Đề tài Lạm phát và hậu quả của lạm phát

Trong thời kỳ 1976 - 1998, động thái của lạm phát có dạng hình sin lớn được hình thành từ chuỗi hình sin nhỏ nội hàm. Về cơ bản, thời kỳ 76 -86 là thời kỳ lạm phát tăng liên tục tuy không đều và đạt đỉnh cao nhất vào năm 1986. Sau đó là sự sụt giảm với hai nấc thời điểm ghi nhận rõ rệt là năm 1989 và 1992. Điểm thấp nhất được ghi nhận vào năm 1997, mức thấp kỷ lục đến khó tin. Nhưng kể từ giữa năm 1998, áp lực lạm phát bắt đầu gia tăng mạnh, xấp xỉ mức 10% cho cả năm. Nhờ có sự đưa mục tiêu chống lạm phát lên vị trí hàng đầu và gắn liền với đổi mới toàn diện hệ thống quản lý, thi hành chính sách giá cả thị trường, chính sách tài chính- tiền tệ- tín dụng chặt chẽ, nâng cao hiệu quả kinh tế khu vực Nhờ đó mà Việt Nam đã đạt vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch của kế hoạch 5 năm 1991- 1995. Lạm phát được kiềm chế, giá tiền được ổn định và củng cố, đời sống nhân dân được cải thiện, làm tăng sự đoàn đất nước và niềm tin của nhân dân với chính phủ, uy tín và vị thế Việt anm trên trường quốc tế được nâng lên. Có thể nói, về cơ bản, Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng, bước vào thời kỳ mới ổn định và phát triển.

doc11 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1076 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Lạm phát và hậu quả của lạm phát, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Lạm phát là phạm trù kinh tế tổng hợp, là thuộc tính vốn có và là bạn đồng hành của nền kinh tế thị trường. Trong thời đại ngày nay, lạm phát là vấn trung tâm và nhạy cảm hàng đầu của đời sống kinh tế – xã hội cả ở cấp quốc gia và quốc tế. ảnh hưởng của lạm phát rất rộng lớn, nó tác động đến tất cả các hoạt động và cả đời sống của mọi người dân. Lạm phát có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp, nhanh hoặc chậm, tích cực hay tiêu cực đến toàn bộ các lĩnh vực và khía cạnh hoạt động của chính phủ, doanh nghiệp và cá nhân, đến các quan hệ và nền kinh tế của đất nước. Hơn nữa, các nguyên nhân gây ra lạm phát rất đa dạng và bao quát cả trong lĩnh vực cung và cầu, sản xuất, phân phối và tiêu dùng, cả các nhân tố bên trong lẫn bên ngoài. Nếu chúng ta không có những giải pháp ngăn chặn kịp thời và giải quyết vấn đề một cách thích đáng thì nó sẽ gây ra những hậu quả không thể nào lường trước được. Vì vậy nghiên cứu lạm phát và tìm các giải pháp để đối phó với lạm phát luôn là vấn đề cấp bách và cần thiết, nó có ý nghĩa thời sự cả về lý thuyết lẫn thực tế. Để tìm hiểu vấn đề một cách cụ thể và rõ ràng hơn em đã chọn đề tài: “Lạm phát và hậu quả của lạm phát”. nội dung I. Khái quát chung về lạm phát. 1. Khái niệm về lạm phát. Lạm phát là một hiện tượng của tiền tệ, được biểu hiện ở sự mất giá( giảm giá) của tiền tệ, mà sự mất giá của tiền tệ lại biểu hiện rõ rệt nhất ai cũng thấy được là sự tăng giá bình quân của tất cả mọi thứ hàng hoá. Lạm phát xảy ra khi giá cả mọi thứ hàng hoá, dịch vụ và chi phí đều tăng tuy với tốc độ và tỷ lệ không đều, thứ tăng nhanh, thứ tăng chậm, thứ tăng nhiều, thứ tăng ít, nhưng nói chung mọi thứ đều tăng giá. Tất cả mọi loại tiền, cả tiền vàng và tiền giấy đều bị mất giá. Trền thế giới từ xưa đến nay chỉ có lạm phát tiền giấy, không hề có lạm phát tiền vàng. Bởi vì, trong chế độ lưu thông tiền vàng nếu khối lượng tiền vàng vượt quá nhu cầu lưu thông thì phần thừa sẽ tự động rút ra khỏi lưu thông để làm phương tiện cất giữ. Tiền vàng không mất giá trong trường hợp này. Trong chế độ lưu thông tiền giấy, thì mỗi khi phát hành nó vào lưu thông quá mức, nó không tự động rút ra khỏi lưu thông được. Tóm lại, lạm phát là hiện tượng phát hành thừa tiền giấy so với lượng tiền cần thiết cho lưu thông làm cho giá cả, mọi thứ hàng hoá tăng lên. Lạm phát càng cao thì đồng tiền càng bị mất giá nhiều. Lạm phát được đo bằng chỉ số giá tức là số trung bình của giá hàng hoá tiêu dùng hoặc giá cả sản xuất. Chỉ số giá cả được sử dụng phổ biến nhất là chỉ số giá hàng hoá tiêu dùng ( viết tắt là CPI). 2. Các nguyên nhân gây lên lạm phát. Lạm phát là kết quả của tổng hoà nhiêu nguyên nhân kinh tế xã hội, mỗi loại lạm phát đặc trưng có những nhóm nguyên nhân đặc trưng và bản thân những nguyên nhân đó cũng không giống nhau. Tuy nhiên, dù đa dạng và khác nhau đến đâu thì nguyên nhân của các cuộc lạm phát thường chủ yếu là. - Những nguyên nhân liên quan đến sự bất cập và kém hiệu quả của các chính sách điều tiết vĩ mô như phát hành tiền quá mức nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của chính phủ làm tăng dư cầu tổng quát; định mức lãi suất tiết kiệm và cho vay thấp hơn mức lạm phát - Do chi phí sản xuất trong nước gia tăng: chi phí quản lý, tiền lương lao động, nguyên liệu, vật tư - Ngoài ra còn do nguyên nhân “ bất khả kháng” liên quan đến thiên tai, lũ lụt, hạn hán, động đất, khiến cung sụt giảm đột ngột so với cầu - Chiến tranh, khủng hoảng kinh tế khu vực và thế giới, giá cả thế giới tăng. - Bên cạnh đó có thể có những nguyên nhân khác đi liền với nội chiến, đấu tranh chính trị và cái gọi là kỳ vọng về lạm phát, tức là việc người lao động, người tiêu dùng và doanh nghiệp đều dự kiến sẽ có lạm phát trong tương lai, nên đưa ra những yêu cầu, đối sách thích ứng “ sớm”, do đó làm kéo dài, thậm chí tăng xung lực lạm phát tương lai. Hơn nữa, trên thế giới đang nổi lên nguy cơ gây ra lạm phát gắn liền với kỹ thuật tiền tệ điện tử – một thực tiễn mới mẻ của sự phát triển kinh tế và kỹ thuật hiện đại. Việc phổ cập rộng rãi hai dạng tiền điện tử hiện nay là “ thẻ thông minh” và “ tiền kỹ thuật số” thì bên cạnh những tiện lợi không thể phủ nhận được, chúng cũng sẽ gây ra một số lo ngại có cơ sở như : + Nếu tiền kỹ thuật số chiếm vị trí của các cuốn séc thanh toán ở các ngân hàng, thì nhu cầu trung ương phát hành sẽ giảm, tức là vai trò của tiền mặt sẽ giảm. + Tốc độ lưu chuyển của tiền do xử lý giao dịch trên mạng sẽ nhanh hơn, tạo nguy cơ gây ra lượng tiền “dư thừa” tương đối so với trước- một áp lực làm gia tăng lạm phát - mặc dù lượng cung tiền vẫn tuân theo mức tăng trưởng kinh tế 3. Các mức lạm phát. Trong lạm phát tiền tệ, người ta phân biệt có ba mức lạm phát khác nhau đó là lạm phát vừa phải, lạm phát phi mã và siêu lạm phát. - Lạm phát vừa phải: Là loại lạm phát khi giá cả tăng chậm, dưới 10% một năm. Còn gọi là lạm phát một con số ( từ 1% đến 9% một năm). Trong điều kiện lạm phát vừa phải, giá cả tương đối không khác mức bình thườngbao nhiêu, tiền giữu được phần lớn giá trị của nó từ năm này qua năm khác, tiền không bị mất giá. - Lạm phát phi mã: Là loại lạm phát khi giá tăng với tỷ lệ hai hoặc ba con số như 20%, 100% một năm. Khi lạm phát phi mã kéo dài sẽ nảy sinh những biến dạng nghiêm trọng cho nền kinh tế. Đồng tiền mất giá nhanh chóng, nhân dân tránh giữ tiền mặt mà tích trữ hàng tiêu dùng, cho vay với lãi suất cao hơn bình thường hoặc mua vàng, đôla, nhà. Đồng tiền mất giá nhanh chóng, nên các hợp đồng ký kết đều bằng hiện vật hay ngoại tệ mạnh. Trong khi lãi suất danh nghĩa rất cao thì lãi suất thực tế xuống tới âm 50% hoặc âm 100%. - Siêu lạm phát: Là thời kỳ có mức lạm phát rất lớn. Nếu trong lạm phát phi mã, nền kinh tế có vẻ còn sống sót được thì trong siêu lạm phát, nền kinh tế xem như đang đi dần vào cõi chết. Trong thời kỳ siêu lạm phát tốc độ chu chuyển tiền tăng ghê gớm. ở Đức cuối thời kỳ siêu lạm phát tốc độ chu chuyển tiền tăng 30 lần II. Những tác động của lạm phát. Lạm phát tác động trực tiếp đến nền kinh tế, làm thay đổi mức độ và hình thức sản lượng, đồng thời tạo ra sự phân phối lại thu nhập và của cải xã hội. Hơn nữa, lạm phát tác động đến nền kinh tế theo cả hai hướng tiêu cực và tích cực. 1. Các tác động tiêu cực của lạm phát. Tác hại của lạm phát tỷ lệ thuận với tốc độ lạm phát, với mức độ các tiến triển không thể dự báo trước và vượt ra khỏi khả năng điều tiết, kiềm chế của chính phủ. Lạm phát phi mã và siêu lạm phát là những tai hoạ khủng khiếp cho đời sống kinh tế- xã hội của một nước. Lạm phát( chủ yếu là lạm phát từ hai chữ số trở lên) có thể gây ra các tác động - Vì làm rối loạn chức năng thước đo giá trị của tiền nên lạm phát xuyên tạc, bóp méo, làm biến dạng các yếu tố và tín hiệu thị trường, làm cho các hoạt động kinh tế – xã hội, hoạt động kinh doanh không ổn định. Vai trò điều tiết nền kinh tế của chính phủ thông qua tiền tệ và thuế cũng bị suy giảm do mức thuế trở nên vô nghĩa trước tốc độ tăng lạm phát trong thời kỳ phi mã hoặc siêu lạm phát. - Lạm phát làm biến dạng hành vi kinh doanh, đặc biệt là hành vi đầu tư, do làm mất khả năng tính toán hợp lý về lợi nhuận. Lạm phát kiềm hãm các đầu tư dài hạn và kích thích đầu tư ngắn hạn thường là tài sản mang lại lãi vốn, có tính đầu cơ( các bất động sản, kim loại quý) gây ra tình trạng khan hiếm hàng hoá không bình thường và lãng phí. - Làm suy yếu, thậm chí phá vỡ thị trường vốn và tín dụng. Sự bất ổn định giá cả trong tương lai làm suy giảm lòng tin và gây khó khăn cho sự lựa chọn các quyết định của cả người gửi tiền lẫn các thể chế tài chính- tín dụng, tác động xấu đến các ngân hàng tiết kiệm. Lạm phát thường tạo ra các tình huống lãi suất thực tế âm khiến tiết kiệm giảm sút và chuyển hướng ra khỏi đầu tư sản xuất. Bởi vậy, lạm phát thường đi kèm với suy thoái kinh tế. - Hơn nữa việc phân phối thu nhập thường kém đồng đều trong các thời kỳ lạm phát. Một số người nắm giữ các hàng hoá có giá cả tăng thì trở nên giàu có và ngược lại, người có hàng hoá mà giá cả không tăng hoặc tăng chậm sẽ nghèo đi, mức lương thực tế cũng sụt giảm làm tổn hại đến mức sống thực tế của người có thu nhập thấp và cố định. - Lạm phát làm tăng nguy cơ phá sản do vỡ nợ và làm tăng chi phí dịch vụ nợ nước ngoài tính bằng ngoại tệ của cả doanh nghiệp lẫn chính phủ. - Sự mất ổn định của giá cả và tiền tệ còn làm môi trường kinh doanh trong nước xấu đi, cùng với nó là sự ra đi của những dòng vốn trong nước. Lạm phát kéo theo giá cả hàng nhập khẩu trở nên đắt đỏ hơn. Lạm phát cao ( thường trên 40%) luôn gắn với thâm hụt tài chính lớn. 2. Lợi ích của lạm phát. Bên cạnh những tác động tiêu cực, lạm phát còn có một số lợi ích nhất định. Với tốc độ lạm phát vừa phải ( thường là từ 2% đến dưới 5%/ năm ở nhũng nước phát triển và dưới 10%/ năm ở những nước kém phát triển) và với “ chỉ số hoá” lạm phát cùng các kỹ thuật thích ứng khác có thể đem lại một số lợi ích như sau: - Lạm phát tựa nhưu dầu mỡ giúp “ bôi trơn” nề kinh tế. Trong điều kiện nào đó, có thể thông qua lạm phát từ 2– 4%/ năm để bỏ ngỏ khả năng có những lãi suất thực âm, có tác dụng kích thích tiêu dùng, vay nợ và đầu tư, do đó giảm bớt thất nghiệp xã hội, kích thích tăng trưởng kinh tế xã hội. Tốc độ lạm phát dưới 4%/ năm được hầu hết các chuyên gia kinh tế và các chính phủ trên thế giới coi là bình thường , thậm chí là cần thiết trong quá trình phát triển đất nước. - Cho phép chính phủ có thêm khả năng lựa chọn các công cụ kích thích đầu vào những lĩnh vực kém ưu tiên thông qua mở rộng tín dụng và tài trợ lạm phát. Giúp phân phối lại thu nhập và các nguồn lực xã hội theo các định hướng mục tiêu và trong khoảng thời gian nhất định chọn lọc. III. Thực trạng lạm phát ở nước ta trong những năm gần đây. 1. Thực trạng. ở Việt Nam, tình trạng giảm phát trong nhiều năm liền những đến năm 2002 chuyển sang lạm phát nhẹ, lạm phát bằng 2/3 tăng trưởng kinh tế. Trong thời kỳ 1976 - 1998, động thái của lạm phát có dạng hình sin lớn được hình thành từ chuỗi hình sin nhỏ nội hàm. Về cơ bản, thời kỳ 76 -86 là thời kỳ lạm phát tăng liên tục tuy không đều và đạt đỉnh cao nhất vào năm 1986. Sau đó là sự sụt giảm với hai nấc thời điểm ghi nhận rõ rệt là năm 1989 và 1992. Điểm thấp nhất được ghi nhận vào năm 1997, mức thấp kỷ lục đến khó tin. Nhưng kể từ giữa năm 1998, áp lực lạm phát bắt đầu gia tăng mạnh, xấp xỉ mức 10% cho cả năm. Nhờ có sự đưa mục tiêu chống lạm phát lên vị trí hàng đầu và gắn liền với đổi mới toàn diện hệ thống quản lý, thi hành chính sách giá cả thị trường, chính sách tài chính- tiền tệ- tín dụng chặt chẽ, nâng cao hiệu quả kinh tế khu vựcNhờ đó mà Việt Nam đã đạt vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch của kế hoạch 5 năm 1991- 1995. Lạm phát được kiềm chế, giá tiền được ổn định và củng cố, đời sống nhân dân được cải thiện, làm tăng sự đoàn đất nước và niềm tin của nhân dân với chính phủ, uy tín và vị thế Việt anm trên trường quốc tế được nâng lên. Có thể nói, về cơ bản, Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng, bước vào thời kỳ mới ổn định và phát triển. Xu hướng gia tăng lạm phát sẽ còn khả năng kéo dài cùng với sự gia tăng sức ép khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực đến nền kinh tế thế giới và Việt Nam. Tuy vậy, có thể khẳng định rằng, kể từ năm 1992, năm Việt Nam được Tổ chức tiền tệ châu Âu và Tổ chức tiền tệ châu á bầu là “ Chính phủ quản lý kinh tế đất nước tốt nhất châu á” đến nay, lạm phát ở Việt Nam đã thực sự vượt qua tình trạng “ bất kham” để đạt tới trạng thái ôn hoà và bị kiềm chế khá chủ động và vững chắc từ phía Chính phủ. Đây là một thành tích được cả thế giới ghi nhận và khâm phục mà không phải nước có nền kinh tế chuyển đổi nào cũng đạt được. Trong thời gian tới, cùng với sự tiếp tục quá trình chuyển đổi của nền kinh tế, lạm phát ở nước ta sẽ vẫn mang tính chất đặc trưng của nền kinh tế chuyển đổi. 2. ảnh hưởng của lạm phát đối với nền kinh tế nước ta. - Làm thiếu hụt ngân sách nhà nước, mất cân đối cán cân thanh toán, ngoại thương, nợ nước ngoài nặng nề. Hiện nay số nợ nước ngoài của Việt Nam đã khá lớn. Nếu chưa kể khoản nợ bằng rúp huyển đổi cho đến nay vẫn chưa có phương thức thanh toán, thì riêng khoản nợ bằng ngoại tệ mạnh đã lên tới 6,7 tỷ USD năm 1994 và hiện nay đã tăng gấp đôi, khoảng 13 tỷ USD. - Tình trạng thất nghiệp ở Việt Nam còn rất nặng nề ( riêng khu vực doanh nghiệp nhà nước, tỷ lệ thất nghiệp và nghỉ không lương chiếm từ 8% - 12%). - Tạo ra các lỗ hổng luật pháp làm tăng tệ nạn tham nhũng. - Gây mất lòng tin ở nhân dân, người dân thường mua vàng dự trữ hoặc đổi lấy ngoại tệ. - Tình hình kinh tế của đất nước phát triển chậm, hạn chế sự đầu tư của các tổ chức hay doang nghiệp nước ngoài, làm giảm kim ngạch xuất nhập khẩu. - Gánh nợ của các doanh nghiệp về thuế hay các nghĩa vụ tài chính làm yếu đi sự vững chắc ngân sách nhà nước, làm tăng các xung lực gây bất ổn định chung cho nền tài chính – tiền tệ, làm xấu đi hệ số tín nghiệm về môi trường đầu tư quốc gia. Không những thế nó còn làm xấu đi tổng cung nền kinh tế, gây sức ép gia tăng lạm phát. 3. Giải pháp đối phó. - Bịt chặt những lỗ hổng thất thu, thất thoát ngân sách nhà nước thất thu từ thuế, từ các dự án đầu tư nhà nước do cơ cấu đầu tư chưa phù hợp và sử dụng vốn đầu tư kém hiệu quả. Để làm được điều đó chúng ta cần phải: + Giảm đầu tư xây dựng cơ bản, tăng đầu tư vào thiết bị máy móc, đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. + Tập trung ngân sách nhà nước để khắc phục: sự chênh lệch quá xa về trình độ phát triển giữa các vùng, phát triển những yếu tố kích thích đầu tư tư nhân. - Hệ thống ngân hàng lành mạnh, hiện đại và thị trường vốn phát triển sẽ ngày càng đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển kinh tế cũng như kiềm chế vững chắc lạm phát ở Việt Nam. - Lấp kín những lỗ hổng luật pháp mà có thể là nơi xuất phát và ẩn nấp của tệ tham nhũng. Tạo cơ chế phòng ngừa và trấn áp tham nhũng có hiệu lực. Thường xuyên tiến hành “làm trong sạch” bộ máy nhà nước từ trên xuống. Bên cạnh đó còn phải tăng cường trang bị cơ sở vật chất – kỹ thuật cho công tác quản lý nhà nước. Cac thủ tục hành chính phải đơn giản hoá, công bằng, công khai, thống nhất, nhanh chóng và trực tiếp ( như ở Hà Nội việc cấp đăng ký xe phải dựa vào 54 loại giấy tờ) - Để tiến tới việc cân đối vững chắc ngân sách nhà nước thì việc nuôi dưỡng và phát triển các nguồn thu, đi đôi với việc thu hẹp và định hướng lại cũng như nâng cao hiệu quả các khoản chi ngân sách nhà nước sẽ phải là nguyên tắc nền tảng cho công tác ngân sách nhà nước, chứ không phải là tiếp tục tận thu và tăng chi tiêu ngân sách nhà nước một cách chủ quan, duy ý chí. - Biến động của lạm phát ở Việt Nam tuỳ thuộc rất lớn vào kết quả cải cách khu vực kinh tế nhà nước, nhất là các doanh nghiệp nhà nước. Cần phải giảm thiểu bao cấp ngân sách cho khu vực doanh nghiệp nhà nước, để dành vốn chi ngân sách nhà nước cho ưu tiên chiến lược và tăng hiệu quả sử dụng vốn xã hội. Bảo đảm sự hoạt động bình thường của guồng máy sản xuất xã hội. Không được “gây sốc’ và làm giảm sút sản xuất, giảm sút tăng trưởng kinh tế và thu ngân sách nhà nước, cũng không được phép làm tăng vọt tỷ lệ thất nghiệp xã hội. - Các chứng khoán – hàng hoá trên thị trường chứng khoán phải được hình thành phong phú, đa dạng hơn. Ngoài ra còn phải xây dựng đông bộ hệ thống pháp lý cho sự vận hành của nền kinh tế thị trường nói chung, của thị trường chứng khoán nói riêng. Tổ chưc thông tin tuyên truyền rộng rãi trong xã hội về thị trường chứng khoán, gạt bỏ được sự e ngại cũng như tạo được lòng tin của nhân dân. Đồng thời còn phải có biện pháp cụ thể và hiệu quả phòng ngừa những tác hại của thị trường chứng khoán. - Giải quyết những vấn đề nhân lực và xã hội vừa là yêu cầu nội dung, vừa là điều kiện cần thiết hàng đầu để đảm bảo sự thành công của chính sách chống lạm phát triệt để trong tương lai. + Giải quyết việc làm, giảm thiểu nạn thất nghiệp. + Phát triển hệ thống an ninh xã hội. + Phát triển nguồn nhân lực, khuyến khích và trọng dụng nhân tài - Có các biện pháp giải quyết các khoản nợ thuế hay các nghĩa vụ tài chính khác mà doanh nghiệp phải nộp. - Chính phủ cần tăng cường những giải pháp tài chính - tiền tề theo hướng cân bằng, không phát hành lượng tiền quá mức cần thiết, nâng cao tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Kết luận Như vậy, qua đây chúng ta đã có thể nhận thức rõ hơn được về lạm phát và cũng thấy rất rõ những tác động xấu của lạm phát gây ra đối với nền kinh tế của Việt Nam nói riêng cũng như của các nước trên thế giới nói chung. Đối phó và kiềm chế lạm phát là một “công nghệ” phức tạp và được điều chỉnh uyển chuyển phù hợp với từng loại lạm phát và tình hình cụ thể của mỗi nước. Lạm phát là căn bệnh mãn tính của nền kinh tế thị trường, lạm phát có cả tác hại lẫn ích lợi. Nếu một nước có thể duy trì, kiềm chế, điều tiết được mức lạm phát vừa phải phù hợp và có lợi cho thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế của mình, thì ở đó lạm phát không còn là căn bệnh nguy hiểm đối với nền kinh tế nữa. Khi đó, lạm phát sẽ trở thành công cụ điều tiết kinh tế khá đắc lực. Nhưng đối với lạm phát phi mã hay siêu lạm phát thì không thể dự đoán và điều tiết được đã gây ra những tác hại rõ rệt cho nền kinh tế và trở thành căn bệnh hiểm nghèo cần điều trị tích cực và đúng cách. Mục lục Trang Lời nói đầu.. 1 I. Khái quát chung về lạm phát. 2 1. Khái niệm về lạm phát.. 2 2. Các nguyên nhân gây ra lạm phát. 2 3. Các mức lạm phát.. 3 II. Những tác động của lạm phát... 4 1. Các tác động tiêu cực của lạm phát... 4 2. Lợi ích của lạm phát.. 5 III. Thực trạng lạm phát ở nước ta trong những năm gần đây... 6 1. Thực trạng. 6 2. ảnh hưởng của lạm phát đối với nền kinh tế nước ta. 7 3. Giải pháp đối phó.. 7 Kết luận 10 ********************************************* *********************** Tài liệu tham khảo. - PTS. Nguyễn Minh Phong ( chủ biên) – Lý thuyết lạm phát, giảm phát và thực tiễn ở Việt Nam- Nhà xuất bản chính trị quốc gia, năm 2000. - PGS. Lê Thế Tường ( chủ biên ) – Giáo trình tài chính

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7145.doc
Tài liệu liên quan