Đề tài Liên minh Châu Âu và sự ra đời của đồng tiền chung Châu Âu - EURO

- Tôn trọng nguyên tắc lãi suất tín dụng cao hơn mức lạm phát, lãi suất tiền vay cao hơn lãi suất tiền gửi, bảo đảm cho ngân hàng thương mại có điều kiện kinh doanh bình thường. Tất cả nhũng chính sách trên là nền tảng cho việc xây dựng nội dung các chính sách tiền tệ - tín dụng ngoại hối của Ngân hàng trung ương, tạo điều kiện cho sự hoà nhập và phát triển kinh tế Việt Nam.

doc33 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1663 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Liên minh Châu Âu và sự ra đời của đồng tiền chung Châu Âu - EURO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u hướng sáp nhập quy mô lớn sẽ diễn ra mạnh hơn. Đây sẽ là bước khởi đầu cho cuộc cách mạng về năng suất lao động, tiền đề quan trọng cho việc tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường thế giới. Hai là, sự bùng nổ của thị trường vốn Châu Âu, tạo cơ hội đầu tư trên quy mô lớn. Những quyết định đầu tư giữa các nước thành viên sẽ được đơn giản hoá, vì loại trừ được yếu tố rủi ro về hối đoái. Khi đó, Liên minh Kinh tế và Tiền tệ Châu Âu (EMU) sẽ đóng vai trò là chất xúc tác, thúc đẩy tính linh hoạt của thị trường lao động, tạo sự thống nhất của các chính sách vĩ mô trong EU. Trước mắt, sự xuất hiện của đồng EURO sẽ tạo nên thị trường trái phiếu liên chính phủ với tổng giá trị lên tới 1900 tỷ dollar, tương đương với quy mô của thị trường công trái Mỹ. Tiến trình hợp nhất làm cho các khoản thu từ trái phiếu sẽ chỉ còn một rủi ro duy nhất, đó là khả năng thanh toán của những người phát hành trái phiếu. Điều đó có nghĩa là, đối với trái phiếu của chính phủ, các thành viên EMU có thu nhập trái phiếu cao hơn truớc khi gia nhập sẽ là bên được lợi nhiều nhất. Ngoài ra, đồng EURO ra đời sẽ loại bỏ tốn phí trong giao dịch ngoại hối, tiết kiệm cho EU mỗi năm khoảng 65 tỷ USD. Điều này sẽ tạo điều kiện làm cho lãi suất tiền tệ giảm, tức là tạo thêm cơ hội cho đầu tư tăng mạnh. Trong tổng vốn đầu tư của tư nhân trên thị trường quốc tế, phần đầu tư bằng USD chiếm 40%, bằng tiền của EU chiếm 37%; bằng Yên Nhật chiếm 12%. Ba là, đồng EURO sẽ trở thành phương tiện để dự trữ và giao dịch trong thương mại thế giới. Như vậy, vị thế chính trị của các nước Tây Âu sẽ tăng lên trên chính trường quốc tế. EU sẽ nâng được vị thế trong nhóm G-7, trong Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng thế giới (WB). Nhìn chung, EMU và đồng EURO cho phép các nước thành viên tận dụng tối đa những ưu thế của thị trường chung Châu Âu. Nhờ đó để thúc đẩy kinh tế của các nước EMU phát triển đồng đều, đẩy mạnh giao lưu văn hóa, tăng cường hiểu biết lẫn nhau và hoà hợp giữa các dân tộc, củng cố hoà bình và an ninh khu vực. Tác động đến các nước Châu Âu nằm ngoài khu vực đồng EURO: Do mối quan hệ kinh tế chặt chẽ với các quốc gia thành viên của EMU, các nước Châu Âu khác sẽ có được những lợi ích chung và dài hạn. Mặc dù trong ngắn hạn những nước này sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp của kết quả điều hành các chính sách ngân sách và tiền tệ của những nước trong khu vực đồng EURO. Tác động của EMU đối với các nước này phụ thuộc vào hai yếu tố: quy mô ban đầu của khu vực đồng EURO và liệu các nước này có tham gia Cơ chế tỷ giá II (ERM II) hay không. ERM II là Cơ chế tỷ giá sẽ có hiệu lực sau khi đồng EURO chính thức lưu hành. Mục đích của cơ chế tỷ giá này là đảm bảo sự ổn định về tỷ giá giữa các nước thành viên EMU và các nước EU khác không tham gia đợt đầu tiên của EMU. Những nước thuộc EU nhưng không tham gia đợt đầu của Liên minh tiền tệ gồm: Anh, Đan Mạch, Thuỵ Điển và Hy Lạp. Hy Lạp, mặc dù đã có những tiến bộ trong quá trình hội tụ kinh tế vĩ mô với các nước thuộc EMU, và đã tuyên bố mục tiêu gia nhập EMU vào năm 2001 nhưng tại thời điểm quyết định những nước gia nhập đợt đầu thì Hy Lạp có tỷ lệ lạm phát là 5%, cao nhất EU. Đồng Drachma của Hy Lạp hiện nay đã được gắn trong ERM II nên khả năng dao động lớn với đồng Euro là rất nhỏ. Các nhà phân tích cho rằng, nguy cơ chính đối với đồng Drachma trong giai đoạn này là khả năng bị giới đầu cơ tấn công khi khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra và buộc chính phủ can thiệp để nâng giá đồng tiền. Anh, Đan Mạch, Thuỵ Điển vào năm 1997 đều đáp ứng được các tiêu chuẩn về thống nhất tỷ lệ lạm phát, lãi suất và kiểm soát thâm hụt ngân sách nhưng tuyên bố rằng họ không muốn tham gia EMU, ít nhất là trong giai đoạn đầu. Cả ba nước này đều đối mặt với thách thức là phải điều chỉnh quan điểm và cơ chế chính sách kinh tế của mình cho thích ứng với các nước thành viên EMU. Đối với Đan Mạch, điều này không có vấn đề gì lớn, bởi vì đồng cuaron đã được gắn với đồng mác Đức trong Cơ chế tỷ giá ERM của hệ thống tiền tệ Châu Âu. Mặc dù đồng cuaron Thuỵ Điển và đồng bảng Anh được thả nổi và rút khỏi ERM kể từ cuộc khủng hoảng 1992, nhưng điều đó chưa chắc sẽ gây cản trở cho các nước này gia nhập khu vực đồng EURO trong thời gian tới. Một điều chắc chắn là các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, ở những nước này sẽ phải gánh chịu các chi phí và rủi ro về tỷ giá khi mua bán hàng hoá với những nước láng giềng của mình. Trong năm vừa qua đồng cuaron đã dao động tới 16% so với mác Đức, đồng tiền mạnh nhất nhóm EMU, do đó việc không gia nhập EMU sẽ tạo khó khăn cho các doanh nghiệp Thuỵ Điển trong việc mua bán hàng hoá với giá cả cạnh tranh. Để giữ cho đồng tiền nước mình có một tỷ giá ổn định với đồng EURO, yêu cầu đặt ra cho các thành viên ERM II là phải kiềm chế lạm phát thông qua việc theo đuổi các chính sách tiền tệ và ngân sách thận trọng. Đối với những nước mong muốn gia nhập EMU, phải có sự nghiên cứu thị trường kỹ lưỡng với phản ứng đột ngột về sự chênh lệch lãi suất gia tăng, nếu những diễn biến như sự trượt dốc của chính sách ngân sách đưa một quốc gia đi chệch hướng các tiêu chuẩn cho việc gia nhập khu vực đồng EURO. Nếu như việc phối hợp các chính sách kinh tế của khu vực đồng EURO trở thành điểm nóng trong giai đoạn đầu của EMU, thì điều đó cũng có thể tác động lên thị trường và làm thay đổi các tỷ giá cân bằng trong ERM II. Những nước không tham gia ERM II có thể tiếp tục điều hành các chính sách tiền tệ của mình với những định hướng hiện thời. Chiến lược này cho phép họ có thêm sự linh hoạt trong việc điều tiết các cú sốc không cân xứng giữa họ và khu vực đồng EURO, bao gồm cả tiến trình chuyển sang sử dụng đồn EURO. Một số nước trong số này có thị trường tài chính quan trọng (như Thuỵ Sĩ hay Anh) có thể phải đối mặt với những khó khăn về mặt tài chính, nếu như sự không chắc chắn về quan điểm chính sách của khu vực đồng EURO làm nảy sinh các luồng vốn lớn vào và ra. Na Uy và Thuỵ Sĩ, mặc dù không phải là thành viên của EU và không đủ tiêu chuẩn tham gia, cũng trực tiếp chịu tác động của Liên minh tiền tệ do vị trí địa lý gần gũi và các liên hệ về tài chính, thương mại chặt chẽ với khu vực đồng EURO. II. Tác động đến các nước thuộc khối CFA franc và các nền kinh tế chuyển đổi. CFA franc là đơn vị tiền tệ tiêu chuẩn của Cộng đồng tài chính Châu Phi, gồm: Bênanh, Buốckinaphaxô, Camơrun, Trung Phi, Sát, Cônggô, Bờ biển ngà, Gabông, Mali, Nigiê, Xênêgan, Tôgô, Ghinê Xích đạo. Sự thay đổi về giá trị của các đồng tiền mạnh và mức biến động của tỷ giá đồng EURO sẽ tác động tới những nước đang phát triền và những nền kinh tế chuyển đổi có quan hệ kinh tế với các nước thuộc EMU. Có lẽ chịu ảnh hưởng lớn nhất là các nước ở Trung Âu, Đông Âu và các nước thuộc khu vực đồng franc CFA, những nước gắn đồng tiền của mình với đồng tiền của các nước thuộc EU (mà hiện nay là đồng EURO) nhưng có nghĩa vụ trả nợ bằng đồng đô la Mỹ hoặc yên Nhật. Do sự không cân xứng này, đồng EURO giảm giá dẫn tới sự gia tăng chi phí trả nợ tính theo đồng nội tệ, là không được hoàn toàn bù đắp bởi nhũng cải thiện của cán cân mậu dịch. Đây là mối quan tâm đặc biệt của những nước có tỷ lệ nợ nước ngoài cao, bị hạn chế khả năng đa dạng hoá các khoản vay nợ do gặp khó khăn trong việc tiếp cận thị trường vốn quốc tế. Đối với những nước có khả năng tiếp cận vốn tư nhân, EMU mở ra một thị trường rộng lớn cho việc phát hành trái phiếu bằng đồng EURO, nhờ đó các nước hiện đang vay nhiều bằng đô la Mỹ có thể giảm bớt sự mất cân xứng giữa đồng tiền mà họ gắn tỷ giá và các nghĩa vụ tài chính của họ. Sự biến động lớn của đồng EURO cũng có thể dẫn tới sự thay đổi về chỉ số thương mại (terms of trade). Sự thay đổi về tỷ giá gây ra tác động chệch hướng đối với giá hàng xuất khẩu, nhập khẩu của một nước tính theo đồng nội tệ. Ví dụ: đồng EURO tăng giá có ảnh hưởng bất lợi đến chỉ số thương mại của các nước nhập khẩu hàng công nghiệp của các nước EU, nhưng xuất khẩu hàng hoá thô tới một nhóm các đối tác đa dạng hơn; giá hàng nhập khẩu tính theo nội tệ sẽ tăng còn giá hàng nhập khẩu sẽ giảm trừ trường hợp sự dịch chuyển đường cung và cầu trên phạm vi toàn cầu phát sinh từ sự thay đổi của tỷ giá dẫn tới những thay đổi có tác động triệt tiêu lẫn nhau về giá cả đô la và đồng EURO. Các nước chuyển đổi ở Trung Âu, Đông Âu và khu vực Ban Tích gắn đồng tiền của mình với đồng mác Đức hoặc một rổ tiền tệ mà đồng mác Đức chiếm đa số sẽ chuyển sang gắn đồng tiền của mình vào đồng EURO. Do những nước bạn hàng chính về xuất -nhập khẩu của các nước này là các thành viên tham gia EMU. Một đồng EURO yếu có thể dẫn tới giá nhập khẩu tính theo đôla tăng lên và do đó là áp lực làm gia tăng giá trong nước. Nợ nước ngoài của các nước Trung và Đông Âu phần lớn là bằng đô la Mỹ và yên Nhật. Tuy nhiên sự biến động của đồng EURO sẽ không gây ra khó khăn cho việc trả nợ, bởi vì các nước này có khả năng tiếp cận thị trường tài chính quốc tế và mới nợ nước ngoài cở mức vừa và thấp. Hunggary là một ngoại lệ, nước này có nợ nước ngoài nhiều, nhưng đã thành công trong việc giảm bớt rủi ro do sự biến động về tỷ giá bằng cách sử dụng các hợp đồng kỳ hạn để cân đối yêu cầu trả nợ. Xét về dài hạn, các nền kinh tế chuyển đổi này chắc chắn sẽ thu được nhiều lợi ích từ thành công của EMU. Đó là, sự tăng trưởng nhanh của thị trường xuất khẩu chính của họ, và mức lãi suất thấp - một nhân tố khuyến khích việc cấp vốn cho công cuộc cải cách kinh tế của họ. Mức lạm phát của các nước EMU là mục tiêu cho các nền kinh tế chuyển đổi hướng tới để thực hiện được nguyện vọng gia nhập EU. Các nước thuộc khu vực CFA franc cũng có mối liên hệ thương mại chặt chẽ với EU, đặc biệt là Pháp - nước đảm bảo sự chuyển đổi tự do của CFA franc tại một tỷ giá ấn định được nhất trí. Không giống như các nền kinh tế chuyển đổi, phần lớn tỷ trọng xuất, nhập khẩu của các nước thuộc khối CFA franc là nằm ngoài EU. Nhưng ngay cả khi đồng franc Pháp chuyển đổi sang EURO, chỉ số thương mại của các nước sẽ tiếp tục thay đổi theo những biến động của tỷ giá. Ngoài ra, sự biến động của tỷ giá có thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới năng lực trả nợ nước ngoài của những nước có nợ nước ngoài lớn và khó khăn trong việc tiếp cận thị trường tài chính quốc tế. Như vậy, tác động của tỷ giá đến chỉ số thương mại và nợ nước ngoài ngược chiều nhau (đồng EURO lên giá làm giảm nợ nước ngoài tính bằng đôla Mỹ nhưng làm xấu đi chỉ số thương mại). Có lẽ mức độ ảnh hưởng tới nợ nước ngoài sẽ lớn hơn nhiều tới thương mại, vì gánh nặng nợ nước ngoài của các nước này lớn hơn so với kim ngạch mậu dịch. Tác động của EURO tới hệ thống tiền tệ thế giới Trong bối cảnh hệ thống tiền tệ quốc tế (SMI) đang có xu hướng phát triển theo hướng một hệ thống đa cực, đồng EURO xuất hiện là một hiện tượng quan trọng nhưng cũng khó xác định hoặc dự báo chính xác tác động cụ thể của nó. Sự ra đời EMU kéo theo việc hạ thấp độ mở cửa của khu vực EURO và giảm độ nhạy cảm đối với các biến động hối đoái. Vì lợi ích Châu Âu không được phép làm xuất hiện các biến động tỷ giá kéo dài, cản trở tới thương mại quốc tế. Kinh nghiệm cho thấy, biến động tỷ giá "nuôi nấng" áp lực bảo hộ và làm hại đến tình hình đầu tư trực tiếp. Do đó ECB và Chính phủ các quốc gia phải giám sát chặt chẽ sự biến động tỷ giá đồng EURO. Những biến động tỷ giá lớn sẽ gây khó khăn cho việc thực hiện mục tiêu ổn định giá cả của ECB, tác động tiêu cực đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Châu Âu. Nếu như Châu Âu đang muốn xây dựng một cực tăng trưởng và ổn định thì đương nhiên càng không được chuyển yếu tố bất ổn định vào hệ thống tiền tệ thế giới. Đồng EURO ra đời phải đóng góp vào sự ổn định của SMI. Biểu số 3: Độ mở cửa của các nền kinh tế Châu Âu. (Đơn vị: %) Tên nước Tính cả kim ngạch xuất khẩu với các nước EU Không tính phần xuất khẩu nội bộ trong EU Bỉ 70,1 23,5 Phần Lan 26,8 14,7 Pháp 22,7 8,9 Ailen 62,8 19,7 Đan Mạch 36,1 19,5 Đức 23,7 12,4 Tây Ban Nha 17,6 5,5 Thuỵ Điển 27,9 13,0 Italia 18,2 8,5 Bồ Đào Nha 25,5 6,2 Liên hiệp Anh 23,8 11,7 Hà Lan 52,1 14,9 Nguồn: OECD, Union Europeénne. Việc sáng tạo đồng EURO sẽ tăng cường sự tiến triển của SMI theo hướng một hệ thống đa cực. Nhưng kinh nghiệm cho thấy, trong hệ thống thế giới đa cực ấy, phương thức phối hợp cộng tác giữa các cực tiền tệ là yếu tố quyết định để bảo đảm ổn định giá cả. Hệ thống tiền tệ thế giới sẽ được cân bằng tốt hơn và đối xứng hơn. Các lợi ích tiềm tàng không những sẽ tăng lên mà còn được phân chia đồng đều cho các bên đối tác. Hợp tác là vì lợi ích của tất cả các bên. EURO ra đời là cơ hội duy nhất để Châu Âu và Hoa Kỳ cùng chung sức duy trì sự ổn định của hệ thống tiền tệ quốc tế. Hơn nữa, EURO còn được coi như một nhân tố góp phần chuyển dịch sự cân bằng của hệ thống tiền tệ quốc tế về một thế giới tiền tệ ba cực: EURO, đôla Mỹ, yên Nhật. Đồng EURO sẽ cạnh tranh quyết liệt với đôla Mỹ trong việc phân chia lại quyền lực tiền tệ trên thế giới, sẽ thúc đẩy đồng yên Nhật cùng góp sức vào việc duy trì thế cân bằng ổn định của SMI. Đồng EURO sẽ thúc đẩy sự chấm hết thời kỳ chuyên chế của đồng đôla Mỹ được xác lập từ sau Chiến tranh thế giới thứ II. Từ nay, tam giác tiền tệ quốc tế EURO, đôla Mỹ và yên Nhật đã bắt đầu được hình thành. Ba nhân tố này sẽ vừa hợp tác chặt chẽ lại vừa cạnh tranh khốc liệt với nhau để tăng cường vị thế của mình trên chính trường quốc tế. EEEEEEEEUUUUU Dự trữ ngoại tệ quốc tế Tài sản có của tư nhân (%) trên thế giới (%) Việc chuyển hướng trong nhu cầu về dự trữ ngoại hối của các quốc gia từ đồng đôla Mỹ sang đồng EURO có tác động tiêu cực tới tài khoản vốn của Mỹ và phân phối lại một phần thu nhập của việc phát hành tiền từ Dự trữ Liên bang Mỹ sang ECB. Ngoài ra, việc chuyển dịch sang sử dụng đồng EURO làm đồng tiền dự trữ của những người không cư trú tại Mỹ sẽ làm giảm lượng đôla Mỹ. Lượng trái phiếu đôla Mỹ do người nước ngoài nắm giữ được ước tính là hơn một nửa của tổng số 375 tỷ đôla Mỹ được nắm giữ ngoài các ngân hàng vào đầu năm 1996. Lượng trái phiếu do người nước ngoài nắm giữ này đem lại mức tiết kiệm hàng năm từ 10 - 14 tỷ đôla Mỹ tiền lãi đối với các chứng khoán của kho bạc. Theo nhiều nhà kinh tế, dự trữ ngoại hối của Mỹ không đủ để bảo vệ đồng đôla khi đồng EURO tăng giá nhanh. Trong thời gian qua, việc Mỹ (chủ nợ lớn nhất thế giới) phần nào tránh được các cuộc khủng hoảng nợ diễn ra ở Châu á và Mỹ Latinh là nhờ vào việc các nhà đầu tư nước ngoài muốn nắm giữ các khoản nợ bằng đôla Mỹ. Tuy nhiên, nếu các cuộc khủng hoảng này tiếp tục thì đôla Mỹ khó có thể giữ vai trò hàng đầu khi mà đồng EURO đã hiện diện trên thị trường tài chính quốc tế. Với những tác động mà đồng EURO mang lại, Mỹ có thể sẽ phải thực hiện chính sách thắt chặt và giảm bớt sự phụ thuộc vào nguồn đầu tư nước ngoài. Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, đa qua rồi thời kỳ mà Mỹ mặc vay nợ và "rũ nợ" một cách dễ dàng bằng cách "thay đổi" tỷ giá của đồng đôla. Nhưng khi nào mà Mỹ còn là cường quốc xuất nhập khẩu mạnh của thế giới, thì khi ấy Mỹ vẫn dùng đồng đôla Mỹ làm áp lực trong giao dịch và buôn bán quốc tế. Đồng EURO ra đời cũng đã làm Nhật Bản thức tỉnh, tuy khá muộn màng. Tháng 12-1998, Nhật Bản còn từ chối đảm đương chức năng tiền tệ quốc tế của đồng yên với lý do: một đồng yên mạnh có hại cho xuất khẩu và như vậy sẽ ảnh hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế Nhật Bản vốn chủ yếu dựa vào xuất khẩu. Nhưng ngày 6-1-1999, Thủ tướng Ô-bu-chi đã cấp tốc lên đường thăm ba nước hạt nhân của EMU là Pháp, Đức, Italia. Thủ tướng Nhật Bản trình bày với Châu Âu về vấn đề cùng chia sẻ quyền lực tiền tệ thế giới giữa EURO, đôla Mỹ và yên Nhật. Viện trưởng Viện tiền tệ quốc tế Nhật Bản bày tỏ: "tôi không nghĩ rằng, Nhật Bản đã mất hết cơ hội để đưa đồng yên thành đồng tiền quốc tế, nhưng sự ra đời của đồng EURO đã làm cho các thách thức trở nên lớn hơn nhiều, môi trường quốc tế trở nên khó khăn hơn"... Hiện nay, đồng yên Nhật không được sử dụng rộng rãi như đồng đôla Mỹ trong các giao dịch quốc tế, thậm chí trong quan hệ mậu dịch giữa Nhật và các nước bạn hàng Châu Á. Việc sử dụng đồng đôla Mỹ cũng đang lấn át đồng yên. Sự xuất hiện đồng EURO có thể cản trở đồng yên phát triển thành đồng tiền quốc tế, mặc dù những cải cách sâu rộng hệ thống tài chính của Nhật đang được hy vọng mang lại hấp dẫn mới cho đồng yên. Các hoạt động tài chính của các tổ chức quốc tế (WB, IMF, ADB, IBRD) cũng phải thay đổi cho phù hợp với thực tế hoạt động kinh tế - xã hội của thế giới. Song, những thay đổi ấy diễn ra dần dần, vì lúc này trên thế giới có 2 đồng tiền được hậu thuẫn tương đồng về kinh tế là đồng EURO và đồng đôla Mỹ. Hệ thống tiền tệ thế giới mới sẽ nhanh chóng xác lập ngôi thứ của nó, tuỳ theo sức mạnh của các cực kinh tế và mức độ tin tưởng của thế giới vào chính các đồng tiền mang chức năng quốc tế đó. Bảng số 4: So sánh tiềm lực giữa 3 cực kinh tế thế giới. Chỉ tiêu EU - 11 Hoa Kỳ Nhật Bản Dân số (triệu người) 291 269 126 Tốc độ tăng trưởng kinh tế (%) 2,5 3,8 0,9 GDP (tỷ ECU) 5546 6846 3712 Tỷ trọng trong tổng GDP thế giới (%) 19,4 19,6 7,7 Tỷ trọng kim ngạch thương mại quốc tế (%) 18,6 16,6 8,2 Nguồn: 1997/OECD. IV. CHÂU Á VỚI ĐỒNG EURO 1. Những tác động chủ yếu: Mối quan hệ giữa EU với Châu Á ngày càng lớn mạnh được thể hiện qua các Hội nghị thượng đỉnh cấp cao ASEM I, ASEM II. Mặc dù bị "tổn thương" bởi cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, song Châu Á đã tỏ một thái độ hoan nghênh đồng EURO. Cuối năm 1998, một số ngân hàng Châu Á đã đưa ra những chỉ dẫn, những kiến thức cơ bản để mọi người dân trong khu vực có thể ứng phó với tình thế mới. Đồng EURO tác động đến Châu á thông qua các luồng mậu dịch, đầu tư vào Châu á và trong việc lựa chọn đồng tiền dự trữ. Sự xuất hiện của đồng EURO tạo ra một sự lựa chọn mới cho các nhà đầu tư Châu á, đặc biệt là các nhà đầu tư Nhật Bản.Quan điểm này được hầu hết các nhà kinh tế Nhật Bản nhất trí. Các chuyên gia kinh tế Nhật cho rằng, sẽ hợp lý hơn nếu Nhật Bản giữ 1/3 tài sản nước ngoài bằng đồng EURO thay cho việc lưu giữ 100% bằng đồng USD. Vào tháng 5-1998, các nhà đầu tư Nhật mua 5,6 tỷ đôla trái phiếu trung bình và dài hạn của Mỹ, còn chỉ mua 3,3 tỷ đôla trái phiếu của Đức và Pháp gộp lại. Đến tháng 10-1998, theo con số Bộ tài chính Nhật công bố thì Nhật đã bán ra các trái phiếu của Mỹ và mua vào trái phiếu Đức và Pháp trị giá 7,8 tỷ đôla. Hiện nay có khoảng hơn 2 ngàn tỷ đôla ở Nhật được chuyển vào đồng EURO. Công ty bảo hiểm nhân thọ lớn nhất của Nhật, Nippon Life cho biết nó sẽ cân nhắc chuyển đổi một nửa trong số 34 tỷ đôla Mỹ tài sản có ở nước ngoài vào đồng EURO. Hiện tại, Nippon có khoảng 30% tài sản có bằng các đồng tiền chuyển đổi vào EURO. Hơn nữa, thị trường trái phiếu Châu Âu sẽ cho phép các công ty Châu á tăng tài chính ở nước ngoài và phân tán rủi ro. Theo ông Tommy Koh - giám đốc điều hành Âu-á, cho biết: "Nếu đồng EURO trở thành một đồng tiền mạnh, thì theo thời gian nó là đối thủ của đồng đôla Mỹ và vượt trội đồng yên Nhật về ảnh hưởng quốc tế. Các chính phủ Châu á nên đón nhận sự nổi lên của một đồng EURO mạnh, bởi vì qua tin cậy vào đồng USD đã là một trong những nguyên nhân của khủng hoảng tiền tệ gần đây ở Đông á. Các đồng tiền Châu á sẽ được kiểm soát so với một rổ đồng tiền trong tính toán thương mại, bao gồm USD, Yên, EURO và các đồng tiền khác được ưa chuộng hơn và ấn định gắn liền với đồng đôla". Cho nên, Châu á muốn giảm bớt lệ thuộc quá lớn vào đồng USD thì việc sử dụng đồng EURO trong buôn bán và dự trữ là rất có lợi. Đặc biệt, các nước ASEAN đang có ý tưởng sử dụng nội tệ trong buôn bán với nhau, thì EURO ra đời lại càng có ý nghĩa quan trọng. ADB cho biết, các ngân hàng trung ương trong khu vực sẽ phải thay đổi một phần dự trữ tách khỏi đồng đôla, hiện tại chỉ có khoảng 12% dự trữ bình quân bằng các đồng tiền Châu Âu. Thương mại của Đông á với Châu Âu chỉ chiếm khoảng 15% trong tổng thương mại toàn cầu. Trung quốc, Hàn Quốc, Thái Lan và Philippin đã sẵn sàng sử dụng EURO là đồng tiền dự trữ hay đang cân nhắc một cách nghiêm túc. Nếu EURO ổn định thì Thái Lan sẽ sử dụng nó như là một phần dự trữ quốc tế. Còn Philippin đang cân nhắc huy động vốn bằng đồng EURO, và có khả năng sẽ phát hành trái phiếu bằng đồng Euro. Ông Singson, thống đốc ngân hàng trung ương Philippin, cho biết Manila thích huy động vốn các kênh vốn ưu đãi trước khi chuyển sang thị trường giấy nợ thương mại với số lượng lớn hơn. Các chuyên gia kinh tế cũng nói nhiều tới việc đồng Euro sẽ thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu của Châu á. Xuất khẩu của Châu á sang Châu Âu nếu được tính theo đồng Euro thì sẽ dễ dàng hơn. Do các nước Châu á không phải tập trung quá mức vào các đồng tiền khác nhau và các nước khác nhau vì họ chỉ buôn bán với một khu vực gồm nhiều nước với một đồng tiền chung duy nhất. Cơ hội xuất khẩu sang Châu Âu cũng được ổn định, vì Châu Âu muốn duy trì tỷ lệ lạm phát thấp. Hiện nay, các nước Châu á đang muốn thúc đẩy xuất khẩu để góp phần thoát khỏi cuộc khủng hoảng thì đây là một điều kiện rất thuận lợi cho Châu á. 2. Triển vọng của đồng tiền chung Châu á - ACU: Tiếp theo sự hình thành Liên minh tiền tệ Châu Âu với một đồng tiền chung - EURO, các nước Châu á cũng đã nghĩ đến việc thành lập "đồng tiền chung Châu á". Ý tưởng này không hề ảo tưởng mà là một gợi ý (dù còn sớm) trên cơ sở những sự kiện có thật và được cổ vũ bởi mô hình Châu Âu. Việc cột chặt đồng tiền của các nước trong khối ASEAN nhiều năm nay vào đồng USD đã tạo cho các nước này nhiều bất lợi. Đó là làm cho nền kinh tế phụ thuộc vào chính sách kinh tế của Mỹ, mất tự chủ, đồng thời khi đồng USD có biến động thì buộc đồng tiền các nước này cũng biến động theo, dễ gây nên một sự ổn định cho nền kinh tế. Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng tài chính - tiền tệ tại khu vực Châu á vừa qua. Nhận thức được vấn đề đó các quan chức ASEAN đang có những bước đi nhằm tháo bỏ dần sự ràng buộc này. Tại cuộc họp cấp cao ASEAN đầu năm 1998, các nguyên thủ quốc gia đã thống nhất ý tưởng trong thời gian tới sẽ sử dụng các đồng tiền trong nội khối ASEAN cho thanh toán mậu dịch trong khu vực, nhằm giảm thiểu những ảnh hưởng bất lợi do đồng đôla Mỹ gây ra. Hoặc có thể sử dụng đồng đôla Singapore, vì đây là đồng tiền ổn định nhất trong khu vực. Bên cạnh đó, Singapore là nước ASEAN duy nhất có dự trữ ngoại tệ của chính bản thân mình chứ không phải là ngoại tệ đi vay, và là nước có dự trữ ngoại tệ lớn nhất trong khối ASEAN. Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc cũng đồng ý sẽ tham gia.Tuy nhiên, điều này còn phụ thuộc vào Singapore có cho phép sử dụng đồng tiền của họ làm đồng tiền chung cho khu vực hay không. Bộ trưởng Thương mại Philippin cho rằng, chương trình này sẽ giảm khoảng 30% sự phụ thuộc của ASEAN vào đồng đôla Mỹ và tạo nên một lợi thế mới cho các nước này. Nhưng bên cạnh đó chúng ta cũng có thể thấy khá nhiều mặt không thuận lợi như: - Đối với nước có tỷ trọng xuất khẩu lớn trong khu vực sẽ làm nhu cầu về tiền của nước đó trong khu vực tăng lên, dẫn đến đồng tiền nước đó lên giá (hoặc không đủ lượng tiền mặt cho các nước để mua hàng của họ) và hoạt động xuất khẩu có chiều hướng giảm, gặp khó khăn. - Đối với một số nước kém phát triển hơn thì đồng tiền của họ không có khả năng tự do chuyển đổi, nên khó có thể mua nó trên thị trường, do đó là một trở ngại khá lớn cho việc xuất khẩu của các nước này. - Hoạt động nhập khẩu cũng sẽ bị ảnh hưởng do khó khăn trong việc mua các đồng tiền của các nước trong khu vực, làm giảm mậu dịch nội khối. Và tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ sáu diễn ra tại Hà Nội tháng 12/1998, Tổng thống Philippin-J.E. Estrada đã đề cập đến vấn đề đồng tiền chung cho khu vực Châu á trong chương trình nghị sự. Ông cho rằng: "Có thể sẽ phải mất 40 năm để thông qua đồng tiền chung khu vực, nhưng công việc chuẩn bị phải bắt đầu từ bây giờ". Còn các chuyên gia kinh tế cho rằng, khả năng ra đời của đồng tiền chung Châu á chịu ảnh hưởng khá lớn của đồng Euro mà được đánh giá là "cẩm nang" cho Châu á. Sự thành công của đồng Euro sẽ là thử thách đối với Châu á. Cũng có nhiều ý kiến chưa tin tưởng vào khả năng ban hành đồng tiền chung Châu á. Hầu hết quan điểm trái ngược này đều cho rằng, Châu á quá rộng lớn và trình độ của các nước trong khu vực lại khác biệt nhau rõ rệt, do đó sự thống nhất khó có thể thực hiện được. Khu vực sẽ bị thu hẹp nếu không loại bỏ kiểm soát lưu chuyển vốn và nhân lực. Các chính phủ phải tự do hoá khu vực tài chính - tiền tệ nhiều hơn, thậm chí nới lỏng kiểm soát các chính sách kinh tế. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ vừa qua chỉ ra rằng khu vực này chưa có cơ chế giám sát có hiệu quả để đối phó với khủng hoảng. Hơn nữa để có đồng tiền chung, hoặc một đồng tiền mang tính thống trị trong khu vực phải có một sự thống nhất cao về chính trị và thể chế, mà yếu tố này Châu á chưa thể đạt được ngay cả trong thập kỷ tiếp theo. Biểu số 5: Mức tăng trưởng GDP (%) của một số nước Châu Á. Nước 1997 1998 1999 Indônêxia 4,6 -14,3 -5 Thái Lan -0,4 -7,7 -0,2 Malaixia 7,7 -6,2 -0,1 Philippin 5,2 0,0 2,6 Việt Nam 8,8 5,7 4,6 Hàn Quốc 5,5 -5,2 0,3 Đài Loan 6,8 5,1 4,8 Hồng Kông 5,3 -4,9 -1,0 Trung Quốc 8,8 7,2 7,0 Singapore 7,7 0,7 1,9 Nguồn: Theo JETRO - IDE. Điều mong muốn của Châu á có lẽ là việc hình thành khu vực tiền tệ theo mô hình Nhật - Trung làm chủ đạo. Cả hai nước sẽ liên kết trên lĩnh vực tiền tệ, giành sự ủng hộ của các nước ASEAN để đi đến ý tưởng khu vực tiền tệ chung Châu á. Ngoại trưởng Philippin cho rằng "rất có khả năng Đông á sẽ trở thành khu vực mậu dịch Yên - NDT. Nhật Bản và Trung Quốc là thị trường lớn nhất khu vực và là động cơ thúc đẩy phát triển". Nếu xét về tương quan, đồng Yên có thể là đồng tiền chủ yếu của một thoả thuận tiền tệ như vậy, bởi tỷ trọng thương mại và đầu tư của Nhật Bản trong khu vực khá lớn. Cho đến nay, đồng Yên đã bắt đầu mạnh lên. Bên cạnh đó, hầu hết những đồng tiền Châu á đã thoát khỏi sự lệ thuộc quá lớn vào đồng đôla Mỹ. Và Nhật Bản rốt cục cũng đã sử dụng các nguồn vốn của Chính phủ để đổ vào khu vực Châu á, nhằm góp phần phục hồi nền kinh tế của các quốc gia trong khu vực. Cuộc cải tổ Big Bang của Nhật Bản đang từng bước cải thiện tương lai thị trường vốn của quốc gia này. Đồng thời, việc tự do hoá của các thị trường khác như Hàn Quốc, Singapore (đồng tiền của hai nước này rất nhạy cảm đối với những biến động của đồng Yên) càng làm tăng thêm sự chắc chắn rằng, trong tương lai những nguồn vốn khổng lồ tại Châu á sẽ có mệnh giá được tính bằng các đồng tiền trong khu vực. Trung Quốc chỉ chấp nhận ràng buộc chặt chẽ hơn với đồng Yên, chừng nào điều này không hạ thấp vai trò của họ hơn là ràng buộc một cách không chính thức đồng NDT với đồng USD. Hiện nay, cả Nhật Bản và Trung Quốc đều quay lại nền kinh tế thị trường mà trong đó Nhà nước có vai trò trụ cột. Qua đó, có thể thấy Trung Quốc - Nhật bản có nhiều điểm chung để xây dựng hình mẫu mới của Châu á trong thế kỷ mới. Quá trình hình thành khu vực tiền tệ Châu á có thể được chia làm ba giai đoạn như sau: Giai đoạn I: Đến năm 2003, các nước trong khu vực quyế định tỷ giá hối đoái theo phương thức rổ tiền tệ, trên cơ sở phù hợp về cấu trúc vốn, mậu dịch của mỗi nước, dần dần thoát khỏi sự phụ thuộc vào đồng USD. Điều quan trọng nhất là chuyển đổi đồng USD Hồng Kông sang phương thức rổ tiền tệ phù hợp với tình hình Châu á. Dĩ nhiên, để thực hiện được điều này rất cần sự hậu thuẫn của Trung Quốc. Trong quá trình quốc tế hoá đồng Yên, cần tăng tỷ trọng đồng Yên trong dự trữ của các nước. Châu á có thể tiến tới sự ổn định tiền tệ bằng cách thiết lập Quỹ tiền tệ Châu á (AMF), hỗ trợ cho Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF). Những quốc gia thành viên của AMF nên thực hiện đóng góp tuỳ theo quy mô GDP và thương mại quốc tế của mình. Phần đóng góp này cũng nên thực hiện bằng chính đồng tiền của mỗi quốc gia, hoặc của các quốc gia khá trong khu vực nếu đồng tiền của quốc gia đó không chuyển đổi được. Việc Bộ trưởng tài chính Nhật Bản, ông Miyazawa dành 30 tỷ USD viện trợ cho các nước Châu á có lẽ là bước đầu tiên của quá trình này. Giai đoạn II: Năm 2010 sẽ thành lập đơn vị tiền tệ chung Châu á - ACU, mà giá trị của nó là rổ tiền tệ của các thành viên được xác lập theo tỷ trọng thương mại tương ứng của từng quốc gia. Những đồng tiền Châu á chuyển đổi được sẽ trực tiếp đại diện trong rổ tiền tệ, còn những đồng tiền chưa chuyển đổi được sẽ phải thông qua tỷ giá của chúng với "quyền rút vốn đặc biệt - SDR". Các nước thành viên của AMF sẽ không gắn đồng tiền của quốc gia mình cố định với đồng ACU (mặc dù đây cũng là một khả năng có thể lựa chọn), mà sử dụng đồng ACU như một mốc tham khảo cho cơ chế tài chính - tiền tệ quốc gia. Tất cả các khoản vay của AMF đều phải có mệnh giá bằng đồng ACU. ACU sẽ là tiêu chuẩn trong cán cân thanh toán mậu dịch và góp vốn làm ổn định tỷ giá hối đoái trong khu vực. Giai đoạn III: Vào năm 2020, tự do hoá hoàn toàn mậu dịch và tự do hoá tư bản trong khu vực sẽ được thực hiện và sẽ hoàn chỉnh các điều kiện để phát hành đồng tiền chung Châu á. Để thực hiện khu vực tiền tệ Châu á, cần tham khảo sự hình thành đồng EURO mà quan hệ hợp tác Đức - Pháp được gọi là "trục Bon - Pari" đã tạo ra việc thống nhất đồng EURO này.Việc hình thành đồng tiền chung Châu á có thể trở thành hiện thực dựa trên nền tảng chính là quan hệ hợp tác Nhật - Trung. Các chuyên gia tài chính của Trung Quốc cũng rất ủng hộ quan điểm này. Nếu ý tưởng này được thực hiện, nó sẽ khởi động các tiềm năng hợp tác kinh tế của mỗi nước thành viên trong khối, xây dựng một Châu á trở thành thành viên quan trọng trong nền kinh tế thế giới. V. Đồng tiền chung của Mercosur Mercosur được thành lập vào tháng 1/1995, là một tổ chức thương mại lớn xếp thứ 4 trên thế giới, với khoảng 200 triệu nhà tiêu thụ. Khối này gồm có: Achentina, Braxin, Paragoay và Urugoay, còn Boliva, Chilê là các thành viên kết giao. Tại cuộc họp giữa các nhà kinh tế Mỹ Latinh với các quan chức Ngân hàng thế giới ở Rio De Janeiro, D.Cavallo - cựu bộ trưởng kinh tế Achentina phát biểu: "chúng ta cần một hệ thống tiền tệ duy nhất ở Mercosur để thúc đẩy mậu dịch về dịch vụ và lưu thông vốn trong khu vực, cần một tổ chức tài chính nhằm đưa ra các tiêu chuẩn như Ngân hàng trung ương Đức đã thực hiện ở Châu Âu". Về đồng tiền duy nhất có sức chuyển đổi mạnh thì Mercosur có thể hướng về đồng Real của Braxin, nếu như Braxin lãnh đạo về tài chính của khối này. Đồng Real có thể được đưa ra áp dụng và thậm chí giữ tên của nó. D.Cavallo cực lực phản đối ý kiến sử dụng đồng USD làm đồng tiền duy nhất ở Mercosur, trong khi ý kiến này lại được chính phủ Achentina ủng hộ. Thống đốc Ngân hàng Trung ương Braxin - ông A.Fraga và các chuyên gia tài chính khác dự hội nghị đã tán thành ý kiến của Cavallo. Theo ông M.Castrioto - Đại sứ Braxin tại Pháp cho rằng việc đôla hoá khối Mercosur sẽ đi ngược lại với Liên minh tiền tệ, có ý nghĩa là sẽ làm đảo ngược quá trình hợp nhất và tù bỏ chủ quyền của khối này. Ông A.Fraga không chấp nhận ý kiến rằng Braxin sẽ áp dụng đồng đôla Mỹ khi mà đồng Real đang mạnh lên và ngày càng được tín nhiệm hơn, nhất là sau khi đồng tiền này bị sụt giá 40% so với đồng đôla Mỹ trong tháng 1/1999 vừa qua. Đây là mâu thuẫn mà khối Mercosur cần phải giải quyết để tìm ra một đồng tiền song song tồng tại với đồng đôla đứng đầu thế giới. Còn theo ông G.Perry - trưởng ban kinh tế - Ngân hàng thế giới, phụ trách Mỹ Latinh và vùng Caribê, khối Mercosur phải mất một thời gian dài mới có thể áp dụng được một đồng tiền duy nhất. Cũng như Châu Âu trước đây, Mercosur cần thực hiện một số bước, trong đó có việc làm hài hoà kinh tế và chế độ thu nhập của các nước thành viên để phát triển khu vực tư nhân. Perry đề nghị 4 thành viên của Mercosur phải đưa ra các biện pháp rõ ràng và bắt đầu tiến hành các cuộc đàm phán về một Hiệp định mậu dịch tự do với Liên minh Châu Âu. PHẦN III CÁC VẤN ĐỀ ĐẶT RA SAU KHI ĐỒNG EURO RA ĐỜI Tác động của đồng EURO tới nền kinh tế Việt Nam Là một nước nằm trong khu vực Châu á, Việt Nam cũng tăng cường được mối quan hệ với các nước EU trong thời gian qua. Nhiều nước EU đã xếp Việt Nam vào danh sách các nước ưu tiên phát triển trong khu vực Châu á. Ngoài các lĩnh vực hợp tác trong khoa học, giáo dục, y tế, xã hội, quan hệ trong thương mại của Việt Nam với các nước EU ngày càng phát triển. Nên đồng EURO ra đời đã giúp cho việc thanh toán trong thương mại của Việt Nam với các nước EMU-11 đơn giản hơn trước kia. Đây là điểm thuận lợi cho Việt Nam nhưng đồng thời cũng là một thách thức cạnh tranh mới đối với hàng Việt Nam, vì các nước bạn hàng khác của EMU-11 cũng có lợi thế tương tự như Việt Nam. Ngoài ra, đây cũng là dịp tốt để Việt Nam mở rộng quan hệ thương mại với những nước khác trong khối EMU hiện đang có ít giao lưu thương mại như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha,... Cùng chung một đồng tiền, cùng chung một thị trường thống nhất, nên khi hàng hoá Việt Nam đã xâm nhập được vào một nước bạn hàng nào đó (ví dụ Pháp, Đức) chắc chắn sẽ được công dân các nước khác biết đến mà không tốn tiền tiếp thị, quảng cáo. Hơn nữa, 11 nước EMU này lại có mức thu nhập khác nhau, mức sống khác nhau dẫn đến giá cả khác nhau, nên không loại trừ trường hợp chúng ta phải có chiến lược lựa chọn đối tác sao cho có lợi nhất, tức bán được giá cao, mua được giá thấp. Biểu số 6: Quan hệ thương mại Việt Nam với 7 nước EU (chỉ tính phần Việt Nam XNK trực tiếp. Đơn vị: triệu USD) Nước 1995 1996 1997 XK NK XK NK XK NK Anh 75 51 125 88 256 180 Bỉ 35 22 61 60 114 79 Đức 218 175 228 288 396 280 Hà Lan 80 36 147 51 251 50 Ý 57 54 50 111 111 98 Pháp 169 277 145 417 227 548 Thuỵ Điển 5 23 32 60 46 66 Hiện nay, đầu tư trực tiếp của Cộng hoà Pháp vào Việt Nam đang đứng thứ 7 trong tổng số 58 nước có vốn đầu tư vào Việt Nam (tổng số vốn đầu tư là 1,6 tỷ $ với 89 dự án). Cộng hoà Pháp trở thành bạn hàng lớn nhất của Việt Nam ở Tây Âu. Năm 1998: kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang Pháp là 280 triệu USD và kim ngạch nhập khẩu từ Pháp sang là 330 triệu USD. Thời gian tới Việt Nam mong muốn Chính phủ Pháp tăng cường đầu tư hơn nữa vào Việt Nam, đặc biệt trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm nhằm nâng cao chất lượng hàng nông phẩm và tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Tuy vậy, kết quả thu hút vốn FDI và ODA tuỳ thuộc nhiều vào sự đồng bộ của các chính sách tạo nên môi trường đầu tư lành mạnh của Việt Nam. Biểu số 7: Đầu tư của EU vào Việt Nam. (triệu USD) Pháp Anh Đức Hà Lan Thuỵ Điển Đan Mạch Italia Bỉ Luých-xămbua Tổng số Số dự án 93 21 18 27 9 2 8 9 5 192 Số vốn đăng ký 1480 535 403 403,4 397,2 103 64 32,9 24,7 3443,2 Vấn đề trả nợ giữa Việt Nam với các nước thành viên EMU sẽ được nghiên cứu và xử lý trong khuôn khổ chung của Liên minh và phù hợp với kế hoạch chuyển đổi của từng nước. Vấn đề này có khả năng xử lý như sau: - Nhóm các khoản nợ hiện đang tính bằng đồng ECU của Việt Nam sẽ được đổi ra EURO theo tỷ giá 1/1. Sự chuyển đổi này không có ảnh hưởng gì trong quản lý nợ của Việt Nam. - Nhóm các khoản nợ hiện đang tính bằng tiền của 11 nước tham gia khối EURO. Các khoản nợ này được chia làm 2 nhóm. Nhóm các đồng tiền mạnh như DM, FF, Việt Nam nên chuyển đổi sang EURO ngay năm 1999. Còn số dư nợ tính bằng các đồng tiền yếu hơn (đồng Lire, peseta...) có số lượng không lớn trong tổng dư nợ Việt Nam nên sẽ được chuyển dần sang Euro. - Nhóm các khoản nợ hiện đang tính bằng đồng tiền của các nước chưa tham gia Euro (GBP, cuaron Thuỵ Điển, Đan Mạch, Drachma Hy Lạp)sẽ không có biến động tới cơ cấu nợ tính bằng các đồng tiền này, cũng như không có biến động về trách nhiệm trả nợ giữa Việt Nam với các nước này. Đồng Euro ra đời đặt ra một số lựa chọn đối với cơ cấu dự trữ ngoại tệ của Việt Nam. Các chuyên gia kinh tế Việt Nam cho rằng, chuyển đổi số dự trữ hiện có từ các đồng DM, FF... sang Euro (mà không sang USD) sẽ có lợi hơn. Vì khi đó Việt Nam sẽ có một cơ cấu ngoại tệ hợp lý, có đủ các ngoại tệ mạnh cần thiết. Với cơ cấu đó, Việt Nam vừa có đủ phương tiện thanh toán trực tiếp với EMU-11 hoặc các nước có liên quan, vừa phân tán được rủi ro về tỷ giá hối đoái, giảm được mức độ phụ thuộc vào đồng USD. Nhìn chung trong bối cảnh cạnh tranh mạnh mẽ giữa các cường quốc Hoa Kỳ, Nhật Bản, Châu Âu, thì những nước nhỏ như Việt Nam nếu nắm vững và biết tận dụng thời cơ, chắc chắn sẽ khai thác được nhiều lợi ích, đối phó được những thách thức đặt ra. Tình hình đồng EURO sau 10 tháng ra đời Bắt đầu từ 0h00 GMT ngày 1/1/1999 đồng Euro đã chính thức đi vào lưu hành cùng với sự tham gia của 11 nước trong Liên minh Châu Âu. Cho đến nay, đồng Euro giao dịch trên khắp thị trường thế giới, nhiều nước đã bắt đầu đưa đồng Euro vào rổ tiền tệ trong cơ cấu dự trữ của quốc gia mình. Trong những ngày đầu, đồng Euro tăng giá liên tục khiến người ta nghĩ đến việc Euro sẽ nhanh chóng thay thế vị trí độc tôn của đồng USD. Tuy nhiên, chỉ đến cuối tháng 1/1999, đồng Euro đã bắt đầu xuất hiện các dấu hiệu giảm giá liên tục trong khi nền kinh tế Châu Âu dường như vẫn chưa thoát khỏi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính Châu á. Biểu số 8: Dự báo của Uỷ ban Châu Âu về kinh tế các nước trong EMU (Đơn vị: %) Nước GDP Lạm phát Tỷ lệ thất nghiệp 1998 1999 2000 1998 1999 2000 1998 1999 2000 áo 3,3 2,3 2,7 0,9 1,1 1,3 4,4 4,3 4,2 Bỉ 2,9 1,9 2,5 1,0 1,0 1,3 8,8 8,3 7,8 Hà Lan 3,7 2,3 2,7 1,9 1,8 1,8 4,0 3,6 3,3 Bồ Đào Nha 4,0 3,2 3,3 2,8 2,2 2,1 4,9 4,7 4,6 Tây Ban Nha 3,8 3,3 3,5 2,0 1,8 1,9 18,8 17,3 15,8 Ý 1,4 1,6 2,3 2,4 1,8 1,9 12,2 12,2 11,9 Pháp 3,2 2,3 2,7 0,4 0,5 1,1 11,9 11,5 11,0 Đức 2,8 1,7 2,4 1,0 0,7 1,3 9,4 9,0 8,7 Phần Lan 5,3 3,7 3,9 1,4 1,0 1,1 11,4 10,1 9,4 Ireland 11,9 9,3 8,6 2,5 2,2 2,7 7,8 6,0 4,7 Lucxembua 5,7 3,2 4,1 1,0 0,7 1,2 2,8 2,7 2,5 EU-11 3,0 2,2 2,7 1,4 1,2 1,5 10,9 10,4 9,9 Trong năm 1998, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Liên minh kinh tế - tiền tệ Châu Âu chỉ đạt 2,4%, thấp hơn mức dự báo là 3%. Trong khi đó nền kinh tế Mỹ vẫn không ngừng tăng trưởng mạnh với tốc độ tăng trưởng trong năm 1998 đạt 3,4%, đặc biệt là vào giai đoạn cuối năm 1998 đạt 6,0%. Nếu so sánh tỷ giá ấn định ban đầu là 1,16675 USD/EUR vào ngày 1/1/1999 thì cho đến ngày 30/3/1999, tỷ giá giao dịch của đồng tiền này cũng chỉ còn là 1,0716 USD/EUR (giảm 8,15%). Sở dĩ, tỷ giá đồng Euro bị giảm sút như vậy là do việc NATO tấn công Nam Tư đã gây nên tâm lý lo lắng cho các nhà đầu tư Châu Âu (vì Nam Tư thuộc Châu Âu). Các luồng vốn bắt đầu dịch chuyển khỏi thị trường Châu Âu sang các khu vực thị trường khác an toàn và hiệu quả hơn như Mỹ và Châu á. Sơ đồ biểu diễn tỷ giá đồng EURO so với đồng USD Ngày 8/4/1999, ECB giảm 0,5% lãi suất cơ bản xuống chỉ còn 2,5% trong bối cảnh các dự báo về tốc độ tăng trưởng kinh tế của EMU liên tục phải điều chỉnh giảm (từ mức 2,6% theo dự báo cuối năm 1998 xuống chỉ còn 2,1% theo dự báo tháng 3/1999). Sau quyết định này đồng Euro đã tăng giá một chút, thế nhưng cũng không thể giữ được lâu. Vì vào ngày 26/5/1999, EMU cho phép Italia mở rộng mức thâm hụt ngân sách năm tài khoá 1999 lên 2,4% GDP từ mức mục tiêu 2%trong một cố gắng phục hồi nền kinh tế ảm đạm của nước này. Và ngày 13/7/1999, là ngày đánh dấu đồng Euro giảm xuống mức kỷ lục còn 1,0108 USD. Đồng Euro đã mất giá 13% kể từ khi nó ra đời. Cho đến gần đây 29/10/1999, đồng Euro có phục hồi đôi chút 1EUR = 1,0590 USD. Theo các chuyên gia tài chính, có thể khái quát những nguyên nhân làm suy giảm đồng Euro như sau: - Trước hết, nền kinh tế Mỹ đang ở thời kỳ thuận lợi hơn nền kinh tế EU, trong 8 năm liền tăng trưởng từ 3,5 - 4%/năm. Năm 1998, Mỹ đạt tốc độ tăng trưởng cao gấp 1,5 lần so với EU, đạt 4,1% GDP trong quý I/1999, lạm phát ở mức thấp nhất trong vòng 25 năm gần đây. Giá trị cổ phiếu trên thị trường tăng 31,7%. Nền kinh tế Mỹ đang ở giai đoạn thuận lợi hơn EU nên USD vốn đã có ưu thế hơn Euro, nay lại do cuộc chiến ở Nam Tư làm Euro sụt giá so với USD. - Quyết định của các Bộ trưởng tài chính thuộc EU về việc thay đổi tỷ lệ thâm hụt ngân sách mục tiêu cho Italia như đã nói ở trên. Theo đánh giá của các nhà phân tích, sự thay đổi trên có thể tạo ra các tiền đề về khả năng thay đổi ngân sách mục tiêu của hàng loạt các nước thành viên khác, kết quả là EMU khó có thể thực thi được mức thâm hụt ngân sách mục tiêu 1% GDP vào năm 2001 như đã thông qua sau khi đồng Euro chính thức lưu hành. - Tình hình tiêu dùng ở Đức, Pháp giảm, làm cho các nhà đầu tư hết sức thất vọng. Vì Đức, Pháp, Italia là ba cường quốc kinh tế hùng mạnh nhất khối EMU, với nền kinh tế chiếm khoảng 70% toàn khu vực, góp phần làm tăng áp lực giảm giá đối với đồng Euro.Theo báo cáo mới đây của Chính phủ Pháp, tiêu dùng 4/1999 giảm 0,2 % so với tháng 3/1999, trong khi hầu hết các nhà phân tích đều dự báo tăng, tình hình đầu tư cũng như vậy. - Lạm phát và thất nghiệp là lo ngại lớn đối với các nhà lãnh đạo Châu Âu, gây nhiều triển vọng xấu đến tăng trưởng kinh tế cũng như các thị trường tài chính - tiền tệ khu vực này. Thất nghiệp cao là vấn đề mang tính kinh niên của Châu Âu. Do vấn đề cơ cấu, tỉ lệ thất nghiệp chỉ cải thiện chút ít, từ mức khoảng 9,2% hiện nay (tháng 10/1999) xuống 8% vào năm 2001. - Do những vấn đề phức tạp nảy sinh trong nội bộ EU về thể chế chính trị, kinh tế và những vấn đề xã hội có tác động đến sự phát triển kinh tế và ổn định đồng tiền. Đó là sự ra đi của 20 thành viên từ chức tập thể do bị nghi là lợi dụng chức quyền tham ô, tham nhũng, vi phạm quy chế hoạt động của Uỷ ban Châu Âu. Dư luận coi đây là sự khủng hoảng chính trị nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến vị thế, chiến lược của Liên minh kinh tế -tiền tệ Châu Âu. Mặt khác, chiến sự Nam Tư nổ ra nằm trong ý đồ chiến lược kinh tế, quân sự của Mỹ, qua đó Mỹ kìm chế EU, tạo cơ hội cho kinh tế Mỹ phát triển. Tiếp đến là cuộc chiến tranh thương mại gay gắt giữa Mỹ - EU về chuối và các sản phẩm nông sản khác. WTO đã quyết định có lợi cho Mỹ, chỉ trích chính sách thương mại của EU trong khi EU chưa có đối sách gì chống lại Mỹ. Ngày 9/4/1999, Mỹ công bố 9 mặt hàng nhập khẩu từ EU bị đánh thuế 100%, làm EU thiệt hại 191,4 triệu USD/năm. Việc đồng Euro xuống giá vừa qua lại được xem là điều kiện thuận cho các nhà xuất khẩu Châu Âu, bởi giá hàng hoá của khu vực này xuất sang các nước sẽ rẻ hơn khi tính bằng USD. Ngoài ra, đồng Euro giảm giá còn thu hút sự chú ý của giới đầu tư quốc tế tại thị trường EU. Tóm lại, đồng EURO nói riêng và kinh tế EU nói chung đang ở vào thế bất lợi hơn so với đồng USD và nền kinh tế Mỹ. Nếu EU tiếp tục để Mỹ thao túng NATO thì kinh tế EU cũng như đồng Euro chưa thể mạnh, đủ sức đối trọng với Mỹ. Các vấn đề đặt ra trong giai đoạn chuyển đổi Quản lý tiền tệ một nước đã khó, thì quản lý tiền tệ cho 11 nước cùng một lúc chắc chắn đòi hỏi một guồng máy phức tạp và quy mô hơn. Đó chính là điều mà nhiều người dân trong Châu Âu lo ngại. Dù đồng Euro có tác động tích cực trong trung và dài hạn như thế nào trong hệ thống tiền tệ quốc tế, nhưng có một số vấn đề đặt ra liên quan đến giai đoạn chuyển đổi. Đó là những vấn đề liên quan đến rủi ro tiềm ẩn của một thời kỳ không ổn định của tỷ giá hối đoái giữa đồng Euro với các đồng tiền mạnh khác, và khả năng giá trị của đồng Euro vượt ra ngoài mức được đánh giá là thích hợp. Trước mắt là việc đồng Euro giảm giá trong giai đoạn này sẽ làm tăng tâm trạng thất vọng của giới đầu tư khu vực châu âu và Mỹ. Họ phàn nàn về việc Châu Âu đang lẩn tránh trách nhiệm và các vấn đề nội tại của mình. Nhưng trên thực tế thì ECB vào thời điểm này không thể làm gì nhiều hơn. Vấn đề mà ECB cần phải làm lúc này là ngăn chặn sự lo lắng của công chúng đối với tình trạng tỷ giá đồng euro sụt giá. Một biện pháp can thiệp vào thị trường mà ECB có thể sẽ tạm thời áp dụng đó là bán đôla ra. Thế nhưng, vào thời điểm hiện nay thì kiên nhẫn vẫn là một giải pháp phù hợp nhất, trong khi các bất ổn chính trị của khu vực này đã bắt đầu giảm xuống cùng với sự phục hồi trở lại của khu vực Châu Âu. Hơn thế nữa, mức thâm hụt cán cân thương mại khổng lồ của Mỹ hiện nay cũng đang gây sức ép lớn để đồng đôla Mỹ giảm giá. Mặt khác, cuộc họp của các nhà lãnh đạo hàng đầu trong Liên minh Châu Âu trong tháng 6/1999 đã đưa ra các cam kết về cải cách cơ cấu thay vì các cuộc thảo luận xung quanh vấn đề thất nghiệp và tăng trưởng ở từng quốc gia. Các cam kết này sẽ trở nên vô nghĩa, nếu không có hành động nào đi kèm và tiến trình cải cách gắn liền với tự do hoá ở khu vực này chắc chắn sẽ gây ra các thiệt thòi xét về mặt ngắn hạn. Các nước tham gia khu vực đồng Euro phải vận hành chính sách tiền tệ thống nhất thông qua: - Lựa chọn giữa chiến lược lạm phát (truyền thống Anh) hoặc khối lượng tiền tệ (truyền thống Đức). Lựa chọn công cụ để đạt mục tiêu, đó là công cụ lãi suất, nghiệp vụ thị trường mở, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ cho vay bù đắp thâm hụt thường xuyên. - Phương thức thực hiện. Do khối Euro là một tập hợp đa dạng và khác biệt về kinh tế và tài chính nên tạo ra những yếu tố không chắc chắn đối với ảnh hưởng thực của việc ban hành các quyết định (liên quan đến sự không khớp nhau về các dữ liệu thống kê kinh tế giữa các nước thành viên). -Lựa chọn các mục tiêu ưu tiên đối nội hay đối ngoại. Các mục tiêu đối nội (chống lạm phát)được đánh giá là ưu tiên. Điều này được hỗ trợ bởi mức độ hạn chế mở cửa của khu vực Euro (10%GNP). Trong EMU, toàn thể các nước trong cộng đồng đều phải gánh chịu hậu quả của bất kỳ một sụ chệch hướng ngân sách tại một nước riêng lẻ nào đó, thông qua hiệu ứng tăng lãi suất. Do vậy, cần giám sát các số dư ngân sách (hiến chương ổn định). Đây cũng chính là một trong những yếu tố tác động đến cung cầu về đồng Euro, dẫn đến sự biến động tỷ giá của đồng Euro. Những yếu tố tác động đến cung cầu của đồng Euro Tác động đến tỷ giá hối đoái (EUR/USD) Thời hạn Mức độ Cán cân giao dịch giảm (nội bộ khối EU) - Ngắn hạn + Cán cân giao dịch bằng đồng Euro tăng + Dài hạn + Cán cân thanh toán dư = USDsẽ được ECB xử lý + Trung hạn + Sức hấp dẫn của các thị trường vốn EU + Trung hạn ++ Toàn cầu hoá các danh mục đầu tư EU - Trung hạn + Nợ Phi tư nhân bằng đồng Euro - Trung hạn + Tất cả những vấn đề nêu trên đều nhằm đạt tới sự nhất quán và ổn định tiền tệ ngay trong lòng EU, tạo nền tảng ổn định kinh tế vĩ mô đảm bảo đồng EURO liên tục mạnh và ổn định. KẾT LUẬN Thống nhất tiền tệ đã tổng hợp sức mạnh và tiềm năng của cả Châu Âu thành một khối, tạo cho Châu Âu một vị thế mới hùng mạnh hơn trên thị trường quốc tế để tiến vào thế kỷ XXI, với sức cạnh tranh ngang ngửa với Mỹ, vượt xa Nhật Bản. Hơn nữa, lưu hành đồng tiền chung duy nhất cùng với vận hành EMU đã đưa Châu Âu tới đỉnh điểm của sự phát triển. Thật vậy, ta biết rằng thế giới của hội nhập quốc tế và khu vực hoá phát triển theo 5 cấp độ: Khu vực mậu dịch tự do; Liên minh thuế quan; Khối thị trường chung; Liên minh kinh tế ; Liên minh kinh tế và tiền tệ. Hiện nay, Liên minh kinh tế và tiền tệ Châu Âu là trường hợp duy nhất trên thế giới đạt tới mức thống nhất tiền tệ, với triển vọng một thị trường thống nhất. Thống nhất tiền tệ là sự kiện riêng của Châu Âu, nhưng nó tác động đến cả thế giới trong đó có Việt Nam. Để có thể tham gia vào nền kinh tế khu vực và thế giới, Việt Nam cần: - Tranh thủ mở rộng quan hệ với các nước Tây Âu trên cơ sở củng cố và tăng cường vị trí ở các thị trường quen thuộc và các bạn hàng truyền thống như các nước Liên Xô cũ và Đông Âu. Lấy quan hệ đó làm điểm tựa, cầu nối để thâm nhập tạo chỗ đứng ở các thị trường mới, phát triển các quan hệ mới. - Hoàn thành thị trường hoàn chỉnh bao gồm cả sức lao động, dịch vụ, vốn và tiền tệ thông suốt trong cả nước và với thị trường thế giới. Giá cả, tỷ giá hối đoái, lãi suất tín dụng hình thành theo cơ chế thị trường. - Hình thành một thị trường ngoại hối chính thức, tạo thuận lợi cho việc giao dịch và mua bán ngoại tệ thông qua ngân hàng theo tỷ giá thị trường. Tạo dự trữ ngoại tệ ngày càng lớn để có thể thực hiện điều tiết thị trường ngoại hối, làm cho tỷ giá hối đoái phản ánh đúng hơn sức mua thực tế của đồng tiền Việt Nam, tiến tới làm cho đồng tiền có khả năng chuyển đổi... - Tôn trọng nguyên tắc lãi suất tín dụng cao hơn mức lạm phát, lãi suất tiền vay cao hơn lãi suất tiền gửi, bảo đảm cho ngân hàng thương mại có điều kiện kinh doanh bình thường. Tất cả nhũng chính sách trên là nền tảng cho việc xây dựng nội dung các chính sách tiền tệ - tín dụng ngoại hối của Ngân hàng trung ương, tạo điều kiện cho sự hoà nhập và phát triển kinh tế Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiến trình thống nhất tiền tệ của EU. PTS. Kim Ngọc - NXB Chính trị quốc gia -1996 Tạp chí Thị trường tài chính- tiền tệ Việt Nam. Các số trong năm 1998-1999. Tạp chí Thương mại. Các số trong năm 1998 -1999. Tạp chí Thương nghiệp thị trường Việt Nam. Các số 1+2+3/1999. Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu. Các số 4+5+6/1998. Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á. Số 1+3/1999. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế. Các số 11/1998, số 3+4/1999. Tạp chí Thị trường chứng khoán Việt nam. Các số 1+2+4+5+6/1999. Một số tin trích trên mạng FPT Internet. MỤC LỤC Lời nói đầu. 1 Phần I: Liên minh Châu Âu và sự ra đời của đồng tiền chung Châu Âu - EURO 2 I. Kinh tế của EMU-11 trong thời gian qua 2 II. Quá trình chuẩn bị ra đời đồng EURO 3 Cơ sở khoa học của sự thống nhất tiền tệ Châu Âu 3 Tiến trình phát triển của hệ thống tiền tệ Châu Âu 6 III. Đồng tiền chung Châu Âu - EURO 9 1. Đồng EURO 9 2. Quy chế lưu hành đồng tiền chung Châu Âu 11 Phần II: Tác động của đồng EURO đến nền kinh tế thế giới 13 I. Đối với Liên minh Châu Âu 13 1. Tác động đến những nước thuộc khu vực đồng Euro 13 2. Tác động đến các nước Châu Âu nằm ngoài khu vực đồng Euro 14 II. Tác động đến các nước thuộc khối CFA franc và các nền kinh tế chuyển đổi 15 III. Tác động của EURO tới hệ thống tiền tệ thế giới 16 IV. Châu á với đồng EURO 19 1. Những tác động chủ yếu 19 2. Triển vọng của đồng tiền chung Châu á- ACU 20 V. Đồng tiền chung của Mercosur 23 Phần III: Các vấn đề đặt ra sau khi EURO ra đời 24 I. Tác động của đồng EURO đến nền kinh tế Việt Nam 24 II. Tình hình đồng EURO sau 10 tháng ra đời 25 III. Các vấn đề đặt ra trong giai đoạn chuyển đổi 28 Kết luận 30 Tài liệu tham khảo 31 Mục lục 32

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0151.doc
Tài liệu liên quan