Lạm phát là vấn đề trung tâm và nhạy cảm hàng đầu của đời sống kinh tế – xã hội ở cả cấp quốc gia và quốc tế. Với tư cách là kết quả tổng hoà của các chính sách kinh tế – xã hội vĩ mô cũng như các hoạt động kinh doanh vi mô trong bối cảnh chung của nền kinh tế khu vực và thế giới, lạm phát đến lượt mình đã có tác động gián tiếp hoặc trực tiếp, nhanh hoặc chậm, tích cực hoặc tiêu cực đến toàn bộ hoạt động của chính phủ, doanh nghiệp và cá nhân. Chính vì vậy, nhiệm vụ của các quốc gia là phải kiềm chế lạm phát ở mức độ mong muốn để nó không những không gây ảnh hưởng tiêu cực mà còn là một động lực để phát triển kinh tế. Để thực hiện được nhiệm vụ đó, cần phải hiểu rõ các nguyên nhân dẫn đến tình trạng lạm phát. Đó là do chính sách tiền tệ mở rộng, do chi tiêu chính phủ quá mức, do theo đuổi chỉ tiêu công ăn việc làm cao và do tỷ giá hối đoái. Trong đó nguyên nhân thực sự của lạm phát là do cung tiền tăng liên tục, tức là hậu quả của chính sách tiền tệ mở rộng.
Trong khuôn khổ một đề án môn học, với kiến thức được trang bị ở trường và kinh nghiệm thực tế còn hạn chế, em chỉ xin dừng lại ở một số vấn đề lý luận cơ bản về lạm phát và không có tham vọng đưa ra những nhận định mới mẻ mang tính phát hiện. Em mong rằng lý luận này có thể làm cơ sở cho những chính sách đối phó với lạm phát trong thực tiễn một cách có hiệu quả.
24 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1729 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lạm phát và các nguyên nhân gây ra lạm phát, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang phát triển với tốc độ rất nhanh chóng. Năm 2003 tốc độ tăng trưởng GDP là 7,24%, đứng thứ hai trong khu vực chỉ sau Trung Quốc. Tuy nhiên tỷ lệ tăng trưởng cao cũng có thể đưa đến một số hậu quả không mong muốn, trong đó có lạm phát. Lạm phát ảnh hưởng toàn bộ đến nền kinh tế quốc dân, đến đời sống xã hội, đặc biệt là giới lao động. Lạm phát phá vỡ các kế hoạch của nền kinh tế, làm giảm sức mua từ đó làm giảm mức sống của nhân dân, làm tăng tình trạng phân phối thu nhập bất công bằng trong xã hội, và do đó làm cho người dân mất lòng tin đối với chính phủ. Vì vậy, việc chống lạm phát, giữ vững nền kinh tế phát triển ổn định, cân đối là một mục tiêu rất quan trọng của chính sách kinh tế vĩ mô.
Muốn kiềm chế được lạm phát ở mức độ mong muốn, trước hết phải hiểu rõ bản chất và các nguyên nhân của nó. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài: “Lạm phát và các nguyên nhân gây ra lạm phát” với mong muốn thông qua đề án này có thể hiểu biết sâu sắc hơn về lạm phát nói riêng và các vấn đề trong nền kinh tế nói chung.
Do lượng kiến thức còn hạn chế cũng như thời gian viết có hạn nên đề án này còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo thêm của thầy để em có thể hoàn thiện hơn những hiểu biết của mình.
Nội dung
I. Lạm phát trong nền kinh tế.
I.1. Khái niệm về lạm phát.
Lạm phát là một phạm trù vốn có của nền kinh tế thị trường, là căn bệnh nảy sinh khi yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ không được tôn trọng. ở đâu còn sản xuất hàng hoá, còn tồn tại những quan hệ hàng hoá tiền tệ thì ở đó còn ẩn náu khả năng lạm phát.
Lạm phát đã được đề cập đến rất nhiều trong các công trình nghiên cứu của các nhà kinh tế học. Trong mỗi công trình của mình, các nhà kinh tế học đã đưa ra các khái niệm khác nhau về lạm phát.
Theo Các Mác trong bộ Tư bản: Lạm phát là việc tràn đầy các kênh, các luồng lưu thông những tờ giấy bạc thừa, dẫn đến giá cả tăng vọt. Ông cho rằng lạm phát là “bạn đường” của Chủ nghĩa Tư bản, ngoài việc bóc lột người lao động bằng giá trị thặng dư, Chủ nghĩa Tư bản còn gây ra lạm phát để bóc lột người lao động một lần nữa, do lạm phát làm tiền lương thực tế của người lao động giảm xuống.
Nhà kinh tế học Samuelson thì cho rằng: Lạm phát biểu thị một sự tăng lên trong mức giá cả chung. Theo ông: “lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả và chi phí tăng – giá bánh mỳ, dầu xăng, xe ô tô tăng; tiền lương, giá đất, tiền thuê tư liệu sản xuất tăng”.
Còn Milton Friedman thì quan niệm: “Lạm phát là việc giá cả tăng nhanh và kéo dài”. Ông cho rằng: “Lạm phát luôn luôn và bao giờ cũng là một hiện tượng tiền tệ. Lạm phát xuất hiện và chỉ có thể xuất hiện khi nào số lượng tiền trong lưu thông tăng lên nhanh hơn so với sản xuất.”
ở Việt Nam, ông Bùi Huy Khoát chia sẻ quan điểm của luận thuyết “Lạm phát cầu kéo” và cho rằng lạm phát nảy sinh do sự mất cân đối giữa cung và cầu, khi cầu có khả năng thanh toán tăng vượt quá khả năng cung của nền kinh tế làm giá của hàng hoá tăng lên...Xét đến cùng thì lạm phát là sự tăng lên tự động của giá cả để lấy lại thế cân bằng đã bị phá vỡ giữa cung và cầu biểu hiện ra ở hàng và tiền.
Còn ông Nguyễn Văn Kỷ lại thiên về luận thuyết “lạm phát lưu thông tiền tệ” khi khẳng định lạm phát là hiện tượng tiền quá thừa trong lưu thông so với lượng hàng quá ít ỏi.
Ông Vũ Ngọc Nhung thì chỉ ra đặc trưng của lạm phát là hiện tượng giá cả tăng lên phổ biến do tiền giấy mất giá so với vàng và so với mọi giá cả hàng hoá trừ hàng hoá sức lao động.
Quan điểm cá nhân em ủng hộ định nghĩa của M. Friedman, tức là “lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là một hiện tượng tiền tệ”.
I.2. Chỉ tiêu đo lường lạm phát.
Lạm phát được đo bằng chỉ số giá cả.
* Chỉ số giá cả được sử dụng rộng rãi nhất là chỉ số giá cả hàng tiêu dùng CPI ( Consumer Price Index). CPI tính chi phí của một giỏ hàng tiêu dùng và dịch vụ trên thị trường, các nhóm chính đó là hàng lương thực, thực phẩm, quần áo, nhà cửa, chất đốt, vật tư y tế.
Để tính CPI, người ta phải dựa vào tỷ trọng của phần chi cho từng mặt hàng trong tổng chi tiêu cho tiêu dùng của thời kỳ có lạm phát.
* Chỉ số thứ hai cũng thường được sử dụng là chỉ số giá cả sản xuất PPI ( Producer Price Index). Đây là chỉ số giá bán buôn. PPI được xây dựng để tính giá cả trong lần bán đầu tiên do người sản xuất ấn định. Chỉ số này rất có ích vì nó được tính chi tiết sát với những thay đổi của thực tế.
* Ngoài hai chỉ số nói trên, chỉ số giảm phát GNP cũng được sử dụng. Chỉ số giảm phát GNP là chỉ số giá cả cho toàn bộ GNP, nó được xác định như sau:
Chỉ số giảm phát GNP = GDP danh nghĩa / GDP thực tế
Chỉ số này toàn diện hơn CPI vì nó bao gồm giá của tất cả các loại hàng hoá và dịch vụ trong GNP.
I.3. Phân loại lạm phát
Có nhiều cách phân loại lạm phát dựa trên các tiêu thức khác nhau:
* Xét về mặt định lượng, lạm phát được chia thành:
- Lạm phát vừa phải: còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10% một năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối nhỏ. Trong thời kỳ này nền kinh tế hoạt động bình thường, đời sống của người lao động ổn định. Sự ổn định đó được biểu hiện: giá cả tăng lên chậm, lãi suất tiền gửi không cao, không xảy ra tình trạng mua bán và tích trữ hàng hoá với số lượng lớn...
Có thể nói lạm phát vừa phải tạo tâm lý an tâm cho những người lao động chỉ trông chờ vào thu nhập. Trong thời gian này, các hãng kinh doanh có khoản thu nhập ổn định, ít rủi ro nên sẵn sàng đầu tư cho sản xuất, kinh doanh.
- Lạm phát phi mã: là loại lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 hoặc 3 con số một năm. ở mức phi mã, lạm phát làm cho giá cả chung tăng lên nhanh chóng, gây biến động lớn về kinh tế, các hợp đồng được chỉ số hoá. Lúc này người dân tích trữ hàng hoá, vàng bạc, bất động sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất bình thường. Loại lạm phát này khi đã trở nên vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng.
- Siêu lạm phát: xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao vượt xa lạm phát phi mã. Nó như một căn bệnh chết người: tốc độ lưu thông tiền tệ tăng kinh khủng, giá cả tăng nhanh không ổn định, tiền lương thực tế bị giảm mạnh, đồng tiền mất giá nhanh chóng, thông tin không còn chính xác, các yếu tố thị trường biến dạng và hoạt động kinh doanh lâm vào tình trạng rối loạn. Tuy nhiên, siêu lạm phát rất ít khi xảy ra.
* Xét về mặt định tính, lạm phát được chia thành:
- Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng:
Lạm phát cân bằng: lạm phát được gọi là cân bằng khi nó tăng tương ứng với thu nhập, do vậy lạm phát không ảnh hưởng đến đời sống của người lao động.
Lạm phát không cân bằng: là lạm phát có tỷ lệ tăng không tương ứng với thu nhập. Trên thực tế, lạm phát không cân bằng là loại lạm phát thường hay xảy ra nhất.
-Lạm phát dự đoán trước và lạm phát bất thường
Lạm phát dự đoán trước: là lạm phát xảy ra trong một thời gian tương đối dài, với tỷ lệ hàng năm khá đều đặn, ổn định. Do vậy, người ta có thể dự đoán trước được tỷ lệ lạm phát cho những năm tiếp sau. Về mặt tâm lý, người dân đã quen với tình hình lạm phát đó và người ta đã có những chuẩn bị để thích nghi với tình trạng lạm phát này.
Lạm phát bất thường: là lạm phát xảy ra có tính đột biến mà trước đó chưa hề xuất hiện. Do vậy, về tâm lý, cuộc sống và thói quen của mọi người đều chưa thích nghi được. Lạm phát bất thường gây ra những cú sốc cho nền kinh tế và sự thiếu tin tưởng của người dân vào chính quyền đương đại.
- Lạm phát cao và lạm phát thấp:
Không thể đánh giá theo cách chủ quan của mình rằng đây là lạm phát cao (high inflation), kia là lạm phát thấp (low inflation) nếu không hiểu rõ tiêu chuẩn hoặc mốc để đánh giá. Bởi vì lạm phát cao hay thấp không đơn thuần chỉ dựa vào tỷ lệ % năm của nó.
Theo Gary Smith và John Kenneth Galbraith, lạm phát được gọi là cao khi tỷ lệ tăng bình quân năm của giá cả lớn hơn mức tăng của thu nhập trong cùng thời gian. Ngược lại, lạm phát được gọi là thấp khi tỷ lệ tăng của nó từ nhỏ đến rất nhỏ so với mức tăng của thu nhập trong cùng thời gian. Điều này nghĩa là, nếu nền kinh tế tuy có lạm phát nhưng tỷ lệ này là nhỏ đến rất nhỏ so với mức tăng của thu nhập thì lạm phát vẫn được coi là thấp, đời sống nhân dân vẫn tốt hơn, sung sướng hơn.
I.4. Tác động của lạm phát.
Từ thực tế diễn biến của lạm phát ở các nước trên thế giới, có thể thấy rằng nó tác động tới mọi mặt của nền kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, tác động của lạm phát cũng có hai chiều hướng đó là tích cực và tiêu cực. Khi lạm phát ở mức cao và không được dự đoán trước, nó sẽ gây ra những tác động tiêu cực. Ngược lại nếu lạm phát vừa phải và kiểm soát được thì nó thậm chí còn là một tín hiệu tốt cho nền kinh tế.
I.4.1. Những tác động tiêu cực của lạm phát.
* Lạm phát và lãi suất.
Tác động đầu tiên của lạm phát lên đời sống kinh tế là làm thay đổi lãi suất. Và vì lãi suất ngày nay tác động nhiều mặt đến thu nhập, tiêu dùng và đầu tư, cho nên thông qua lãi suất, lạm phát tác động đến nhiều khía cạnh của đời sống kinh tế vĩ mô và vi mô.
Để duy trì và ổn định hoạt động, hệ thống ngân hàng phải luôn cố gắng duy trì tính hiệu quả của cả tài sản nợ và tài sản có, tức là giữ cho lãi suất thực ổn định. Mặt khác, lãi suất thực tế = lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát. Do đó trong điều kiện lạm phát cao, muốn cho lãi suất thực không đổi, lãi suất danh nghĩa phải tăng cùng với tỷ lệ lạm phát này. Việc các ngân hàng và hệ thống tài chính tăng lãi suất danh nghĩa sẽ dẫn đến hậu quả mà nền kinh tế phải gánh chịu là suy thoái kinh tế và thất nghiệp gia tăng.
* Lạm phát và thu nhập thực tế.
Trong trường hợp thu nhập danh nghĩa không đổi, lạm phát xảy ra sẽ làm giảm thu nhập thực tế của người lao động. Với 600.000 đồng tiền lương một tháng hiện nay, một công nhân sẽ mua được 2 tạ gạo (với giá gạo là 3000đ/kg). Vào năm sau, nếu tiền lương của công nhân này không thay đổi, nhưng tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế tăng thêm 50% so với năm trước, tức là giá gạo lúc này là 4500đ/kg, thì với số tiền lương nhận được trong một tháng, người công nhân này chỉ có thể mua được 133,33kg gạo.
Lạm phát không chỉ làm giảm giá trị thực của những tài sản không có lãi (tiền mặt) mà nó còn làm hao mòn giá trị của những tài sản có lãi, tức là làm giảm thu nhập thực từ các khoản lãi, các khoản lợi tức. Điều đó xảy ra là do chính sách thuế của Nhà nước được tính trên cơ sở của thu nhập danh nghĩa. Khi lạm phát tăng cao, những người đi vay tăng lãi suất danh nghĩa để bù vào tỷ lệ lạm phát, điều đó làm cho số tiền thuế thu nhập mà người có tiền cho vay phải nộp tăng cao (mặc dù thuế suất vẫn không tăng). Kết quả cuối cùng là thu nhập ròng (thu nhập sau thuế) thực tế (sau khi đã trừ đi tác động của lạm phát) mà người cho vay nhận được bị giảm đi.
Bởi vì mức thuế được ấn định cho cả năm hoặc nhiều năm nên trong thời gian ngắn, nó rất khó điều chỉnh. Trong khi đó, lạm phát có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Vì vậy, vô hình chung, lạm phát xảy ra càng chất thêm gánh nặng thuế thu nhập và các loại thuế khác. Kết quả là lạm phát càng cao, thu nhập thực tế của nhân dân càng giảm, đời sống của họ càng khó khăn hơn. Ngay cả khi lãi suất và tiền lương được điều chỉnh theo tỷ lệ lạm phát thì tình trạng này vẫn chưa chấm dứt.
* Lạm phát và phân phối thu nhập bất bình đẳng.
Trong quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay, khi lạm phát tăng cao, người cho vay sẽ chịu thiệt và người đi vay sẽ được lợi. Điều này đã tạo nên sự phân phối thu nhập không bình đẳng giữa họ. Thông thường đối tượng đi vay là các nhà kinh doanh. Thành phần cho vay cuối cùng là nhân dân với các khoản tiền tiết kiệm nhỏ bé của mình. Lạm phát làm cho các nhà kinh doanh có được phần thu nhập tăng thêm do thiệt hại của các thành phần nhân dân nghèo. Trong khi đó, đời sống nhân dân lao động đã khó lại càng thêm khốn khó.
Hơn thế nữa, lạm phát còn thúc đẩy những người kinh doanh tăng cường thu hút tiền vay để đầu cơ kiếm lợi, do vậy càng tăng thêm nhu cầu tiền vay trong nền kinh tế, đẩy lãi suất lên cao.
Về phía những người thừa tiền, lạm phát bất thường sẽ kéo họ vào thị trường đầu cơ tài sản và hàng hoá. Trong khi dân nghèo không có đủ tiền để mua sắm hàng tiêu dùng cho một tháng, thì những người này có thể mua hàng núi hàng hoá để tích trữ, chờ giá lên tung ra bán. Chính sự đầu cơ ấy càng làm cho cung hàng hoá khan hiếm, và giá cả càng lên cơn sốt. Cuối cùng là nhân dân lao động không mua nổi ngay cả hàng tiêu dùng cần thiết để sống, trong khi những kẻ đầu cơ bán ra hàng hoá với giá cao và càng trở nên giàu có hơn.
Như vậy, lạm phát có thể dẫn đến rối loạn kinh tế và làm cho hố sâu ngăn cách thu nhập giữa người giàu và người nghèo càng thêm lớn hơn.
* Lạm phát và nợ quốc gia.
Nếu ở phần trước, chúng ta thấy rằng lạm phát làm cho chính phủ được nhiều hơn từ thuế thu nhập đánh vào nhân dân, chính phần thu nhập thực tế mà nhân dân mất đi đã chạy vào ngân sách của chính phủ, thì ngược lại, trong quan hệ kinh tế đối ngoại, những khoản nợ quốc gia của chính phủ đối với các nước sẽ trở nên trầm trọng hơn trước trong điều kiện có lạm phát. Chính phủ được lợi trong nước nhưng bị thiệt đối với nợ nước ngoài. Bởi vì : tỷ lệ tăng, giảm tỷ giá VNĐ/ ngoại tệ = tỷ lệ lạm phát của VNĐ - tỷ lệ lạm phát của ngoại tệ.
Trong khi được lợi từ các khoản thuế thu trong nước do lạm phát, chính phủ sẽ phải chịu các khoản nợ nặng nề hơn đối với nước ngoài cũng do lạm phát. Nguyên nhân là vì lạm phát làm e tăng và đồng tiền trong nước trở nên mất giá nhanh hơn so với ngoại tệ tính trên các khoản nợ.
I.4.2. Những tác động tích cực của lạm phát.
Lạm phát không phải bao giờ cũng gây ra những tác động tiêu cực như trên mà nó còn có một số mặt tích cực sau:
- Lạm phát tựa như dầu mỡ giúp bôi trơn nền kinh tế. Trong điều kiện nào đó có thể thông qua lạm phát từ 2%-4%/năm để bỏ ngỏ khả năng có những lãi suất thực âm có tác dụng kích thích tiêu dùng, vay nợ đầu tư, do đó giảm bớt thất nghiệp xã hội, kích thích tăng trưởng kinh tế.
- Cho phép chính phủ có thêm khả năng lựa chọn các công cụ kích thích đầu tư vào những lĩnh vực kém ưu tiên thông qua mở rộng tín dụng và tài trợ lạm phát. Giúp phân phối lại thu nhập và các nguồn lực xã hội theo định hướng mục tiêu và trong khoảng thời gian nhất định có chọn lọc.
Như vậy ta có thể nói rằng bên cạnh những tác hại của lạm phát thì nó vẫn có một số mặt tích cực nhất định. Nếu như một quốc gia có thể duy trì lạm phát ở mức vừa phải và kiềm chế, điều tiết được mức lạm phát đó sao cho có lợi cho sự phát triển kinh tế thì lạm phát ở đây không còn là một căn bệnh nguy hiểm nữa mà đã trở thành một công cụ điều tiết kinh tế.
II. Những nguyên nhân gây ra lạm phát.
II.1. Cung ứng tiền tệ và lạm phát.
II.1.1. Quan điểm của phái tiền tệ.
Chúng ta sẽ xem xét quan điểm của phái tiền tệ thông qua hình vẽ sau:
Ban đầu, nền kinh tế ở điểm 1 với sản lượng ở mức tự nhiên và giá cả tại P1 (điểm cắt nhau của đường tổng cầu AD1 và đường tổng cung AS1). Nếu cung tiền tệ tăng lên đều đặn dần dần trong suốt cả năm, thì đường tổng cầu di chuyển sang phải đến AD2. Trước tiên, trong một thời gian rất ngắn, nền kinh tế có thể chuyển động đến điểm 1’ và sản lượng có thể tăng lên trên mức tự nhiên đến Y’, nhưng kết quả giảm thất nghiệp xuống dưới mức tự nhiên sẽ làm cho lương tăng lên và đường tổng cung sẽ nhanh chóng di chuyển vào. Nó sẽ dừng di chuyển chỉ khi nào đạt đến AS2, tại thời điểm đó nền kinh tế quay trở lại mức tự nhiên của sản lượng trên đường tổng cung dài hạn. ở điểm cân bằng mới, điểm 2, mức giá tăng từ P1 lên P2.
Nếu năm sau đó cung tiền tệ tăng lên, đường tổng cầu sẽ lại di chuyển sang phải đến AD3 và đường tổng cung sẽ di chuyển vào từ AS2 đến AS3; nền kinh tế sẽ chuyển động sang điểm 2’ và sau đó sang 3, tại đây mức giá cả tăng đến P3. Nếu cung tiền tệ tiếp tục tăng trong những năm tiếp theo, thì nền kinh tế sẽ tiếp tục chuyển động đến những mức giá cả càng cao hơn nữa. Khi mà cung tiền tệ còn tăng thì quá trình này sẽ tiếp tục và lạm phát sẽ xảy ra.
Các nhà tiền tệ học không tin rằng một mức giá cả tăng kéo dài có thể là do bất kỳ nguyên nhân nào khác ngoài việc tăng cung tiền tệ gây ra. Trong cách phân tích của phái tiền tệ, cung tiền tệ được coi là nguyên nhân duy nhất làm di chuyển đường tổng cầu, do vậy không có nguyên nhân gì nữa có thể làm nền kinh tế chuyển từ điểm 1 sang 2 và 3 và xa hơn. Cách phân tích của phái tiền tệ chỉ ra rằng lạm phát nhanh có thể do sự tăng cao của cung tiền tệ thúc đẩy.
II.1.2. Quan điểm của phái Keynes.
Cách phân tích của phái Keynes cũng chỉ ra rằng cung tiền tệ tăng kéo dài sẽ có ảnh hưởng đối với đường tổng cầu và tổng cung như trong hình 1; đường tổng cầu sẽ di chuyển sang phải và đường tổng cung sẽ di chuyển vào. Giống như kết luận của phái tiền tệ, họ cho rằng việc tăng nhanh cung tiền tệ sẽ làm cho mức giá cả tăng kéo dài với tỷ lệ cao, do vậy gây nên lạm phát. Các nhà kinh tế học thuộc phái Keynes còn xem xét việc chính sách tài khoá và các cú sốc cung tiêu cực có thực sự là nguyên nhân gây nên lạm phát hay không.
Những phân tích của phái Keynes về tác động của việc tăng chi tiêu chính phủ hoặc cắt giảm thuế cũng làm tăng tổng cầu, do đó đẩy giá cả lên cao. Tuy nhiên, họ cho rằng chính sách tài khoá tự nó không thể gây nên lạm phát. Có thể thấy điều đó thông qua ví dụ về việc chính phủ tăng chi tiêu thường xuyên từng đợt của mình: Hành động tăng một đợt trong chi tiêu của chính phủ chỉ đưa đến một sự tăng tạm thời của tỷ lệ lạm phát chứ không phải là một mức lạm phát mà trong đó giá cả tăng kéo dài. Tuy nhiên, nếu chi tiêu của chính phủ tăng kéo dài, sẽ dẫn đến một mức giá cả tăng kéo dài, tức là có lạm phát theo đúng nghĩa của nó. Nhưng vấn đề là ở chỗ tăng kéo dài chi tiêu của chính phủ là một chính sách không thể thực hiện được vì ngân sách quốc gia là có giới hạn. Lập luận tương tự với chính sách thuế, các nhà phân tích của phái Keynes cho rằng lạm phát cao không thể chỉ do một mình chính sách tài khoá thúc đẩy nên.
Trong một phân tích khác, họ thấy rằng những cú sốc cung và những cố gắng của công nhân nhằm nâng lương có thể di chuyển đường tổng cung vào, gây ra hiện tượng tăng giá. Giả sử có cú sốc cung tiêu cực làm cho đường tổng cung di chuyển vào từ AS1 đến AS2 như trong hình 1. Nếu cung tiền tệ không thay đổi, để cho đường tổng cầu ở tại AD1 thì chúng ta chuyển sang điểm 1’’, tại đó sản lượng ở dưới mức tự nhiên và mức giá cả là cao hơn.
Đường tổng cung bây giờ sẽ di chuyển trở lại đến AS1, bởi vì thất nghiệp là trên mức tỷ lệ tự nhiên, và nền kinh tế di chuyển xuống AD1 từ điểm 1’’ đến điểm 1. Kết quả ròng của cú sốc cung là chúng ta quay trở lại tình trạng công ăn việc làm đầy đủ ở tại mức giá cả ban đầu và không xảy ra lạm phát. Như vậy, hiện tượng về phía cung cũng không phải là một nguồn gốc của lạm phát.
Với những phân tích như vậy, quan điểm của phái Keynes và phái tiền tệ tương đối thống nhất với nhau. Họ đều tin rằng: lạm phát cao có thể xảy ra chỉ với một tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cao.
II.2. Chỉ tiêu công ăn việc làm cao và lạm phát.
Một mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng mà đa số chính phủ các nước theo đuổi cũng thường gây nên lạm phát, đó là mục tiêu công ăn việc làm cao.
Có hai loại lạm phát là kết quả của chính sách ổn định năng động nhằm thúc đẩy một mức công ăn việc làm cao: lạm phát phí - đẩy, xảy ra do những cú sốc cung tiêu cực hoặc do việc các công nhân đòi tăng lương gây nên, và lạm phát cầu - kéo, xảy ra khi những nhà hoạch định theo đuổi các chính sách làm đường tổng cầu di chuyển ra. Bây giờ chúng ta sẽ sử dụng cách phân tích tổng cung và tổng cầu để xem xét một chỉ tiêu công ăn việc làm cao có thể đưa đến lạm phát phí - đẩy và lạm phát cầu - kéo.
II.2.1. Lạm phát phí - đẩy
Trong hình trên, nền kinh tế lúc đầu ở tại điểm 1 là giao điểm của đường tổng cầu AD1 và đường tổng cung AS1. Giả định là công nhân quyết định tăng lương bởi vì hoặc là họ muốn tăng lương thực tế (lương tính theo số hàng hoá và dịch vụ họ có thể mua được), hoặc là họ dự đoán lạm phát sẽ lên cao vì vậy đòi hỏi và đạt được tăng lương để khớp với mức lạm phát. ảnh hưởng của việc tăng lương như vậy (tương tự như một cú sốc cung tiêu cực) là làm cho đường tổng cung di chuyển vào đến AS2. Nếu chính sách tài khoá và tiền tệ của chính phủ vẫn không thay đổi, thì nền kinh tế sẽ chuyển tới điểm 1” là giao điểm của đường tổng cung mới AS2 với đường tổng cầu AD1. Sản lượng sẽ giảm xuống dưới mức tự nhiên, trong khi mức giá cả sẽ tăng lên trên P1.
Những nhà hoạch định chính sách năng động với một chỉ tiêu công ăn việc làm cao sẽ tìm cách tăng đường tổng cầu lên đến AD2 do đó chúng ta quay trở lại mức tỷ lệ tự nhiên của sản lượng tại điểm 2 và mức giá cả P2. Những công nhân đã được tăng lương không sống kham khổ. Chính phủ đã can thiệp vào để chắc chắn rằng không có thất nghiệp quá nhiều và công nhân đã đạt được mục tiêu lương cao hơn của họ. Bởi vì chính phủ thực ra đã nhượng bộ yêu cầu tăng lương của công nhân, nên chính sách năng động với chỉ tiêu công ăn việc làm cao thường được gọi là một chính sách điều hoà.
Các công nhân đã được tăng lương rồi, nay lại được tăng lương nữa có thể được khuyến khích đòi tăng lương lần nữa. Thêm vào đó, số còn lại bây giờ nhận thấy rằng lương của mình đã sụt xuống so với những bạn công nhân khác, và do không muốn bị tụt lại đằng sau, nên họ sẽ đòi tăng lương của mình lên. Kết quả là đường tổng cung lại di chuyển vào đến AS3. Thất nghiệp lại phát triển khi chúng ta chuyển đến điểm 2”, và các chính sách năng động sẽ lại một lần nữa được sử dụng để di chuyển đường tổng cầu ra đến AD3 và đưa nền kinh tế trở lại tình hình công ăn việc làm đầy đủ với mức giá cả P3. Nếu quá trình này tiếp tục, thì kết quả sẽ là việc tăng liên tục của mức giá cả, nghĩa là, một tình trạng lạm phát phí - đẩy.
Lạm phát phí - đẩy chỉ có thể xảy ra nếu đường tổng cầu di chuyển ra liên tục. Theo cách phân tích của phái Keynes, những chính sách tài khoá luôn có giới hạn của nó, nên mặc dù chúng cũng gây ra tác động làm tăng tổng cầu nhưng đó chỉ là tăng từng đợt, không thể sử dụng trong thời gian dài. Sự di chuyển liên tục đường tổng cầu chỉ có thể là hậu quả của việc tăng cung ứng tiền liên tục. Do đó, lạm phát phí - đẩy cũng là một hiện tượng tiền tệ.
II.2.2. Lạm phát cầu kéo.
Có một cách khác mà mục tiêu công ăn việc làm cao có thể dẫn đến chính sách tiền tệ lạm phát. Ngay cả khi công ăn việc làm đầy đủ, thất nghiệp lúc nào cũng tồn tại do những xung đột trên thị trường lao động làm cho người công nhân và người chủ khó gặp nhau. Do vậy tỷ lệ thất nghiệp khi có công ăn việc làm đầy đủ (tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên) sẽ lớn hơn không. Nếu những người hoạch định chính sách ấn định một chỉ tiêu thất nghiệp thấp dưới mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, thì điều đó có thể tạo ra địa bàn cho một tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cao hơn và lạm phát phát sinh. Chúng ta lại có thể chỉ ra điều đó bằng cách sử dụng đồ thị tổng cung và tổng cầu.
Nếu những nhà hoạch định chính sách có một chỉ tiêu thất nghiệp (4% chẳng hạn) thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên (dự tính hiện giờ khoảng 6%), thì họ sẽ cố gắng đạt được một chỉ tiêu sản lượng lớn hơn mức tỷ lệ tự nhiên. Mức chỉ tiêu sản lượng đó ký hiệu là Y’ như trên hình vẽ dưới đây
Giả định, ban đầu nền kinh tế ở điểm 1, sản lượng bằng sản lượng tự nhiên, nhưng dưới mức chỉ tiêu sản lượng Y’. Để đạt được chỉ tiêu thất nghiệp 4%, các nhà hoạch định chính sách ban hành các chính sách để tăng tổng cầu, và tác động của những chính sách đó di chuyển đường tổng cầu cho đến khi nó đạt tới AD2 và nền kinh tế chuyển đến điểm 1’. Sản lượng ở tại Y’ và đạt được mục tiêu thất nghiệp 4%.
Nếu tỷ lệ thất nghiệp được chỉ tiêu hoá tại mức tỷ lệ tự nhiên 6% thì sẽ không có vấn đề gì. Tuy nhiên, bởi vì ở Y’, tỷ lệ thất nghiệp 4% là dưới mức tỷ lệ tự nhiên, nên lương sẽ tăng lên và đường tổng cung sẽ di chuyển vào đến AS2, đưa nền kinh tế từ điểm 1’ sang điểm 2. Nền kinh tế lại lui về tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên 6% nhưng ở một mức giá cả P2 cao hơn. Chúng ta có thể dừng ở đây, nhưng bởi vì thất nghiệp lại cao hơn mức chỉ tiêu, các nhà hoạch định chính sách sẽ tìm cách di chuyển đường tổng cầu ra đến AD3 để đạt được chỉ tiêu thất nghiệp ở mức 6% , khi đó chỉ tiêu sản lượng đạt đến điểm 2’ và toàn bộ quá trình sẽ tiếp tục đẩy nền kinh tế đến điểm 3 và xa hơn. Kết quả sau cùng sẽ là giá cả tăng dần và lạm phát xảy ra.
Như đã phân tích ở các phần trên, do giới hạn của những chính sách tài khoá nên việc tăng lên liên tục của tổng cầu chỉ có thể là kết quả của một quá trình tăng cung ứng tiền tệ liên tục. Do vậy, giống như lạm phát phí- đẩy, lạm phát cầu - kéo cũng là một hiện tượng tiền tệ.
II.3. Thâm hụt ngân sách và lạm phát.
Thâm hụt ngân sách cũng có thể là một nguyên nhân dẫn đến tăng cung ứng tiền tệ và gây ra lạm phát.
Chính phủ có thể khắc phục tình trạng thâm hụt ngân sách bằng biện pháp phát hành trái phiếu Chính phủ ra thị trường tài chính để vay vốn trong dân chúng, bù đắp cho phần bị thiếu hụt. Biện pháp này không làm ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ và do đó, không tăng cung ứng tiền tệ và không gây ra lạm phát. Một biện pháp khác chính phủ có thể sử dụng để bù đắp cho thâm hụt ngân sách là phát hành tiền. Biện pháp này trực tiếp làm tăng thêm cơ số tiền tệ, do đó tăng cung ứng tiền, đẩy tổng cầu lên cao và làm tăng tỷ lệ lạm phát. Tuy nhiên, ở các nước đang phát triển, do thị trường vốn bị hạn chế nên việc phát hành trái phiếu Chính phủ nhằm bù đắp cho thiếu hụt ngân sách là rất khó thực hiện. Đối với các quốc gia này, con đường duy nhất là “sử dụng máy in tiền”. Vì thế, khi tỷ lệ thâm hụt ngân sách của các quốc gia đó tăng cao thì cung ứng tiền tệ cũng sẽ tăng nhanh và lạm phát tăng. ở các nước có nền kinh tế phát triển (như ở Mỹ), thị trường vốn phát triển, vì vậy một khối lượng lớn trái phiếu Chính phủ có thể được bán ra và nhu cầu trang trải cho thâm hụt ngân sách được thực hiện từ nguồn vốn vay của chính phủ. Tuy nhiên, nếu chính phủ cứ liên tục phát hành trái phiếu ra thị trường, cầu về vốn vay sẽ tăng, do đó lãi suất sẽ tăng cao. Để hạn chế việc tăng lãi suất thị trường, Ngân hàng Trung ương sẽ phải mua vào các trái phiếu đó, điều này lại làm cho cung tiền tệ tăng.
Do vậy, trong mọi trường hợp, tình trạng thâm hụt ngân sách cao, kéo dài sẽ là nguồn gốc tăng cung ứng tiền tệ và gây ra lạm phát.
II.4. Lạm phát theo tỷ giá hối đoái.
Tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ so với đơn vị tiền tệ nước ngoài tăng cũng là nguyên nhân gây ra lạm phát.
Khi tỷ giá tăng, đồng nội tệ mất giá, trước hết nó tác động lên tâm lý của những người sản xuất trong nước, muốn kéo giá hàng lên theo mức tăng của tỷ giá hối đoái.
Thứ hai, khi tỷ giá tăng, giá nguyên liệu, hàng hoá nhập khẩu cũng tăng cao, khiến cho chi phí về phía nguyên liệu tăng lên, lại quay trở về lạm phát phí - đẩy như đã phân tích ở trên. Việc tăng giá cả của nguyên liệu và hàng hoá nhập khẩu thường gây ra phản ứng dây chuyền, làm tăng giá ở rất nhiều hàng hoá khác, đặc biệt là hàng hoá của những ngành có sử dụng nguyên liệu nhập khẩu và những ngành có mối liên hệ chặt chẽ với nhau (nguyên liệu của ngành này là sản phẩm của ngành khác...).
Tuy nhiên, lạm phát theo tỷ giá hối đoái sẽ không có cơ sở bùng phát nếu cung ứng tiền danh nghĩa không gia tăng (hoặc không chạy theo nhu cầu về tiền danh nghĩa) bởi sự tăng giá ngoại tệ. Tức là nếu cung ứng tiền danh nghĩa không tăng nhanh, nếu Ngân hàng Trung ương quản lý chặt việc phát hành tiền ra trong lúc giá ngoại tệ lên thì sự thắt chặt này chắc chắn sẽ dẫn tới giảm sức mua nhanh chóng, cầu giảm, sản lượng sụt, thất nghiệp tăng, giá lao động hạ trở lại và quá trình lạm phát sẽ bị kìm hãm. Như vậy cung tiền tệ là nguyên nhân gián tiếp gây nên tình trạng lạm phát theo tỷ giá hối đoái.
Tóm lại, cho dù dùng bất cứ lý thuyết nào để giải thích về nguyên nhân của lạm phát, ta cũng đều có một kết luận chung là lạm phát chỉ có thể đi kèm với việc tăng cung tiền liên tục. Như vậy, chính sách tiền tệ mở rộng chính là nguyên nhân thực sự của lạm phát.
III. Những giải pháp đối phó với lạm phát.
III.1. Những giải pháp tình thế.
Với mục tiêu giảm tức thời cơn sốt lạm phát, các biện pháp này thường được áp dụng khi nền kinh tế lâm vào tình trạng siêu lạm phát.
Thứ nhất: Giảm lượng tiền giấy trong nền kinh tế. Ngân hàng Trung ương phải ngừng các biện pháp đưa tiền vào lưu thông, thực hiện chính sách đóng băng tiền tệ như ngừng thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu đối với các tổ chức tín dụng, dừng việc mua vào các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, không phát hành tiền bù đắp bội chi ngân sách Nhà nước. Ngoài ra, phải áp dụng các biện pháp làm giảm lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế như: bán ra các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, bán ngoại tệ và vay, phát hành các công cụ nợ của chính phủ để vay tiền trong nền kinh tế bù đắp cho bội chi ngân sách Nhà nước, tăng lãi suất tiền gửi đặc biệt là lãi suất tiền gửi tiết kiệm dân cư. Các biện pháp này rất có hiệu lực vì trong một thời gian ngắn nó có thể giảm bớt được một khối lượng khá lớn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế quốc dân, do dó giảm được sức ép lên giá cả hàng hoá và dịch vụ trên thị trường. ở Việt Nam, các biện pháp này đã được áp dụng thành công vào cuối những năm 80 đầu những năm 90.
Thứ hai: Thi hành chính sách tài khoá thắt chặt như tạm hoãn những khoản chi chưa cần thiết trong nền kinh tế, cân đối lại ngân sách và cắt giảm chi tiêu đến mức có thể được.
Thứ ba: Tăng quỹ hàng hoá tiêu dùng để cân đối với số lượng tiền có trong lưu thông bằng cách khuyến khích tự do mậu dịch, giảm nhẹ thuế quan và các biện pháp cần thiết khác để thu hút hàng hoá từ ngoài vào.
Thứ tư: Đi vay và xin viện trợ từ nước ngoài.
Thứ năm: Cải cách tiền tệ. Đây là biện pháp cuối cùng phải xử lý khi tỷ lệ lạm phát lên quá cao mà các biện pháp trên đây chưa mang lại hiệu quả mong muốn.
III.2. Những giải pháp chiến lược.
Đây là những giải pháp có tác động lâu dài đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Các giải pháp chiến lược thường được áp dụng là:
Thứ nhất, thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hoá và mở rộng lưu thông hàng hoá. Đây là biện pháp chiến lược hàng đầu để hạn chế lạm phát, duy trì sự ổn định tiền tê trong nền kinh tế quốc dân. Sản xuất trong nước ngày càng phát triển, quỹ hàng hoá được tạo ra sẽ ngày càng tăng về số lượng và đa dạng về chủng loại, tạo tiền đề vững chắc nhất cho sự ổn định tiền tệ. Bên cạnh việc thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hoá cho tiêu dùng trong nước, chính phủ cần phải chú trọng phát triển các ngành, các hoạt động làm tăng thu ngoại tệ như xuất khẩu hàng hoá, phát triển ngành du lịch...
Thứ hai, kiện toàn bộ máy hành chính, cắt giảm biên chế quản lý hành chính. Thực hiện tốt biện pháp này sẽ góp phần to lớn vào việc giảm chi tiêu thường xuyên của ngân sách Nhà nước, trên cơ sở đó giảm bội chi ngân sách Nhà nước.
Thứ ba, tăng cường công tác quản lý điều hành ngân sách Nhà nước trên cơ sơ tăng các khoản thu một cách hợp lý, chống thất thu, đặc biệt là thất thu thuế, đồng thời nâng cao hiệu quả của các khoản chi.
IV. Lạm phát ở Việt Nam.
Diễn biến về chỉ số giá ( CPI ) của Việt Nam từ nhiều năm trở lại đây không thể hiện sự tăng mức giá liên tục. Cụ thể tốc độ tăng, giảm chỉ số giá tiêu dùng qua những năm gần đây như sau:
Năm
Chỉ số giá tiêu dùng CPI (%)
1993
5,2
1994
14,4
1995
12,7
1996
4,5
1997
3,6
1998
9,2
1999
0,2
2000
- 0,6
2001
0,8
2002
4,0
2003
2,8
Mức tăng giá như vậy thì chưa thể coi là một hiện tượng lạm phát. Tuy nhiên, từ tháng 1 đến tháng 3 năm 2004, mức giá có xu hướng tăng theo các tháng, do tác động tăng giá một số mặt hàng nhập khẩu thiết yếu và tăng giá lương thực thực phẩm. Điều đó đã gây ra những lo ngại cho các cơ quan quản lý vĩ mô, “liệu lạm phát có thể kiểm soát ở mức không quá 5%? ”.
Để đạt được chỉ tiêu này, trong các tháng tiếp theo của năm 2004, trên cơ sở theo dõi sát các diễn biến giá cả, tỷ giá, cung - cầu tín dụng, việc điều hành chính sách tiền tệ nên được thực hiện linh hoạt, thận trọng, nâng cao vai trò điều tiết, kiểm soát tiền tệ của Ngân hàng Trung ương nhằm hỗ trợ mục tiêu tăng trưởng kinh tế, ổn định sức mua của đồng tiền, ổn định lãi suất và kiểm soát lạm phát ở mức hợp lý. Trường hợp có nhiều yếu tố bất lợi làm lạm phát vượt khỏi tầm kiểm soát thì sẽ áp dụng các biện pháp kiểm soát tiền tệ, như Ngân hàng Trung ương có thể chào bán giấy tờ có giá thông qua nghiệp vụ thị trường mở để hút lượng vốn dư thừa, đồng thời góp phần hạn chế tốc độ tăng chỉ số giá.
Trong các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, việc ổn định tỷ giá đi đôi với ổn định lãi suất là giải pháp quan trọng nhằm góp phần giảm chi phí đầu vào, qua đó tác động giảm giá cả sản phẩm, hạn chế sự gia tăng lạm phát.
Bên cạnh đó, các giải pháp vĩ mô khác cũng cần được thực hiện để hạn chế tác động của giá quốc tế đối với giá cả trong nước. Ngoài việc thực hiện các biện pháp về giảm thuế nhập khẩu, cần tăng cường hơn nữa việc thay thế các nguyên liệu nhập khẩu bằng nguyên vật liệu sản xuất trong nước. Ngoài ra, chính sách tài khoá cũng cần thực hiện thận trọng hơn. Chính phủ cần có giải pháp mạnh mẽ đối với việc quản lý nhà nước về nhập khẩu, cung ứng, phân phối, sản xuất, kinh phí nhằm giảm giá một số mặt hàng nhập khẩu để không những hỗ trợ cho việc tăng chất lượng cuộc sống của người dân mà còn có tác động giảm lạm phát.
Kết luận
Lạm phát là vấn đề trung tâm và nhạy cảm hàng đầu của đời sống kinh tế – xã hội ở cả cấp quốc gia và quốc tế. Với tư cách là kết quả tổng hoà của các chính sách kinh tế – xã hội vĩ mô cũng như các hoạt động kinh doanh vi mô trong bối cảnh chung của nền kinh tế khu vực và thế giới, lạm phát đến lượt mình đã có tác động gián tiếp hoặc trực tiếp, nhanh hoặc chậm, tích cực hoặc tiêu cực đến toàn bộ hoạt động của chính phủ, doanh nghiệp và cá nhân. Chính vì vậy, nhiệm vụ của các quốc gia là phải kiềm chế lạm phát ở mức độ mong muốn để nó không những không gây ảnh hưởng tiêu cực mà còn là một động lực để phát triển kinh tế. Để thực hiện được nhiệm vụ đó, cần phải hiểu rõ các nguyên nhân dẫn đến tình trạng lạm phát. Đó là do chính sách tiền tệ mở rộng, do chi tiêu chính phủ quá mức, do theo đuổi chỉ tiêu công ăn việc làm cao và do tỷ giá hối đoái. Trong đó nguyên nhân thực sự của lạm phát là do cung tiền tăng liên tục, tức là hậu quả của chính sách tiền tệ mở rộng.
Trong khuôn khổ một đề án môn học, với kiến thức được trang bị ở trường và kinh nghiệm thực tế còn hạn chế, em chỉ xin dừng lại ở một số vấn đề lý luận cơ bản về lạm phát và không có tham vọng đưa ra những nhận định mới mẻ mang tính phát hiện. Em mong rằng lý luận này có thể làm cơ sở cho những chính sách đối phó với lạm phát trong thực tiễn một cách có hiệu quả.
Trong quá trình nghiên cứu và thu thập tài liệu, em đã nhận được sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình của thầy giáo PGS .TS . Lê Đức Lữ. Em xin cảm ơn thầy đã giúp đỡ em hoàn thành đề án này.
Mục lục
Danh mục tàI liệu tham khảo
1. Federic S . Mishkin, Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa học – Kỹ thuật, 2001.
2. TS . Nguyễn Hữu Tài (chủ biên), giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ, NXB Thống kê, 2002.
3. GS . TS . Lê Văn Hưu (chủ biên), Tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, NXB Thống kê.
4. PTS . Nguyễn Ngọc Hùng, Lý thuyết tiền tệ – ngân hàng, NXB Tài chính, 1998.
5. PGS . PTS . Vũ Văn Hoá (chủ biên), Lý thuyết tiền tệ, NXB Tài chính, 1996.
6. Pierre bezbakh, Lạm phát và giảm lạm phát, NXB Khoa học - kỹ thuật.
7. MBA Nguyễn Ninh Kiều, Tiền tệ – ngân hàng, NXB Thống kê, 1998.
8. Tạp chí Thị trường tài chính – tiền tệ, số 15, ngày 1/8/2003.
9. Tạp chí Thị trường tài chính – tiền tệ, số 8 ngày 15/4/2004.
10. Tạp chí Thời báo kinh tế Việt Nam: Kinh tế 2003 – 2004 Việt Nam và thế giới.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 30001.doc