từ 5%-5,5%/năm (trong đó có 1 lần giảm); Thuỵ Điển tăng 4 lần từ 3,0%-4,0%/năm; Trung Quốc tăng 6 lần từ 6,12-7,47%/năm.
Việc các nước thực hiện thắt chặt tiền tệ thông qua tăng lãi suất chủ đạo cùng với việc giá dầu, giá lương thực – thực phẩm tiếp tục tăng cao chính là nguyên nhân cơ bản đã đẩy nền kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái vào những tháng đầu năm 2008, mà biểu hiện là cuộc khủng hoảng cho vay dưới tiêu chuẩn của Mỹ bắt đầu từ tháng 7/2007. Trước bối cảnh lạm phát gia tăng và kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái, các NHTW không còn cách nào khác là phải bơm một lượng tiền khổng lồ để cứu vãn nền kinh tế, trong đó riêng Mỹ từ tháng 8/2007 đến nay đã phải đưa ra nền kinh tế trên 2.300 tỷ USD, trong đó có 800 tỷ USD tiền mặt để cứu vãn hệ thống ngân hàng, NHTW Châu Âu, Nhật Bản, Anh cũng phải đưa một lượng tiền lớn để cứu vãn nền kinh tế cũng như hệ thống ngân hàng; cùng với việc một số NHTW phải thực hiện cắt giảm lãi suất từ tháng 8/2007 trở lại đây như Mỹ, Anh, Canada. Việc cứu vãn nền kinh tế thế giới rơi vào suy thoái bằng biện pháp đưa hàng nghìn tỷ USD ra nền kinh tế lại càng đẩy lạm phát toàn cầu tiếp tục tăng cao.
Tuy nhiên câu hỏi đặt ra là cùng một bối cảnh thế giới như nhau, tại sao các nước khác như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia lại có mức lạm phát thấp hơn so với lạm phát của Việt Nam? Vậy, mức lạm phát của Việt Nam tăng cao trong thời gian vừa qua ngoài những yếu tố thế giới thì còn những nguyên nhân nào khác?
2.2.2 Các nguyên nhân chính từ nội tại nền kinh tế Việt Nam:
Thứ nhất: Chi phí sản xuất tăng cao: Trước bối cảnh lạm phát toàn cầu gia tăng đã tác động làm giá hầu hết các nhóm hàng nhập khẩu của Việt Nam gia tăng mạnh mẽ như xăng dầu, sắt thép, phân bón, thuốc trừ sâu – là những nguyên nhiên vật liệu đầu vào chính của sản xuất.
Bảng 2.4 Cán cân thương mại của Việt Nam và các nước trong khu vực
Mặc dù Chính phủ đã cố gắng kiểm soát giá xăng dầu, nhưng từ đầu năm 2007 đến hết Quý I/08 giá xăng dầu đã phải điều chỉnh tăng 4 lần, tính chung giá xăng dầu đã tăng tới 38%, giá thép tăng 91%, giá điện tăng 7,6%; giá than tăng 30%; giá xi măng tăng 15%; giá phân bón tăng 58%. Điều này đã tác động làm chi phí sản xuất tăng cao.
Thứ hai: Giá lương thực, thực phẩm tăng cao: biến đổi khí hậu toàn cầu trên thế giới không những tác động đến nhiều quốc gia mà Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Chỉ trong tháng 10/2007, miền Trung phải hứng chịu 5 cơn bão liên tiếp, trong khi đó dịch bệnh trong chăn nuôi, trồng trọt như cúm gia cầm, lợn tai xanh, lở mồm long móng ở lợn, vàng lùn ở lúa cùng với rét đậm, rét hại khiến cho nguồn cung lương thực – thực phẩm bị sụt giảm.
Mặc dù Chính phủ đã ban hành Công văn 639/BTM-XNK ngày 16/8/2007 và Công văn số 266/TTg-KTTH ngày 21/2/2008 để khống chế lượng gạo xuất khẩu tối đa nhằm kiểm soát lạm phát và đảm bảo an ninh lương thực trong nước, nhưng việc giá lương thực, thực phẩm thế giới tăng cao đã khiến giá gạo xuất khẩu và giá một số mặt hàng thực phẩm xuất khẩu khác như thuỷ hải sản gia tăng cộng với chi phí sản xuất tăng cao đã đẩy giá lương thực, thực phẩm trong nước tăng cao ở mức 18,92% năm 2007 và 14,45% trong QI/2008, cao gấp 5 lần so với mức tăng 4,18% của quý I/2007, trong khi nhóm này có quyền số 42,85%, lớn nhất trong rổ hàng hoá CPI, có thể nói đây là nguyên nhân chủ yếu tác động làm CPI tăng mạnh
Thứ ba: Chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ liên tục mở rộng từ 2001-2006 nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: Trong vòng 3 năm trở lại đây kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng ở mức rất cao trên 8%, và mục tiêu của giai đoạn này đối với Chính phủ Việt Nam là ưu tiên tăng trưởng kinh tế. Với mục tiêu này đã khuyến khích cho “chính sách tài chính, tiền tệ nới lỏng đã thực hiện trong nhiều năm liền nhưng quản lý chưa chặt chẽ” nhằm mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, và đây cũng là nhân tố góp phần khiến lạm phát bình quân từ 2005 đến 2007 tăng trên 8,01%.
Bảng 2.5 Tăng trưởng cung tiền tệ Việt Nam và các nước trong khu vực
Nguồn: IMF Financial Data Statistics và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Tín dụng ngân hàng cho nền kinh tế tăng mạnh trong một thời gian dài nhằm phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế là một nguyên nhân quan trong làm gia tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế. Các ngân hàng cũ mở rộng tín dụng bằng việc nới lỏng điều kiện cho vay, cạnh tranh nhau bằng giảm lãi suất cho vay, tăng lãi suất huy động để tìm kiếm nguồn vốn cho vay,chuyển đổi mô hình, liên doanh liên kết với các doanh nghiệp, tập đoàn để tăng vốn điều lệ, mở rộng mạng lưới nhanh chóng vượt quá khả năng quản trị, cho thành lập thêm các ngân hàng mới và tất cả các ngân hàng chủ yếu đua nhau tìm kiếm lợi nhuận từ nghiệp vụ cho vay nên càng làm cho tín dụng của hệ thống ngân hàng tăng cao trong suốt năm 2007 và 3 tháng đầu năm 2008, đó là nguyên nhân rất quan trong gây sức ép rất lớn làm gia tăng lạm phát trong thời gian qua.
Bảng 2.6Tăng trưởng tín dụng nội địa Việt Nam và các nước trong khu vực
Thứ tư: Luồng vốn nước ngoài vào Việt Nam gia tăng mạnh: bắt đầu từ cuối năm 2006 khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), cùng với những cải cách về cơ chế chính sách và môi trường đầu tư đã tạo điều kiện cho các luồng vốn nước ngoài đổ vào Việt Nam tăng mạnh.
Bảng 2.7 Tỷ lệ đầu tư nước ngoài trực tiếp trong tổng đầu tư
Năm 2007 luồng vốn FDI tăng 20,3 tỷ USD vốn đăng ký, cao hơn nhiều so với mức 10,2 tỷ USD của năm 2006, đặc biệt là luồng vốn đầu tư gián tiếp gia tăng mạnh mẽ khoảng trên 6 tỷ, gấp 5 lần con số của năm 2006 mà chủ yếu đổ vào thị trường chứng khoán, trái phiếu đặc biệt là đổ vào IPO các doanh nghiệp nhà nước lớn. Đứng trước bối cảnh này, Ngân hàng nhà nước đã phải cung ứng một lượng lớn tiền VND để mua ngoại tệ vào nhằm mục tiêu ổn định và phá giá nhẹ tỷ giá để hỗ trợ xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và điều này làm cho tổng phương tiện thanh toán tăng cao, tác động làm lạm phát gia tăng.
Như vậy thực trạng lạm phát ở Việt Nam là do sự tác động tổ hợp của cả ba dạng thức lạm phát: lạm phát tiền tệ (đây là dạng thức chủ yếu) lạm phát cầu kéo và lạm phát chi phí đẩy.
• Lạm phát tiền tệ: Đây là dạng thức lạm phát lộ diện khá rõ. Năm 2007, với việc tung một khối lượng lớn tiền đông để mua ngoại tệ từ các nguồn đổ vào nước ta đã làm tăng lượng tiền trong lưu thông với mức tăng trên 30%, hạn mức tín dụng cũng tăng cao, mức tăng 38%. Ấy là chưa kể sự tăng tín dụng trong các năm trước đã tạo nên hiện tượng tích phát tác động đến năm 2007 và có thể cả những năm sau.
• Lạm phát cầu kéo: Do đầu tư bao gồm đầu tư công và đầu tư của các doanh nghiệp tăng, làm nhu cầu về nguyên liệu, nhiên liệu và thiết bị công nghệ tăng; thu nhập dân cư, kể cả thu nhập do xuất khẩu lao động và người thân từ nước ngoài gửi về không được tính vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cũng tăng, làm xuất hiện trong một bộ phận dân cư những nhu cầu mới cao hơn. Biểu hiện rõ nhất của lạm phát cầu kéo là nhu cầu nhập khẩu lương thực trên thị trường thế giới tăng, làm giá xuất khẩu tăng (giá xuất khẩu gạo bình quân của nước ta năm 2007 tăng trên 15% so với năm 2006) kéo theo cầu về lương thực trong nước cho xuất khẩu tăng. Trong khi đó, nguồn cung trong nước do tác động của thiên tai, dịch bệnh không thể tăng kịp. Tất cả các yếu tố nói trên gây ra lạm phát cầu kéo, đẩy giá một số hàng hoá và dịch vụ, nhất là lương thực thực phẩm tăng theo.
• Lạm phát chi phí đẩy: Giá nguyên liệu, nhiên liệu ( đặc biệt là xăng dầu, các sản phẩm hoá dầu, thép và phôi thép…) trên thế giới trong những năm gần đây tăng mạnh. Trong điều kiện kinh tế nước ta phụ thuộc rất lớn vào nhập khẩu ( nhập khẩu chiếm đến 90% GDP ) giá nguyên liệu nhập tăng làm tăng giá thị trường trong nước
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
Dự báo về lạm phát Việt Nam trong thời gian tới
Lạm phát của Việt Nam năm 2012 là 11,3% và rồi giảm xuống còn 8% vào năm 2013. Standard Chartered đã đưa ra dự báo này trong báo cáo hoạt động kinh tế và triển vọng năm 2011 và 2012 của Việt Nam được công bố ngày 17-11.
Tổ chức tín dụng này cho rằng, so với cùng kỳ năm ngoái, tỷ lệ lạm phát tại Việt Nam đang giảm dần và kỳ vọng sẽ tiếp tục giảm xuống 19,7% trong tháng 12 và xuống một chữ số vào khoảng cuối quí 2-2012, giữ mức trung bình là 11,3% trong năm 2012.
Ngân hàng này nhận định triển vọng lạm phát có dấu hiệu tích cực và việc giá thực phẩm trên thế giới được điều chỉnh gần đây sẽ giúp kiềm chế lạm phát trong những tháng tới. Ngoài ra, việc NHNN thắt chặt chính sách tiền tệ cũng có thể giúp giảm áp lực lạm phát.
Do vậy, báo cáo viết: “Chúng tôi kỳ vọng tỷ lệ lạm phát sẽ quay lại mức một chữ số vào cuối quí 2 hoặc đầu quí 3-2012". Tuy nhiên, Standard Chartered cho rằng lạm phát giảm chưa chắc đã tạo đủ điều kiện để nới lỏng các chính sách tiền tệ trong thời gian tới do còn tồn tại các áp lực mới gây mất giá tiền đồng.
"Tiền đồng vẫn có khả năng tiếp tục bị mất giá trong năm 2012 do tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai và lượng dự trữ ngoại tệ thấp”, báo cáo viết.
Standard Chartered cho rằng, trong năm 2012, Chính phủ Việt Nam sẽ phải tiếp tục đối mặt với những thách thức về áp lực mất giá tiền đồng, kiểm soát tăng tín dụng và tiền tệ trong khi vẫn phải hỗ trợ các hoạt động kinh tế khác. Những thách thức này còn bị tác động bởi những khó khăn của tình hình kinh tế toàn cầu và biến động thị trường xuất khẩu.
Các chuyên gia của Standard Chartered dự báo, tỷ giá dự kiến sẽ là 20.600 đồng/đô la Mỹ trong năm 2011 và 22.000 đồng/đô la Mỹ năm 2012 . Mức tăng tổng sản phẩm nội địa (GDP) thực của Việt Nam năm 2012 sẽ là 6,3% và 6,5% vào năm sau đó.
Sau một thời gian tăng mạnh từ tháng 5 tới tháng 7, tiền đồng lại gặp những áp lực mới. Tỷ giá đô la Mỹ/đồng trên thị trường thứ cấp lại cao hơn so với biên độ giao dịch chính thức, đạt mức 21.450 đồng. Standard Chartered nhận định, điều này xảy ra một phần do những phán đoán thị trường rằng những khoản vay đô la Mỹ trong khoảng thời gian đầu năm sắp tới kỳ đáo hạn nên khiến nhu cầu đô la Mỹ tăng trở lại.
Định hướng
Định hướng chiến lược ở Việt Nam từ nay đến năm 2015:
Kết luận số 02-KL/TW ngày 16/3/2011 của Bộ Chính trị đã khẳng định tính đúng đắn của Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 và nêu rõ: “… Mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011 gắn liền với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 – 2015 là: Kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội. Đây là những nhiệm vụ có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, cần được quán triệt, triển khai đồng bộ trong suốt quá trình phát triển… Tập trung ưu tiên hàng đầu cho việc kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội, coi đây vừa là nhiệm vụ cấp bách ngắn hạn của năm 2011, vừa là nhiệm vụ quan trọng của một vài năm tiếp theo.
NGHỊ QUYẾT 11/NQ-CP
Để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát cần phải:
Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương:
a) Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, phối hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để kiềm chế lạm phát; điều hành và kiểm soát để bảo đảm tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2011 dưới 20%, tổng phương tiện thanh toán khoảng 15 - 16%; tập trung ưu tiên vốn tín dụng phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh, nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa; giảm tốc độ và tỷ trọng vay vốn tín dụng của khu vực phi sản xuất, nhất là lĩnh vực bất động sản, chứng khoán.
b) Điều hành chủ động, linh hoạt, hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ, nhất là các loại lãi suất và lượng tiền cung ứng để bảo đảm kiềm chế lạm phát.
c) Điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường. Tăng cường quản lý ngoại hối, thực hiện các biện pháp cần thiết để các tổ chức, cá nhân trước hết là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hàng khi có nguồn thu và được mua khi có nhu cầu hợp lý, bảo đảm thanh khoản ngoại tệ, bình ổn tỷ giá, đáp ứng yêu cầu ổn định, phát triển sản xuất kinh doanh và tăng dự trữ ngoại hối.
d) Kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng; trong quý II năm 2011 trình Chính phủ ban hành Nghị định về quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo hướng tập trung đầu mối nhập khẩu vàng, tiến tới xóa bỏ việc kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do; ngăn chặn hiệu quả các hoạt động buôn lậu vàng qua biên giới.
đ) Phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an, Bộ Công Thương, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các cơ quan chức năng kiểm tra, giám sát việc tuân thủ các quy định về thu đổi ngoại tệ, kinh doanh vàng. Ban hành quy định và chế tài xử lý vi phạm, kể cả việc đình chỉ, rút giấy phép hoạt động, thu tài sản; quy định khen, thưởng đối với việc phát hiện các hành vi vi phạm hoạt động thu đổi, mua bán ngoại tệ, vàng. Xử lý nghiêm theo pháp luật đối với hành vi cố tình vi phạm.
Định hướng tăng trưởng kinh tế GDP từ 2015-2020. Định hướng duy trì
Trong phiên họp thường kỳ tháng 5 nhằm thảo luận tình hình kinh tế-xã hội tháng 5 và 5 tháng đầu năm 2011.Một trong những nội dung của phiên họp được các thành viên Chính phủ dành nhiều thời gian thảo luận đó là việc triển khai cắt giảm đầu tư công, kiềm chế lạm phát theo tinh thần của nghị quyết Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 24/2/2011
Tiếp tục ưu tiên kiềm chế lạm phát , ổn định kinh tế giai đoạn 2011-2020, thông qua dự thảo phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2011-2020
DỰ THẢO CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI 2011-2020
MỤC TIÊU CHIẾN LƯỢC VÀ KHÂU ĐỘT PHÁ
a) Về kinh tế
Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 7 - 8%/năm. GDP năm 2020 theo giá so sánh bằng khoảng 2,2 lần so với năm 2010. GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đạt khoảng 3.000 - 3.200 USD.
Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% trong GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP. Giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Nông nghiệp có bước phát triển theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Tỷ lệ lao động nông nghiệp khoảng 30% lao động xã hội.
Yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng đạt ít nhất 35%; giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 2,5-3%/năm. Thực hành tiết kiệm trong sự dụng mọi nguồn lực.
ÐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN, ÐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG, CƠ CẤU LẠI NỀN KINH TẾ
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
Tiếp tục hoàn thiện chính sách và hệ thống thuế, cơ chế quản lý giá, pháp luật về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh, bảo vệ người tiêu dùng, các chính sách về thu nhập, tiền lương, tiền công. Thực hiện cân đối ngân sách tích cực, bảo đảm tỷ lệ tích lũy hợp lý cho đầu tư phát triển; phấn đấu giảm dần bội chi ngân sách. Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước. Quản lý chặt chẽ việc vay và trả nợ nước ngoài; giữ mức nợ Chính phủ và nợ quốc gia trong giới hạn an toàn. Tăng cường vai trò giám sát ngân sách của Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp.
Chính sách tiền tệ phải chủ động và linh hoạt thúc đẩy tăng trưởng bền vững, kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền. Hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý về hoạt động ngân hàng. Mở rộng các hình thức thanh toán qua ngân hàng và thanh toán không dùng tiền mặt. Ðiều hành chính sách lãi suất, tỷ giá linh hoạt theo nguyên tắc thị trường. Ðổi mới chính sách quản lý ngoại hối, từng bước mở rộng phạm vi các giao dịch vốn, tiến tới xóa bỏ tình trạng sử dụng ngoại tệ làm phương tiện thanh toán trên lãnh thổ Việt Nam. Tăng cường vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ. Kết hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa. Kiện toàn công tác thanh tra, giám sát hoạt động tài chính, tiền tệ.
Vậy các biện pháp có thể thực hiện để kiểm soát và kiềm chế lạm phát
Giải pháp kiểm soát và kiềm chế lạm phát ở Việt Nam
Giải pháp kiểm soát và kiềm chế lạm phát ở Việt Nam
Một số biện pháp góp phần kiềm chế và kiểm soát lạm phát đối với nền kinh tế Việt Nam
Về chính sách tiền tệ : mục tiêu đầu tiên của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị đồng nội trên cơ sở kiểm soát lạm phát . Cúng ta đều biết vấn đề quan trọng là kiểm soát lạm phát chứ không phải triệt tiêu nó ví tỉ lệ lạm phát vừa phải sẽ có những tác động tích cực lên nền kinh tế. Trách nhiệm này thuộc về NHNN, thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ của mình NHNN sẽ phải cố gắng điều tiết mức cung tiền cho hợp lý. Vì vậy vấn đề nâng cao trình độ của các nhà hoạch định chính sách cũng rất quan trọng.
Về chính sách tài khoá : đối với nước ta hiện nay thì vấn đề đặt ra là phải kiện toàn bộ máy nhà nước, cắt giảm biên chế quản lý hành chính. Thực hiện tốt biện pháp này sẽ góp phần to lớn vào việc cắt giảm chi tiêu thường xuyên của Chính phủ , trên cơ sở đó làm giảm bội chi ngân sách nhà nước.
Trong thời gian tới cần thực hiện đồng bộ những giải pháp điều tiết kinh tế vĩ mô như sau:
- Điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt phù hợp với diễn biến thị trường tiền tệ để ổn định lãi suất nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng tín dụng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trường hợp có nhiều yếu tố bất lợi làm cho chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng vượt khỏi tầm kiểm soát,cần áp dụng kịp thời các giải pháp thắt chặt tiền tệ trên cơ sở sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ, như tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc để kiểm soát tín dụng, đồng thời tiếp tục sử dụng nghiệp vụ thị trường mở như công cụ chủ đạo trong việc điều tiết tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), trong đó lãi suất nghiệp vụ thị trường mở được điều chỉnh tăng trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc thị trường để phát tín hiệu điều hành chính sách tiền tệ thận trọng và thúc đẩy các tổ chức tín dụng tập trung huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và dân cư.
- Tiếp tục thực hiện cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt bám sát cung cầu về ngoại tệ trên thị trường, đảm bảo tỷ giá danh nghĩa bám sát tỷ giá thực, không để xảy ra các cú sốc đột biến về tỷ giá; tiếp tục phát triển các công cụ phòng chống rủi ro trên thị trường ngoại hối; phối hợp việc điều hành tỷ giá và điều hành lãi suất nhằm đảm bảo mối quan hệ hợp lý giữa lãi suất VND - tỷ giá - lãi suất ngoại tệ tránh gây tác động xấu thị trường ngoại hối đối với phát triển kinh tế. Ngoài ra, NHNN cần củng cố hoạt động hệ thống ngân hàng thương mại an toàn, lành mạnh, hiện đại và bền vững hơn thông qua việc sửa đổi các quy định về mở văn phòng, chi nhánh, về phân loại nợ đọng và trích lập rủi ro tín dụng...
- Sử dụng công cụ hạn ngạch, thuế... để điều tiết hoạt động xuất, nhập khẩu mặt hàng có thể gây biến động giá trong nước như gạo, sắt thép, phân bón, chất dẻo...; đồng thời thực hiện tốt dự trữ các mặt hàng trên để can thiệp thị trường trong nước khi xảy ra những biến động do thiên tai, và giá cả thế giới lên cao.
- Thực hiện tốt công tác kiểm tra, quản lý thị trường, hệ thống phân phối để tránh đầu cơ, đẩy giá lên cao, đồng thời tiếp tục chấn chỉnh, sắp xếp lại mạng lưới kinh doanh, ban hành và tổ chức thực hiện quy chế kinh doanh đối với một số vật tư, hàng hoá quan trọng như xi măng, sắt thép, phân bón, điện, than, thuốc chữa bệnh... để khắc phục tình trạng đầu cơ, mua bán lòng vòng, lũng đoạn thị trường…
- Lạm phát và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ mật thiết với nhau. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thông thường Ngân hàng Trung ương cần phải thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng, hạ thấp lãi suất chủ đạo, mở rộng cửa cung ứng tiền cho nền kinh tế, tăng cường khả năng đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho các nhu cầu sản xuất kinh doanh. Song bên cạnh việc kinh tế tăng trưởng theo ý muốn, thì lạm phát có thể tăng cao. Vì vậy, trong thực thi chính sách kinh tế vĩ mô, thông thường ít khí đạt được hai mục tiêu cùng một lúc. Lạm phát và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ mật thiết với nhau. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thông thường Ngân hàng Trung ương cần phải thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng, hạ thấp lãi suất chủ đạo, mở rộng cửa cung ứng tiền cho nền kinh tế, tăng cường khả năng đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho các nhu cầu sản xuất kinh doanh. Song bên cạnh việc kinh tế tăng trưởng theo ý muốn, thì lạm phát có thể tăng cao. Vì vậy, trong thực thi chính sách kinh tế vĩ mô, thông thường ít khí đạt được hai mục tiêu cùng một lúc.
- Đẩy mạnh cải cách hệ thống ngân hàng, đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá NHNN, nâng cao tính độc lập của NH trung ương trong việc hoạch định thực thi chính sách tiền tệ và sự bền vững của hệ thống ngân hàng còn nhiều rủi ro; đẩy mạnh cải cách tài chính công theo hướng phân công, xác định trách nhiệm của các cơ quan, trách nhiệm giải trình đảm bảo công khai minh bạch; đẩy mạnh xã hội hoá kinh tế, xã hội. Ngoài ra, phải phát triển thị trường vốn, tài chính phục vụ hiệu quả đầu tư phát triển, tăng cường kiểm soát chặt chẽ đầu tư gián tiếp, khuyến khích đầu tư dài hạn. ...
- Việt Nam đang tiếp tục mở cửa nền kinh tế theo xu hướng hội nhập, thực hiện các cam kết của Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, AFTA, cam kết gia nhập WTO, nên thị trường trong nước diễn biến theo sát thị trường quốc tế. Trong quá trình đó, Việt Nam được hưởng lợi từ giá cả xuất khẩu các mặt hàng có khối lượng lớn, thì cũng bị ảnh hưởng của giá cả biến động tăng của những mặt hàng nhập khẩu. Thời gian tới đây giá cả thị trường thế giới tiếp tục có những biến động phức tạp khó lường trước. Đó là tính tất yếu khách quan của các giao dịch buôn bán trên thị trường quốc tế. Vì vậy Việt Nam cần tôn trọng tính thị trường, tôn trọng quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường, Chính phủ không nên làm thay thị trường. Đặc biệt là không nên sử dụng các biện pháp có tính bao cấp từ nguồn ngân sách nhà nước như: cấp bù lỗ, cấp bù lãi suất, khoanh nợ,... khi mà thị trường trong nước có tính thông thương với thị trường thế giới. Cơ chế bao cấp qua giá một số mặt hàng có tính theo sát thị trường thế giới sê làm méo mó giá cả trong nước, tạo điều kiện cho tình trạng xuất lậu qua biên giới, tác động tiêu cực đến ngân sách quốc gia, tác động gây tiềm ẩn nguy cơ lạm phát. Việc sử dụng biện pháp tài chính hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong dự trữ và thu mua nông sản phẩm càng làm gia tăng cơ chế xin cho, kẽ hở cho nhiều loại tiêu cực khác, trong khi người nông dân, người sản xuất không được hưởng lợi trực tiếp. Cơ chế quản lý giá và quản lý thị trường cũng cần linh hoạt và đổi mới phù hợp với tình hình của nền kinh tế nước ta hiện nay.
- Lạm phát ở ta cũng do một nguyên nhân quan trọng là Ngân sách Nhà nước liên tục ở mức thâm hụt. Hầu như từ khi thống nhất đất nước đến nay, chưa bao giờ ngân sách đạt được cân bằng thu chi, đặc biệt trong những thời kỳ khủng hoảng kinh tế vĩ mô trước thập kỷ 90. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực, thâm hụt ngân sách tăng dần, từ mức 0,13% GDP năm 1998 lên đến 3,23% năm 2001, sau đó giảm xuống, nhưng vẫn còn đứng ở mức khá cao, trên 2% trong vòng 2 - 3 năm gần đây. Như vậy, kiềm chế thâm hụt tài khoá sẽ góp phần đáng kể vào việc kiềm chế lạm phát và do đó, làm giảm bớt tầm quan trọng của chính sách thắt chặt tiền tệ. Dường như lâu nay ở ta có một quan niệm sai lầm và nguy hại rằng lạm phát chủ yếu bắt nguồn từ các cơn sốt giá nguyên nhiên liệu chiến lược đầu vào. Một số ít người thì tỉnh táo hơn đã nhắc đến sự tăng trưởng tín dụng mạnh để kích cầu trong những năm trước là một nguyên nhân khác của xu hướng lạm phát tăng cao trong những năm gần đây. Thế nhưng hầu như không ai đả động đến một nguyên nhân cũng rất quan trọng là thâm hụt tài khoá đã và đang ở mức khá cao như hiện nay. Từ nhận thức đầy đủ về nguồn gốc lạm phát này, có thể thấy chính sách kiềm chế lạm phát nhờ thắt chặt tín dụng và kiềm chế giá của các nguyên nhiên liệu đầu vào không cho tăng lên là chưa đủ, chưa thật thích hợp, thậm chí là có hại
Để cho chính sách tiền tệ có hiệu lực trong việc kiềm chế lạm phát, có một số điều kiện tiên quyết. Đó là một thị trường tài chính được tự do hoá, một Ngân hàng Trung ương độc lập với Chính phủ và một cơ chế tỷ giá linh hoạt hơn, tiến gần đến cơ chế thả nổi hoàn toàn. ở Việt Nam, 3 điều kiện này chưa (hoàn toàn) được xác lập. Chúng ta mới bắt đầu tự do hoá thị trường tài chính qua một số động thái, trong đó có việc xoá bỏ trần lãi suất, nhưng hoạt động trong các ngành tài chính và ngân hàng chưa hoàn toàn dựa trên các nguyên tắc thị trường. Ngân hàng Nhà nước, với tư cách là một Ngân hàng Trung ương, vẫn là một thành viên của Chính phủ và chịu nhiều chi phối từ đây. Cơ chế tỷ giá vẫn rất cứng nhắc, hầu như là gắn chặt giá đồng nội tệ với USD.
Kiên quyết cắt giảm chi tiêu của chính phủ,khơi tăng các nguồn thu nhằm giảm bớt bội chi ngân sách; chấm dứt việc phát hành tiền cho ngân sách nhà nước chi tiêuthực hiện quan hệ tín dụng lành mạnh có vay có trả giữa ngân sách nhà nước và ngân hàng trung ương
Quản lý chặt chẽ khối lượng tiền trong lưu thông, kể cả tiền mặt và bút tệ, đồng thời áp dụng nhiều biện pháp để thu hút tiền trong lưu thông về như: tăng lãi suất tiền gửi, tăng lãi suất cho vay, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, thực hiện nghiệp vụ thị trường mở, bán chứng khoán có giá, bán vàng, bán ngoại tệ, hạn chế cấp vốn cho các ngân hàng thương mại,…
Chấn chỉnh và làm lành mạnh hóa hoạt động ngân hàng, nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng, giảm nợ quá hạn, giảm nợ khó đòi,… nâng cao năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại
Đổi mới công nghệ sản xuất, cải tiến trình độ quản lý doanh nghiệp, đưa năng suất lao động ngày càng cao, sản phẩm sản xuất ra ngày càng nhiều, phong phú về chủng loại với giá thành hạ
Cải tiến hệ thống thuế, đánh nặng vào những hàng hóa nhập khẩu xa xỉ, cao cấp không thiết yếu, giảm thuế đánh vào những mặt hàng nguyên liệu đầu mối, thiết yếu, đồng thời kiên quyết đấu tranh chống tiêu cực; tránh để trốn, lậu thuế nhưng cũng không đánh thuế chồng chéo làm đội giá thành sản phẩm lên cao
Thực hiện các biện pháp triệt để chống tham nhũng, tham ô, hối lộ và các tiêu cực xã hội khác
Những kiến nghị đối với chính phủ
Gửi Quốc hội 10 kiến nghị ổn định kinh tế
“Lạm phát và bất ổn vĩ mô đã mang tính cơ cấu và lặp lại theo chu kỳ. Lạm phát cao và bất ổn vĩ mô với tần suất dày hơn, mức độ gay gắt hơn kéo dài trong nhiều năm đã làm giảm đi những thành tựu mà tăng trưởng mang lại…”
Ông Hà Văn Hiền lần chót ký vào bản kiến nghị “Kinh tế VN - những vấn đề đặt ra trong trung và dài hạn” với tư cách Chủ nhiệm UB Kinh tế của QH khóa XII. Bản kiến nghị được gửi đến QH khóa XIII trong bối cảnh lạm phát, bất ổn kinh tế đã trở thành thách thức lớn nhất đối với Chính phủ, đất nước trong năm nay. 10 kiến nghị cụ thể được đưa ra:
Kiến nghị 1: Để nền kinh tế phát triển bền vững trong trung và dài hạn cần bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô một cách vững chắc và coi đây là ưu tiên hàng đầu trong thời gian tới.
UB Kinh tế chỉ ra nghịch lý: dưới áp lực của chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế, Việt Nam đã thực thi nhiều chính sách kích thích tăng trưởng kinh tế nhưng phải đánh đổi bằng bất ổn vĩ mô. Vì vậy, việc hình thành một “chủ thuyết phát triển kinh tế” riêng cho Việt Nam trong đó ổn định kinh tế vĩ mô là ưu tiên hàng đầu và xuyên suốt sẽ là tiền đề cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững trong những giai đoạn (chu kỳ) tiếp theo.
Kiến nghị 2: Đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng bền vững là một yêu cầu cấp bách để giải quyết tận gốc rễ các nguyên nhân gây ra bất ổn vĩ mô trong ngắn hạn.
Theo đó, bất ổn vĩ mô tái diễn có tính chu kỳ trong vài năm qua chứa đựng nguy cơ tạo vòng xoáy bất ổn và xu hướng suy thoái trong trung và dài hạn rất đáng lo ngại. Trong giai đoạn 2006-2010, bằng phép tính cộng dồn đơn giản, một số chuyên gia chỉ ra rằng lạm phát (CPI) đã tăng gần 60% trong khi tổng tăng trưởng GDP chỉ đạt 35,1%. Chưa tính đến việc phân bổ lợi ích và thành quả của tăng trưởng đang có xu hướng tập trung cho nhóm người giàu và đầu cơ, chỉ hai con số nêu trên đã đủ chứng tỏ thu nhập 7 thực tế và mức sống thực của người dân, nhất là người nghèo, đã bị giảm sút rất mạnh.
UB Kinh tế cho rằng cần tái cấu trúc lại hệ thống ngân hàng, loại bỏ những ngân hàng quá yếu kém, là tác nhân của các cuộc đua lãi suất, gây bất ổn và rủi ro cho toàn hệ thống.
Kiến nghị 3: Thay đổi chiến lược phát triển công nghiệp dựa chủ yếu vào khu vực kinh tế nhà nước mà không xét tới yếu tố lợi thế so sánh, khuyến khích các ngành và khu vực có lợi thế so sánh và hiệu quả hơn.
Thêm một “nghịch lý” khác được chỉ ra: các tập đoàn và tổng công ty nhà nước nhận được nhiều ưu đãi về tín dụng và chiếm tỷ trọng chi phối trong các dự án đầu tư công lớn. Trong khi đó, khu vực tư nhân dù được đánh giá là hiệu quả hơn so với khu vực nhà nước trong tạo việc làm và xuất khẩu, lại đang bị “lấn át”. Điều này sẽ không thể mang lại cho các ngành công nghiệp Việt Nam cạnh tranh quốc tế.
Kiến nghị 4: Để giải quyết triệt để thâm hụt thương mại, một trong những cân đối vĩ mô quan trọng trong nền kinh tế, bên cạnh chính sách tỷ giá, công cụ hành chính hay phát triển công nghiệp hỗ trợ thì vấn đề mấu chốt cần xử lý trong trung và dài hạn là chênh lệch tiết kiệm và đầu tư trong nền kinh tế.
Căn nguyên gốc rễ của thâm hụt thương mại là sự chênh lệch tiết kiệm - đầu tư trong nước chưa được giải quyết triệt để. Chừng nào chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư còn chưa được thu hẹp thì vấn đề nhập siêu chắc chắn sẽ tiếp tục kéo dài. Trong thập niên qua, do tiết kiệm trong nước thấp không đủ đáp ứng nhu cầu đầu tư tăng cao nhưng kém hiệu quả dẫn đến tình trạng thâm hụt kéo dài và sâu sắc hơn.
Kiến nghị 5: Kiên quyết cắt giảm đầu tư công và tăng cường kỷ luật tài khóa để giảm thâm hụt ngân sách và ổn định nợ công là yếu tố quan trọng để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng bền vững trong trung và dài hạn.
Kiến nghị 6: Xây dựng nguyên tắc và cơ chế phối hợp trong việc hoạch định và thực thi sách tài khóa và chính sách tiền tệ một cách nhất quán và cùng hướng tới các mục tiêu ưu tiên của đất nước.
Trong nhiều năm, các mục tiêu và định hướng chính sách thay đổi và chuyển hướng khá nhanh: từ ưu tiên cho tăng trưởng trong năm 2007, đến kiềm chế lạm phát và ổn định vĩ mô trong năm 2008, đến kích thích kinh tế trong năm 2009, phục hồi tốc độ tăng trưởng, tăng tính ổn định kinh tế vĩ mô trong năm 2010 và kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô trong năm 2011. Điều này thể hiện, việc điều hành chính sách có biểu hiện bị động, chạy theo tình thế, nặng về đối phó, xử lý những mục tiêu ngắn hạn.
Kiến nghị 7: Tái cấu trúc khu vực doanh nghiệp nhà nước để bảo đảm nhiệm vụ cơ bản là khắc phục những khiếm khuyết của thị trường và cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cộng thay vì đóng vai trò “chủ đạo” bằng cách đầu tư dàn trải và kém hiệu quả như hiện nay.
UB Kinh tế cho rằng, cần tạm dừng thành lập Tập đoàn kinh tế nhà nước mang tính hành chính không phù hợp với quy luật phát triển doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Đánh giá toàn diện hiệu quả những tập đoàn đã thành lập trong các năm qua làm cơ sở cho việc tiếp tục thực hiện chủ trương này.
Kiến nghị 8: Phát triển đồng bộ và cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại, giảm thiểu rủi ro thông qua hệ thống giám sát an toàn thị trường tài chính nói chung và các ngân hàng thương mại nói riêng là nền tảng cơ bản để ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển bền vững.
Kiến nghị 9: Kiểm soát hiệu quả các dòng vốn vào - ra (đầu tư trực tiếp nước ngoài - FDI, hỗ trợ phát triển chính thức - ODA, và vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài - FII) là yếu tố quan trọng trong việc bảo đảm ổn định vĩ mô cũng như giảm thiểu rủi ro khủng hoảng tài chính trong trung và dài hạn.
Giải pháp đề ra là sớm xây dựng và hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu giám sát tài chính cho Việt Nam để phát hiện kịp thời những rủi ro liên quan đến khu vực tài chính và sự dịch chuyển của các dòng vốn vào nền kinh tế.
Kiến nghị 10: Trong trung và dài hạn, phát triển nông nghiệp, nông thôn cần được coi là chính sách ưu tiên trong các chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội tổng thể.
Chương IV . KẾT LUẬN
Qua phân tích ở trên, chúng em rút ra một số điểm gợi ý cho các nhà
hoạch định chính sách như sau:
- Xét ở thời kỳ dài 20 - 23 năm, lạm phát ảnh hưởng tiêu cực yếu đến
tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, ảnh hưởng của lạm phát tới tăng trưởng là
tích cực hay tiêu cực còn phụ thuộc vào mức lạm phát sử dụng để xác định
mối tương quan này. Nếu khảo sát trong khoảng thời gian từ năm 1987 -
2009, lạm phát đóng góp 18% vào sự thay đổi của tăng trưởng kinh tế. Còn
trong khoảng thời gian 20 năm từ 1990 - 2009, lạm phát chỉ đóng góp 12%
vào sự thay đổi của tốc độ tăng trưởng kinh tế đo bằng tốc độ tăng GDP.
Như vậy, nếu chỉ sử dụng hệ số tương quan giữa CPI và tốc độ tăng GDP ở
trên để đưa ra các con số dự báo về tỷ lệ lạm phát khi muốn đạt tốc độ tăng
trưởng nhất định hoặc ngược lại, đưa ra con số dự báo về tốc độ tăng trưởng
kinh tế nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát ở một mức nhất định là không
chính xác. Bởi lạm phát chỉ là một yếu tố, dù quan trọng, trong vô vàn các
yếu tố khác tác động tới tăng trưởng kinh tế.
- Ngưỡng lạm phát ở Việt Nam nên là 5% - 6%. Ở mức lạm phát xoay
quanh khoảng 5% - 6% thì lạm phát lại ảnh hưởng tương đối lớn đến tăng
trưởng kinh tế. Ở khoảng này, lạm phát có thể giải thích được xấp xỉ 50% (-
0,74* -0,74 = 0,547) sự thay đổi của GDP. Khi chọn mức lạm phát 5 - 6%
làm ngưỡng thì nếu lạm phát Việt Nam ở dưới mức này để tăng tốc độ tăng
trưởng, Chính phủ có thể thực hiện các giải pháp để tăng lạm phát và việc
tăng lạm phát cho đến ngưỡng 6%/năm không quá nguy hại đến nền kinh tế.
Còn nếu lạm phát đang ở trên ngưỡng 6%, để tăng trưởng kinh tế, Chính phủ
lại phải điều tiết giảm lạm phát.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - LêNin.
2 Giáo trình Kinh tế vĩ mô.
3. Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ
Tác giả : PGS, TS : Lê Thị Mận
-Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ tháng 12.2006 và 12-2007
-Thời báo dan tri.com và Vnexpress.com
-: IMF Financial Data Statistics và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
-Tổng cục Thống kê
-
-www.sbv.gov.vn/
- :
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai tieu luan chinh thuc lttctt.docx