Đề tài Lên men sản xuất axit gltamic

MỤC LỤC I. Cơ sở lý thuyết phương pháp lên men 8. 1. Giới thiệu sản phẩm 8. 2. Tính chất của L-AG 8. 2.1. Tính chất lý học 8. 2.2. Tính chất hóa học 9. 2.2.1. Phản ứng cháy 9. 2.2.2. Tác dụng với axit 9. 2.2.3. Tác dụng với bazơ 9. 2.2.4. Tác dụng với muối 9. 2.2.5. Tác dụng với rượu tạo hợp chất mang nhóm chức este 10. 3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành L-AG 10. 3.1. Nguồn cacbon 10. 3.2. Nguồn nitơ 11. 3.3. Nguồn muối vô cơ khác 11. 3.4. Nguồn các chất sinh trưởng 11. 3.5. Nguồn các chất khác 12. 3.6. Ảnh hưởng của pH 12. 3.7. Ảnh hưởng của nhiệt độ 12. 3.8. Ảnh hưởng của hệ thống gió và khuấy 12. 3.9. Ảnh hưởng của việc cung cấp điện tử 13. 3.10. Ảnh hưởng của thực khuẩn thể 13. 4. Các yếu tố điều hòa quá trình lên men 13. 4.1. Biotin 13. 4.1.1. Sự hấp thụ biotin của tế bào 13. 4.1.2. Tác dụng của biotin 14. 4.1.3. Biotin và con đường trao đổi glucoza 14. 4.1.4. Biotin và chu trình glycolat 14. 4.1.5. Các chất thay thế biotin 15. 4.2. Các chất kháng biotin 16. 4.2.1. Penicilin G (PG) 16. 4.2.2. Các chất có tác dụng tương tự PG 16. 4.3. Điều chỉnh khả năng bán thấm của tế bào 17. 4.3.1. Sự giải phóng axit amin tự do nội bào 17. 4.3.2. Biến tính tế bào dẫn đến khả năng sinh L-AG 17. 4.3.3. Sự thay đổi lipit ở màng tế bào 17. 5. Cơ sở của sự hình thành L-AG 17. 5.1. Từ đường glucoza 17. 5.2. Từ axetat 19. 5.3. Từ benzoat 20. 5.4. Từ n-ankan 20. 5.4.1. Từ n-dodecan 20. 5.4.2. Từ n-tetradecan 20. 6. Các sản phẩm của quá trình lên men L-AG 21. 6.1. Sản phẩm chính 21. 6.2. Sản phẩm phụ 21. 6.2.1. Axit lactic 21. 6.2.2. Axit sucxinic 21. 6.2.3. Axit α-xetoglutaric 21. 6.2.4. Glutamic và các sản phẩm khác 22. 6.3. Sự lệch hướng tạo sản phẩm chính 22. 7. Các phương pháp vận hành quy trình lên men L-AG 22. 7.1. Phương pháp lên men 22. 7.1.1. Phương pháp lên men gián đoạn 23. 7.1.2. Phương pháp lên men liên tục 23. 7.2. Lên men trong môi trường nghèo biotin không bổ sung cơ chất dưới điều kiện bình thường 24. 7.3. Lên men dưới điều kiên nghèo amoniac 27. 7.4. Lên men trong môi trường giàu biotin 28. 7.4.1. Kỹ thuật điều khiển sinh khối trong môi trường giàu biotin 28. 7.4.2. Kỹ thuật lên men bổ sung cơ chất 29. 7.4.3. Lên men bổ sung cơ chất trong môi trường giàu biotin 29. 7.5. Kỹ thuật lên men bổ sung cơ chất trong môi trường nghèo biotin 31. 8. Nguyên liệu dùng cho phương pháp lên men 31. 8.1. Tinh bột rắn 31. 8.2. Rỉ đường mía 31. 8.3. Các nguyên liệu khác 32. 9. Cơ chế hóa sinh của quá trình tạo axit glutamic 32. II. Quy trình lên men sản xuất axit glutamic 33. 1. Sơ đồ 33. 2. Thuyết minh quy trình 34. 2.1. Công đoạn thủy phân 34. 2.2. Nguyên liệu phụ 35. 2.3. Thanh trùng môi trường lên men 36. 2.4. Chuẩn bị men giống cho sản xuất 36. 2.5. Công đoạn lên men 36. 2.5.1. Môi trường 37. 2.5.2. Lên men cấp II 37. 2.5.3. Lên men cấp II 37. 2.5.4. Lên men lớn ( lên men cấp III) 38. 2.5.5. Chế độ kiểm tra thiết bị, vệ sinh và thanh trùng nồi men 40. 2.6. Công đoạn trao đổi ion 41. 2.6.1. Pha chế dịch men 41. 2.6.2. Xử lý hạt nhựa resin 42. 2.6.3. Trao đổi ion 42. 2.7. Tách axit glutamic 43. 2.8. Axit hóa axit glutamic 43. 2.9. Làm lạnh kết tinh 43. 3. Phương pháp nâng cao hiệu suất lên men L-AG 43. 4. Một số hiện tượng bất thường trong lên men axit glutamic và biện pháp xử lý 44. 4.1. Thời kỳ tiềm phát kéo dài có hai nguyên nhân chính 44. 4.1.1. Giống quá già 44. 4.1.2. Thanh trùng môi trường không tốt 44. 4.2. Quá trình lên men chậm chạp do môi trường chứa nhiều sắt 44. 4.3. Sử dụng ure không đúng mức 45. 4.3.1. Dư ure ban đầu 45. 4.3.2. Thiếu ure ban đầu 45. 4.4. Môi trường thiếu biotin 45. 4.5. pH ban đầu thấp 45. 4.6. Thiếu oxi hoà tan 46. 4.7. Nhiều dầu phá bọt 46. 4.8. Giống chết hoặc kém phát triển 46. 4.9. Tạp trùng trong lên men axit glutamic và biện pháp phòng chống 46. 4.9.1. Đặc điểm một số tạp khuẩn 46. 4.9.1.1. Vi khuẩn sinh bào tử 46. 4.9.1.2. Thực khuẩn thể (Bacterophage hay phage) 47. 4.9.2. Một số biện pháp phòng, chống nhiễm trùng 47. 4.9.2.1. Biện pháp thiết bị 47. 4.9.2.2. Phương pháp công nghệ 47. 4.9.2.3. Sử dụng hoá chất 47. 4.10. Các yếu tố ảnh hưởng tới tác dụng của hoá chất 48. 4.10.1 Nồng độ 48. 4.10.2. Thời điểm bổ sung hoá chất 48. TÀI LIỆU THAM KHẢO 49.

doc48 trang | Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 2029 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lên men sản xuất axit gltamic, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
biến L-AG thành α - KG) là 9,5. Do sự khác nhau về pH tối ưu kể trên ta cần phải tạo pH thích hợp cho phản ứng tạo L-AG, tăng tốc độ phản ứng này làm lợi cho sản xuất cho nên bổ sung ure (nguồn NH3) sao cho pH dịch men luôn ở khoảng 7,5 và nói chung toàn bộ lượng ure cần dùng nên đưa vào môi trường trước giờ thứ 24 của quá trình lên men. Các đường cong cơ bản: Khi mọi điều kiện kĩ thuật đã được khống chế nghiêm ngặt đúng theo yêu cầu đề ra và quá trình lên men không bị nhiễm trùng thì sự phát triển sinh khối, tốc độ hao đường, tốc độ tạo L-AG bao giờ cũng biến thiên theo quy luật ổn định. pH môi trường sau khi tiếp xúc giống tăng dần theo thời gian nuôi dưỡng đạt tới giá trị cực đại pH= 7,5 ÷ 8 ở giờ 12 và giảm dần xuống 7,2 ÷ 7,3 ở giờ 23 ÷ 25. Ở đây tiếp thêm ure pH tăng lên rồi lại giảm cho tới khi đường con khoảng 1% và L-AG không tạo nữa thì lại tăng lên hay giữ nguyên với giá trị nào đó. Như vậy là giữa độ biến thiên pH cuối cùng, nồng độ đường cuối cùng và hàm lưọng L-AG sinh ra cuối cùng có mối liên hệ chặt chẽ, căn cứ vào mối liên hệ đó để kết thúc lên men cho đúng lúc. Nguyên nhân của hiện tượng pH đang giảm bỗng dừng lại hay tăng lên chủ yếu là do việc tạo L-AG dừng lại. 7.3. Lên men dưới điều kiên nghèo amoniac: Nguyên lý phương pháp: NH3 cung cấp nitơ cho vi sinh vật tổng hợp protit tế bào, axit glutamic, duy trì pH môi trường ở giá trị nhất định. NH3 với nồng độ cao thì việc tích luỹ L-AG mới được tốt vì NH3 có tác dụng quan trọng trong sự thẩm thấu tế bào, tạo điều kiên htuận lợi cho L-AG thoát ra ngoài màng tế bào vi khuẩn. NH3 không có quan hệ đến sự thẩm thấu tế bào. Ngoài chức năng chính là cung cấp nitơ và nhóm NH2 cho quá trình sinh tổng hợp, NH3 chỉ đóng vai trò trung hoà axit hữu cơ và axit amin, duy trì pH ở phạm vi có lợi cho sự hoạt động của vi sinh vật. Cần phải có 1 nồng độ NH3 giới hạn nào đó để cho phản ứng amin hoá khử xảy ra được hoàn toàn, tức là nồng độ NH3 tức thời phải lớn hơn gấp nhiều lần nồng độ α-xetoglutaric. Nếu không có đủ NH3 thì chuỗi phản ứng từ pyruvic → α-XG → glutamic không thể luôn xảy ra theo chiều thuận, dẫn tới việc ứ động pyruvic và hậu quả là việc tạo ra axit lactic từ pyruvic. Có thể dùng Na2CO3 và CaCO3 thay thế chức năng của NH3 để trung hoà axit hữu cơ và axit amin. Lượng dùng của hai loại hoá chất này phụ thuộc vào nồng độ của axit hữu cơ và axit amin, chủ yếu là axit glutamic sinh ra. Tiến hành lên men: Tính toán lượng ure có thể thay thế bằng CaCO3 và Na2CO3. Vì pH môi trường nuôi cấy giảm chủ yếu do L-AG sinh ra do vậy ta tính lượng NH4+ cần dùng để trung hoà L-AG thành amoni glunat sẽ được gần đúng về số lượng ure có thể thay thế được. Phản ứng trung hoà L-AG và phân giải ure như sau: 2AG + 2NH4OH → 2AG-NH4+ + 2H2O (1) Ureaza (NH2)2CO → 2NH4OH + CO2 (2) Cộng (1) với (2) ta được phương trình: 2AG + (NH2)2CO → 2AG-NH4+ + 2H2O + CO2 (3) Nói một cách khác, không phải dùng CaCO3, Na2CO3 để trung hòa toàn bộ L-AG sinh ra mà chỉ được phép trung hòa tới khoảng 65% số L-AG sinh ra mà thôi. Thời điểm bổ sung Na2CO3 lần đầu có thể xê dịch tùy theo lên men diễn ra nhanh hay chậm song nói chung phải chờ tới khi pH giảm và nồng độ đường chỉ còn ít hơn 3% mới được phép bổ sung lần đầu. Trường hợp điều kiện trên chưa đạt thì phải cho thêm lượng ure nào đó bởi vì có thể do sai số phân tích hoặc đo lượng nên tổng ure xịt vào còn chưa đủ 2,2% so với dịch. 7.4. Lên men trong môi trường giàu biotin 7.4.1. Kỹ thuật điều khiển sinh khối trong môi trường giàu biotin: Ta biết rằng các giống sinh L-AG sinh trưởng trên môi trường trên môi trường giàu biotin có khả năng tích lũy L-AG ngoại bào. Ở đây vi khuẩn liên tục hấp thụ biotin, liên tục phân cắt và tăng lên về khối lượng và chỉ dừng lại chừng nào trong môi trường không còn nguồn cacbon nữa. Muốn cho các giống sinh L-AG có khả năng tạo L-AG trên môi trường giàu biotin phải sử dụng các chất kháng biotin như đã nêu ở phần trên.Các chất đó khác nhau về thành phần và cấu tạo hóa học, khác nhau về cơ chế tác dụng nhưng giống nhau ở một điểm cơ bản là làm hạn chế tác hại của biotin dư tạo nên màng tế bào vi khuẩn có đặc tính như vi khuẩn sinh trưởng trên môi trường nghèo biotin, cho phép L-AG nội bào dễ dàng thoát ra ngoài môi trường. Cấu trúc các loại màng tế bào như vậy được quyết định bởi kỹ thuật sử dụng các chất kháng biotin. Kỹ thuật đó phải dựa vào đặc tính của từng loại giống và từng loại chất kháng biotin. Đối với mỗi loại giống nhất định, liều lượng, thời điểm bổ sung có ý nghĩa quyết định. Ở điều kiện thích hơp, giống sinh ra có giá trị ổn định về khối lượng và tính chất đáp ứng nhu cầu tạo nhiều axit glutamic ở ngoài tế bào. Muốn cho Brevibacterium lactofermentum sinh trưởng trên môi trường 20 ÷ 500g /lít biotin có khả năng tạo nhiều axit glutamic nhất thì phải cho Tween 60 vào lúc mà OD dịch lên men = 0,2l ( pha loãng 26n lần, đo ở l 562mm) và tới số lượng ít nhất là 0,1% trở lên. Trong trường hợp này dịch men giờ kết thúc có OD = 0,4 và hàm lượng axit glutamic la 50 g/l. Lẽ dĩ nhiên cũng có thể dùng penicilin với liều lượng và thời điểm thích hợp để đạt được kết quả trên. Trong thực tế sản xuất, người ta thường bổ sung penicilin làm nhiều lần, trong đó lần đầu là lần quan trọng nhất. Lượng penicilin bổ sung lần đầu, nhiều ít khác nhau tùy theo từng loại giống, nhưng thông thường cho đến lượng 4 ÷ 5 đv/ml môi trường là đủ. Thời điểm bổ sung penicilin lần đầu sớm hay muộn cũng tùy thuộc vào từng loại giống. Như vậy kỹ thuật lên men trong môi trường giàu biotin tựu lại là kỹ thuật sử dụng các chất kháng biotin để điều khiển quá trình sinh trưởng của tế bào sao cho đủ về số lượng và tốt về cấu trúc màng của tế bào, làm cho L-AG tích lũy được dễ thải ra ngoài môi trường. Còn các mặt kỹ thuật khác như điều kiện pH, thông gió, phá bọt và khống chế nhiệt độ cũng tương tự như ở lên men trong môi trường nghèo biotin có hay không bổ sung cơ chất. 7.4.2. Kỹ thuật lên men bổ sung cơ chất: Khác với kỹ thuật lên men không bổ sung cơ chất, kỹ thuật lên men bổ sung cơ chất mang lại hiệu quả lớn về mặt kinh tế: tiết kiệm hóa chất, hơi điện, nước, thiết bị và nồng độ L-AG trong dịch cao, thuận lợi cho thu hồi. Khi áp dụng phương pháp lên men bổ sung cơ chất cần quán triệt mấy vấn đề cơ bản sau: - Tạo ra lượng giống lớn trong thời gian ngắn. - Giữ nồng độ đường thấp trong suốt thời gian lên men. - Thay đổi cường độ thông gió cho phù hợp với yêu cầu ở từng giai đoạn. - Ổn định pH môi trường trong phạm vi tối ưu cho tạo L-AG nhưng không để tồn tại lượng lớn ure ở bất cứ thời điểm nào. 7.4.3. Lên men bổ sung cơ chất trong môi trường giàu biotin: Phương pháp tạo giống nồng độ cao trong thời gian ngắn: khi lên men trong môi trường nghèo biotin không bổ sung cơ chất, người ta tiếp giống vào lên men với tỉ lệ 0,5 ÷ 2%. Lượng giống đó sinh trưởng từ từ và đạt trị số cực đại vào giờ thứ 20 ÷ 24. Khoảng thơì gian này quá dài so với tổng số thời gian lên men là 38 ÷ 40 giờ. Trong lên men bổ sung cơ chất ta muốn trong vòng 5 ÷ 6 giờ đầu giống phải đạt trị số cực đại để từ đó trở đi giống vẫn làm nhiệm vụ sinh L-AG, tức là với nếu chu kỳ lên men là 38 giờ thì thời gian chuyên tạo L-AG của giống sẽ là 32 giờ. Đó là khoảng thời gian rất quý cho phép giống sinh L-AG tạo nên 70g/l AG trong dịch. Muốn có lượng giống lớn trong thời gian ngắn, phải tiến hành mấy biện pháp sau: Dùng giống đang có sức sống tốt: Như ta đã biết khi chuyển từ môi trường này sang môi trường khác bất kỳ vi sinh vật nào cũng có thời gian làm quen. Thời kỳ này dài hay ngắn tùy thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có trạng thái sinh lý của giống. Nếu lấy giống đang sinh sản logarit ở môi trường này tiếp sang môi trường khác có cùng nhiệt độ và đầy đủ nhu cầu sinh dưỡng thì giống sẽ tiếp tục sinh trưởng. Thời kỳ làm quen sẽ rất ngắn. Lợi dụng đặc điểm này, trong kỹ thuật lên men, người ta bố trí kế hoạch sát sao, để kết thúc nuôi dưỡng ở giai đoạn này, chuyển ngay giống sang nuôi dưỡng ở công đoạn khác có cùng nhiệt độ. Tiếp giống với tỷ lệ cao: phải tiến hành nhân giống nhiều cấp, mới đủ giống tiếp vào lên men. Người ta thường áp dụng tỷ lệ 10 ÷ 15% tính theo thể tích dịch giống / thể tích môi trường. Áp dụng chế độ nhân giống nhiều cấp không lợi lắm vì tốn thiết bị, môi trường và nhất là tăng cơ hội nhiểm trùng. Tạo giống bảo hòa biotin: một trong những đặc tính của vi khuẩn sinh L-AG là khi nuôi trong môi trường biotin nó sẽ hấp thụ biotin tới mức bảo hòa. Nồng độ biotin tế bào giãm mỗi khi phân cắt và tế bào con lại hấp thụ biotin nếu như trong môi trường còn biotin. Những tế bào như vậy luôn ở tư thế sẵn sàng phân cắt ngay cả trong trường hợp môi trường không có biotin. Giữ nồng độ đường thấp trong quá trình lên men: sinh trưởng trong môi trường nồng độ thấp vi khuẩn dễ phát triển và lợi dụng triệt để đường để tạo sinh khối và L-AG. Bởi thế trong lên men bổ sung cơ chất người ta cho đường ban đầu tương đối thấp, từ 5 ÷ 7,5%. Khi sinh sản vi khuẩn lợi dụng đường, nên nồng độ đường dư giảm nhanh chóng tới 1,5%. Lúc này sinh khối đã đạt tới giá trị cực đại và chuyển sang tạo L-AG. Dùng đường bổ sung để nồng độ tăng lên. Tùy theo loại giống và tác dụng ức chế của cơ chất mà nâng cao nồng độ cơ chất tới mức có lợi cho tạo L-AG và không ảnh hưởng tới hoạt động của vi khuẩn. Thông gió: trong lên men bổ sung cơ chất thời gian sinh sản rất ngắn, thời gian sinh L-AG rất dài và lượng môi trường luôn tăng theo thời gian. Người ta phải tính toán cung cấp oxy cho giống theo nhu cầu ở từng giai đoạn. Nồng độ ure và pH môi trường: khả năng chịu đựng ure của mỗi loại giống khác nhau. Brevibacterium devaricatum phát triển và tạo L-AG tốt ở nồng độ 9,5% của ure. Micrococus có thể sinh trưởng và phát triển tốt ở nồng độ cao hơn 0,4% tạo điều kiện thuận lợi cho giống sinh L-AG. Việc giữ ure tức thời ở nồng độ thấp còn một lý do khác nữa là nồng độ đường tức thời cũng thấp, thường không quá 3% và phải giữ cho tỷ lệ giữa đường và ure có trị số không đổi nhất định, khoảng 7/1. Ure bị phân hủy tạo thành NH4+ trung hòa L-AG, cung cấp NH2 cho quá trình amin hóa khử, pH dịch lên men thích hợp để cho AG-dehydrogenaza hoạt động có lợi cho tạo AG là 7,5. Trong thực tiễn người ta khống chế pH môi trường khoảng 7 ÷ 7,5. Người ta chia tổng số ure ra làm những lần để bổ sung, thường mỗi giờ một lần với lượng không quá 0,4% so với dịch. Nói chung nên tập trung bổ sung trong giai đoạn từ 6 ÷ 26 giờ, tức là song song với quá trình bổ sung đường. 7.5. Kỹ thuật lên men bổ sung cơ chất trong môi trường nghèo biotin Khi lên men trong môi trường nghèo biotin mà muốn bổ sung cơ chất ta cũng phải tuân theo các quy tắc cơ bản đã nêu trên. Song ở đây nguyên tắc tạo giống nồng độ cao có hơi khác một chút. Đối với trường hợp lên men trong môi trường giàu biotin, có thể dùng toàn bộ rỉ đường làm nguồn cung cấp cacbon và biotin cho vi khuẩn sinh trưởng mà không cần lưu ý tới việc giống có hay không bão hòa biotin hay lượng biotin còn dư trong môi trường, bởi vì bước sang giai đoạn lên men đã có các chất kháng biotin hỗ trợ. Nhưng khi lên men trong môi trường nghèo biotin ta muốn tránh sử dụng các chất kháng biotin để tránh phiền phức và tiết kiệm hóa chất. Bởi thế không thể tùy tiện sử dụng biotin trong môi trường nhân giống. 8. Nguyên liệu dùng cho phương pháp lên men: Các nguyên liệu giàu gluxit: tinh bột rỉ đường, glucoza, sacaroza… 8.1. Tinh bột rắn: Tinh bột sắn được sản xuất trong quá trình chế biến củ sắn. Có hai loại sắn: sắn đắng và sắn ngọt khác nhau về hàm lượng tinh bột và xyanua. Sắn đắng có nhiều tinh bột hơn nhưng đồng thời cũng có nhiều axit xyanhydric (HCN), khoảng 200 ÷ 300 mg/kg. Sắn ngọt có ít axit xyanhydric và được dùng làm lương thực, thực phẩm. Thành phần hóa học của tinh bột sắn phụ thuộc vào trình độ kỹ thuật chế biến sắn. trong tinh bột thường có các thành phần: Tinh bột: 83 ÷ 88% Nước: 10,6 ÷ 14,4% Xenluloza: 0,1 ÷ 0,3% Đạm: 0,1 ÷ 0,4% Chất khoáng: 0,1 ÷ 0,6% Chất hòa tan: 0,1 ÷ 1,3% Tinh bột sắn có kích thước xê dịch trong khoảng khá rộng 5 ÷ 40μm, gồm các mạch amilopectin và amiloza, tỷ lệ amilopectin và amiloza la 4:1. Nhiệt độ hồ hóa của tinh bột sắn nằm trong khoảng 60 ÷ 800C. 8.2. Rỉ đường mía: Rỉ đường mía là phần còn lại của dung dịch đường sau khi đã tách phần đường kính kết tinh. Số lượng và chất lượng của rỉ đường phụ thuộc vào giống mía, điều kiện trồng trọt, hoàn cảnh địa lý và trình độ kỹ thuật chế biến của nhà máy đường. Thành phần chính của rỉ đường: Đường 62%, các chất phi đường 10%, nước 20% + Nước trong đường phần lớn ở trạng thái tự do và một số ít ở trạng thái liên kết dưới dạng hydrat. + Đường trong rỉ đường bao gồm: 25 ÷ 40% sacaroza, 15 ÷ 25% đường khử (glucoza và frutoza), 3 ÷ 5% đường không lên men được. - Muối kali có nhiều trong rỉ đường, tiếp đến là canxi và dư lượng SO2. - Thành phần các chất sinh trưởng: chứa nhiều nguyên tố với lượng cực kỳ nhỏ, chỉ có thể tính bằng mg/kg rỉ đường như Fe 115 (mg/kg); Zn 34; Mn 18; Cu 4,9; B 3,0; Co 0,59; Mo 0,2. - Rỉ đường rất giàu các chất dinh trưởng như axit pamotenic, nicotiric, folic, B1, B2 và đặc biệt là biotin. - Vi sinh vật trong rỉ đường: có rất nhiều, đa số chúng từ nguyên liệu, một số nhỏ từ không khí, H2O và đất vào dịch đường. - Lực đệm là loại lực có sức tự ngăn cản sự biến đổi phản ứng của rỉ đường khi bổ sung kiềm hoặc axit. Rửa đường mía có tính đệm đặc trưng. Bình thường pH của rỉ đường nằm trong khoảng 5,3 ÷ 6. Trong quá trình bảo quản, pH có thể bị giảm do hoạt động của vi sinh vật tạp nhiễm tạo ra các axit hữu cơ. Khi thêm HCl hoặc H2SO4 vào rỉ đường, axit sẽ tác dụng với các muối kiềm của các axit hữu cơ làm xuất hiện các muối vô cơ ( KCl, Na2SO4,…) và các axit hữu cơ tự do. Qua đó pH của rỉ đường bị thay đổi rất ít khi tiếp tục thêm axit HCl hay H2SO4. Lực đệm của rỉ đường biểu hiện mạnh nhất ở pH = 3,0 ÷ 5,0; trung bình ở pH = 5,0 ÷ 6,0; rất ít ở pH = 6,0 ÷ 7,07. 8.3. Các nguyên liệu khác: + Axit HCl: điều chế bằng phương pháp khác nhau, chủ yếu là phương pháp điện phân và phương pháp thô. Yêu cầu kỹ thuật: Điện phân Thô HCl > 30% > 27% Fe < 0,01% < 0,07% SO4-2 < 0,077% < 1% + Na2CO3: yêu cầu kỹ thuật Na2CO3 > 95% NaCl < 1% Fe < 0,02% + Than hoạt tính: tạo than từ gỗ, vỏ dừa, bã lạc, bã mía, xương… 9. Cơ chế hóa sinh của quá trình tạo axit glutamic: Phương trình tổng quát: C6H12O6 + NH3 + 3/2 O2 = C5H9NO4 + CO2 + 3 H2O Glucoza Axit pyruvic Axit α – xetoglutavic Con đường amin hóa – khử Con đường chuyển amin Axit glutamic * Con đường amin hóa – khử: NH3 HOOC-CO-(CH2)2-COOH + NADPH2 HOOC-CH-(CH2)2-COOH ׀ NH2 + H2O + NADP * Con đường chuyển amin: HOOC-CO-(CH2)2-COOH + R-CH-COOH HOOC-CH-(CH2)2-COOH ׀ ׀ NH2 NH2 +R-CO-COOH II. Quy trình lên men sản xuất axit glutamic: 1. Sơ đồ: Nguyên liệu (Tinh bột) H2O Phối chế HCl Thủy phân Men giống Phối chế dịch lên men Nguyên liệu phụ Thanh trùng dịch lên men Chuẩn bị men giống cho sản xuất Lên men Trao đổi ion Tách axit glutamic 2. Thuyết minh quy trình: 2.1. Công đoạn thủy phân: Mục đích của công đoạn này là tạo điều kiện để thực hiện phản ứng thủy phân tinh bột thành đường lên men được, chủ yếu là glucoza. Phản ứng xảy ra như sau: (C6H10O5)n HCl n C6H12O6 Phương pháp thủy phân bằng HCl: Phương pháp này tuy có nhược điểm là phải dùng thiết bị chịu axit ở nhiệt độ cao, áp suất cao. Khi trung hòa axit dư phải dùng Na2CO3, có tạo ra lượng muối nhất định theo phản ứng: 2HCl + Na2CO3 2 NaCl + CO2 + H2O Cho hiệu suất cao và thời gian thủy phân ngắn hơn do cường lực xúc tác mạnh, tuy khi trung hòa tạo ra lượng NaCl trong dung dịch ảnh hưởng đến quá trình nuôi cấy. Sử dụng HCl vì do cường lực xúc tác của HCl cao hơn nhiều so với các axit khác, mà khi lượng dư trung hòa bằng Na2CO3, NaOH để tạo thành NaCl không độc với cơ thể con người. Dùng HCl chỉ có hại vì HCl ăn mòn thiết bị nhiều và dễ bay hơi gây độc hại cho người sản xuất nên khi sử dụng và thiết bị dùng phải đảm bảo chống ăn mòn và kín. Quá trình thủy phân được tiến hành theo phản ứng và sơ đồ sau: ( C6H10O5)n + n H2O HCl n C6H12O6 Bột " hòa nước và HCl " thủy phân " trung hòa " tẩy màu " dung dịch đường glucoza. Bột, nước với axit HCl trung hòa theo tỉ lệ 100: 350: 165 (đơn vị thể tích) khuấy trộn đều. Thủy phân: Cho vào nồi áp lực 2 vỏ, dung dịch tinh bột ở trong, hơi nước vào ở vỏ ngoài và nâng nhiệt nhanh lên 1380C (ở nhiệt độ cao các hợp chất hữu cơ dễ bị phân hủy, gây tổn thất aminoaxit nhiều và tổn thất hơi ở áp suất cao nhiều. Nhiệt độ thấp quá làm kéo dài thủy phân, tăng chu kỳ sản xuất và làm giảm hiệu suất sử dụng thiết bị), khoảng 20 phút dưới áp lực 2,6 kg/cm2. Trong điều kiện này tinh bột " dextrin " mạch nha "glucoza nhanh hơn. Phương trình phản ứng xảy ra: (C6H10O5)n + n H2O HCl n/2 (C12H22O1) n/2 (C12H22O11) + n H2O HCl n C6H12O6 Nếu để thời gian dài sinh các phản ứng phụ có hại cho sản phẩm và làm hao tốn lượng đường khá lớn. Yêu cầu của quá trình: - Dung dịch ra có nồng độ: 1000Be. - pH: 1,5. - Tổng số thời gian: 1 giờ. - Tỷ lệ đường hóa: ≥ 90%. - Hàm lượng đường: 16 ÷ 18% Trung hòa: thủy phân xong dung dịch đưa vào thiết bị trung hòa, cho 30% vào để đạt pH = 4,8; cho than hoạt tính vào để tẩy màu ( khoảng 100 kg tinh bột cho 0,45 kg than). Than tẩy màu và giúp cho quá trình lọc dễ, dung dịch có màu trắng sáng. Ép lọc: Tách các phần bã và các chất không hòa tan, được dung dịch đường glucoza 16 ÷ 18%. 2.2. Nguyên liệu phụ: Dung dịch glucoza sau khi thủy phân từ tinh bột sẽ cùng với những nguyên liệu phụ sau: +Cao ngô: 0,7 % +K2HPO4: 0,15 % +MgSO4: 0,075 % +MnSO4: 2% +Urê ban đầu khống chế 1,7 ÷ 1,8 %. Bổ sung giữa chừng 1,2% Nồng độ K2HPO4 không được >0,25 % vì nếu lớn hơn sẽ làm đường hao nhanh và axit glutammic tạo ít. Lượng ure phải được pha và thanh trùng riêng, thường pha 1 lần đủ cho 1 ngày đêm sản xuất, và nồng độ pha thường là 50% cho dễ tính toán. Thường thanh trùng dung dịch ure trong nồi 2 vỏ, dùng hơi nóng nâng lên đến nhiệt độ 1150C giữ ở nhiệt độ này 15 phút thì kết thúc thanh trùng. Đóng van hơi lại, mở van khí nén vào để giữ áp và mở van nước lạnh vỏ để làm nguội. Khi nhiệt độ giảm xuống 32 ÷ 330C thì có thể tiếp cho nồi lên men. Ure cho môi trường, sau khi môi trường đã được thanh trùng và làm nguội đạt nhiệt độ 320C và trước khi tiếp giống, hàm lượng ure đầu tiếp vào phải tính sao cho sau khi tiếp là 1,8% so với lượng môi trường. Đem đi phối chế để tạo môi trường lên men với pH = 6,7 ÷ 6,9 nếu pH 7,5, quá trình lên men sẽ diễn ra bất bình thường ảnh hưởng đến hiệu suất axit glutamic. 2.3. Thanh trùng môi trường lên men: Thanh trùng môi trường lên men nhằm diệt hết các loại vi sinh vật nhiễm tạp, tạo điều kiện thuận lợi cho giống sinh trưởng và tích luỹ nhiều L-AG. Việc thanh trùng môi trường cần được làm thận trọng, đúng nhiêt độ và thời gian quy định. Thanh trùng ở nhiệt độ cao quá, thời gian kéo dài quá mức quy định sẽ làm cho đường bị caramen hoá, melanoit hoá, một số axitamin bị phân huỷ, một số chất sinh trưởng bị mất mát…dẫn đến giảm chất lượng môi trường kéo dài thời kỳ tiềm phát của giống, giảm hiệu suất chuyển hoá đường ra L-AG ở giai đoạn sau. Trước khi thanh trùng môi trường lên men, cần phải kiểm tra kỹ khả năng làm việc của van hơi ( vào ruột và vào vỏ nồi lên men ). Nếu các van này không tốt sẽ làm cho áp lực và nhiệt độ thanh trùng tăng lên rất nhanh quá mức quy định, làm cháy môi trường. Sau khi thanh trùng đúng nhiệt độ và thời gian quy định, cần phải làm nguội môi trường càng nhanh càng tốt. Làm nguội môi trường quá chậm cũng sẽ dẫn tới giảm chất lượng môi trường. Cần thanh trùng dịch trước khi lên men ở nhiệt độ 1210C trong vòng 45 ÷ 60 phút. 2.4. Chuẩn bị men giống cho sản xuất: Men giống gồm các chủng Micrococus, corynebacterium, Brevibacterium. Giống được nuôi dưỡng trong bình tam giác 1000 ml, bảo quản trong tủ lạnh 50C trong 24 giờ chờ kết quả kiểm tra vô trùng. Sau đó tiếp vào giống cấp 2, nuôi dưỡng 9 ÷ 10 giờ rồi tiếp ngay vào lên men. Tỉ lệ giống tiếp vào lên men là 0,5 ÷ 2%, tuỳ theo nồng độ tế bào trong dịch giống là 10g/l thì chỉ cần 0,5 ÷ 1% là đủ. Cho nên khi dùng môi trường nhân giống giàu đường và nhiều biotin (4% glucoza, 5γ/l biotin) ta chỉ cần nồi nhân giống cấp 2 có dung tích hữu dụng 140 lít cũng đủ giống tiếp vào 35000 lít môi trường lên men. Tiêu chuẩn quan trọng nhất đối với giống cấp 2 là thuần khiết, đủ sinh khối không bị tác dụng nhiệt và đang ở thời kì sinh sản logarit. Sau khi đạt tiêu chuẩn về sinh khối, xem xét các tiêu chuẩn khác, tiếp ngay sang lên men, không bảo áp ở áo lực trên 2kg/cm2 trong thời gian lâu ở nhiệt độ thường. Vì làm như vậy sẽ làm thay đổi diễn biến quá trình lên men bình thường. Nếu phải chờ môi trường hay vì lí do nào đó phải bảo áp giữ giống thì phải bảo áp ở áp suất p≤ 2kg/cm2 và nhiệt độ 5 ÷ 100C, nhưng không quá 5 ÷ 8 giờ. 2.5. Công đoạn lên men: Đây là khâu có tính chất quyết định nhất đối với toàn bộ dây chuyền sản xuất. Trong công đoạn này có 3 giai đoạn nhỏ là: nuôi giống cấp I, giống cấp II và lên men lớn. Ngoài ra có những công đoạn phụ phục vụ cho quá trình len men như: dây chuyền lọc khí, xử lí ure, xử lí dầu khử bọt. Trong suốt quá trình lên men cần bổ sung chất kích thích sinh trưởng là biotin với hàm lượng là 2 – 5 g/l. Các khâu sẽ lần lượt được nghiên cứu như sau: 2.5.1. Môi trường: Qua phân tích thành phần hóa học của xác vi khuẩn và nhiều thí nghiệm nuôi cấy ở các cở sở nghiên cứu và sản xuất đã thấy: ngoài ra một số môi trường chung kể trên, các môi trường sau là thích hợp hơn cả như: - Môi trường thạch nghiêng: pepton 1%; cao thịt bò 1%; NaCl tinh chế 0,5%; thạch 2% - Môi trường giống cấp I: đường glucoza tinh khiết 2,5%; rỉ đường 0,25%; nước chấm 0,32%; MgSO4.7H2O 0,04%; Fe, Mn (đã pha 2000g/l) 0,002%; ure 0,5%; B1 ( đã pha 150g/l) 0,00015%. - Môi trường nhân giống cấp II (VD ứng với thể tích thiết bị lên men 60 lít ): đường glucoza 2000g; MgSO424g; H3PO460g; KOH; pH =9; nước chấm 300ml; rỉ đường 600g; ure 480g; dấu lạc 60 ml; B1 20mg. 2.5.2. Lên men cấp I: Trong các thiết bị lên men sản xuất có đủ các chất cho quá trình lên men và hiếm khí môi trường. Qúa trình lên men cho không khí vào và khuấy trộn, lên men tạo bọt, do đó phải dùng dầu để khử bọt. Ure, dầu đậu, không khí trước khi vào thùng lên men, tất cả que cấy, ống nghiệm, bình tam giác….đều phải thật sạch sẽ, vô trùng không có bất kỳ gợn vết gì và được thanh trùng trong nồi áp lực. Môi trường thanh trùng phải để nguội trong phòng vô trùng. Sau khi đã chuẩn bị đầy đủ môi trường, dụng cụ….dùng que cấy cấy giống từ ống gốc sang ống thạch nghiêng để vào tủ ấm 24 giờ cho khuẩn lạc phát triển, ta được giống đời I, cấy truyền qua ống thạch nghiêng một lần nữa, ta được giống đời II và đủ lượng cho vào bình tam giác đã có sẵn môi trường đưa đi lên men trên máy lắc 12 giờ được giống cấp I. 2.5.3 Lên men cấp II: Chuẩn bị môi trường và thiết bị như quá trình lên men cấp I, thanh trùng môi trường 1200 C trong 30 phút, quá trình nuôi giống khống chế ở nhiệt độ 320C, áp suất 1kg/cm2 không tiếp ure và dầu như quá trình lên men cấp I, lượng không khí cho vào khoảng: 850 ÷ 1100 lít/giờ kiểm tra pH 1 giờ 1 lần. Đến giờ thứ 8 thì soi chọn giống: Nồi nào được dùng thì 9 giờ giống có thể cấy tiếp sang nồi lên men chính ( Đo OD dịch lên men, soi nồng độ vi khuẩn và xác định hàm lượng sót…) nếu chưa đạt yêu cầu thì có thể kéo dài thời gian lên men thêm 1 ÷ 2h nữa. Nếu giống đã được, nhưng môi trường lên men chưa chuẩn bị kịp, giống phải đợi thì để nguyên giống trong nồi, tắt cánh khuấy, giữ nguyên áp lực, dùng nước đông lạnh qua vỏ ngoài để hạ nhiệt độ xuống ≈100C. Nhiệt độ càng thấp, thời gian đợi càng lâu nhưng không nên đợi quá 3 giờ, quá thời gian đó giống đã bị già, tiếp sang nồi lên men sẽ phát triển chậm, hiệu suất tạo ra glutamic sẽ kém. Như vậy thời gian nuôi cấy giống cấp 2 mất 9 giờ và đến giờ thứ 8 mới biết kết quả giống có thể tiếp được hay không. Nếu giống yếu không tiếp được thì phải hủy bỏ, nuôi nồi khác. Để khắc phục tình trạng này, thường áp dụng 1 trong 2 biện pháp: - Nuôi giống dự phòng: Thường cần 2 nồi giống thì người ta cho nuôi 3 nồi một lúc, đến khi kết thúc chọn lấy 2, hủy bỏ 1. Cách này nói chung đảm bảo cho lên men, kịp thời nhưng lãng phí. - Biện pháp 2: Căn cứ tốc độ tiêu hao đường, diễn biến của pH, nhiệt độ, màu sắc của ngày dịch ngay giờ thứ 4, thứ 5 phải phán đoán được kết quả phát triển của nồi giống đó, nếu thấy cần thì quyết định cho cấy giống dự phòng từ giờ đó. Biện pháp này tránh được lãng phí nhưng đòi hỏi người cán bộ kĩ thuật phải giàu kinh nghiệm thực tế và do đó mà quyết định chính xác, nếu quyết định kém chính xác thì lãng phí, thậm chí thiệt hại còn lớn hơn nhiều so với trường hợp trên. Trong quá trình lên men cần phải bổ sung ure, số lượng không cố định, khi pH dịch lên men đang từ trên 7 xuống dần thì phải tiếp dần ure cho đạt lên 7,5 ÷ 8 sau đó do lượng axit glutamic tạo ra trong môi trường càng nhiều, pH càng giảm xuống 7 hoặc dưới 7 lại tiếp ure nữa cho đến khi đường trong dịch men còn khoảng 1% thì không cần tiếp nữa. Trong quá trình lên men, do hoạt động của các chất men của vi khuẩn, thải ra nhiều CO2 tạo ra nhiều bọt, vì vậy cần phải dùng một lượng dầu thích hợp để phá bọt, ở nước ta hay dùng loại dầu lạc thô. Dùng nồi 2 vỏ thanh trùng dầu như thanh trùng ure nhưng giữ ở nhiệt độ 120 ÷ 1400C trong 120 phút. Sau đó cho giữ áp lực bằng không khí và hạ nhiệt độ xuống 32 ÷ 330C mới tiếp sang nồi lên men. Các loại vi khuẩn lên men axit glutamic là loại hiếu khí nên quá trình lên men đều phải cung cấp không khí. Mặt khác ta còn cần một lượng không khí vô trùng để giữ áp lực toàn bộ hệ thống như nồi ure, nồi dầu, đường ống v.v.v… Không khí từ khí trời được hút qua một thùng tách bụi sơ bộ, qua máy nén, qua hệ thống tách bụi, làm nguội, qua bình lọc bông thủy tinh đến các bình lọc riêng sơ bộ rồi mới vào nơi sử dụng như nồi giống, nồi lên men. 2.5.4 Lên men lớn (lên men cấp III ): Mục đích: mục đích của khâu này là thông qua hoạt động sống của vi khuẩn trong những điều kiện thích hợp để chuyển hóa đường glucoza và đạm vô cơ thành axit gutamic. Qúa trình chính xảy ra qua 3 giai đoạn: a. Giai đoạn đầu: 8 ÷ 12 giờ gọi là giai đoạn sinh khối. Giai đoạn này các chất đường đạm vô cơ và hữu cơ, các muối khoáng,vitamin và các chất sinh trưởng có trong môi trường thẩm thấu vào tế bào vi khuẩn làm cho vi khuẩn lớn lên, đạt kích thước cực đại và bắt đầu sinh sản, phân chia. Qúa trình lặp lại cho đến khi lượng vi khuẩn đạt đến giá trị cực đại. Những biểu hiện của giai đoạn này là: - Nhiệt độ tăng vừa phải, càng về cuối giai đoạn tốc độ tăng nhiệt độ càng nhanh, nếu nhiệt độ ngoài trời 35 ÷ 360C, không mở nước làm lạnh thì lúc đầu 1 giờ đến 1 giờ 30 phút môi trường tăng 10C, về cuối 30 ÷ 40 phút tăng 10C, về mùa đông nhiệt độ tăng chậm hơn. - pH tăng dần từ 6,5 ÷ 6,7 lên 7,5 ÷ 8. - Bọt tạo thành tăng dần (do lượng thải CO2). - Lượng đường tiêu hao tăng dần, thường 2 ÷ 3 giờ đầu hao rất ít, càng về sau tốc độ hao càng nhanh. - Lượng tế bào vi khuẩn tăng dần từ khoảng 0,13 ÷ 0,14 đến 1 (số đo OD trên máy so mầu ). - Hàm lượng axit glutamic chưa có hoặc rất ít. b. Giai đoạn giữa: từ giờ thứ 10, 12 đến giờ thứ 24, 26. Giai đoạn này giữ cho số tế bào không tăng thêm nữa hoặc tăng rất ít. Qúa trình chủ yếu trong giai đoạn này là: Đường và đạm vô cơ thẩm thấu qua màng tế bào vi khuẩn và các quá trình chuyển hóa bởi các men và các phản ứng như trên để tạo ra axit glutamic trong tế bào. Lượng axit glutamic tạo thành lại hòa tan vào các môi trường làm cho pH môi trường giảm dần, CO2 bay ra nhiều, bọt tăng ào ạt. Trong giai đoạn này nhiệt độ tăng nhanh nếu không làm lạnh trong 1 giờ có thể tăng 1 ÷ 20C. Lượng đường hao nhanh từ 8,9% xuống còn 2,3%, pH giảm xuống còn dưới 7 nên phải tiếp ure để pH tăng lên 8 rồi lại giảm xuống nhanh chóng, axit glutamic tăng nhanh từ 0 đến 30 ÷ 40g/l. c. Giai đoạn cuối: những giờ còn lại tất cả các biểu hiện đều giảm dần cho đến khi làm lượng đường chỉ còn ≤ 1% thì lên men kết thúc. Thường thường để đảm bảo quá trình lên men đạt hiệu quả cao phải chú ý khống chế các điều kiện kĩ thuật như: + Nhiệt độ: luôn luôn giữ ở 320C. + áp suất: 1kG/cm2. + Lượng không khí: 30 ÷ 40 m3/l giờ cho 1m3 môi trường. + Cách khuấy 2 tầng 180 ÷ 200 vg/ph. + Khi pH giảm đến 7 phải bổ sung ure ngay cho pH lên đến 8, thường bổ sung 1 nồi lên men gián đoạn 2 ÷ 3 lần. + Khi bọt nhiều phải tiếp giống để phá bọt tạo điều kiện cho CO2 thoát ra ngoài dễ dàng. * Các chế độ kiểm tra cần thiết trong giai đoạn này: - Nhiệt độ lượng không khí, áp suất phải kiểm tra thường xuyên, có chiều hướng thay đổi phải điều chỉnh ngay. - pH mỗi giờ kiểm tra một lần. - OD (độ đục trên máy so mầu): thường đo vào giờ thứ 0; 12; 16; 18. - Độ đường: phân tích xác định hàm lượng đường vào các giờ thứ 0; 6; 12; 18; 20; 24 đến khi kết thúc. - Ure bổ sung vào các giờ thứ 0; 6; 12. - Axit glutamic đo vào các giờ thứ 6; 12; 16; 20; 24; 28; 30 và kết thúc quá trình. Qua số liệu theo dõi và phân tích, biểu diễn thông thường là hàm lượng đường giảm dần, hàm lượng axit tăng dần. Nhưng cá biệt có trường hợp lên men đến nửa chừng thì đường vẫn hao đều nhưng axit glutamic thì không tăng, thậm chí có khi còn giảm. Trong trường hợp đó cần phải xác định nguyên nhân cho chính xác và quyết định xử lí ngay, nếu để chậm đường sẽ hao hết và số glutamic tạo được trong những giờ trước cũng hao hết. Nguyên nhân thông thường gây ra các hiện tượng đó là dịch thải đã bị nhiễm trùng do không khí, ure hoặc dầu mang vào, loại tạp khuẩn này sống bằng axit glutamic và cùng tồn tại với vi khuẩn lên men tạo axit glutamic, hai loại này không tiêu diệt lẫn nhau. Khi quyết định biện pháp xử lý phải căn cứ theo tình hình cụ thể, nếu hàm lượng axit glutamic đã tương đối cao, đường còn rất ít thì kết thúc sớm quá trình lên men. Nếu lượng axit glutamic chưa đáng kể mà đường còn cao thì gia nhiệt thanh trùng lại và tiếp giống mới, lên men lại từ đầu. 2.5.5 Chế độ kiểm tra thiết bị, vệ sinh và thanh trùng nồi lên men: Do đặc điểm của qúa trình sản xuất, khi đã bắt đầu lên men rồi thì không thể ngừng lại được nữa, nếu vì một lý do nào đó mà phải ngừng lại nửa chừng thì nồi lên men đó coi như bị hỏng, tổn thất hàng triệu đồng. Vì vậy, các bước trong việc chuẩn bị phải chuẩn bị phải được tiến hành hết sức cẩn thận, tỉ mỉ với một kĩ thuật nghiêm ngặt. - Kiểm tra thiết bị: trước phối liệu một nồi lên men phải kiểm tra toàn bộ hệ thống van vào, van ra, van kim của nồi lên men, những nồi bị hỏng phải được thay thế sửa chữa. Kiểm tra bình lọc khí xem bông than có còn tốt không, kiểm tra mô tơ máy khuấy xong mới quyết định xem nồi có phối liệu được hay không. Vệ sinh nồi lên men, thanh trùng nồi không, đóng van khí lại, mở van hơi vào bình lọc khí riêng. Thời gian thanh trùng không là 45 phút, nhiệt độ 1200C. Sau khi thanh trùng xong đóng van hơi lại, mở van khí nén vào bình lọc riêng và các đoạn ống liên quan để giữ áp. - Cần pha môi trường và thanh trùng môi trường: + Đường ở thùng chứ đường. + H3PO4 cân đủ lượng cho rồi cho vào, hai thứ này cân đủ lượng pha riêng sau đó mới cho vào thùng. + Cho một ít nước vào thùng pha môi trường, cho cánh khuấy hoạt động rồi thứ tự cho rỉ đường, nước chấm, KH2PO4 khuấy tan hết rồi cho MgSO4 vào. Bơm dịch đường vào cho đủ một nồi lên men, điều chỉnh lại pH = 6,5 ÷ 6,8, cuối cùng cho Biotin và dầu vào rồi bơm vào thùng lên men. Cho cánh khuấy hoạt động và cho hơi sục vào môi trường nâng dần nhiệt độ lên 1150C và giữ ở nhiệt độ này 15 phút thì kết thúc thanh trùng. Đóng van hơi lại và thổi khí lạnh vào để làm nguội, cho nước lạnh vào vỏ để làm lạnh. Khi nhiệt độ môi trường giảm xuống còn 320C thì tiếp ure đều (ure đã được thanh trùng và làm nguội riêng). Lấy mẫu phân tích xác định các thành phần, nếu sai số không quá lớn so với các tiêu chuẩn kĩ thuật cho phép thì tiếp giống cấp hai sang và bắt đầu lên men. Thời gian lên men thường kéo dài 28 ÷ 32 giờ. Sau 2 ÷ 3 lần tiếp ure và khi hàm lượng đường chỉ còn lại ≤ 1% thì quá trình lên men kết thúc. Dùng khí nén đẩy dịch lên men sang thùng chứa chuẩn bị trao đổi ion 2.6. Công đoạn trao đổi ion: Mục đích của công đoạn này là tách lấy axit glutamic ra khỏi dịch lên men. Người ta lợi dụng tính chất hạt nhựa polyetylen sunfuric (ta quen gọi là refin) sau khi đã được cation hóa (tức tái sinh) có khả năng giữ lại trên bề mặt của nó anion, ở đây chủ yếu là axit glutamic. Sau đó lại dùng NaOH để tách anion ra khỏi hạt nhựa. Quá trình hấp thụ: R-SO3H+ + NH3ROO " R’SO3NH3RCOOH Điều kiện của quá trình hấp thụ: + Dung dịch axit glutamic: 0,45 ÷ 0,5 kg/m3 + 3,2 < pH< 5, nhiệt độ 65 ÷ 700C + Tốc độ chảy: 150ml/phút ÷ 300ml/phút. Qúa trình tách: R’SO3NH3RCOOH + NaOH " R’SO3Na + NH2RCOOH + H2O Điều kiện của quá trình tách: + NaOH: 4 ÷ 5% + Nhiệt độ: 650C + Tốc độ chảy: 150ml/phút Qúa trình trao đổi nhựa ion bao gồm các quá trình như sau: 2.6.1. Pha chế dịch men: Dịch men ra có hàm lượng axit glutamic khoảng 40g/l tức là mật độ phân tử tương đối dày đặc nếu cứ để như vậy thì dòng chảy qua khối hạt nhựa; xác suất tiếp xúc giữa các phân tử axit glutamic với hạt nhựa sẽ ít hơn; số đi theo dòng chảy sẽ lớn hơn, gây ra tổn thất lớn.Vì thế trước khi trao đổi người ta pha loãng dịch thải lần trước hay bằng nước lạnh theo tỉ lệ sao cho sau khi pha dịch men có hàm lượng axit glutamic khoảng 18 ÷ 20 g/l. Mặt khác dịch men khi kết thúc quá trình lên men thường có pH = 6 ÷ 7, ở pH đó trung tính hoặc gần trung tính. Ở điều kiện này một số tác giả cho biết là axit glutamic phần lớn ở dưới dạng không phân cực HOOC – CH2 – CH2 – CH – COOH | NH2 Dạng này hạt nhựa không hấp thụ được ở pH = 5 ÷ 5,5 thì axit glutamic chủ yếu ở dạng phân cực: HOOC - CH2 – CH2 – CH – COO- | NH3+ Dạng này hạt nhựa hấp thụ tốt. Vì vậy người ta phải dùng HCl điều chỉnh pH dịch men xuống 5 ÷ 5,5. 2.6.2. Xử lý hạt nhựa resin: Hạt nhựa resin sau một mẻ trao đổi không còn khả năng hấp thụ nữa, muốn tiếp tục trao đổi phải qua khâu xử lý tái sinh. Dùng nước sạch rửa ngược khoảng 1 giờ, thỉnh thoảng dùng áp chân không và van đóng mở gián đoạn để sục đảo cho khối nhựa được tơi, đều, rửa cho tới khi pH = 8 ÷ 9 thì thôi ( trước khi rửa cho pH = 12 ÷13), xả bỏ hết lớp nước bẩn ở trên, sau đó tiếp tục cho nước rửa vào rửa xuôi cho đến hết khi pH = 7 thì thôi và tiến hành tái sinh. - Tái sinh: dùng axit thu hồi cho chảy ngược 15 ÷ 20 phút sau đó mới cho axit mới pha, giữ cho tốc độ vào và ra ngang nhau để cho mặt nước có chiều cao cố định tới khi dịch ra có pH = 2 ÷ 2,5 thì ngưng cho HCl. - Rửa tái sinh: mở van đáy thu hồi lấy axit cho tái sinh lần sau rồi mới dùng nước lạnh rửa xuôi cho tới khi pH = 3 thì ngưng cho nước và có thể tiến hành trao đổi. Thời gian kéo dài 40 ÷ 60 phút. 2.6.3. Trao đổi ion: Sau khi hạt nhựa đã được tái sinh, rửa tái sinh và dùng chân không đóng mở ngắt quãng làm cho hạt nhựa được tơi, xốp để cho ổn định rồi cho dịch men vào trao đổi ngược, lưu tốc vừa phải khống chế trong khoảng 80 phút trao đổi hết một mẻ là vừa. + Rửa trao đổi: sau khi trao đổi hết để cho resin lắng xuống tự nhiên, xả bỏ lớp dịch bẩn ở trên bề mặt, đảo trộn hạt nhựa rồi cho nước sạch vào rửa ngược cho tới khi sạch thì thôi ( nước thải thải ra hết ). + Giữ nhiệt: sau khi rửa sạch thì ngừng cho nước lạnh và bắt đầu cho nước nóng vào để gia nhiệt hạt nhựa. Nước nóng 600C đã được gia nhiệt chuẩn bị sẵn. Nước thải ra lúc nóng gọi là dịch rò có chứa một lượng rất ít axit glutamic nên được thu hồi lại làm nước pha dịch men ở mẻ sau. Gia nhiệt cho đến khi nước thải đạt 48% thì thôi và cho NaOH 5% vào để tách. Nói chung phương pháp trao đổi ion hay là phương pháp trao đổi ion dùng để tách axit glutamic. 2.7. Tách axit glutamic: Khi dịch ra đạt 450C thì cho nước nóng và bắt dầu cho NaOH 5% cũng đã được gia nhiệt đến 600C để tách axit glutamic, lúc này dịch thải ra vẫn được thu hồi để pha mẻ sau nhưng đồng thời phải liên tục kiểm tra pH và độ Baume, vì axit glutamic theo dịch ra tăng lên nhanh chóng, khi độ Baume đạt 00C thì lập tức thu hồi axit glutamic, chỉ 4 ÷ 5 phút sau độ Baume đạt cực đại ( khoảng 405 ÷ 50 Be), lúc này thôi cho NaOH. Sau khi đạt cực đại, độ Be giảm dần và cũng chỉ 4 ÷ 5 phút sau xuống đến 00 Be, khi kết thúc phần còn lại được thu hồi làm nước chấm. 2.8. Axit hóa axit glutamic: Toàn bộ dung dịch axit glutamic thu được trong khoảng 2 lần đạt ở trên được đưa về thùng kết tinh, cho cánh khuấy hoạt động liên tục để ngăn ngừa axit glutamic kết tinh quá sớm, tinh thể nhỏ, hiệu suất thấp. Cho HCl 31% vào tạo điểm đẳng điện đến pH = 2,9 ÷ 3,2 thì thôi và mở nước lạnh. 2.9. Làm lạnh kết tinh: Dịch axit glutamic sau khi đã đưa về điểm đẳng điện thì cho nước vào vỏ thùng kết tinh để giảm dần nhiệt độ, trong khi đó cánh khuấy tiếp tục hoạt động làm cho axit glutamic kết tinh to,tơi và xốp. Tám giờ sau thì ngừng khuấy, còn nhiệt độ hạ từ từ đến nhiệt độ không khí ( nếu có điều kiện thì dùng nước lạnh đưa xuống 120C và giữ ở đó là tốt nhất). Sau ít nhất 48 giờ thì quá trình làm lạnh kết tinh kết thúc. Ở đây, dung dịch axit glutamic chia làm 2 pha rõ rệt: Pha rắn: gồm axit glutamic đã kết tinh lắng xuống dưới. Pha lỏng: gồm nước và một ít axit glutammic không kết tinh hòa tan vào, ta gọi đó là nước cái. Phần nước cái đưa đi trao đổi lại, phần kết tinh đưa đi ly tâm ta được axit glutamic ẩm. 3. Phương pháp nâng cao hiệu suất lên men L-AG: Cải tạo giống vi sinh vật: nhằm vào các hướng có lợi cho sinh tổng hợp L-AG như: sinh ít hoặc không sinh α -XG-dehydrogenaza, giảm hoạt lực izoxytrataza, bền vững với tác dụng bền vững của Gramixizin làm giảm bớt quá trình photphoryl hoá hiếu khí vốn tiêu hao rất nhiều năng lượng của vi sinh vật, có khả năng chống chịu với nhiều loại kháng sinh ức chế quá trình trao đổi năng lượng, chuyển điện tử trong hệ hô hấp tế bào, phòng ngừa việc tạo ATP từ các sản phẩm trung gian, ức chế phản ứng tổng hợp màng tế bào làm cho màng tế bào cấu tạo thiếu hoàn chỉnh để dễ thấm đối với L-AG có khả năng. 4. Một số hiện tượng bất thường trong lên men axit glutamic và biện pháp xử lý Thời kỳ tiềm phát kéo dài có hai nguyên nhân chính: 4.1.1. Giống quá già: Do thời gian nuôi giống cấp hai quá dài, giống đã chuyển sang giai đoạn cân bằng mà không còn ở giai đoạn bình thường cũng làm giống phát triển chậm trong môi trường lên men, cũng có thể do giống đã bị bảo áp lâu trong nhiệt độ thường dưới áp suất cao. Thường xảy ra do bố trí sản xuất chưa chặt chẽ, nuôi giống đã đủ thời gian mà môi trường lên men chưa chuẩn bị xong, nên bắt buộc phải bảo áp giống ở áp suất 2kg/cm2 và nhiệt độ thường. Thời gian bảo áp ngắn trong vòng 3 ÷ 4 giờ, thì ảnh hưởng đến thời kì tiềm phát không nhiều. Thời gian bảo áp càng dài thì thời gian để giống làm quen với môi trường lên men càng dài. Giống bị bảo áp lâu không chỉ chậm thích nghi với môi trường mới mà còn uể oải trong hoạt động sống. Muốn khắc phục tình trạng trên điều quan trọng là phải tổ chức sản xuất chặt chẽ, hợp lý hoá các khâu để không bao giờ bị bảo áp giống quá lâu. 4.1.2. Thanh trùng môi trường không tốt: Thanh trùng môi trường lên men nhằm diệt hết các loại vi sinh vật nhiễm tạp, tạo điều kiện thuận lợi cho giống sinh trưởng và tích luỹ nhiều L-AG. Việc thanh trùng môi trường cần được làm thận trọng, đúng nhiêt độ và thời gian quy định. Thanh trùng ở nhiệt độ cao quá, thời gian kéo dài quá mức quy định sẽ làm cho đường bị caramen hoá, melanoit hoá, một số axitamin bị phân huỷ, một số chất sinh trưởng bị mất mát…dẫn đến giảm chất lượng môi trường kéo dài thời kỳ tiềm phát của giống, giảm hiệu suất chuyển hoá đường ra L-AG ở giai đoạn sau. Muốn khắc phục tình trạng này, trước khi thanh trùng môi trường lên men, người thao tác cần phải kiểm tra kỹ khả năng làm việc của van hơi ( vào ruột và vào vỏ nồi lên men ). Nếu các van này không tốt sẽ làm cho áp lực và nhiệt độ thanh trùng tăng lên rất nhanh quá mức quy định, làm cháy môi trường. Sau khi thanh trùng đúng nhiệt độ và thời gian quy định, cần phải làm nguội môi trường càng nhanh càng tốt. Làm nguội môi trường quá chậm cũng sẽ dẫn tới giảm chất lượng môi trường. 4.2. Quá trình lên men chậm chạp do môi trường chứa nhiều sắt: Với nồng độ nhất định trong môi trường lên men, ion sắt có tác dụng kích thích vi khuẩn tạo L-AG phát triển . Song khi có mặt ion quá nồng độ quy định thì ảnh hưởng của Fe2+ đến việc tích luỹ AG rất đáng kể, mặc dù Fe2+ không kìm hãm sự phát triển của vi khuẩn. Nguyên nhân chính của việc tăng nồng độ sắt trong môi trường lên men là do đường thuỷ phân đưa vào. Đường được sản xuất bằng cách dung axit vô cơ ( HCl, H 2SO4 ) để thuỷ giải tinh bột trong các thiết bị tráng men hay dán lót cao su và được bọc bằng máy ép lọc khung bản. Khi nồng độ sắt trong dịch đường tăng thì chỉ có thể là các thiết bị lên men đã bị axit ăn mòn do lớp men hay lớp cao su đã bong, tróc, máy ép lọc đã han gỉ. Muốn khắc phục tình trạng nhiều sắt trong dịch đường cần phải kiểm tra sắt trong dịch đường trước khi phá môi trường bằng dung dịch natrisunfua. 4.3. Sử dụng ure không đúng mức: Ure là nguồn rất tốt để cung cấp nitơ cho vi khuẩn tổng hợp protein tế bào, tích luỹ L-AG, giữ pH môi trường ở trung tính hay kiềm yếu. Khi thiếu ure, các cơ chế sinh tổng hợp L-AG bị đảo lộn dẫn tới việc tạo ra axit hữu cơ khác thay cho axit glutamic. Khi dư ure cũng làm giảm hiệu suất tạo L-AG. 4.3.1. Dư ure ban đầu: Nói chung lượng ure ban đầu cao hơn 1.8% thì dịch men có pH >8, đường hao chậm. Khắc phục: giảm lực thông gió ban đầu để hạn chế phân huỷ ure ban đầu, giữ pH <8, thường giảm lượng gió bằng 1/2 lượng gió bình thường. 4.3.2. Thiếu ure ban đầu: Biểu hiện của thiếu ure ban đầu là pH dịch lên men không tăng hoặc tăng chậm rồi giảm rất nhanh, OD tăng chậm, thời kỳ tiềm phát kéo dài. Biện pháp: theo dõi sát sao diễn biến lên men các giờ đầu, bổ sung sớm ure lần một. Tốt nhất là ngay từ trước khi cho ure ban đầu vào môi trường, cần phân tích chính xác nồng độ dịch ure đã pha và kiểm tra kỹ các van của nồi ure để tránh rò chảy ure. 4.4. Môi trường thiếu biotin: Các chủng vi khẩn sinh tổng hợp L-AG rất cần biotin để sinh trưởng và tích luỹ L-AG. Ta thường dung rỉ đường mía làm nguồn cung cấp biotin với tỷ lệ 0,25 ÷ 0,5% (tuỳ độ loãng của rỉ đường ) so với khối lượng môi trường lên men, giống vẫn phát triển nhưng rất chậm, chỉ đạt trị số cực đại OD <0,55 trong khoảng 20 giờ. Sở dĩ giống còn phát triển được là trong tế bào đã có sẵn biotin, khi sang môi trường lên men, giống tiếp tục phát triển theo sự kích thích của biotin nội bào và của vitamin B1 đã đưa vào môi trường lên men. Biểu hiện khác nhau của sự thiếu biotin là pH dịch men cứ tiếp tục tăng mãi theo các giờ lên men, đường hao rất chậm. Khắc phục tình trạng này, phải kiểm tra chặt chẽ khi pha vào môi trường, có sổ ghi rõ và đánh dấu từng loại hoá chất đã pha để tránh quên rỉ đường. Nếu sớm phát hiện quên rỉ đường, có thể khắc phục bằng cách pha loãng rỉ đường với nước, thanh trùng và tiếp vào môi trường lên men càng sớm càng tốt. 4.5. pH ban đầu thấp: Theo quy định thì nên pha môi trường có pH= 6,5 ÷ 6,7 (để sau khi thanh trùng, pH có giảm xuống chút ít và sau khi tiếp ure, pH sẽ tăng dần tới trị số tối ưu :7,3 ÷ 7,5). Trong thực tế sản xuất hiện nay ta phải dùng các loại giấy thử pH có sai số khá lớn với máy đo pH, dẫn tới tình trạng là sau khi đo và cùng giấy pH, ta yên trí là đã đạt yêu cầu mà thực tế lại quá thấp (<6). Mặt khác ta thường dùng lượng dịch đường khá lớn để pha dịch men, dịch đường sau khi lọc có pH = 4,5 ÷ 5 nhưng lại quên điều chỉnh pH môi trường sau khi pha làm pH rất thấp (<6). Biện pháp: phải dùng loại giấy thử pH đã được hiệu chỉnh trị số máy đo pH, sau đó phải kiểm tra chặt chẽ việc điều chỉnh pH môi trường trước khi bơm vào nồi lên men. Nếu sau khi thanh trùng, môi trường lên men vẫn có pH<6 thì phải lập tức pha loãng natrihydroxit, thanh trùng và bơm vào nồi lên men để điều chỉnh pH. 4.6. Thiếu oxi hoà tan: Vi khuẩn sinh L-AG là loại rất cần oxi hoà tan trong môi trường để sinh trưởng và tích luỹ L-AG. Yếu tố làm giảm oxi hoà tan vào môi trường là tốc độ cánh khuấy. Nếu môi trường thiếu oxi hoà tan: tốc độ phát triển sinh khối của giống vẫn tăng bình thường, tốc độ hao đường vẫn tăng bình thường ở các giờ đầu, gần về cuối có giảm chút ít. Thiếu oxi hoà tan biến đổi pH dịch men cũng vẫn diễn ra bình thường nên thời điểm bổ sung ure lần một và lần hai vẫn tương tự như khi khuấy trộn bình thường, nhưng có nét đặt biệt là, sau khi bổ sung ure lẫn hai ở các đợt bình thường thì pH tăng lên >7,5 và giảm xuống từ từ nhưng không bao giờ xuống thấp dưới 6,4. Ngược lại, thiếu oxi hoà tan thì sau khi bổ sung lần hai pH chỉ tăng ít mà lại giảm mạnh xuống dưới 6 ở giờ kết thúc. Những hiện tượng bất thường do thiếu oxi hoà tan chỉ thể hiệ rõ rệt ở các giờ gần về cuối quá trình lên men. Muốn khắc phục tình trạng thiếu oxi hoà tan thì chủ động nhất và có hiệu quả nhất là phải thường xuyên theo dõi tốc độ cánh khuấy và có biện pháp khôi phục tốc độ khuấy trở lại bình thường. 4.7. Nhiều dầu phá bọt: Dùng lượng dầu quá lớn và thời điểm cho dầu không đúng lúc ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của vi khuẩn và sinh tổng hợp L-AG. 4.8. Giống chết hoặc kém phát triển: Do sơ ý để giống cấp hai bị tác dụng của nhiệt làm cho giống bị chết hoặc yếu, nhưng sau khi đã tiếp vào môi trường lên men mới phát hiện ra. Biện pháp: tốt nhất là nếu có sẵn nồi giống cấp hai thì tiếp ngay vào nồi lên men rồi cho chạy như thường. 4.9. Tạp trùng trong lên men axit glutamic và biện pháp phòng chống: 4.9.1. Đặc điểm một số tạp khuẩn: 4.9.1.1. Vi khuẩn sinh bào tử: Baccillus subtilis, Baccillus mycoidis, clostridium butirium và clostridium putrium là những loại vi khuẩn sinh bào tử rất nguy hiểm cho quá trình lên men L-AG. 4.9.1.2. Thực khuẩn thể (Bacterophage hay phage): Thực khuẩn thể là siêu vi trùng ki sinh trong tế bào vi khuẩn. Có hai loại thực khuẩn thể: ôn hoà và ác tính Một số đặc điểm của thực khuẩn thể: a. Gây nhiễm ngay sau khi tiếp giống thì vi khuẩn không phát triển được, ở đây OD không tăng tế bào vi khuẩn nhỏ vụn, xếp chuỗi. b. Gây nhiễm sau khi tiếp giống 5 giờ, vi khuẩn vẫn tiếp tục phát triển bình thường, giữ nguyên hình thái đặc trưng, đường hao, pH giảm tương tự như mẫu đối chứng (không bị lây nhiễm ). Vi khuẩn chứa thực khuẩn thể trong mình ( vi khuẩn sinh tan ) không thể sinh sản khi chuyển tiếp sang môi trường mới. c. Cấy các dịch giống bị gây nhiễm từ giờ thứ 5 sau khi tiếp giống lên các đĩa thạch, để 24 giờ trong tủ ấm, thấy mỗi loại thực khuẩn thể cho đặc điểm đặc trưng: vi khuẩn không mọc hay mọc yếu khi gây ô nhiễm nhưng trên đường cấy có nhiều plâycơ. Số lượng plâycơ tăng tỷ lệ thuận với thời gian tiếp xúc giữa vi khuẩn và thực khuẩn thể. 4.9.2. Một số biện pháp phòng, chống nhiễm trùng: 4.9.2.1. Biện pháp thiết bị: Quan tâm đầy đủ vấn đề phòng chống nhiễm trùng, ngay từ khi lựa chọn địa điểm xây dựng, thiết kế chế tạo, lắp ráp thiết bị có ý nghĩa rất quan trọng. 4.9.2.2. Phương pháp công nghệ: Quá trình lên men L-AG cần vô trùng tuyệt đối cho nên lên men gián đoạn là có lợi nhất. Nói chung nguyên liệu nhiều tạp trùng, cần thanh trùng nghiêm ngặt, nguyên liệu ít tạp trùng, thanh trùng ở điều kiện vừa phải. Dịch đường thuỷ giải đã qua tác dụng nhiệt dưới áp suất trong môi trường axit, nên ít tạp trùng, thanh trùng ở điều kiện vừa phải, nhiệt độ thấp. Thời gian ngắn và pH trung tính. Về mặt giống vi sinh vật, nên có hai, ba giống khác nhau để luân canh. Điều này có gây khó khăn cho sản xuất, đòi hỏi người sử dụng phải thuần thục, hiểu rõ từng đặc điểm và tính cách của mỗi loại giống có lợi và đề phòng được tính đột biến chuỗi của thực khuẩn thể nảy sinh khi chuyên dùng một giống trong suốt thời gian dài. 4.9.2.3. Sử dụng hoá chất: Hàng trăm các hoá đã được thử trong đó có chất hoạt động bề mặt, kháng sinh, axit hữu cơ, vô cơ…nhưng chỉ có rất ít chất có thể ứng dụng được trong công nghiệp và cũng chỉ ứng dụng để phòng ngừa thực khuẩn thể chứ không có tác dụng phòng ngừa vi khuẩn. Vì yêu cầu đặt ra trong việc lựa chọn hoá chất rất cao: không ức chế vi khuẩn, không ảnh hưởng tới quá trình tích luỹ L-AG, không gây khó khăn cho giai đoạn thu hồi và giá thành không cao . Tóm lại, trong lên men L-AG thường gặp các loại tạp chủng như vi khuẩn sinh bào tử và thực khuẩn thể, chúng gây tác hại to lớn cho sản xuất. Muốn phòng chống chúng cần chọn địa điểm xây dựng xí nghiệp thích hợp, thiết kế chế tạo lắp ráp thiết bị đúng yêu cầu kỹ thuật, quan tâm đầy đủ đến hệ thống lọc khí, luân canh giống, lên men gián đoạn và đưa hoá chất sát trùng với nồng độ thích hợp vào môi trường. Các hoá chất được tuyển chọn hiện nay là: tetraxyclin, cloramphenicol, axit xitric, axit phytic, natri hay tetrapoliphotphat, tw60 (polyoxyetylen glycol monostearat), PEG-Mo( polyoxyetylen glycol monooleat ) và POE-SE (polyoxyetylen stearyl eter). 4.10. Các yếu tố ảnh hưởng tới tác dụng của hoá chất: 4.10.1 Nồng độ: Theo các tài liệu cho biết thì điều kiện nhiệt độ, pH, thành phần dinh dưỡng tối ưu cho vi khuẩn sinh trưởng cũng đồng thời là điều kiện tối ưu cho sự phát triển của thực khuẩn thể của chúng. Bởi thế, trong khi sử dụng hóa chất phòng ngừa thực khuẩn thể ta không thể thay đổi các điều kiện đó mà chỉ thay đổi nồng độ đem dùng và thời điểm hóa chất sao cho chất đó phát huy hiệu lực cao nhất. 4.10.2. Thời điểm bổ sung hoá chất: Bổ sung hóa chất đúng lúc có ý nghĩa vô cùng quan trọng, quyết định tính hiệu lực của hóa chất đem dùng. Ví dụ: cho thêm tetracylin vào hỗn hợp vi khuẩn thực khuẩn thể ngay từ đầu hay chậm lắm là 90 phút sau khi xảy ra sự hấp thụ thì tetracylin sẽ ức chế rất mạnh sự phát triển của thực khuẩn thể Brevibacterium lactofermen No 2256 do đó ức chế tổng hợp protein và AND ở vi khuẩn nhiễm. Thêm sau giờ đó thì chất này không có tác dụng. TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyễn Thị Hiền. Công nghệ sản xuất mì chính và các sản phẩm lên men cổ truyền. Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật. Nguyễn Xuân Thành, Nguyễn Bá Thanh, Hoàng Hải, Vũ Thị Hoan. Giáo trình vi sinh vật học công nghiệp. Nhà xuất bản giáo dục. Kiều Hữu Anh. Giáo trình vi sinh vật học công nghiệp. Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật. TS. Trịnh Lê Hùng. Cơ chế hóa sinh. Nhà xuất bản giáo dục Webside: Tailieu.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLN MEN S7842N XU7844T AXIT GLUTAMIC.doc
Tài liệu liên quan