Đề tài Lễ hội làng Giang Xá

Mục Lục 1.1 Giới thiệu về Lễ hội làng Giang Xá 1 2.1.Quá trình chuẩn bị 2 2.1.1.Các cuộc họp 2 2.1.2. Lựa chọn hàng đô, chức việc và quá trình luyện tập 5 2.1.3. Các công việc sửa sang, trang trí 11 2.1. 4. Chuẩn bị lễ vật 12 2.2. Các đám rước 20 2.2.1. Rước phụng nghinh hồi đình và rước hoàn cung 20 2.3. Đại tế 23 1.1 Giới thiệu về Lễ hội làng Giang Xá Kể từ năm 1955, trải suốt một thời gian dài làng Giang Xá không mở đại đám dài ngày mà chỉ có đám lệ một ngày. Mãi đến năm 1989, nhân dịp cụm di tích đình và đền của làng được Nhà nước công nhận là Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật, lễ hội truyền thống của làng mới được phục hồi. Từ đó đến nay, như đã thành thông lệ, cứ 5 năm một lần, làng Giang Xá lại nô nức vào đám. Cũng từ đó, lễ hội đã trở thành một nét sinh hoạt văn hoá không thể thiếu của người dân nơi đây. Mỗi người dân Giang Xá đều mong mỏi đến năm làng mở đại đám để được chứng kiến cái không khí tưng bừng tràn ngập trên khắp mảnh đất quê hương mình. Hội làng Giang Xá ngày nay được tổ chức từ ngày 11 đến 14 tháng Giêng. Trong đó ngày 11 là chính hội, có tổ chức rước nghinh Thánh giá từ đền về đình. Hội làng Giang Xá ngày nay là sự kết hợp của hội làng và hội lệ ngày xưa. Trước đây, theo trí nhớ của dân làng, sau khi tách khỏi xã Lưu Xá (khoảng vào đời Thành Thái), làng Giang và làng Lưu cùng thờ chung một Thánh. Vì vậy, “gián niên nhất lệ”, năm chẵn làng Lưu mở hội, năm lẻ mới đến làng Giang. Nhưng đó cũng chỉ là hội lệ, chỉ kéo dài một ngày. Còn đại đám thì rất hiếm khi làng tổ chức, khoảng 5 năm, 10 năm hay 15 năm, chỉ khi nào trong làng có nhiều việc vui, mùa màng bội thu thì dân làng mới mở đám và tổ chức rước nghinh vào ngày 12 tháng Giêng. Nhưng đã mở hội thì thường kéo dài từ 10 đến 16 ngày, thậm chí có năm phải sang tháng Hai (âm lịch) mới tế xuất tịch, giã đám. Trung tâm của lễ hội làng Giang chính là vị anh hùng dân tộc Lý Nam Đế, người đã được dân làng tôn làm Thành Hoàng. Tất cả những truyền thuyết về Lý Bí và nhà nước Vạn Xuân đã lắng đọng trong tâm thức của người dân, nó trải cùng thời gian và trở nên sống động hơn bao giờ hết trong lễ hội nơi đây. Mọi sự kiện quan trọng trong cuộc đời của người anh hùng này đều được người dân Giang Xá ghi nhớ và trân trọng. Năm 2003, nhân dịp kỷ niệm 1500 ngày sinh của Người (theo truyền thuyết ở địa phương thì Lý Bí sinh ngày 12 tháng 9 năm Quí Mùi (503)), dân làng có nguyện vọng mở hội để tưởng nhớ sự kiện này nhưng vì điều kiện không cho phép nên các cụ cao tuổi trong làng mới quyết định năm Giáp Thân sẽ mở hội vào tháng Giêng, cũng là dịp để kỷ niệm 1460 năm ngày Lý Bí lên ngôi Hoàng đế và thành lập nên nhà nước Vạn Xuân. Chính vì vậy, tuy không đúng vào năm mở hội theo thông lệ (nếu đúng theo lệ 5 năm một lần thì đến năm 2005 mới là năm làng mở hội) nhưng người dân Giang Xá vẫn nô nức chuẩn bị và chờ đón ngày vào đám. 2.1.Quá trình chuẩn bị

doc27 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1920 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lễ hội làng Giang Xá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tham gia của đại diện UBND và MTTQ.… Sau khi thành lập, Ban Tổ chức sẽ tiến hành chia thành các tiểu ban và phân công nhiệm vụ cụ thể cho các tiểu ban đó. Ví dụ như Tiểu ban thư ký có nhiệm vụ thường trực để tiếp nhận các khoản đóng góp công đức của nhân dân và cho niêm yết danh sách công khai cho dân làng biết, đồng thời chịu trách nhiệm toàn bộ về việc thu, chi của lễ hội; Tiểu ban lễ tân gồm các bà trong Hội Phụ nữ, có nhiệm vụ tiếp đón các đoàn khách giao hiếu, mời khách thụ lộc; Tiểu ban cờ có chức năng tuyển chọn quân cờ và tổ chức sân chơi cờ người… Sau cuộc họp ngày mùng 2, đến ngày 15 tháng Chạp, nhân tuần vọng cuối cùng của năm, những gia đình có người thân lên tuổi tròn (50, 60, 70, 80, 90, 100) đều đội lễ ra đền và có lời với dân để dân xếp lễ, cho phép ra Giêng dự lễ Khánh thọ của làng. Cũng nhân dịp này, làng tổ chức bàn giao giữa Ban Khánh tiết cũ và Ban Khánh tiết mới. Ở Giang Xá, Ban Khánh tiết bao gồm toàn bộ nam giới trong Hội Đồng canh của lứa tuổi 50, họ có nhiệm vụ chủ trì toàn bộ công việc lễ nghi của làng trong vòng một năm, tất cả các tuần tiết của năm, kể cả các ngày sóc, vọng, Ban Khánh tiết phải thay mặt cho toàn thể dân làng chuẩn bị lễ phù tửu để mang ra đình, ra đền, ra chùa. Trong Ban Khánh tiết sẽ bầu ra một người làm Trưởng ban để chịu trách nhiệm bao quát chung. Ông Trưởng ban phải đáp ứng một số tiêu chuẩn như gia đình phải song toàn, vợ chồng, con cái thuận hoà, bản thân ông ta cũng phải là người có đủ tư cách đạo đức, không có điều tiếng gì xấu trong làng. Trưởng Ban Khánh tiết cũng thường là Trưởng Hội Đồng canh. Trong trường hợp đặc biệt như gia đình vướng bụi (tức là có tang) thì trưởng Ban Khánh tiết phải nghỉ. Trong ban sẽ cử người khác lên thay. Các thành viên khác của Ban Khánh tiết cũng vậy. Nếu người nào mà gia đình, họ hàng có người qua đời thì người đó chỉ được tham gia vào việc chuẩn bị lễ vật chứ không được tham gia các công việc ngoài đình, đền. Trong lễ bàn giao, cả ban mới và ban cũ đều phải sửa cơi trầu để làm lễ Thánh. Lễ của ban cũ gọi là lễ tạ, còn lễ của ban mới gọi là lễ trình. Sau lễ bàn giao, Ban Khánh tiết mới sẽ đảm nhận toàn bộ công việc lễ tiết và chuẩn bị cho lễ hội của năm mới. Cùng trong ngày 15, làng sẽ cử ra cụ Đăng cai mới cho năm sau. Cụ Đăng cai thông thường là Trưởng Hội Đồng canh tuổi 70, có gia đình song toàn, thông thạo công việc của làng và không có tang trở. Cụ Đăng cai là người đại diện cho các cụ cao tuổi trong làng (từ 70 trở lên) để sắp xếp cùng với Ban Khánh tiết, Ban Bộ lễ về công việc hội hè, lễ tiết của làng trong vòng một năm. Thông qua cụ Đăng cai, Ban Tổ chức sẽ tham khảo ý kiến của các cụ cao tuổi để đề ra chương trình cụ thể của lễ hội sao cho đúng với phong tục, tập quán của làng. Trong lễ bàn giao, cụ Đăng cai mới cũng phải sửa cơi trầu làm lễ trình trước Thánh. Sau buổi lễ bàn giao của Ban Khánh tiết và cụ Đăng cai, dân làng lại tiếp tục bàn về công việc chuẩn bị cho lễ hội năm sau. Lần họp này, Ban tổ chức đã đưa ra chương trình lễ hội dự kiến để tham khảo ý kiến của các cụ cửu, bát, thất và nhân dân. Sau các cuộc họp toàn dân tại đình, đền với sự tham gia của các cụ trong làng, để chuẩn bị cho lễ hội, cứ định kỳ một tuần hay mười ngày, ban tổ chức lại tiến hành các cuộc họp riêng để phân công công việc cụ thể theo như chương trình đã định. Các cuộc họp của Ban Tổ chức thường được tiến hành tại nhà cụ Đăng cai. Mặc dù không có sự tham gia của các cụ cửu, bát, thất nhưng thông qua cụ Đăng cai, các cụ luôn nắm được công việc cụ thể của Ban Tổ chức và có những ý kiến đóng góp kịp thời. Cũng trong các buổi họp này, Ban Tổ chức đã thành lập nên một ban trù bị gồm 6 người để chịu trách nhiệm soạn và kiểm kê lại toàn bộ số trang phục dành cho hàng đô, chức việc, cũng như các tàn, quạt, cán cờ, khung lọng... Đồng thời, các thành viên của các tiểu ban cũng căn cứ vào nhiệm vụ cụ thể của ban mình để tiến hành lên danh sách và chọn lựa các Hội Đồng canh phù hợp để phân công công việc. Tất cả các công việc chuẩn bị cho lễ hội đều được cụ thể hóa từng chi tiết cho từng nhóm, từng ngày trong suốt thời gian từ đó cho đến khi diễn ra lễ hội. Ví dụ: Ban Khánh tiết có trách nhiệm tu lễ trong thời gian lễ hội, lễ vật gồm những gì, số lượng là bao nhiêu đều do ban tổ chức căn cứ theo yêu cầu của từng ngày để quy định và phân công cụ thể. Trong các cuộc họp này, các bộ phận được phân công nhiệm vụ phải báo cáo chi tiết công việc và chương trình hoạt động của mình trong lễ hội. Đồng thời, về mặt nghi lễ, ông trưởng thôn với tư cách là Phó trưởng ban tổ chức cũng phải luôn bám sát những thông tin do cụ Đăng cai, ông Trưởng Ban Bộ lễ, Trưởng Ban Khánh tiết, những người đại diện cho dân làng, thông báo để tham khảo ý kiến của các cụ cao tuổi, nếu có khó khăn gì, cần bổ sung gì thì xin các cụ góp ý. Việc bàn bạc cho tổ chức lễ hội diễn ra rất tỷ mỉ, tất cả các bộ phận được giao nhiệm vụ đều hồ hởi và cố gắng hoàn thành công việc một cách tốt nhất, bởi ai cũng nghĩ đó là một vinh dự và trách nhiệm khi được góp sức mình để làm việc “ Nhà Thánh”, để phục vụ việc làng. Buổi họp cuối cùng diễn ra tại đình vào chiều ngày mùng 10 tháng Giêng, ở cuộc họp này, toàn bộ chương trình của lễ hội được rà duyệt lần cuối. Đặc biệt tại đây, các cụ và ban tổ chức sẽ sắp xếp lần cuối cùng cho đoàn rước ngày hôm sau, thứ gì đi trước, thứ gì đi sau đều được quyết định cụ thể và thông báo công khai cho mọi người cùng biết. Nếu có gì sơ suất thì các cụ sẽ góp ý ngay để kịp thời khắc phục. 2.1.2. Lựa chọn hàng đô, chức việc và quá trình luyện tập Hội làng chính là dịp để người dân tưởng nhớ đến công lao của Thành hoàng làng mình thông qua các hoạt động như tế lễ, rước xách… chính vì vậy những người trực tiếp tham gia vào các hoạt động này đều phải được lựa chọn kỹ lưỡng và trải qua quá trình luyện tập công phu từ nhiều tháng trước khi vào hội. Trong bất cứ lễ hội nào, đoàn rước luôn có vị trí quan trọng nhất, là hoạt động trung tâm thu hút sự chú ý của những người tham dự hội. Những người được tham gia vào việc phục vụ đoàn rước luôn cảm thấy rất vinh dự và tự hào, bởi lẽ có nhiều người trong cả cuộc đời mình họ chỉ có được một lần đảm nhận công việc quan trọng này. Ở Giang Xá, những người tham gia khiêng kiệu trong đoàn rước được gọi chung là hàng đô. Hàng đô phần lớn là nam giới được lựa chọn từ các Hội Đồng canh. Mỗi Hội Đồng canh sẽ được giao đảm nhận một công việc cụ thể căn cứ vào số lượng người cũng như độ tuổi của hội đó. Ví dụ, việc khiêng nhang án cần tám người thì ban tổ chức sẽ tìm một hội có khoảng 10 đến 16 người (kể cả người để thay thế), ở độ tuổi trên dưới 30 để giao nhiệm vụ, hay như việc khiêng kiệu cỗ cần bốn người thì cũng phải chọn một hội thích hợp. Sau khi đã lên danh sách các Hội Đồng canh và các công việc dự kiến của hội đó, Ban Tổ chức sẽ cho mời các ông Trưởng Hội ra để bàn giao cụ thể công việc. Các Trưởng Hội Đồng canh sẽ về và tổ chức anh em trong hội mình luyện tập sao cho hoàn thành tốt nhất công việc được giao. Tuy vậy, không phải tất cả hàng đô đều được chọn lựa từ các Hội Đồng canh. Theo lệ của làng từ xưa, riêng hàng đô phù giá - Những người lãnh trách nhiệm khiêng kiệu Thánh, phải là những “trai thanh” với độ tuổi từ 18 đến 20, chưa lập gia đình, có ông bà, bố mẹ song toàn, bản thân người đó phải khoẻ mạnh, có đạo đức và không có tang chế. Chính vì vậy việc lựa chọn hàng đô phù giá luôn là một công việc tốn nhiều công sức và thời gian. Ban Tổ chức phải rà soát toàn bộ các gia đình trong làng để tìm ra các thanh niên đáp ứng đủ tiêu chuẩn. Sau đó, đại diện của ban phải đến từng nhà để có lời với gia đình và mời người đó tham gia phục vụ việc làng. Nếu như trước đây tế tự, hội hè là việc dành riêng cho nam giới thì đến nay điều này không còn đúng nữa. Từ nhiều năm trở lại đây, phụ nữ ở Giang Xá được khuyến khích tham gia các công việc của làng. Chính vì vậy, trong lễ hội của làng ngày nay, ta thấy có sự tham gia của các hàng đô nữ. Cũng như hàng đô phù giá, số lượng hàng đô nữ tuy không nhiều nhưng được chọn lựa rất kỹ càng. Họ phải là những “gái lịch”, chưa có chồng, ông bà bố mẹ còn đầy đủ, không mắc ưu, mắc bụi. Sau khi đã chọn đủ số hàng đô theo yêu cầu, công việc luyện tập được bắt đầu. Việc luyện tập của hàng đô do các Cán biện phụ trách, Cán biện nam phụ trách hàng đô nam, Cán biện nữ phụ trách hàng đô nữ. Trước đây ở Giang Xá, tất cả các hàng đô tham gia lễ hội là do các phiên cử ra. Phiên là tổ chức dựa trên cơ sở liên gia, toàn bộ số trai đinh của làng được chia đều thành tám phiên, mỗi phiên bao gồm các gia đình nằm liền nhau trong cùng một khu vực, vì thế có thể cùng họ, cùng giáp nhưng không cùng phiên. Trong khi đó, các Cán biện là do hội Tư văn cử ra. Hội Tư văn là tổ chức của những người có học, hiểu biết lễ nghĩa và là phải là con nhà khá giả, điều này cho thấy tầm quan trọng của chức Cán biện đối với việc tổ chức lễ hội. Ngày nay, hội Tư văn không còn nữa, nhưng việc lựa chọn Cán biện vẫn phải tuân thủ theo những tiêu chuẩn khá khắt khe. Cán biện phải là những người có độ tuổi từ 50 đến 69, có sức khoẻ, thông thạo việc làng, có phong độ nghiêm trang. Có sáu Cán biện đảm nhận toàn bộ công việc phân bổ hàng đô kiệu cũng như bố trí thời gian để tập luyện tại sân đình. Trước khi bắt đầu tập, Cán biện cho toàn bộ hàng đô tập trung một buổi chiều để nói rõ về tầm quan trọng của lễ hội. Sau đó bắt đầu “nghiêm quân” sao cho thật thạo, đi, đứng, lùi, quay, lên cao xuống thấp, xoay ra xoay vào đều phải khớp với nhịp trống. Khi đổi vai, Cán biện gụ vào thành trống để làm dự lệnh cho hàng đô chuẩn bị, sau đó gõ vào mặt trống ba tiếng; tiếng thứ nhất, hàng đô nhất loạt lui chân phải về đằng sau khoảng một bàn chân tạo thế chân chèo; tiếng thứ hai, bá hai tay vào đòn kiệu, ép sát khuỷu tay vào ngực ở thế giữ thăng bằng; tiếng thứ ba, ngửa ra đằng sau, đồng thời luồn mặt qua đòn kiệu, đặt đòn kiệu đưa chân lên ở tư thế đứng nghiêm. Khi đi, trống điểm ba tiếng khoan hoà “tông, tông - tông” (giữa tiếng thứ hai và tiếng thứ ba có khoảng cách dài hơn hai tiếng đầu). Khi nghe tiếng trống, hàng đô thống nhất bước chân trái lên hai bước ngắn để tránh rung kiệu, đặc biệt phải lưu ý, mỗi bước chỉ bằng một bàn chân. Trong khi tập, Cán biện phải nhắc nhở mọi người những điều cần tránh khi khiêng kiệu như không được bước bước một, không được bước chân nọ kê chân kia. Cùng với hàng đô, việc chọn quân cờ cũng được tiến hành. Cờ người vốn là một trò chơi phổ biến của nhiều địa phương mỗi dịp xuân về. Sau nhiều năm gián đoạn không tổ chức được, đến năm 2000, làng Giang Xá mới có điều kiện khôi phục hội cờ truyền thống. Muốn chơi cờ người, trước hết phải lựa chọn những người phụ trách sân cờ, gọi là cụ Tổng cờ và các bà Cai cờ. Từ xưa đến nay, Tổng cờ và Cai cờ ở Giang Xá đều do các bà đảm nhận. Tổng cờ là người bao quát chung toàn bộ quá trình từ lựa chọn quân cờ, luyện tập cho đến khi ra dàn quân trên sân. Cụ Tổng cờ phải là người đã có tuổi (từ 70 trở lên), hiểu biết, có phong thái, dáng vẻ ưa nhìn, gia đình cũng phải thuộc loại khá giả, có của ăn của để. Giúp việc cho cụ Tổng cờ là hai bà Cai cờ, có độ tuổi từ 40 đến 50, cũng phải đáp ứng các tiêu chuẩn chung như các chức việc khác của làng. Các bà Cai cờ sẽ trực tiếp lựa chọn và huấn luyện quân cờ. Công việc chọn lựa bắt đầu bằng việc lên danh sách quân cờ. Đội cờ gồm 32 quân, chia làm hai bên, một bên nam và một bên nữ. Toàn bộ quân cờ phải là các nam thanh, nữ tú (trai chưa vợ, gái chưa chồng), đang ở độ tuổi trăng tròn, hoặc18, đôi mươi, gia đình phải còn đủ cả ông bà, cha mẹ và không “vướng bụi” trong thời gian tham gia đóng vai. Để chọn đủ 32 quân cờ, các bà Cai cờ phải đi từng nhà có con trai, con gái đáp ứng đủ tiêu chuẩn và có lời với gia đình cho các cháu ra đình để dân làng chọn tuyển. Công việc tuyển quân cờ mới thực sự cuốn hút và hồi hộp làm sao. Thoạt đầu, phải tiến hành so vai để chọn những người có chiều cao bằng nhau, những người có thân hình cân đối, khuôn mặt có nét, có sắc. Số quân cờ có 32 quân nhưng phải chọn thêm một số người dự bị. Sau khi chọn đủ quân cờ, công việc luyện tập bắt đầu. Cũng giống như hàng đô, quân cờ cũng phải tập sao cho mọi hành động, khi đứng khi ngồi, khi ra khi vào, khi tiến khi thoái, khi sắp hàng khi vào lễ, đều có phép tắc, có thứ tự, chỉ nghe tiếng trống của bà Cai cờ làm hiệu mà thực hiện. Trong quá trình luyện tập, cụ Tổng cờ và các bà Cai cờ phải chú ý quan sát cử chỉ, dáng điệu, nét mặt của từng người để chọn sắm các vai phù hợp. Bao giờ cũng vậy, các vai tướng kể cả tướng nam và tướng nữ phải là những người có dung mạo trội nhất, nét mặt phải sắc sảo, dáng người cũng phải cân đối, có phong độ. Tiếp sau đó phải chọn các vai sĩ, tượng, xe, pháo…Tất cả việc chọn lựa này, phải được giữ bí mật hoàn toàn trong suốt quá trình tập, cho đến mùng 5 tháng Giêng, cụ Tổng cờ mới cho công bố chính thức người nào vào vai nào, ghế nào. Toàn bộ công việc luyện tập chỉ kết thúc trước khi lễ hội diễn ra vài ngày. Khi mọi công việc chuẩn bị cho quân cờ đã hoàn tất, cụ Tổng cờ phải làm lễ trình Thánh và khao quân cờ. Khao quân cờ ngày xưa là phải làm cỗ mặn, làm thật linh đình và mời tất cả quân cờ đến nhà để ăn uống. Ngày nay, việc khao quân được đơn giản hoá rất nhiều, chỉ tổ chức tiệc trà, bánh kẹo. Sau cụ Tổng cờ, tướng ông, tướng bà cũng phải làm lễ trình và chọn ngày khao quân. Cùng với hàng đô, quân cờ, các bộ phận khác cũng bắt tay vào công việc chuẩn bị cho lễ hội. Phường trống, Phường kèn, Hội Sênh tiền, múa lụa, cờ reo, cờ hiệu…ngày ngày tập trung các thành viên tại sân đình để luyện tập. Mọi người ai cũng cố gắng tập thật chăm chỉ để đến ngày vào hội không xảy ra sơ suất gì kẻo làng chê trách. Trong lễ hội, ngoài đoàn rước, các hoạt động tế, lễ cũng là một nội dung rất quan trọng. Chính vì vậy, để đảm bảo cho các cuộc tế, lễ diễn ra trang trọng, từ nhiều ngày trước khi vào hội, Ban Bộ lễ phải tổ chức cho các quan viên tế luyện tập thật chu đáo. Ở Giang Xá, Ban Bộ lễ do dân cử ra, gồm có bốn người, độ tuổi từ 60 trở lên, gia đình phải toàn vẹn ông bà, bố mẹ, đồng thời người được cử vào Ban Bộ lễ phải có đạo đức, có tinh thần trách nhiệm cao. Khi một người trong Ban Bộ lễ vướng bụi thì phải xin nghỉ và ba người còn lại sẽ làm thay phần việc của ông ta. Trong trường hợp Ban Bộ lễ chỉ còn lại hai người thì làng sẽ cử thêm người vào Ban Bộ lễ để đảm bảo công việc. Ban Bộ lễ có trách nhiệm quán xuyến toàn bộ công việc lễ tiết của làng, chịu trách nhiệm tổ chức việc tế, lễ, kiểm tra lễ vật do Ban Khánh tiết chuẩn bị, nếu chưa đúng yêu cầu thì nhắc Ban Khánh tiết làm lại. Dưới Ban Bộ lễ là Ban Chấp sự, chịu trách nhiệm trực tiếp về tế, lễ. Ban này gồm 22 người, độ tuổi từ 45 trở lên, cũng phải đáp ứng các tiêu chuẩn chung về gia đình và cá nhân như các chức việc khác. Trong suốt thời gian dài trước đây, khi làng còn bát giáp, những người trong Ban Chấp sự là do các giáp cử ra. Họ phải trải qua một quá trình luyện tập rất công phu. Theo truyền thống của làng, các nam thanh niên đến tuổi 16, 17 tuổi đã bắt đầu được học tế, học lễ. Cứ vào những đêm tháng Tám sáng trăng, trai làng trong các giáp lại tập trung tại các nhà có sân rộng để học tế, lễ do một cụ cao tuổi, thông hiểu việc làng hướng dẫn. Cùng với thời gian, làng trải qua nhiều thay đổi, nhưng việc lễ nghĩa vẫn luôn được bảo lưu. Ban Chấp sự dưới sự chỉ huy của ông Chủ tế vẫn duy trì toàn bộ các nghi thức trong việc tế tự của làng. Là người giữ trọng trách quan trọng, thay mặt cho dân làng thực hiện các nghi lễ với thần thánh, ông chủ tế phải được lựa chọn rất kỹ lưỡng, phải là người trên 60 tuổi, còn khoẻ mạnh, ngoại hình cân đối, dung mạo nghiêm trang, sáng sủa, không có khuyết tật, gia đình của Chủ tế cũng phải là người sống lâu đời ở làng, bản thân ông ta cũng phải song toàn, đông con nhiều cháu và có đủ cả con trai, con gái. Dưới sự hướng dẫn của Chủ tế và Ban Bộ lễ, trước lễ hội nhiều ngày, quan viên tế ở làng cũng luyện tập như các bộ phận khác. Ở Giang Xá, việc tế lễ ở đình, đền phải tuân thủ theo những quy tắc rất chặt chẽ, vì thế khi học, ông Chủ tế phải hướng dẫn tỷ mỉ cho Ban Chấp sự từ cách làm lễ Thập bái, cách đi đứng sao cho trông thật khoan thai mà vẫn trang nghiêm, cách để tay khi dâng rượu, dâng hương, cách quỳ ở chiếu…tất đều phải thực hiện sao cho đều, cho đẹp, cho thật nhịp nhàng với tiếng nhạc của phường bát âm, của chiêng, trống điểm trên sân tế. Toàn bộ quá trình chuẩn bị được diễn ra thật khẩn trương, sôi nổi. Các bộ phận đều cố gắng tập trung làm tốt công việc của mình. Ngày mùng 10 tháng Giêng, sau khi đã luyện tập đâu ra đấy, tất cả hàng đô, chức việc tập trung tại đình để duyệt lại lần cuối để ngày hôm sau vào đám đảm bảo không xảy ra sơ suất gì. Trong buổi tập này, dùng đủ các đồ trần thiết như đi rước thật, hàng đô, chức việc cũng mũ áo chỉnh tề, quan viên tế vào sân đình tập tế, tất cả mọi việc chuẩn bị thật chu đáo mới yên tâm về nghỉ để ngày hôm sau vào việc thực sự. 2.1.3. Các công việc sửa sang, trang trí Từ giữa tháng Chạp, không khí chuẩn bị cho lễ hội đã tràn ngập trên mọi nẻo đường, ngõ xóm của làng. Khu vực đình, đền là trung tâm chính của lễ hội được chú ý sửa sang cho thật phong quang, đẹp đẽ. Thông thường, đình, đền do cụ Từ trông nom. Theo lệ làng từ xưa đến nay, cụ Từ phải là người nguyên quán ở làng, có độ tuổi từ 60 trở lên, không có khuyết tật, gia đình song toàn, và phải có con trai để giúp việc. Cụ Từ có trách nhiệm trông nom đèn nhang, lễ bái quanh năm, bảo quản tài sản, đồ thờ ở đình, đền. Trước ngày lễ hội, cụ từ phải kiểm tra lại toàn bộ khu vực xung quanh đình, đền, chỗ nào hư hỏng thì phải báo ngay cho Ban Khánh tiết để lên kế hoạch tu sửa. Càng đến gần ngày hội, công việc sửa sang càng khẩn trương, Ban Khánh tiết cho người quét vôi lại toàn bộ các bức tường ở đình, ở đền sao cho thật mới, thật đẹp. Các câu đối trên cột trụ hoa biểu, trên bình phong đều được sơn lại. Trong khi đó, cụ Từ cùng gia nhân mang cho mang toàn bộ đồ tế khí ra, dùng nước gừng để lau chùi cho sạch sẽ. Đến ngày mùng 9 tháng Giêng, các công việc sửa sang lại đình, đền đã hoàn tất, mọi người bắt tay vào việc trang trí. Ngoài sân đình, Ban Khánh tiết cho dựng 3 phong du, một ở chính giữa sân để làm nơi trải chiếu tế, còn hai bên tả, hữu làm chỗ cho các cụ Thượng và các vãi bà ngồi dự lễ. Cách đó không xa, ở cuối sân, một vài người làm công việc lồng các tàn, tán, lọng vào khung. Lọng được may bàng vải vàng (dùng cho Thượng đẳng thần), đường kính khoảng 1,2 m. Dưới lọng vàng được treo những gù bông nhiều màu sắc. Những chiếc lọng nhỏ hơn nhưng được quây bằng vải đỏ và vàng (một lớp vàng lại đến một lớp đỏ, may so le nhau), kết thành hình trụ cao xấp xỉ 1m, thường gọi là tàn. Cũng dạng như tàn nhưng ngắn hơn được gọi là tán. Ở trong đình, các ông Trưởng Hội Đồng canh đến nhận trang phục hàng đô, chức việc cho hội mình để chuẩn bị cho buổi tập cuối cùng ngày mai. Kiệu Giá văn, kiệu Thánh, nhang án, choé nước cũng được trang trí thật đẹp mắt và đặt trong lòng giữa của đình. Ngày mùng 10, khi hai lá cờ đại được dựng lên ở giữa sân đình, không khí trong xóm làng càng trở lên nhộn nhịp hơn và linh thiêng hơn. Trước cửa đình, đền, cụ Từ và gia nhân cho treo tấm màn sen (tấm vải vàng có thêu hoa sen) lên. Dưới chân màn sen, ở sân đình, bày một chiếc bàn nhỏ, hai bên bàn bày hai giá gươm cẩn. Phía sau giá gươm, ngựa và voi đã được trang trí yếm thêu, đeo quả nhạc, cả hai đều được đặt trên bệ gỗ có bánh xe để kéo. Toàn bộ đồ trần thiết đã sẵn sàng, chỉ chờ sau buổi duyệt là chuyển về đền cho đoàn rước sáng hôm sau. Không chỉ có ở đình, đền, không khí nô nức chuẩn bị cho lễ hội còn xuất hiện trong từng gia đình, từng ngõ xóm. Theo lệ làng, trước ngày vào đám, tất cả các ngõ xóm đều phải tổ chức quét dọn, khơi thông cống rãnh, tu bổ đường xá cho thật phong quang, sạch sẽ. Các gia đình cũng quét dọn lại nhà cửa. Xóm làng như đẹp hơn khi chuẩn bị vào hội. Tại bốn ngõ xóm chính nằm trên con đường mà đoàn rước sẽ đi qua, dân trong xóm cho dựng những chiếc cổng bái vọng. Cổng được dựng bằng tre, phía trên và hai bên cột đều treo các câu đối bằng chữ Hán do người trong xóm viết. Chính giữa cổng, bên dưới bày một nhang án trên có đặt lư hương, nến, bình hoa, mâm ngũ quả. Hai bên cổng bái vọng có thể trang trí thêm bằng hai cành lá dừa được tết khá đẹp mắt, hay bày thêm những cành đào, cây quất cho thêm vẻ trang trọng. Từ khi được dựng lên, lúc nào tại cổng bái vọng cũng phải có một vài cụ Thượng là người trong xóm đứng túc trực tại ban thờ để lo việc đèn nhang, hương khói. Cổng bái vọng là nơi các cụ cao tuổi vì điều kiện sức khoẻ không thể tham gia đoàn rước, hay các gia đình có tang không được ra chốn đình trung làm lễ vọng để tỏ lòng thành kính với Đức Thánh. Từ các ngõ xóm cho tới từng gia đình, không khí nhộn nhịp của lễ hội đã len lỏi vào khắp nơi, cảnh quan làng xóm trở nên đẹp hơn, rực rỡ hơn, cũng như lòng người đang náo nức chờ đón lễ hội. 2.1. 4. Chuẩn bị lễ vật Hội làng muốn long trọng phải có lễ vật thờ. Toàn bộ việc chuẩn bị lễ vật cho hội làng là do Ban Khánh tiết đảm nhận. Theo lệ làng, hàng năm những người lên tuổi tròn 50, 60, cho đến 100 phải nộp một khoản tiền gọi là tiền chiết can. Trước đây, tất cả những người lên tuổi tròn như vậy đến ngày mùng 4 Tết, lễ Khánh thọ của làng, đều phải sửa lễ ra đền. Lễ vật gồm có 50 khẩu trầu, một chai rượu, một bánh pháo. Ngày nay dân làng thấy làm như vậy có phần lãng phí nên cho tổ chức mừng thọ chung, mỗi độ tuổi chỉ sửa một cơi trầu để làm lễ trình Thánh, còn lại chuyển thành tiền, gọi là chiết can. Tiền chiết can theo quy định của làng là 20.000 đồng một người. Số tiền chiết can thu được, cùng với các khoản công đức mà nhân dân đóng góp tại đình, đền làng giao cho Ban Khánh tiết để lo tu lễ cả năm, chuẩn bị lễ vật cho tất cả các tuần tiết của làng. Theo đúng phong tục của làng, mọi việc biện lễ phải do Ban Khánh tiết đảm nhiệm toàn bộ, nhưng do quy mô lễ hội lớn với số lượng lễ vật lại nhiều, một mình Ban Khánh tiết không thể kham nổi. Chính vì vậy, từ trước lễ hội một tháng, Ban Khánh tiết phải tìm một số gia đình trong làng thông thạo việc làm các loại bánh trái và đặt họ làm giúp. Sau khi Ban Khánh tiết đã có lời, gia đình bắt tay vào việc chuẩn bị các nguyên vật liệu cần thiết, toàn bộ công việc này ngày nay diễn ra rất nhanh chóng, chỉ khoảng vài ngày. Sau khi có đủ nguyên liệu, chiều ngày mùng 10, công việc làm bánh được bắt đầu. Ngày nay, lễ vật thờ ở Giang Xá đã được đơn giản hoá đi rất nhiều, cỗ của làng chỉ là cỗ chay với bốn loại vật phẩm chính là bánh bác, bánh cốm, bánh dày và chè kho. Bánh bác là loại bánh chỉ có duy nhất ở làng Giang Xá. Bánh bác ra đời từ khi nào cho đến nay cũng không ai còn nhớ chính xác nữa. Tương truyền, trước khi hưng binh khởi nghĩa đánh đuổi giặc Lương, Lý Bí cho quân sĩ đi khắp nơi thu nhận các loại bánh để làm “lương khô”, khi đó nhân dân Giang Xá đã làm ra bánh bác, loại bánh làm từ bột nếp, có thể để được lâu ngày mà không hỏng. Bánh bác hình tròn với ba lớp màu, vỏ bánh có hai màu đỏ, trắng đan xen, nhân bánh màu vàng, trông vừa đẹp lại lạ mắt. Nguyên liệu để làm bánh bác là gạo nếp cái hoa vàng, đậu xanh, mật đường, gấc, lá chuối và dây để giàng buộc. Muốn làm bánh bác, trước hết phải chọn loại nếp thật ngon, nhặt hết các hạt tẻ, hạt kẹ, sau đó đem ngâm rồi xay thành bột nước. Bột trước khi làm phải được lọc kỹ qua túi vải cho hết nước, rồi chia làm hai phần. Một phần để trắng, một phần trộn với gấc chín để tạo thành màu đỏ. Sau khi chia xong, bột phải được nhào thật kỹ cho thấu, đặc biệt là phần bột trộn gấc phải thật đều, thật dẻo, tránh để màu sắc chỗ đậm chỗ nhạt. Toàn bộ quá trình làm chín bột bằng lửa được gọi là “bác” bánh. Trước khi bác trên chảo, bột được chia thành các quả tròn, mỗi quả khoảng 750 g. Kỹ thuật làm bánh bác khó nhất là bác bánh trên chảo gang. Khi bác bánh, người làm phải biết điều chỉnh ngọn lửa để giữa nhiệt độ, không được để lửa quá to dễ làm cháy bánh, lượng mỡ cho vào cũng chỉ vừa đủ láng mặt chảo, không được cho quá nhiều hay quá ít. Trong quá trình bác bánh, phải thường xuyên lật mặt bánh để cho bánh chín đều và không bị “lên da”. Tên gọi của bánh có thể cũng bắt nguồn từ kỹ thuật làm bánh này chăng ? Sau khi thấy bánh đã chín, đặc biệt phần bánh có trộn gấc đã lên màu đỏ tươi thì nhấc bánh ra khỏi chảo, cho vào lá chuối tươi để ủ cho “lại bánh”, nếu trời rét ủ khoảng hai tiếng, trời nóng thì ủ 4 đến 5 giờ. Nhân bánh bác được làm từ đậu xanh và đường hay mật. Để làm nhân bánh, trước hết phải ngâm đậu xanh và đãi cho sạch vỏ rồi đem thổi chín. Sau đó cho đường hay mật vào đánh cho thật kỹ và đặt lên bếp đun nhỏ lửa (như làm chè kho), đổ ra mâm để thật nguội (nếu gói bánh lúc nhân còn nóng sẽ bị chua) rồi xe tròn để làm nhân. Khi bánh ủ đã dẻo, lấy ra dàn đều trên khay (trên khay đã rắc một lớp vừng rang để trang trí cho đẹp mắt), lớp màu đỏ để ngoài cùng, tiếp đến là lớp trắng, cuối cùng là nhân đậu. Các lớp phải dàn thật đều, tránh chỗ dày, chỗ mỏng. Sau đó cuộn thật nhẹ nhàng, vừa cuộn vừa sửa để tày bánh được tròn đều, đến mép ngoài của các lớp bột thì phải khéo léo mím chúng vào với nhau sao cho không thấy đường nối. Tày bánh hoàn thiện có chiều dài khoảng 25 cm, đường kính khoảng 6 cm. Khâu cuối cùng là dùng lá chuối tươi và giấy gói cuộn bên ngoài, lấy dây giàng buộc cho bánh tròn đều là hoàn tất. Loại bánh thứ hai là bánh cốm. Bánh cốm ở Giang Xá không làm bằng cốm tươi hay cốm khô như ở các nơi khác, bánh được làm bằng gạo nếp đã được nhuộm màu. Để làm bánh cốm, trước hết cũng phải chọn gạo nếp ngon như làm bánh bác. Gạo đãi sạch mới đem ra trộn màu. Để tạo ra màu xanh và mùi thơm của cốm, phải dùng lá thơm (còn gọi là lá nếp). Lá thơm được rửa thật sạch, giã nhuyễn và lọc lấy nước. Sau khi gạo ráo nước, đổ nước lá thơm vào và trộn thật đều. Gạo đã được nhuộm màu, chuyển sang màu xanh như hạt cốm, tiếp theo cho gạo vào đồ thành xôi. Khi xôi chín, phải để thật nguội mới bắt đầu trộn đường. Theo kinh nghiệm của người dân nơi đây, để có được một tày bánh cốm ngon, ngọt vừa phải thì 1,5 kg gạo nếp phải trộn với 1 kg đường. Sau khi trộn đều đường với xôi, đặt lên bếp đun. Đây là khâu quan trọng nhất trong toàn bộ quá trình làm bánh, người làm bánh phải đun thật nhỏ lửa và liên tục quấy đều để tránh làm cháy bánh. Đun đến khi nào đường tan hết và trở nên cô đặc thì bắc xuống và để nguội. Nhân bánh cốm cũng được làm như nhân bánh bác. Khi gói bánh, trải lá lên khay, dàn đều vỏ bánh lên trên rồi vét một rãnh giữa rồi cho nhân vào, sau đó cũng cuốn như khi gói bánh bác. Bánh cốm sau khi hoàn thành có màu xanh và mùi thơm của lá nếp gần giống như mùi cốm non, có hình dáng tròn đều rất đẹp mắt. Bánh dày là loại bánh phổ biến ở nhiều nơi, nhưng ở Giang Xá bánh dày được làm rất công phu, đặc biệt là khi nó được làm ra để dâng lên Đức Thánh. Nguyên liệu chính để làm bánh dày cũng là gạo nếp loại ngon, được chọn kỹ càng. Gạo được đồ thành xôi. Xôi vừa đồ xong, phải giã ngay khi còn nóng. Giã bánh dày ở Giang Xá không dùng cối mà giã trên một chiếc “buồm” cói. Chiếc buồm là một hình tròn có đường kính khoảng một mét, bề mặt của buồm được quét một lớp lòng đỏ trứng để tránh bị dính khi giã. Chày để giã bánh dày được làm bằng gỗ, dài khoảng 1 mét, đầu chày được bịt bằng mo cau. Tuy nhiên, không để nguyên cả miếng mo cau mà phải tước nhỏ thành từng sợi rồi đan thành tấm, sau đó mới bịt vào đầu chày và dùng dây buộc lại ở bên trên. Giã bánh phải giã thật đều tay, một người giã còn một người lật. Khi xôi đã được giã thành bột thật mịn, thật dẻo mới bắt đầu “bắt” thành bánh. Bánh dày khi hoàn thành phải có hình tròn đều, đường kính khoảng 8 đến 10 cm, cứ hai chiếc bánh dày kẹp thành một đôi, hai mặt ngoài lót bằng miếng lá chuối cắt thành hình tròn hay trang trí thêm chữ “Thọ” bằng giấy màu đỏ cho đẹp mắt. Loại lễ vật cuối cùng là chè kho. Nguyên liệu để làm chè kho rất đơn giản, chỉ gồm đậu xanh và đường. Nhưng để có được đĩa chè vừa ngon vừa đẹp mắt lại đòi hỏi một kỹ thuật khá phức tạp. Trước hết phải chọn loại đậu xanh mới thu hoạch, các hạt đậu phải đều, vỏ hạt căng, bóng. Sau khi chọn được đậu, đem xay rồi đãi sạch vỏ và đem đồ. Đậu đồ vừa chín tới, nghiền cho thật mịn rồi mới trộn đường. Sau đó đặt lên bếp đun nhỏ lửa. Nấu chè kho cũng giống như làm nhân bánh bác hay nhân bánh cốm nhưng không đun kỹ lửa bằng, chỉ đun đến khi bột sánh lại là được. Khi múc chè ra đĩa, lắc nhẹ đĩa để mặt chè được mịn và bóng. Cuối cùng, trang trí vừng rang hay chữ “Thọ” bằng giấy điều lên trên. So với trước đây, toàn bộ quá trình chuẩn bị lễ vật cho hội làng ngày nay đã được đơn giản hoá đi rất nhiều. Theo lời các cụ kể lại, trước cải cách ruộng đất, khi làng còn bát giáp, mọi việc hành lễ đều do các giáp đảm nhiệm. Trong làng có tám giáp, mỗi giáp đều có khoảng trên 4 mẫu ruộng được chia đều cho các gia đình để canh điền biện lễ. Đến năm làng mở hội, các giáp đều phải đóng góp lễ vật, nếu làng mở đám dài ngày thì mỗi giáp chuẩn bị lễ một ngày, nếu mở đám ngắn ngày thì có thể hai giáp cùng làm một ngày. Tuy nhiên không phải tất cả các gia đình trong giáp đều có vinh dự được đóng cỗ thờ, mỗi giáp chỉ có một nhà được tu lễ mà thôi. Nhà tu lễ của giáp là nhà năm đó sinh được con trai, sau khi sức cơi trầu xin vào giáp thì được giáp giao cho một sào ruộng để cày cấy lấy sản phẩm tu lễ và được vinh dự nâng cỗ thờ. Theo lệ làng ngày xưa, lễ vật thờ phải bao gồm cả cỗ mặn và cỗ chay, chính vì vậy cũng có năm một giáp có tới hai nhà tu lễ, một nhà sửa cỗ mặn và một nhà sửa cỗ chay. Sau khi đã được giáp giao cho vinh dự chuẩn bị cỗ thờ, từ cuối tháng Chạp, gia đình đó phải lo chuẩn bị toàn bộ vật liệu cần thiết dành cho việc làm cỗ như gạo nếp, đậu xanh, mật…Đến gần ngày vào đám cũng là lúc gia đình chuẩn bị xong. Trước hôm dâng lễ một ngày, nhà tu lễ phải dựng một cái rạp ở sân, xung quanh quây màn đỏ, chỉ có nam giới mới được vào trong rạp đó, còn phụ nữ và trẻ em tuyệt đối không được tham dự vào việc chuẩn bị lễ vật. Đến ngày làm cỗ, gia đình phải mời những người trong giáp tới làm giúp, những người này cũng phải là nam giới, có tay nghề chuyên môn, biết việc, tất cả những người đến làm giúp đều mặc áo the khăn gỗ và phải hoàn toàn chay tịnh. Số lượng lễ vật ngày xưa cũng lớn hơn và cầu kỳ hơn rất nhiều. Riêng cỗ chay phải gồm từ 12 đến 14 loại bánh, ngoài bánh bác, bánh cốm, bánh dày và chè kho còn nhiều loại bánh đặc sản khác với kỹ thuật chế biến rất cầu kỳ như : bánh mật, bánh bỏng, bánh ngũ sắc, bánh xu xê, bánh chưng tày, bánh gai, bánh bột lọc… Trong đó bánh mật là loại bánh đặc biệt, đòi hỏi rất khắt khe về nguyên liệu cũng như quy trình chế biến. Nguyên liệu để làm bánh mật là bột gạo tẻ thơm và mật giọt (phải là mật mía de mới quý). Gạo tẻ sau khi xay thành bột phải lọc kỹ và để lắng. Sau đó cho bột và mật giọt vào nồi, một cân bột lọc thì cho bốn cân mật. Để quấy được một nồi bánh mật quả là kỳ công. Ngoài làm bánh phải vừa đun vừa quấy thật đều tay. Chiếc nồi để nấu bánh mật là một nồi đồng to, thường được các gia đình gìn giữ từ hai, ba đời nên đáy nồi trở nên rất mỏng, trong khi làm nếu không cẩn thận thì rất dễ làm thủng. Chính vì vậy khi quấy bánh, người làm phải tỳ nhẹ tay xuống cái đũa cả để cho nó vừa sát cái trôn nồi và đưa thật nhẹ nhàng. Bình thường để quấy được một nồi bánh mật phải mất 2/3 ngày. Bánh mật khi làm xong, phải thật dẻo mịn và trong như thạch. Bánh mật cũng gói tày ống tròn như bánh bác, kích thước cũng bằng nhau. Khi cắt bánh để bày cỗ, bánh trong suốt, màu đỏ hồng, nhìn đã thấy mát tận đáy lòng. Ngoài bánh mật, nhiều loại bánh đặc sản khác của địa phương đã từng là niềm tự hào từ bao đời nay của người dân Giang Xá. Chỉ tiếc rằng đến ngày nay, các loại bánh này không còn hiện diện trên kiệu cỗ của làng mỗi dịp hội hè nữa. Cùng với cỗ chay, trước đây, hội làng không thể thiếu cỗ mặn. Việc chuẩn bị cỗ mặn còn công phu hơn rất nhiều. Cỗ mặn theo quy định của làng là 1 cân lợn (theo cân của làng, bằng khoảng 30 cân móc hàm) và 30 cân gạo xôi. Để chuẩn bị cỗ thờ, sau khi được giáp giao nhiệm vụ, nhà tu lễ phải mua một con lợn đực thuộc loại lợn ỉ, mõm ngắn, mông lồng bàn, lông đen tuyền về nuôi. Từ khi mua lợn về, cả nhà phải gọi là “ông ỉn”, chuồng nuôi cũng phải quét dọn cho sạch sẽ, cắm cữ ở cửa không cho ai vào xem. Nếu thấy “ông ỉn” bỏ ăn, gia đình phải thắp hương ở cửa chuồng để cầu cho “ông ỉn” ăn ngon ngủ yên, chóng lớn. Đến ngày được nâng lễ, nhà tu lễ phải mời họ hàng nội ngoại đến làm giúp, cũng phải dựng rạp ở sân như làm cỗ chay, trước cửa rạp để chậu nước gừng để những người làm giúp tẩy uế. Vào 3, 4 giờ sáng ngày rước cỗ, phải tắm rửa cho “ông ỉn” thật sạch sẽ, mời “ông” lên một cái giá đỡ như cái chõng để ông nằm sấp, bốn chân chìa ra bốn góc, dùng trạc đỏ để buộc lại, trên lưng phủ vải đỏ, chỉ để hở cái đầu. Sau đó cho bốn người mặc áo the, khăn gỗ, thắt lưng bó que khiêng ra đứng bên ngoài giọt gianh đình để làm lễ. Làm lễ xong, cụ Từ lấy chén rượu trước cửa ngai Thánh đưa cho ông Giáp trưởng của giáp có lễ, ông này mang xuống dội vào mồm, vào lưng “ông ỉn”, gọi là làm lễ Tỉnh sinh. Sau đó lại khiêng về nhà tu lễ để làm thịt, khi thịt lấy một ít tiết và một ít lông gáy để sau làm lễ “phế mao huyết”. Từ ngày bát giáp mất đi, Ban Khánh tiết thay cho các nhà tu lễ làm công việc đóng cỗ. Cùng với việc giảm thiểu về mặt số lượng, quy trình đóng cỗ ngày nay cũng trở nên đơn giản hơn trước rất nhiều. Toàn bộ việc làm bánh giờ đây được giao cho các gia đình chuyên nghề trong làng làm giúp, sau khi hoàn thành đủ số lượng bánh cần thiết, chiều mùng 10 tháng Giêng, Ban Khánh tiết mới chuyển về nhà đóng cỗ để làm nốt phần việc của mình. Nhà đóng cỗ được chọn lựa khá kỹ, chủ nhà phải là thành viên của Ban Khánh tiết (không nhất thiết phải là Trưởng ban), có đạo đức, vợ chồng song toàn, bên cạnh đó, nhà đóng cỗ phải có sân rộng, ngõ rộng để thuận tiện cho việc rước cỗ sau này. Sau khi các loại bánh được chuyển về, Ban Khánh tiết bắt tay vào việc đo và cắt bánh. Trước đây, khi đóng cỗ, mỗi giáp đều có một que đo làm bằng gỗ, được son thếp vàng để đo cắt bánh. Các khoanh bánh, kể cả bánh cốm và bánh bác, khi cắt ra phải thật đều, mỗi khoanh dài khoảng 12 cm, không khoanh nào được dài hơn, cũng không khoanh nào được ngắn hơn. Bánh cắt xong, cứ ba khoanh bày vào một đĩa, xen lẫn cả bánh bác và bánh cốm cho đẹp mắt. Bánh dày cũng được chồng lên nhau thành từng khối cao 12cm rồi dùng que cố định lại. Mọi công việc chuẩn bị đã xong, kiệu cỗ được mang ra đặt trang trọng trên chiếc sập giữa nhà. Kiệu cỗ hay còn gọi là mâm xe, được làm theo kiểu mâm bồng hình khối tròn, nhưng không có chân, kiệu cao 1m2 (không kể phần quai), phần đáy cao khoảng 60 cm, phía trên đặt ba khay tròn, mỗi khay có thành cao 15 cm, tạo thành ba tầng. Bên thành của mỗi tầng kiệu đều trổ bốn ô cửa to, dài khoảng 18 cm và bốn ô cửa nhỏ dài khoảng10cm. Hai bên kiệu có hai quai tròn để lồng đòn khiêng. Toàn bộ kiệu được sơn màu nâu thẫm. Riêng hai đòn khiêng được chạm trổ đầu rồng khá tinh xảo. Trước đây, mỗi giáp đều có hai kiệu cỗ như vậy để ở nhà thờ giáp. Đến nay, cả làng chỉ còn lại hai chiếc kiệu, dùng trong những dịp đại đám. Chỉ đạo việc đóng cỗ cùng với Ban Khánh tiết là hai cụ thất, những người thông thạo việc làng, có sức khoẻ và đạo đức, được dân làng tín nhiệm. Khi đóng cỗ, từng đĩa bánh, đĩa chè được xếp vào khay, chỗ các ô cửa để từ bên ngoài cũng có thể thấy màu xanh, màu đỏ, màu trắng của bánh nổi bật, thật đẹp mắt. ở giữa lòng khay và những chỗ thành đã che kín, người ta chèn vào đó những khẩu mía đã được róc vỏ, cũng cắt dài 12 cm. Tầng trên cùng được bày đơn giản hơn gồm hai đĩa bánh dày, hai đĩa chè kho, một đĩa trầu cau, chính giữa bày một quả bòng to màu vàng ươm, còn để nguyên cả cành lá. Khi toàn bộ bánh trái đã được bày lên, hai kiệu cỗ trông thật đẹp mắt, thật xứng đáng với tên gọi mà dân làng vẫn thường dùng - “hoa cỗ”. Trong lúc Ban Khánh tiết đang đóng cỗ thì cũng là lúc các gia đình trong làng chuẩn bị lễ vật của riêng mình để cúng tiến ra đền. Cỗ của các tư gia cũng được bày biện, trang trí rất đẹp mắt. Thông thường, lễ “sửa tư” cũng có các loại bánh như cỗ của làng và không thể thiếu được đĩa trầu cau cùng chai rượu. Đặc biệt, lễ của tư gia thường có thêm con gà trống được “chong” rất công phu. Gà thờ được làm rất cẩn thận, từ việc cắt tiết, vặt lông không được để cho xây sát da, mổ xong phải dùng bộ que tre (thường được gọi là “ghế chong gà”) bó ép tạo thế thẳng đứng, rồi cho vào trong nồi to, lấy nước nóng (theo độ cao dần) ở những thùng bên cạnh dội đều lên mình gà cho tới khi gà chín. Gà được “chong” xong không chỉ có dáng đẹp, bay bướm như gà còn sống mà thịt phải có màu da trắng (hoặc vàng) đều, mịn. Song, thật đáng tiếc, năm nay làng mở hội đúng vào lúc đang có dịch cúm gia cầm. Mâm cỗ của nhiều gia đình vì thế mà thiếu đi lễ vật quan trọng nhất này. Thay vào chỗ của con gà như mọi khi, người ta phải tăng thêm số lượng các loại bánh và hoa quả. Tối mùng 10 tháng Giêng, khi các công việc chuẩn bị về cơ bản đã hoàn tất, các gia đình bắt đầu đệ lễ ra đền. Lễ vật được đặt trên các mâm, do người đàn ông là chủ gia đình đội ra đền. Các mâm lễ đều được đánh dấu hoặc có cài thêm mảnh giấy ghi tên của gia đình tiến cúng để tránh bị nhầm lẫn khi hạ lễ sau này. Ra đến nơi, mâm lễ được Ban Khánh tiết nhận và chuyển vào Hậu cung. Đến đêm ngày mùng 10, toàn bộ phần Hậu cung của đền đã xếp kín các mâm cỗ của dân làng. Màu sắc của bánh trái, lễ vật cùng mùi thơm của nhang khói càng làm tăng thêm không khí thiêng liêng của những ngày hội sắp đến gần. 2.2. Các đám rước Rước là một trong những hoạt động quan trọng nhất của lễ hội. Ở lễ hội làng Giang Xá có tất cả là 4 cuộc rước. Trong đó cuộc rước quan trọng nhất là rước phụng nghinh hồi đình vào sáng ngày 11 tháng Giêng. Tiếp đó là hai lần rước cỗ và đệ văn vào hai ngày 12 và 13 tháng Giêng. Đến ngày 14, giã đám, dân làng lại rước hoàn cung Thánh giá về đền. 2.2.1. Rước phụng nghinh hồi đình và rước hoàn cung Phụng nghinh hồi đình là đám rước để nghênh đón Thánh vị từ nơi ngài bằng y (đền) tới đình để dân làng cúng tế trong dịp lễ hội. Đám rước được cử hành từ lúc sáng sớm. Mọi công việc chuẩn bị được bắt đầu vào lúc 3 giờ sáng. Khi đó trời còn tối nhưng quang cảnh xung quanh đền, đình đã thật tấp nập. Cụ Từ cùng Ban Khánh tiết sửa soạn lễ vật, hương khói, mọi người đi lại nhộn nhịp, khẩn trương. Các cụ Thượng vận áo nhiễu đỏ, mũ ni che tai cùng quan viên tế áo xanh hai lớp, đội mũ văn rải tề tựu ở đình. Phía trên nhang án, Chủ văn dán văn vào chúc bản để chuẩn bị cho lễ Phụng nghinh. Trong khi đó, bên ngoài cổng đền, đội múa sư tử không ngừng thúc trống đôn đốc hàng đô, chức việc cùng dân làng tề tựu về đền để chuẩn bị đồ trần thiết cho đám rước. Toàn bộ kiệu cùng đồ nghi trượng được đặt sẵn ngoài sân đền theo đúng trình tự đoàn rước đã định. Nam thanh, nữ tú được cử vào đám rước hôm nay, ai nấy đều ăn mặc thật đẹp. Hàng đô nam mặc áo trắng, quần trắng, cổ áo có đeo chiếc tràng mạn màu xanh, ngang hông thắt một chiếc thắt lưng bằng sa tanh đỏ, trên đầu cũng thắt khăn đỏ. Hàng đô nữ mặc áo dài, quần trắng, ngang hông cũng có thắt lưng đỏ. Khoảng 4 giờ sáng, lễ Phụng nghinh bắt đầu. Gian giữa của đền, ngay dưới nhang án, trải ba chiếc chiếu. Chiếu thứ nhất dành cho Chủ lễ, hai chiếu sau dành cho 6 người trong Ban Chấp sự. Trong lễ Phụng nghinh, Chủ lễ là người đóng vai trò quan trọng nhất. Chủ lễ là một trong ba người “giữ lễ” cho làng cùng với Chủ tế và Chủ văn. Do vậy Chủ lễ cũng phải đáp ứng các tiêu chuẩn khá khắt khe, Chủ lễ phải là người trên 60 tuổi, thông hiểu việc làng, có đạo đức, nếu gia đình nhiều đời làm Chủ lễ thì càng tốt, Chủ lễ cũng phải là người “thong thả” (không tang trở). Khi bắt đầu lễ Phụng nghinh, Chủ lễ cùng các quan viên bước vào chiếu hành lễ, phường bát âm bắt đầu tấu nhạc. Theo phong tục của làng, làm lễ Thánh là phải lễ năm lễ bởi đức Thánh ở đây là Hoàng đế nên mọi người đều phải rất tôn kính. Chủ tế cùng ban Chấp sự lễ đủ năm lần đứng lên quỳ xuống thì Chủ văn cùng người chuyển chúc bước vào, đứng hai bên Chủ lễ ở chiếu trên cùng. Sau đó toàn bộ quan viên Chấp sự và cả Chủ văn, Chủ tế đều quỳ xuống, người chuyển chúc bê Chúc bản chuyển sang cho Chủ văn. Khi Chủ văn bắt đầu làm lễ mật khẩn thì phường bát âm cũng thôi không tấu nhạc nữa. Mọi người đều giữ im lặng để buổi lễ được trang nghiêm. Khi kết thúc bài văn, Chủ văn phải đọc câu mật khẩn là “ Phụng nghinh Thánh giá cẩn tấu”. Sau khi Chủ văn tấu lễ xong, tờ Chúc được đem hoá. Chủ lễ cùng Ban Chấp sự lại lễ tạ năm lễ, chính vì vậy, lễ Phụng nghinh còn được gọi là lễ Thập bái. Chủ lễ làm lễ tạ xong, Chủ văn bước vào chiếu trên cùng, cũng lễ tạ năm lễ. Sau đến các cụ và các chức việc vào làm lễ. Khi làm lễ, phải đứng đúng vị trí của tuổi tác, các cụ Thượng đứng chiếu trên cùng, chiếu giữa dành cho những người trên 60, Ban Khánh tiết làm lễ ở chiếu cuối cùng. Khi bên trong đền làm lễ phụng nghinh thì bên ngoài sân, Cán biện cho hàng đô tập hợp, tề tựu đầy đủ bên cạnh kiệu của mình. Riêng hàng đô phù giá phải đứng sẵn ở cửa đền để chuẩn bị vào nghinh Thánh giá. Ngày nay, nghi thức rước văn được đơn giản hoá thành đệ văn. Thực hiện lễ đệ văn là ba người của Ban Chấp sự mặc áo lụa xanh hai lớp, một người đi giữa, tay bưng tráp văn, hai người đi hai bên, còn lại một người của Ban Khánh tiết cầm lọng đi sau để che cho tráp văn. Sau khi vào đến nhà Chủ văn, người bưng tráp văn đặt tráp lên bàn trì văn, đoạn bỏ khăn bao khẩu và có lời với ông Chủ văn: Làng mở đám đại trà, mời ông chủ văn nghinh tiếp và ra đọc văn cho làng. Ông Chủ văn cám ơn, nhận lời và mời mọi người vào nhà xơi trầu, uống nước. Sau đó, Chủ văn đội khăn, mặc áo chỉnh tề rồi ra làm lễ trước bàn trì văn, khấn: “ Cung nghinh văn sắc đáo trung đình hành lễ”. Làm lễ xong, Chủ văn rút nén hương ở lò hương, xông khói vào hộp văn của làng cho thơm và xem xét xem bên trong có gì sơ suất không. Tiếp đó, Chủ văn rút tờ văn ra khỏi ống quyển, xem lại lần cuối rồi gấp lại cho vào tráp văn, chuyển sang cho người của ban chấp sự. Sau đó, Chủ văn cùng mọi người đệ văn ra đình. Trong khi tại nhà Chủ văn, nghi lễ đệ văn đang được tiến hành thì tại nhà đóng cỗ, Ban Khánh tiết kiểm tra lại kiệu cỗ lần cuối cùng trước khi hàng đô vào rước ra đình. Ngày 12 và 13, mỗi ngày Ban Khánh tiết đều phải chuẩn bị một kiệu cỗ gồm các lễ vật giống như trong đám rước ngày 11. Sau khi kiệu cỗ hoàn tất, 8 hàng đô vào rước ra khỏi ngõ, đi bên cạnh kiệu cỗ vẫn là một người cầm lọng che, cùng một số hàng đô để thay thế. Khi ra khỏi ngõ, đoàn rước đã chờ sẵn để chuẩn bị khởi hành. Đi đầu đoàn rước là phường trống, gồm các 7 bé trai tuổi từ 12 đến 14 bên ngoài mặc áo nâu đỏ, bên trong mặc áo trắng, đầu thắt khăn đỏ, do một cụ thất làm trùm phường. Tiếp đến là đội sênh tiền - múa lụa, phường bát âm, Văn Kiên, Tề Kiên. Sau khi kiệu cỗ được nhập vào đoàn rước, đi một đoạn, qua ngõ nhà Chủ văn, đoàn đệ văn tiếp tục nhập vào, đi sau kiệu cỗ. Đi cuối cùng của đoàn rước là các mâm cỗ của tư gia do các bà, các cô đội trên đầu cùng một số dân làng ăn vận đẹp đẽ chậm rãi đi sau. Ra đến đình, cả kiệu cỗ được các hàng đô đệ lên giường cầu trong Hậu cung. Còn tráp văn được đặt trang trọng trên đẳng ngoài sân đình. Xung quanh khu vực đình, mọi người khẩn trương trải chiếu, bày đồ trần thiết chuẩn bị cho buổi tế sắp tới. 2.3. Đại tế Toàn bộ công việc tế lễ trong lễ hội và những ngày lễ tiết trong năm được giao cho Ban chấp sự. Trong bốn ngày diễn ra lễ hội, mỗi ngày đều có một cuộc tế. Cuộc tế quan trọng nhất là vào ngày 12 tháng Giêng, do các cụ Thượng mặc áo đỏ thực hiện. Theo trí nhớ của dân làng, trước đây, ngày 12 tháng Giêng mới đúng là ngày chính hội và đồng thời cũng là dịp tế Xuân của làng. Vào dịp này, triều đình phong kiến có cử các quan tế của viện Hàn lâm về tế theo các quy tắc rất chặt chẽ. Chính vì vậy, người dân Giang Xá vẫn thường gọi ngôi đền làng mình là “đền quan tế” là vì thế. Sau này, việc đón rước quan tế của triều đình về tế lễ ở làng gây ra nhiều phiền phức, dân làng mới làm đơn xin triều đình cho được ứng tế. Đến năm Vĩnh Thọ thứ 5 đời vua Lê Thần Tông (1662), triều đình mới cho phép dân được quy tế. Từ đó đến nay, mọi công việc tế lễ đều do dân làng tự đảm nhận nhưng vẫn tuân thủ theo những quy tắc rất khắt khe từ xưa truyền lại. Cả bốn cuộc tế trong hội làng Giang Xá đều là tế kép, được thực hiện theo quy tắc tế “Xuất á nhập ất”. Ba cuộc tế ngày 11, 12, 13 được thực hiện tại sân đình, riêng tế xuất tịch ngày 14 được thực hiện tại sân đền. Trên sân đình và sân đền trước các cuộc tế, Ban Bộ lễ cùng cụ Từ cho bày nhang án Tam cấp. Nhang án Thượng được đặt trong cùng, ngay trước giọt gianh đình, đền. Trên nhang án Thượng, chính giữa bày một đỉnh đồng to, hai bên hai cây nến, lọ hoa…Phía trên nhang án Thượng được che bởi 1 tán to, phía sau tán có 4 quạt đại phủ lên trên. Tiếp đến là nhang án Trung, thấp hơn nhang án Thượng khoảng 10cm và được cách nhang án Thượng khoảng 1 mét. Trên nhang án Trung cũng bày biện các đồ thờ phụng như nhang án trên chỉ trừ không có lư hương, cũng được che bởi một tán to. Ngoài cùng là nhang án vừa rước ở đền về, gọi là nhang án Hạ. Trên nhang án Hạ, ngoài cùng cũng bày bộ ngũ sự (đỉnh, hai cây nến, hai lọ hoa), phía bên trong, sau đỉnh đồng đặt mâm đào (mâm bồng trên bày ba quả đào to bằng gỗ), bên phải bày giá gương (một mặt đá tròn, màu xanh, đặt trên giá gỗ). Phía trước nhang án Tam cấp, trải 5 chiếc chiếu. Chiếu thứ nhất là chiếu Hành lễ. Chiếu thứ hai là chiếc chiếu đơn, gọi là chiếu ẩm phước. Chiếu thứ ba là chiếu Chủ tế. Mép của chiếu Hành lễ và chiếu Chủ tế đè lên trên mép chiếu ẩm phước, tạo thành hình chữ “Công” ( ). Sau chiếu Chủ tế, cách khoảng 50 cm là chiếu bồi tế thứ nhất. Tiếp đến là chiếu bồi tế thứ hai, cách chiếu kia 50 cm. Hai bên hàng chiếu bày hai đẳng, mép đẳng phải thẳng với mép ngoài của chiếu chủ tế. Trên hai chiếc đẳng, bên trái bày đỉnh trầm, bộ tam sơn, gọi là đẳng cử mịch; Bên phải để bảng văn, bình hoa, hộp trầm, nến. Hai đẳng đều có lọng che. Cách đó không xa, cây quán tẩy được đặt ở chân cột phong du bên trái. Trống cái và phường kèn ở sân bên phải. Chiêng cái cùng phường bát âm ở sân bên trái. Hai bên tường rào, cũng dựng hai phong du, bên phải là chỗ ngồi của các cụ Thượng, bên trái dành cho các vãi bà. Khi vào tế, từ Chủ tế cho đến quan viên Chấp sự đều phải ăn mặc chỉnh tề, áo thụng màu xanh nhạt, bên ngoài khoác thêm chiếc áo mỏng cũng màu xanh, đầu đội mũ văn rải, chân đi hia. Riêng buổi tế ngày 12 tháng Giêng do các cụ bát thất thực hiện thì cũng phải ăn vận theo quy định của làng, mặc áo đỏ, đội mũ đỏ, đi hia chỉnh tề. Các cuộc tế trong lễ hội làng Giang Xá đều là tế kép, nghĩa là có củ soát lễ vật, có ẩm phước, có đọc chúc, có ba tuần dâng rượu, dâng hoa, dâng nước. Từ khi người Đông xướng xướng “Khởi chinh cổ” bắt đầu cuộc tế cho đến khi “Lễ tất” phải trải qua 47 mục, bao gồm từ “củ soát tế vật” (kiểm tra lễ vật), “Chấp sự dã các tư kỳ sự”(Chấp sự chú ý công việc của mình), “ chủ tế quan dữ chấp sự quan các nghệ quán tẩy sở” (chủ tế và các chấp sự đến bên cây quán tẩy), “quán tẩy thuế cân” (chủ tế rửa tay vào chậu nước, sau đó lau tay),…cho đến “hành hương tiến lễ” (chủ tế đốt trầm), “Thượng hương” (người chấp sự đặt lư hương lên nhang án giữa), “Nghinh thánh đế cúc cung bái” (chủ tế, chấp sự lễ năm lễ)… Trong khi tiến hành các nghi thức tế, Chủ tế cùng những người Chấp sự phải chú ý mọi động tác sao cho ăn khớp nhịp nhàng với tiếng nhạc của phường bát âm và của chiêng trống điểm trên sân. Quy tắc khi tế là “lễ tòng nhạc, nhạc tòng xướng”. Nghĩa là lễ phải nghe nhạc, khi trống cái điểm một tiếng thì Chủ tế cùng các bồi tế quỳ xuống làm lễ. Nhưng nhạc lại tòng xướng, khi Đông xướng xướng lên một câu, thì người đánh trống phải điểm một tiếng rõng rạc để ban chấp sự hành lễ. Cùng với chiêng, trống, phường bát âm cũng phụ hoạ đắc lực cho việc tế lễ. Phường bát âm gồm tám người phụ trách tám loại nhạc cụ thuộc các bộ khác nhau như bộ thổ, bộ mộc, bộ kim…Phường bát âm ngồi ở một chiếu riêng bên trái sân đình, tất cả đều vận trang phục ngày hội, quần áo đen, khăn đỏ, thắt lưng đỏ. Trong toàn bộ buổi tế, phường bát âm phải phối hợp với hai vị phụ trách chiêng trống để ra hiệu lệnh điều khiển cả ban tế. Các thành viên tiến lên lùi xuống, vào chiếu, ra chiếu đều phải khớp với tiếng nhạc điểm lúc mau, lúc thưa. Bước chân của chủ tế và các chấp sự viên cũng phải có nghi thức riêng. Chủ tế là người duy nhất trong toàn ban tế được đặt chân lên chiếu hành lễ. Khi Chủ tế ở chiếu của mình bước ra, ông ta phải lùi ra khỏi mép chiếu, sau đó rẽ sang phía tay phải, vòng qua phía bên ngoài mép đẳng, bước đi gãy góc như nét chữ á. Khi từ chiếu hành lễ trở về, chủ tế phải quay sang bên trái, rồi quay một vòng để không lúc nào quay lưng vào chính giữa ban thờ. Sau khi quay, chủ tế mới đi thẳng về chiếu của mình. Chính vì vậy, cách thức đi này được gọi là “Xuất á nhập ất”. Quan viên Chấp sự khi đi đài, đi đỉnh cũng phải đi theo các quy định chặt chẽ. Khi đi vào Thượng cung, họ phải đi vào theo một bên và đi ra theo một bên tạo thành một vòng tròn (ví dụ, đi vào bên phải, đi ra theo bên trái), đồng thời, các Chấp sự viên cũng phải chú ý đi vòng qua bên ngoài hai chiếc đẳng trên sân. Trong một buổi tế, nhất là tế kép, không thể thiếu việc đọc Chúc. Việc đọc Chúc là do Chủ văn thực hiện. Sau khi văn được đệ ra đình, được đặt trên đẳng bên phải sân thì Chủ văn cũng phải luôn túc trực bên cạnh. Trước khi vào cuộc tế, Chủ văn lấy bản văn ra khỏi tráp, dán lên bảng văn. Bảng văn là một bảng gỗ hình chữ nhật được sơn son thếp vàng, chính giữa được chạm khắc hình lưỡng long chầu nguyệt, bên dưới, tạc hình hai con hổ trong tư thế đang ngồi, tạo thành chân đỡ của bảng. Khi dán văn vào bảng, chủ văn phải thật chú ý chỉ dán nhẹ hai mép trên của tờ văn để khi bóc không bị rách. Sau khi dâng hết tuần rượu thứ nhất, người Đông xướng xướng “Độc chúc” thì một người Chấp sự kính cẩn bê bảng văn cùng Chủ văn đi vào chiếu hành lễ. Tiếp đó, người nội tán lại xướng “Nghệ độc chúc vị”, thì Chủ tế cũng bước lên chiếu Hành lễ và đứng vào giữa. Khi người nội tán xướng “Giai quị”, tất cả đều quì xuống. Tiếp đó xướng “Chuyển chúc”, người bưng chúc chuyển chúc cho Chủ tế, Chủ tế cầm lấy, vái một vái rồi đưa cho người Chủ văn. Người nội tán lại xướng “Độc chúc” thì Chủ văn bắt đầu đọc. Khi đọc văn tế, giọng đọc phải chậm rãi, ngân nga, có nhịp điệu khác hẳn với ngôn ngữ thường ngày. Mục Lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVHOA (45).doc