Đề tài Lợi nhuận và một số biện pháp chủ yếu tăng lợi nhuận tại công ty sản xuất - Xuất nhập khẩu Hà Nội

Đối với công nhân trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất: Công ty nên định kỳ tổ chức các lớp học nâng cao tay nghề sao cho trình độ của công nhân phù hợp với quy trình công nghệ mới. Đảm bảo sự kết hợp nhịp nhàng, ăn khớp giữa người điều khiển với máy móc, thiết bị, nâng cao năng suất lao động nhưng vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm, góp phần hạ giá thành, nâng cao lợi nhuận cho công ty. + Đối với nhân viên quản lý và cán bộ nghiệp vụ: Công ty khuyến khích tài trợ cho họ tham gia vào các lớp học, khoá học phù hợp nhằm nâng cao trình độ quản lý và trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Cụ thể như: Với các nhân viên kế toán, ngoài việc tham gia vào các buổi học phổ biến quy chế mới, công ty nên cử họ đến với các khoá tin học để làm bước đệm thuận lợi cho việc thực hiện kế toán trên máy. Với phòng XNK, kinh doanh vật tư và xe máy nội thất thì bên cạnh việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ công ty nên khuyến khích các nhân viên nâng cao trình độ ngoại ngữ nhất là tiếng Anh, Trung Quốc để tạo điều kiện thuận lợi trong việc giao tiếp, ký kết hợp đồng với các đối tác nước ngoài làm tăng hiệu qủa công việc, từ đó tăng lợi nhuận cho công ty

doc79 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1229 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lợi nhuận và một số biện pháp chủ yếu tăng lợi nhuận tại công ty sản xuất - Xuất nhập khẩu Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lợi nhuận gộp Chi phí bán hàng Chi phí quản lý doanh nghiệp Lợi nhuận từ HĐKD Lợi nhuận hoạt động tài chính - Thu nhập hoạt động tài chính - Chi phí hoạt động tài chính Lợi tức bất thường - Thu nhập hoạt động bất thường - Chi phí bất thường Tổng lợi nhuận trước thuế Tổng lợi nhuận sau thuế 115.306 148 115.158 112.739 2.419 625 3035 -1241 1225,3 1898,3 673 30 40 10 14,3 14,3 60.241 87 60.154 57.954 2200 237 1974 -11 -97 333 430 113,4 114,4 1 5,4 3,7 -55.065 -61 -55004 -54.785 -219 -388 -1061 1230 -1322,3 -1565,3 -243 83,4 74,4 -9 -8,9 -10,6 47,8 -41 -47,7 -49 -9 -62 -35 99 108 -82 -36% 278 186 -90 -62 74 Qua biểu trên ta thấy hầu hết các chỉ tiêu kinh tế năm 2001 đạt được đều có sự giảm sút so với năm 2000, tuy nhiên để thấy rõ vấn đề hiệu quả của công tác sản xuất kinh doanh của công ty chúng ta cần xem xét kế hoạch lợi nhuận của công ty trong hai năm như thế nào: Năm 2000: 40 (tr đồng) Năm 2001: 50 (tr đồng) Kế hoạch lợi nhuận là một trong những vấn đề mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng cần hoạch định. Tuy nhiên do tình hình kinh doanh khó khăn nên quý III năm 2001 công ty đã phải điều chỉnh giảm chỉ tiêu kế hoạch cho phù hợp với tình hình và kế hoạch liên hiệp giao (kế hoạch lợi nhuận chỉ còn là 26 triệu đồng bằng 52 % kế hoạch đầu năm). Vâỵ tại sao kế hoạch đặt ra là 40 (tr đồng) và 50 (tr đồng) tương ứng với 2 năm nhưng thực hiện chỉ được là 14.3 (tr đồng) bằng 35.8 % kế hoạch và 5.4 (tr đồng) giảm 8.9 (tr đồng) tương ứng với tỷ lệ giảm 62 % so với năm 2000. Có rất nhiều nguyên nhân, nguyên nhân khách quan phải kể đến là thị trường và chính sách của nhà nước, nguyên nhân chủ quan đó là chất lượng , mẫu mã trình độ tổ chức và trình độ quản lý. Vấn đề này sẽ được lý giải ở phần sau. Biểu cơ cấu lợi nhuận cho ta thấy cả hai năm lợi nhuận hoạt động kinh doanh đều âm tức là hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bị lỗ. Tuy nhiên hoạt động tài chính của năm 2000 là 1225,3 (tr đồng) tăng 142% so với năm 1999 (năm 1999 là 506(tr đồng)) - đây chính là nguồn bù lỗ cho hoạt động sản xuất kinh doanh và mang lại lợi nhuận chung cho toàn công ty. Năm 2001 hoạt động tài chính bị lỗ 97 (tr đồng) và giảm 108 % so với năm 2000 (năm 2000 là - 1322,3 (tr đồng)), nguyên nhân là thu nhập hoạt động tài chính giảm mạnh (giảm 82%) trong khi đó chi phí hoạt động tài chính chỉ giảm 36%, mức giảm của thu nhập lớn hơn mức giảm của chi phí kết quả dẫn đến lợi nhuận hoạt động tài chính giảm mạnh . Tuy nhiên hoạt động bất thường năm 2001 lại khá hiệu quả, trong khi hai thành phần trên cấu thành tổng lợi nhuận trước thuế đều âm thì hoạt động bất thường lại đem lại lợi nhuận khá lớn: 113,4 (tr đồng) và tăng 278% so với năm 2000, đây chính là nguồn bù lỗ cho hai hoạt động trên và đem lại lợi nhuận cho công ty là 5,4 (tr đồng). Nguyên nhân chính làm cho lợi nhuận bất thường tăng mạnh là thu nhập bất thường tăng 68% (74,4 (tr đồng)) trong khi đó chi phí bất thường chỉ có1 (tr đồng) giảm 90%. Song điều này không thể hiện kết quả tốt mà thể hiện một dấu hiệu xấu, nếu công ty không thật sự chú ý đến hoạt động này thì sẽ có những ảnh hưởng không tốt đến lợi nhuận chung của công ty (năm 2000 cũng có biểu hiện như vậy). Hoạt động bất thường trong năm của công ty chủ yếu liên quan đến việc nhượng bán thanh lý một số tài sản cố định đồng thời trích dự phòng phải thu khó đòi một số khoản nợ của công ty và các khoản dự phòng giảm giá, cụ thể là trong năm 2001 công ty tiếp tục nhượng bán, thanh lý tài sản cố định. Vậy để có kết quả tốt thì doanh nghiệp cần đánh giá đúng giá trị thực còn lại của các tài sản này, đồng thời sau khi thanh lý nhượng bán cần có kế hoạch chuẩn bị bổ sung các tài sản cố định khác nhằm đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh không gặp khó khăn. Hoạt động kinh doanh năm 2001 mặc dù chưa đem lại hiệu quả nhưng so với năm 2000 đã là một sự cố gắng lớn. Lợi nhuận hoạt động kinh doanh năm 2001 là -11(tr đồng) so với mức –1241(tr đồng) của năm 2000 thì lợi nhuận đã tăng được là 1230 (tr đồng). Cụ thể doanh thu thuần năm 2001 là 60154 (tr đồng) và giảm 55004 (tr đồng) tương ứng với tỷ lệ giảm là 47,7% trong khi nhân tố giá vốn giảm 54785 (tr đồng) tương đương với tỷ lệ giảm là 49% làm cho lợi nhuận gộp năm 2001 là 2200 (tr đồng) chỉ thấp hơn năm 2001 có 219 (tr đồng). Hơn nữa chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp lại giảm mạnh hơn so với năm 2000 và vì vậy mức lỗ của năm 2001 ít hơn rất nhiều so với năm 2000. Vậy nguyên nhân nào làm cho lợi nhuận của công ty đạt được âm ? Có hai giả thiết đặt ra: thứ nhất là do giá vốn hàng bán quá lớn khiến lợi nhuận gộp quá nhỏ, thứ hai là chi phí gián tiếp (chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp) lớn và lớn hơn cả lợi nhuận gộp. Chính điều này làm cho lợi nhuận thu được trong hai năm đều âm,vậy cụ thể nhân tố giá vốn hàng bán và chi phí gián tiếp ảnh hưởng tới tình hình lợi nhuận như thế nào? 2. Tỷ suất lợi nhuận Như đã trình bày ở phần lý luận, lợi nhuận tuyệt đối không phải là tiêu chí duy nhất đánh giá kết quả và hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy để có cái nhìn tổng quát về tình hình hoạt động kinh doanh của công ty ta cần xem xét một số chỉ tiêu về tỷ suất lợi nhuận (ở đây ta chỉ xem xét các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận sau thuế ) Biểu : Tỷ suất lợi nhuận STT Chỉ tiêu Đơn vị 31/12/00 31/12/01 Chênh lệch 1 2 3 4 5 6 7 8 9 Doanh thu thuần Giá thành toàn bộ Giá vốn hàng bán Chi phí bán hàng Chi phí quản lý doanh nghiệp Vốn kinh doanh bình quân Vốn chủ sở hữu bình quân Lợi nhuận sau thuế Tỷ suất lợi nhuận vốn Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu Tỷ suất lợi nhuận giá thành Tỷ suất lợi nhuận doanh thu bán hàng Tr.đ Tr.đ Tr.đ Tr.đ Tr.đ Tr.đ Tr.đ Tr.đ % % % % 115 158 116 399 112 739 625 3 035 27078 10588 14,3 0,053 0,135 0,012 0,0124 60 154 60 165 57 954 237 1 974 21698 11684 3,7 0,017 0,032 0,06 0,0022 -55 004 -56 234 -54 785 -388 1 061 -5380 1096 -10,6 -0,036 -0,00614 -0,00627 -0,103 -47,7 -48 -49 -62 -35 -20 -10,4 -74 -67,71 -49,94 -50,47 -76,55 - Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh: qua chỉ tiêu này cho ta thấy doanh nghiệp sử dụng vốn kinh doanh có hiệu quả không và qua bảng trên ta thấy doanh nghiệp sử dụng vốn kinh doanh không có hiệu quả. Năm 2000 cứ bỏ 100 đồng vốn vào hoạt động kinh doanh thì thu được 0,053 đồng lợi nhuận trong khi đó năm 2001 nếu công ty bỏ vào 100 đồng vố kinh doanh thì công ty chỉ thu được 0,017 đồng lợi nhuận tức là giảm 0,036 đồng. Điều này có thể được lý giải là do năm 2001 lợi nhuận giảm 74% so với năm 2000 trong khi vốn kinh doanh chỉ giảm 20 % tất yếu dẫn đến tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh giảm mạnh. - Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu: tỷ suất này phản ánh khả năng sinh lơì của vốn chủ sở hữu và được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào công ty. Tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu cùng thuộc một trong số các mục tiêu quan trọng của hoạt động quản lý tài chính của doanh nghiệp. Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu năm 2000 là 0,135% nghĩa là cứ 100 đồng vốn chủ sở hữu bỏ vào kinh doanh thì công ty đạt được 0,135 đồng lợi nhuận. Trong khi đó tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu năm 2001 chỉ là 0,032 % giảm 76,55% so với năm 2000. Sự giảm sút này gây ra tâm lý lo ngại cho chủ sở hữu công ty, vì so với người cho vay thì việc bỏ vốn vào hoạt động kinh doanh tính mạo hiểm cao và đem lại hiệu quả kém, mà đáng lẽ ra nó phải đem lại cơ hội lợi nhuận nhiều hơn. Trong khi vốn chủ sở hữu năm 2001 tăng lên 1096 (tr đồng) nhưng lợi nhuận sau thuế đạt được lại giảm 10,6 (tr đồng), do vậy tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu giảm là điều dễ hiểu. - Tỷ suất lợi nhuận giá thành: chỉ tiêu này phản ánh tỷ lệ giữa lợi nhuận đạt được và giá thành toàn bộ hàng hoá tiêu thụ trong kỳ. Cụ thể trong 100 đồng giá thành toàn bộ năm 2000 tạo ra 0,012 đồng lợi nhuận nhưng đến năm 2001 doanh nghiệp chỉ đạt được 0,006 đồng lợi nhuận và đó cũng là mức giảm so với năm 2000 ứng với tỷ lệ giảm là 49.94 %. Như vậy, công ty sử dụng chi phí không hiệu quả, lãng phí chi phí làm giảm hiệu quả kinh doanh. Nguyên nhân thì chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy giá vốn hàng bán quá cao gần bằng doanh thu thuần và chi phí quản lý doanh nghiệp cũng quá lớn gần bằng lợi nhuận gộp dẫn đến lợi nhuận sau thuế rất thấp (năm 2000 là 14,3 và năm 2001 là 3,7). Đây là vấn đề làm đau đầu ban lãnh đạo và toàn thể công nhân viên trong công ty. So với các doanh nghiệp trong cùng ngành thì tỷ suất này là quá thấp, lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh gần như không có. - Tỷ suất lợi nhuận doanh thu bán hàng: phản ánh mối quan hệ giữa doanh thu và lợi nhuận đạt được trong kỳ. Cụ thể cứ trong 100 đồng doanh thu năm 2000 thu được tạo ra 0,0124 đồng lợi nhuận và trong năm 2001 cứ 100 đồng doanh thu chỉ tạo ra 0,0022 đồng lợi nhuận. Như vậy, tỷ suất lợi nhuận doanh thu bán hàng năm 2001 thấp hơn năm 2000 là 0,0102 % nguyên nhân chính là giá vốn hàng bán quá cao so với doanh thu thuần khiến cho lợi nhuận sau thuế giảm mạnh và khiến cho tỷ suất lợi nhuận doanh thu bán hàng đã thấp lại càng thấp hơn. Nhận xét: nhìn chung các chỉ tiêu về khả năng sinh lời của công ty là rất thấp, đặc biệt năm 2001 lại có sự giảm mạnh, điều này thể hiện hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty gặp rất nhiều khó khăn. Vấn đề đặt ra là các cấp lãnh đạo công ty cần có giải pháp kịp thời để từng bước tăng mức doanh lợi của công ty. 3. Phân tích lợi nhuận theo các đơn vị trực thuộc Thực hiện hạch toán trong nội bộ doanh nghiệp đòi hỏi phải tính toán phân tích lợi nhuận kinh doanh theo đơn vị trực thuộc qua đó ta có thể thấy được đơn vị nào đạt kết quả cao, đơn vị nào chưa có hiệu quả và thấy được mức độ ảnh hưởng của từng đơn vị đến kết quả chung của toàn công ty. Để phân tích nội dung này ta sử dụng biểu Biểu : Tình hình thực hiện lợi nhuận theo các đơn vị trực thuộc Các đơn vị Năm 2000 Năm 2001 So sánh 2001/2000 Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ lệ 1 2 3 4 5 6 = 4-2 7 = 6/2 Phòng xe máy nội thất Phòng XNK Phòng vật tư Cửa hàng KD dịch vụ Văn phòng công ty 6. Toàn Công ty -24,7 40 -12 0 11 14,3 -173 280 -84 0 77 100 -47,2 16 0 0 36,6 5,4 -874 296 0 0 678 100 -22,5 -24 12 0 25,6 -8,9 -91 -60 100 0 233 -62 Từ kết quả tính toán được ở bảng trên ta thấy lợi nhuận trước thuế của công ty được hình thành từ lợi nhuận trước thuế của 5 đơn vị trực thuộc, trong đó khối văn phòng công ty và phòng XNK đóng góp nhiều nhất và đó chính là nguồn để bù lỗ cho các đơn vị khác và đem lại lợi nhuận cho công ty. Cụ thể năm 2000 phòng XNK đem lại 40 (tr đồng) lợi nhuận và chiếm 280% so với tổng lợi nhuận của toàn công ty và năm 2001 phòng XNK cũng đem lại 16 (tr đồng) tiền lãi chiếm 296% lợi nhuận của công ty và cũng là đơn vị đạt doanh thu cao nhất 18593 (tr đồng). Lợi nhuận của đơn vị thu được chủ yếu từ hoạt động kinh doanh XNK và hoạt động bất thường, mặc dù đơn vị chưa có thị trường xuất khẩu song với sự cố gắng nỗ lực đơn vị đã thu được 32 (tr đồng) từ hoạt động kinh doanh và 30 (tr đồng) từ hoạt động bất thường không những bù đắp được 45 (tr đồng) tiền lỗ từ hoạt động tài chính mà còn đem lại lợi nhuận cho công ty. Văn phòng công ty cũng có một vai trò to lớn trong hoạt động chung của toàn công ty, cụ thể đã tạo ra 11 (tr đồng) chiếm 17% trong tổng số 14,3 (tr đồng) tiền lãi trong năm 2000 và 36,6 (tr đồng) trong số 5,3 (tr đồng) tiền lãi năm 2001. Đây là một thành tích đáng ghi nhận đặc biệt trong hoạt động kinh doanh Văn phòng công ty đã tạo 61,4 (tr đồng) tiền lãi từ hoạt động mua bán hàng hoá cùng với phòng XNK bù lỗ cho hoạt động kinh doanh của các đơn vị khác. Phòng kinh doanh vật tư và cửa hàng dịch vụ xe đạp là các đơn vị có cố gắng duy trì sản xuất kinh doanh, đảm bảo không lỗ và thu nhập ổn định cho cán bộ công nhân viên. Điều đáng quan tâm ở đây là phòng xe máy nội thất năm 2001 lỗ 47,2 (tr đồng) lỗ nhiều hơn năm 2000 là 22,5 (tr đồng): năm 2000 là 24,7(tr đồng). Đây chính là nguyên nhân làm cho lợi nhuận của công ty giảm sút. Sự thua lỗ này có nguyên nhân chủ quan song không thể không kể đến các nguyên nhân khách quan như: sự thay đổi trong chính sách sản xuất và kinh doanh xe máy, sự không kiểm soát được của hàng nhập làm giá giảm, thị trường cạnh tranh quyết liệt và vì vậy việc tạo lợi nhuận là rất khó. Tóm lại, thông qua việc phân tích tình hình hoạt động của các đơn vị trực thuộc ta thấy rằng tuy đã có nhiều cố gắng nhưng nhìn chung hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị chưa đạt kết quả như mong muốn. Để khắc phục tình trạng này trong năm tới cần có sự cố gắng nỗ lực của từng đơn vị nói riêng và toàn thể công ty nói chung để đem lại hiệu kinh doanh cao nhất. 4. Phân tích lợi nhuận trong mối quan hệ với doanh thu, chi phí Để có kết luận chính xác về hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ ta cần phải tiến hành phân tích lợi nhuận trong mối quan hệ với doanh thu và chi phí. 4.1 ảnh hưởng của tình hình thực hiện doanh thu tiêu thụ hàng hoá tới lợi nhuận của công ty. Doanh thu tiêu thụ hàng hoá là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp vì: Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí. Doanh thu cao hay thấp làm cho lợi nhuận cũng cao hay thấp. Doanh thu tiêu thụ phản ánh kết quả hoạt động bán hàng, hoạt động kinh doanh chủ yếu của công ty.Để nghiên cứu sự ảnh hưởng của doanh thu tới lợi nhuận ta sử dụng biều sau Biểu : Mức biến động của doanh thu tiêu thụ sản phẩm và một số mặt hàng chủ yếu. STT Chỉ tiêu ĐVT 31/12/2000 31/12/2001 Chênh lệch Số tđối % 1 2 3 4 5 Xe đạp sản xuất và tiêu thụ Xe máy bán được Tổng doanh thu Các khoản giảm trừ Giảm giá hàng bán Hàng bán bị trả lại Thuế XNK, TTB Doanh thu thuần Cái Cái Trđ Trđ Trđ Trđ Trđ Trđ 12.466 7347 115.306 148 44 104 0 115.158 10.376 4751 60.241 87 0,8 86,1 0 60.154 -2090 -2596 -55.065 -61 -43,2 -17,9 0 -55.004 -17 -35 -47,7 -41,2 -97,9 -17 0 -48 Qua bảng trên ta thấy tổng doanh thu năm 2001 là 60 241 (tr đồng) giảm so với năm 2000 55 065 (tr đồng) tức là giảm 47,7% . Vậy tại sao lại có sự giảm này ? Ngay từ đầu năm công ty đã nhận định đây là một năm hết sức khó khăn, là năm có sự thay đổi trong chính sách sản xuất và kinh doanh xe máy, công tác xuất khẩu chưa có thị trường… do vậy mặc dù có nhiều cố gắng nhưng kết quả đạt được còn nhiều hạn chế. Cụ thể xe đạp sản xuất và tiêu thụ giảm từ 12466 cái năm 2000 xuống còn 10376 cái năm 2001, xe máy bán được (mặt hàng đem lại doanh thu cao cho công ty) cũng giảm với mức giảm 2596 chiếc ( với tỷ lệ giảm 35%). Để thấy rõ được vấn đề này ta quay lại năm 1999 số xe đạp sản xuất và tiêu thụ là 16000 cái tức là năm 2000 giảm 3524 cái so với năm 1999, xe máy bán được năm 2000 tăng lên 4256 cái. Điều này có thể lý giải là trong năm 2000 công ty đã đẩy mạnh việc hợp tác với công ty cổ phần Phương Đông để nhập xe IKD của Trung Quốc chớp cơ hội tiêu thụ nhanh. Tuy nhiên do Nhà nước cho nhập xe máy IKD ồ ạt, cung vượt cầu, thị trường cạnh tranh giảm giá liên tục và mặc dù công ty Phương Đông không tính lãi song công tác kinh doanh xe máy của công ty năm 2001 là rất khó khăn và việc tăng doanh thu tiêu thụ là rất khó. Các loại xe máy công ty tiêu thụ là: 1. Xe máy Quang ta 2. Xe máy Super Viva 3. Xe máy Qrienta 4. Quich new war 5. Xe máy Darling 100 Về mặt hàng xe đạp số lượng xe đạp sản xuất và tiêu thụ năm 2001 giảm so với năm 2000 là 2090 cái. Tình trạng này do nhiều nguyên nhân: Về phía công ty: Mẫu mã, màu sắc xe không đa dạng phong phú Giá cả so với thị trường quá đắt Kiểu dáng xe không còn phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng Về phía thị trường: Hàng Trung Quốc bày bán nhiều, mẫu mã kiểu dáng đa dạng, giá cả hợp lý. Doanh nghiệp tư nhân sản xuất vơí nhãn mác mập mờ xe liên doanh, họ đóng thuế ít so với số bán ra, vì vậy có điều kiện hạ giá thành từ 50 á 100 ngàn đồng một chiếc. Vậy tại sao giá bán của công ty lại quá cao như vậy? Các loại xe đạp công ty tiêu thụ là: xe 1 dóng 8 dầu, xe 1 dóng thủ đô, xe võng dầu, xe võng sơn thủ đô, xe pha dầu, xe pha thủ đô, xe mini 62, xe mini 68, xe mini Inox, xe thể thao 62, xe thể thao 72, xe liên doanh. Trị giá vốn của một chiếc xe trung bình là 420 000 đồng và do vậy giá bán trung bình lên tới 460 000 đồng. Với trị giá vốn khá lớn buộc doanh nghiệp phải bán với giá tương đối cao để đảm bảo kinh doanh có lãi song chính điều này đã làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường và vì vậy việc tiêu thụ sản phẩm là hết sức khó khăn. Hơn nữa việc dán tem của ta không còn có tác dụng vì quản lý thị trường không quản lý nổi đã gây không ít khó khăn cho ngành xe đạp của ta. Bên cạnh đó thị trường tiêu thụ vật tư không ổn định. Tất cả những điều này giải thích được tại sao doanh thu năm 2001 lại giảm mạnh, giảm 47,7% so với năm 2000 và dẫn đến lợi nhuận công ty thu được cũng giảm. Các khoản giảm trừ cũng có sự thay đổi: trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi thì các khoản giảm trừ có quan hệ ngược chiều với lợi nhuận, nếu các khoản giảm trừ tăng thì lợi nhuận giảm và ngược lại. Cụ thể các khoản giảm trừ năm 2001 thay đổi làm cho lợi nhuận năm 2001 thay đổi một lượng là: - (87-148) = 61 (tr đồng) Điều đó có nghĩa là nếu các nhân tố khác không đổi thì lợi nhuận doanh nghiệp sẽ tăng 61 (tr đồng). Tuy nhiên qua bảng trên ta thấy sự giảm sút của doanh thu tiêu thụ dẫn đến khoản giảm trừ giảm là điều dễ hiểu . Các khoản giảm giá hàng bán năm 2001 giảm mạnh chỉ còn 799 998 (tr đồng) giảm 43,2 (tr đồng) tương ứng với tỷ lệ giảm là 97,9 %. Đây là một thành tích đáng khen ngợi, hầu hết các sản phẩm được bán đều được thoả mãn yêu cầu của người tiêu dùng. Điều này góp phần làm tăng doanh thu thuần và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Hàng bán bị trả lại tuy có giảm 17,9 (tr đồng) nhưng vẫn chiếm một số lớn 86,1 (tr đồng). Nguyên nhân là còn có một phần nhỏ sai sót của bộ phận giám sát chất lượng sản phẩm khiến một số lô hàng của công ty sau khi vận chuyển đến nơi an toàn vẫn bị trả lại do một số lỗi kỹ thuật của một số ít sản phẩm. Thuế xuất khẩu của công ty trong hai năm không có là do hoạt động xuất khẩu của công ty trong năm không thực hiện được, nguyên nhân chính là sự cạnh tranh gay gắt của lĩnh vực xuất khẩu và chất lượng sản phẩm của công ty chưa đạt đến những tiêu chuẩn của đối tác nước ngoài. Qua phân tích ở trên ta thấy doanh thu tiêu thụ ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận thu được của doanh nghiệp. Điều đó đặt ra vấn đề doanh nghiệp phải có biện pháp tăng doanh thu và giảm thiểu chi phí. 4.2 ảnh hưởng của tình hình quản lý chi phí tới lợi nhuận của công ty. Để thấy được mối quan hệ giữa chi phí và lợi nhuận ta nghiên cứu biểu sau: Bảng: Tình hình thực hiện chi phí của doanh nghiệp STT Chỉ tiêu 31/12/2000 31/12/2001 Chênh lệch Số tiền % 1 2 3 4 Giá vốn hàng bán Chi phí bán hàng Chi phí QLDN Tổng chi phí 112.739 625 3035 116399 57.954 236 1974 60164 -54785 -388 -1061 -56235 -49 -62 -35 -48 Qua bảng trên ta thấy sự thay đổi giảm của giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp chưa hẳn đã là một dấu hiệu tốt bởi sự giamr sút của doanh thu tiêu thụ hàng hoá dẫn đến sự giảm sút của các loại chi phí trên là điều tất yếu. Nhưng tại sao lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh năm 2001 vẫn âm, nguyên nhân chính làm cho lợi nhuận của công ty thấp là gì? Một điều có thể dễ dàng nhận thất là trong tổng chi phí thì giá vốn hàng bán chiếm tỷ trọng rất cao, năm 2000 là 96,8 % và năm 2001 là 96,3 %, từ đó ta thấy giá vốn hàng bán có ảnh hưởng lớn thế nào đến tổng chi phí cũng như lợi nhuận của công ty. Để có cái nhìn rõ hơn về vấn đề này ta đi nghiên cứu bản chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố Bảng : Chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố ĐVT: Trđ STT Chỉ tiêu 31/12/2000 31/12/2001 Chênh lệch ST Tỷ trọng 1 2 3 4 5 6 7 Chi phí NVL Gvốn Chi phí nhân công Lương CBCNV BHXH, BHYT, KPCĐ Chi phí KHTSCĐ Chi phí dịch vụ mua ngoài Chi phí khác bằng tiền Các chi phí hoạt động khác S chi phí 112.739 1706 1584 122 297 1120 537 683 117.082 57.954 916 811 105 220 617 458 431 60.596 -54.785 -790 -773 -17 -77 -503 -79 -252 -56.486 -49 -46 -49 -14 -26 -45 -15 -37 -48 Từ số liệu tính toán được ta thấy tổng chi phí năm 2000 là 117082 (tr đồng) năm 2001 là 60596 (tr đồng) giảm 56486 (tr đồng) tương ứng với tỷ lệ giảm là 48 %. Cụ thể giá vốn hàng bán giảm 54785 (tr đồng) tỷ lệ giảm là 49%, chi phí bán hàng chi phí quản lý doanh nghiệp giảm 252 (tr đồng) tỷ lệ giảm 37%, song sự giảm này đi kèm với sự giảm của doanh thu tiêu thụ hàng hoá từ 115158 (tr đồng) năm 2000 xuống còn 60154 (tr đồng) tức là giảm 55004 (tr đồng) ứng với tỷ lệ là 47,7%. Như vậy mức giảm của chi phí có phần lớn hơn mức giảm của doanh thu và làm cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp năm 2001 lỗ ít hơn năm 2000 là 1230 (tr đồng). Đây là sự cố gắng lớn của doanh nghiệp song có thể nhận thấy là giá vốn hàng hoá bán quá lớn làm lợi nhuận gộp thu được nhỏ và chi phí bán hàng chi phí quản lí doanh nghiệp lại lớn hơn lợi nhuận gộp dần đến kết quả kinh doanh lỗ. Năm 2001 doanh thu thuần là 60.154 (tr đồng) thì giá vốn là 57.954 (tr đồng) làm cho lợi nhuận gộp chỉ còn là 2200 (tr đồng) trong khi đó chi phí bán hàng,chi phí quản lí doanh nghiệp những 2211 (tr đồng) tất yếu lợi nhuận hoạt động kinh doanh thu được là -11 (tr đồng). Do lợi nhuận thu được giảm nên tổng quỹ lương năm 2001 chỉ còn 811 (tr đồng) giảm 49% so với năm 2000. Doanh nghiệp cần có biện pháp để nâng cao thu nhập của cán bộ công nhân viên. Chi phí hoạt động tài chính và hoạt động bất thường trong năm 2001 cũng giảm với mức giảm 252 (tr đồng) sự giảm này được lí giải là trong năm hoạt động đầu tư ra ngoài doanh nghiệp, hoạt động cho thuê tài sản và các hoạt động khác đều giảm làm thu nhập các hoạt động này giảm tất yếu dẫn đến chi phí giảm. Chi phí khấu hao tài sản cố định cũng giảm, giảm 77 (tr đồng) so với năm 2000. Điều đáng quan tâm ở đây là chi phí dịch vụ mua ngoài và chi phí khác bằng tiền ở cả 2 năm đều rất lớn. Năm 2000 chi phí dịch vụ mua ngoài là 1120 (tr đồng) bằng 70% tổng quỹ lương và năm 2001 là 617 (tr đồng). Có thể nói cùng với giá vốn hàng bán cao thì đây chính là nguyên nhân làm cho lợi nhuận giảm. Đi sâu nghiên cứu chi tiết ta thấy chi phí này cao là do sử dụng lãng phí chi phí tiền điện, tiền nước, điện thoại đường dài, điện thoại di động, phí vận chuyển, các chi phí giao dịch tiếp khách …Chẳng hạn như chi phí tiếp khách năm 2000 là 89,8 (tr đồng) năm 2001 là 49,8 (tr đồng), chi phí hội nghị giao dịch tương ứng cũng là 48,8 triệu và 84 triệu. Vẫn biết là các khoản chi phí này là cần thiết nhưng do sự không tiết kiệm, lãng phí trong việc quản lí chi phí là nguyên nhân làm giảm lợi nhuận doanh nghiệp. Một vấn đề cần quan tâm trong việc nghiên cứu mối quan hệ doanh thu –chi phí là vấn đề hàng tồn kho. Do đặc điểm là doanh nghiệp thương mại nên hàng tồn kho của công ty chủ yếu là hàng hoá. Việc tổ chức quản lý tốt vốn hàng hoá dự trữ cho phép công ty đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động góp phần nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Để có cái nhìn tổng quát về kết cấu hàng tồn kho của công ty chúng ta nghiên cứu bảng sau: Bảng : Bảng kết cấu hàng tồn kho của Công ty SX-XNK xe đạp xe máy HN Chỉ tiêu 31/12/2001 Giá trị % 1. Nguyên liệu, vật liệu 1.791.565 0,04 2. Công cụ dụng cụ trong kho 1.818.182 0,04 3. Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang 147.128.374 3,47 4. Thành phẩm tồn kho 358.012.522 8,45 - Xe đạp tại kho 265.093.922 74,05 - Xe đạp tại quầy bán 92.918.600 25,95 5. Hàng hoá tồn kho 3.725.833.498 87,99 - Xe máy 1.255.934.440 33,71 - Phụ tùng xe đạp và xe máy 1.155.775.803 31,02 - Vật tư, đồ dùng nội thất 1.314.123.255 35,27 Tổng số 4.234.584.141 100 Qua bảng trên ta thấy hàng tồn kho của công ty tính đến ngày 31/12/2001 là 4.234.584.141 (đồng) chiếm 21,7 % trong tổng tài sản lưu động, trong đó: Nhiên vật liệu tồn kho : 1.791.565 đ chiếm tỷ trọng 0,04 % Công cụ dụng cụ trong kho: 1.818.182 đ chiếm tỷ trọng 0,042 % Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang: 174.128.374 đ chiếm tỷ trọng 3,47 % Thành phẩm tồn kho:385.012.522 đ chiếm tỷ trọng 8.45 % hàng hoá tồn kho : 3.725.833 (đồng) chiếm 87,89 %. như vậy so với các doanh nghiệp khác trong cùng ngành và so với lượng vốn lưu động của công ty thì khối lượng hàng tồn kho của công ty là tương đối lớn. Sự tồn kho này ảnh hưởng đến chi phí mà công ty phải bỏ ra như: chi phí tồn kho, chi phí lưu kho, chi phí quản lý, chi phí trả lãi vay ngân hàng… những chi phí này sẽ làm tăng tổng chi phí, từ đó làm tăng giá vốn, tăng giá bán giảm sản lượng tiêu thụ và giảm lợi nhuận của công ty. Vì vậy nhiệm vụ đặt ra đối với công ty năm 2002 là phải giải phóng nhanh chóng số tồn kho trên giúp công ty giảm bớt chi phí phát sinh nâng cao hiệu quả kinh doanh cho toàn công ty. Như vậy doanh thu- chi phí-lợi nhuận có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, chỉ trên cơ sở tăng doanh thu, giảm chi phí công ty mới thu được hiệu quả kinh doanh mong muốn. Từ việc phân tích trên ta có thể tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận ở bảng sau Bảng : Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng Các nhân tố làm tăng lợi nhuận Giá vốn hàng bán giảm 54 785 CPBH và CPQLDN giảm 1449 Các khoản giảm trừ giảm 61 Cộng 56295 Các nhân tố làm giảm lợi nhuận Tổng doanh thu giảm -55 065 Cộng -55 065 Tổng biến động lợi nhuận từ HĐKD 1 230 5. Đánh giá chung tình hình hoạt động kinh doanh của công ty 5.1các mặt làm được Nhờ sự nỗ lực phấn đấu của các đồng chí lãnh đạo và toàn thể cán bộ công nhân viên nên sản xuất kinh doanh vẫn giữ vững, bước đầu triển khai công tác sản xuất để thực hiện định hướng vừa sản xuất, vừa kinh doanh, thu nhập tuy có giảm so với năm 2000 nhưng cơ bản vẫn giữ được ổn định, các đơn vị kinh doanh vẫn có thu nhập khá Về công tác đầu tư: Đã bước đầu chuyển động tốt, công tác giải ngân đang tiến hành có hiệu quả, công tác xây dựng cơ bản đã hoàn thành 1400m2 nhà xưởng Pháp Vân và đưa vào sản xuất kinh doanh. Đã hoàn thành 550m2 cửa hàng 231 Tôn Đức Thắng và đang quảng cáo cho thuê Về cơ chế quản lý công ty tiếp tục được thông thoáng tạo quyền chủ động hoàn toàn cho các đơn vị kinh doanh trên các mặt hàng kinh doanh, chủ động trên số vốn tài sản được giao, chủ động trong quyết sách thu chi và chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh ở đơn vị mình. Bộ phận văn phòng phục vụ , quản lý công ty bước đầu đã đi vào kinh doanh đang dần dần vươn lên tạo doanh thu và hiệu quả cho công ty 5.2. Tồn tại và nguyên nhân. Việc thực hiện chủ trương đẩy mạnh đầu tư vào lĩnh vực sản xuất còn chậm. Công tác đầu tư do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan còn gặp nhiều khó khăn, trong đó có nguyên nhân chậm do tư vấn và các thủ tục đầu tư mô hình công ty liên hiệp chưa rõ ràng nên biên chế gián tiếp đối với công ty chưa thay đổi được ảnh hưởng lớn đến tình hình quản lý cũng như thực hiện kế hoạc sản xuất kinh doanh của công ty. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, lãi suất ngày càng thấp kinh doanh gặp khó khăn, một số cán bộ kinh doanh chưa thích ứng kịp thời. 5.3. Kết quả các chỉ tiêu thu đua của các đơn vị nội bộ công ty năm 2001 Đơn vị Doanh thu So với Phải nộp NS Nộp quỹ quản lý CT BQ lương (ngđ) Hiệu quả kinh doanh KH Thực hiện KH 2000 KH lãi Thực hiện P. xe máy nội thất P. kinh doanh vật tư P. Xuất nhập khẩu Cửa hàng xe đạp Bộ phận SXKD-VP Cộng 18000 4500 20000 6000 11500 60000 16143 4471 18593 5393 15641 60241 93% 99% 93% 90% 143% 103 % 21% 99% 93% 88% 54% 10,3 13 21 152 -33 163,3 244, 9 8,76 161,6 187,2 681,3 808 998,8 1295 732 3833,8 0 12 16 0 28 -47.2 0 16 0 36,6 5,4 Kết qủa chọn lọc các đơn vị đã thống nhất bình bầu đơn vị khá nhất là phòng XNK có nhiều cố gắng hoàn thành các chỉ tiêu đầu năm, là đơn vị có kết quả và doanh thu cao nhất. Phòng kinh doanh vật tư, cửa hàng dịch vụ xe đạp cũng được chọn là đơn vị có cố gắng duy trì sản xuất kinh doanh đảm bảo thu nhập đời sống và không lỗ. Chương III một số giải pháp nâng cao lợi nhuận của công ty sản xuất -xuất nhập khẩu Hà Nội I. Định hướng phát triển của công ty trong thời gian tới 1. Nhận định tình hình năm 2002 1.1. Thuận lợi: Công ty sản xuất -xuất nhập khẩu Hà Nội mới chính thức ra đời vào năm 1995 nhưng tiền thân lại là nhà máy xe đạp Thống Nhất được thành lập vào những năm 1960. Bởi vậy trải qua quá trình hoạt động lâu dài công ty đã đúc kết ra nhiều kinh nghiệm quý báu cho mình, đội ngũ quản lý của công ty có nhiều kinh nghiệm. Điều này tạo ra một nền tảng vững chắc cho công ty trong kinh doanh đặc biệt trong điều kiện cạnh tranh hiện nay. Mặt khác do thời gian hoạt động lâu dài nên công ty có rất nhiều bạn hàng tin cậy luôn sẵn sàng cung ứng vật tư cho công ty . công ty có bộ máy quản lý hành chính gọn nhẹ, có tập thể năng động sáng tạo dám nghĩ, dám làm có kinh nghiệm trong buôn bán kinh doanh . Nhìn chung công ty luôn có sự đoàn kết nhất trí cao từ lãnh đạo đến đội ngũ công nhân viên, có hệ thống cơ cấu tổ chức sản xuất kinh doanh vận hành khá đồng bộ với quyết tâm xây dựng công ty ngày càng lớn mạnh Công ty là loại hình doanh nghiệp nhà nước nên được sự quan tâm giúp đỡ của uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội, sở khoa học công nghệ và môi trường….cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, tạo điều kiện cho công ty hoàn thành tốt nhiệm của mình. 1.2 Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi trên công ty cũng gặp phải nhiều khó khăn. mô hình công ty liên hiệp chưa rõ ràng nên biên chế gián tiếp đối với công ty chưa thay đổi được, điều này gây khó khăn cho công tác quản lý cũng như công tác tổ chức sản xuất kinh doanh. Tình trạng kỹ thuật của tài sản cố định của công ty đã lạc hậu, tuy công ty đang dần đổi mởinhưng không đồng bộ. Hầu hết máy móc thiết bị đã khấu hao hết, nhà xưởng chật hẹp đang bị xuống cấp. Công tác đầu tư công nghệ mới bắt đầu, sản phẩm dự kiến làm ra khâu tiêu thu chưa được chắc chắn. Công tác xuất khẩu gặp nhiều khó khăn, mặt hàng vật tư liên tục giảm giá, mặt hàng xe đạp bị cạnh tranh gay gắt không chỉ bởi hàng liên doanh mà còn bởi hàng lậu, hàng giả phát triển tràn lan chưa được kiểm soát chặt chẽ. 2. Phương hướng cụ thể năm 2002. Từ những khó khăn thuận lợi trên, căn cứ vào chủ trương chỉ đạo kế hoạch của thành phố năm 2002 công ty xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch như sau: lấy công tác sản xuất xe đạp, phụ tùng xe máy và tiêu thụ xe đạp, xe máy, vật tư làm chính kết hợp với đa dạng hoá kinh doanh các mặt hàng, phát huy thế mạnh uy tín về vốn vị thế kinh doanh và tính năng động sáng tạo của bộ máy tạo đủ việc làm cho cán bộ công nhân viên, nâng cao năng suất lao động , phấn đấu đạt mức thu nhập cao hơn năm trước và đóng góp đầy đủ cho ngân sách. đưa nhanh vào sử dụng cửa hàng 231 Tôn Đức Thắng hoàn thành cơ bản dự án sản xuất xe đạp và các sản phẩm cơ khí khác tại khu vực Pháp Vân, các thiết bị máy móc đầu tư được đưa ngay vầo sản xuất, chuẩn bị tốt thị trường tiêu thụ Mục tiêu cụ thể: Doanh thu tăng 20 % so với năm 2001 Bình quân thu nhập( người/ tháng) tăng 15 % Nộp ngân sách Xe đạp lắp ráp và tiêu thụ Lợi nhuận Các chỉ tiêu kế hoạch giao cho các đơn vị trong công ty. Chỉ tiêu được giao Đơn vị Lao động người Doanh thu Quỹ lương Quỹ QLCT Lãi (Tr) Quỹ lương BQ lương P. xe máy nội thất P. kinh doanh vật tư P. xuất nhập khẩu Cửa hàng xe đạp Bộ phận sản xuất kinh doanh văn phòng Cộng 7 4 4 20 50 85 18000 5400 23000 6200 19500 72100 108 70 77 170 500 925 1.285,7 1458,3 1604,2 708,3 888,3 1.106,9 296 95 130 176 377 1074 10 5 26 0 9 50 II. Một số giải pháp góp phần nâng cao lợi nhuận của công ty sản xuất -xuất nhập khẩu Hà Nội. Trong nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. Nhiệm vụ của các Doanh nghiệp là sản xuất lưu thông hàng hoá, đưa hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng, phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân đồng thời phải hạch toán kinh doanh có lãi- tức là có lợi nhuận. Đây chính là mục tiêu chủ yếu của mọi Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Trong thời gian thực tập tốt nghiệp tại công ty sản xuất -xuất nhập khẩu Hà Nội, qua nghiên cứu tìm hiểu thực tế họat động sản xuất kinh doanh của công ty tôi mạnh dạn đưa ra một số ý kiến suy nghĩ hi vọng sẽ góp phần nâng cao hiệu qủa kinh doanh cho công ty, giúp công ty có thể hoàn thành và vượt mức kế hoạch đề ra cho năm 2002 1. Thực hiện tốt công tác tài chính và hoàn thiện cơ chế quản lý của công ty Ngay từ đầu năm lãnh đạo công ty nên chỉ đạo soát toàn bộ quy chế đặc biệt là quy chế tài chính, cán bộ công nhân viên phải được tham gia góp ý kiến bổ xung, thay đổi quy chế cho phù hợp với thực tế. Các đơn vị phải chấp hành nghiêm chỉnh chế độ chứng từ, hoá đơn do nhà nước quy định. Hàng quý lãnh đạo công ty phải đi kiểm tra tình hình sản xuất kinh doanh của các đơn vị để chấn chỉnh kịp thời những mặt còn yếu kém, xử lý kịp thời những tồn đọng, tháo gỡ khó khăn cho các đơn vị. Tiếp tục tinh giảm hoá lực lượng lao động, tiến hành từng bước công tác tổ chức xắp xếp lại một số phòng ban, phân xưởng , bộ phận quản lý của công ty theo hướng hiệu quả: gọn, giảm, gián tiếp tăng cường cho bộ phận sản xuất kinh doanh Tổ chức động viên các đơn vị làm tốt công tác kinh doanh đã được phân công, phát huy thật tốt tinh thần năng động tự chủ, cụ thể là tìm mọi biện pháp khả năng để hoàn thành tốt các chỉ tiêu được giao.Các đồng chí lãnh đạo, các đơn vị nội bộ cần làm tốt công tác tư tưởng cho cán bộ công nhân viên thấy hết được khó khăn hiện tại, khai thác các thế mạnh hiện có, tìm tòi sáng tạo trong kinh doanh, thị trường để có nhiều mặt hàng mới, thị trường mới, phát triển đại lý, tăng cường bán lẻ, mở rộng nhiều hình thức kinh doanh, đẩy mạnh tìm tòi các loại dịch vụ mới. Các bộ phận chuyên môn nghiệp vụ phải nâng cao tinh thần trách nhiệm gắn liền với sản xuất kinh doanh tạo mọi điều kiện phục vụ sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Đây là biện pháp quan trọng nhất mang tính chất quyết định sự tồn tại của công ty trong năm 2002, tạo điều kiện không chỉ trong năm mà còn có tính lâu dài trong cả quá trình sản xuất kinh doanh các năm sau. 2. Đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh Trong cơ chế thị trường có 3 phương thức kinh doanh, chủ yếu là chuyên môn hoá, đa dạng hoá và kinh doanh tổng hợp. Trong đó đa dạng hoá là hình thức kinh doanh phổ biến và có hiệu quả nhất, nó vừa đảm bảo hạn chế rủi ro trong kinh doanh, vừa tạo điều kiên tập trung vào một số mặt hàng kinh doanh chủ đạo. Vì vậy , để nâng cao kết quả kinh doanh mỗi Doanh nghiệp cần xây dựng cho mình một cơ cấu kinh doanh hợp lý. Căn cứ vào hoạt động kinh doanh của công ty sản xuất -xuất nhập khẩu Hà Nội thì xe đạp và xe máy là mặt hàng kinh doanh chính, chiếm 80 % tổng doanh thu. Như vậy công ty chưa thực hiện đa dạng hoá mặt hàng còn tập trung vào mặt hàng xe đạp và xe máy, rủi ro kinh doanh khá cao nếu như có sự thay đổi về chính sách XNK của nhà nước hay nhu cầu thị trường biến động mạnh. Bởi vậy năm qua khi số lượng tiêu thụ xe đạp giảm 2090 cái và 2596 chiếc xe máy đã làm cho doanh thu giảm mạnh giảm 55065 (tr đồng) ứng với 47,7 % Xuất phát từ thực tế đó công ty cần đa dạng hóa mặt hàng kinh doanh, xây dựng cơ cấu mặt hàng theo hướng sau: Lấy sản xuất xe đạp, phụ tùng xe máy và tiêu thụ xe đạp xe máy nội thất, vật tư và các sản phẩm cơ khí tiêu dùng khác trên nền sản xuất xe đạp làm chính để phát huy thế mạnh về uy tín, vốn , vị thế kinh doanh. Mặt hàng xe đạp là mặt hàng truyền thống của công ty và là sản phẩm có uy tín trên thị trường nên cần chú trọng đến cải tiến mẫu mã, chất lượng, giá cả và nếu công ty có biện pháp tích cực nâng cao chất lượng sản phẩm, cung cấp dịch vụ sau bán hàng (bảo hành, sửa chữa...) thì đây vẫn là mặt hàng đem lại nguồn thu ổn định. Duy trì sự phát triển sản xuất kinh doanh mặt hàng xe máy, xác định đây là mặt hàng kinh doanh chủ đạo của công ty trong những năm tới. Công ty cần tăng cường các dịch vụ hỗ trợ bán hàng đặc biệt bảo hành thông qua mua bán trả góp, đồng thời xây dựng kế hoạch sản xuất khung xe máy, phụ tùng xe máy, xe đạp trẻ em và kế hoạch nhập khẩu linh kiện, lắp đặt xe máy một cách khoa học đảm bảo cung cấp kịp thời sản phẩm cho khách hàng. Ngoài ra công ty cũng nên đẩy mạnh tiêu thụ các mặt hàng mới như ô tô tải , xăm lốp.... để hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty ngày càng đạt hiệu quả cao hơn. 3. Đẩy mạnh công tác Marketing Nói đến hoạt động kinh doanh thương mại phải nói đến thị trường tiêu thụ. Mở rộng và phát triển thị trường tiêu thu là biện pháp tối ưu để tiêu thụ sản phẩm, giải quyết nhanh chóng hàng tồn đọng và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Công tác Marketing đã và đang được quan tâm chứng tỏ tính hữu hiệu của nó đối với toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, Marketing tại công ty hiện nay chưa có cơ cấu độc lập do vậy công ty nên thành lập phòng Marketing. Trước mắt công ty nên yêu cầu mỗi đơn vị trực thuộc lựa chọn cử một người có năng lực giao tiếp, có chuyên môn làm công tác tiếp thị để thành lập ra bộ phận Marketing đặt dưới sự lãnh đạo của phó giám đốc kinh doanh với chức năng: - Nghiên cứu điều tra một cách tổng hợp nhu cầu sản phẩm hàng hoá của công ty, nghiên cứu mức độ tính chất và khả năng cạnh tranh của các sản phẩm hàng hoá đó. - Đôn đốc việc bán hàng, thanh toán tiền hàng với các đại lý, kiểm tra khả năng thanh toán của các bạn hàng, đặc biệt với các đơn vị chưa có khả năng thanh toán ngay. Tăng cường công tác xúc tiến, quảng cáo yểm trợ bán hàng nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ. Việc nghiên cứu thị trường có thể gián tiếp thông qua tài liệu, giấy tờ báo cáo của hội nghi tổng quát cuối năm, qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc nghiên cứu trực tiếp thông qua phóng vấn trực tiếp khách hàng. Chỉ có trên cơ sở nghiên cứu kỹ thị trường kết hợp với quảng cáo xúc tiến bán hàng thực hiện tốt các dịch vụ sau bán hàng và đa dạng hoá các phương thức thanh toán công ty mới có thể thực hiện tốt việc tiêu thụ hàng hoá, mở rộng thị trường tăng khă năng cạnh tranh và đem lại lợi nhuận cho công ty . 4. Nâng cao trình độ tay nghề cho cán bộ công nhân viên. Đối với công ty sản xuất -xuất nhập khẩu Hà Nội, do đặc thù của mình công ty vừa tiến hành hoạt động sản xuất, vừa tiến hành hoạt động kinh doanh thương mại nên việc nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân viên là việc làm cần thiết và nó bao gồm: Nâng cao tay nghề cho công nhân trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất . Nâng cao trình độ cho nhân viên quản lý. Nâng cao trình độ cho nhân viên bán hàng Để thực hiện giải pháp này trước hết: + Đối với công nhân trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất: Công ty nên định kỳ tổ chức các lớp học nâng cao tay nghề sao cho trình độ của công nhân phù hợp với quy trình công nghệ mới. Đảm bảo sự kết hợp nhịp nhàng, ăn khớp giữa người điều khiển với máy móc, thiết bị, nâng cao năng suất lao động nhưng vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm, góp phần hạ giá thành, nâng cao lợi nhuận cho công ty. + Đối với nhân viên quản lý và cán bộ nghiệp vụ: Công ty khuyến khích tài trợ cho họ tham gia vào các lớp học, khoá học phù hợp nhằm nâng cao trình độ quản lý và trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Cụ thể như: Với các nhân viên kế toán, ngoài việc tham gia vào các buổi học phổ biến quy chế mới, công ty nên cử họ đến với các khoá tin học để làm bước đệm thuận lợi cho việc thực hiện kế toán trên máy. Với phòng XNK, kinh doanh vật tư và xe máy nội thất thì bên cạnh việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ công ty nên khuyến khích các nhân viên nâng cao trình độ ngoại ngữ nhất là tiếng Anh, Trung Quốc để tạo điều kiện thuận lợi trong việc giao tiếp, ký kết hợp đồng với các đối tác nước ngoài làm tăng hiệu qủa công việc, từ đó tăng lợi nhuận cho công ty + Đối với nhân viên bán hàng: Trong vài năm gân đây mặc dù chỉ có cửa hàng kinh doanh dịch vụ tiến hành hoạt động bán lẻ hàng hoá, sản phẩm nhưng chưa một năm nào cửa hàng hoạt động có lãi mà chỉ hoà vốn hoặc thua lỗ. Có rất nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân chủ yếu là do nhân viên bán hàng còn thiếu kinh nghiêm và trình độ. Bởi vậy, sang năm tới công ty nên tiêu chuẩn hoá nhân viên bán hàng. Do đặc điểm mặt hàng kinh doanh chủ yếu của công ty là xe đạp và xe máy nên bên cạnh việc nâng cao trình độ nhân viên cũ cần tuyển thêm nhân viên mới năng động nhiệt tình trong công việc,lịch sự trong giao tiếp và phải có sự hiểu biết nhất định về những mặt hàng này để có thể giới thiệu thuyết phục khách hàng sử dụng sản phẩm của công ty. Ngoài ra công ty cần tiếp tục duy trì việc bình bầu thi đua, phát động những phong trào thi đua, đưa ra những phần thưởng vật chất phù hợp để động viên những cán bộ công nhân viên đã có thành tích tốt, sáng kiến hay góp phần vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty. Tạo ra trong công ty không khí làm việc thoải mái thi đua lành mạnh. Khuyến khích công nhân viên tự học hỏi nghiên cứu, trao dồi kiến thức để trình độ tay nghề ngày càng được nâng cao. 5. Phát triển mở rộng liên doanh, liên kết Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển được bền vững trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì không thể đơn phương độc mã mà bắt buộc doanh nghiệp phải mở rộng liên doanh liên kết với các đơn vị kinh tế khác. Bởi liên doanh, liên kết sẽ giúp doanh nghiệp tận dụng được mọi nguồn lực sẵn có và san sẻ bớt những khó khăn cho đối tác liên doanh. Công ty sản xuất -xuất nhập khẩu Hà Nội là một tế bào của nền kinh tế nên không thể nằm ngoài quy luật này. Trong những năm tới, bên cạnh việc tiếp tục củng cố và phát triển mối quan hệ với các đối tác liên doanh cũ như: công ty cổ phần Phương Đông, công ty trách nhiệm hữu hạn Nhất Nguyên để phát triển công tác tổng đại lý xe đạp, xe máy nhằm thu được lợi nhuận lớn hơn năm trước đồng thời công ty cũng nên tìm kiếm, lựa chọn những cá nhân, đơn vị kinh tế có điều kiện thích hợp hay có khả năng về vốn để cùng hợp tác đầu tư sản xuất phụ tùng xe máy, đồ dùng nội thất,xe đạp trẻ em. Bên cạnh đó công ty cũng nên mở rộng các đại lý mới trên toàn quốc. Cụ thể đối với mặt hàng xe đạp, xe máy Trung Quốc công ty nên cử cán bộ về liên hệ và tìm hiểu những tỉnh, huyện, vùng ven đô...có đời sống khá cao bởi xe đạp và xe máy Trung Quốc là những mặt hàng có mẫu mã ,giá cả phù hợp với người đân ở đây. 6. Quản lý tốt các khoản công nợ Đối với các khoản phải thu: dựa vào tình hình thực tế chúng ta thấy các khoản phải thu chiếm tỷ trọng tương đối lớn: năm 2000 là 47 % và năm 2001 là 25,1 % trong tổng số vốn lưu động, trong đó các khoản phải thu của khách hàng lại chiếm khoảng 90 % các khoản phải thu. Biết rằng bán chịu hàng hoá là một phương thức làm tăng tốc độ tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp nhưng không vì thế mà buông lỏng công tác quản lý các khoản phải thu. Thực hiện tốt việc thu hồi công nợ sẽ giúp cho công ty tăng nhanh vòng quay các khoản phải thu, góp phần bổ xung vốn lưu động và tănh hiệu quả sử dụng vốn Trong thời gian tới công ty cần đẩy mạnh việc thu hồi công nợ bằng cách theo dõi chặt chẽ thời hạn các khoản nợ đặc biệt là các khoản nợ cũ mà khách hàng và các đơn vị kinh tế khác còn chiếm dụng. Trước khi quyết định cho khách hàng nợ công ty cần nắm vững khả năng tài chính của họ đồng thời công ty cũng cần dựa trên khả năng tài chính của mình đây là yếu tố quyết định cho việc xác định thời hạn tín dụng mà công ty dành cho khách hàng. Công ty chỉ cho khách hàng hưởng điều kiện tín dụng khi mà điều kiện tài chính của công ty cho phép tức là khi khách hàng trả chậm công ty vẫn có thể sử dụng các khoản vốn hoạt động được một cách bình thường và có thể thanh toán các khoản nợ đến hạn. Đối với các khoản phải trả: trong nền kinh tế thị trường việc sử dụng linh hoạt các khoản vốn là một yếu tố quan trọng. Thực tế cho thấy các khoản phải trả dù lớn nhưng chưa hẳn đã xấu nhưng nhìn vào các khoản phải trả người ta có thể đánh giá được phần nào khả năng tự chủ về tài chính của công ty. Tuỳ thuộc vào tình hình kinh doanh mà công ty nên tính toán các khoản phải trả, thời hạn trả sao cho hợp lý để giữ uy tín với khách hàng, ngân hàng rủi ro cho công ty. Trong năm qua tỷ lệ các khoản phải trả chiếm 41,6 % và có xu hướng ngày càng giảm, điều này thể hiện khả năng tự chủ tài chính của công ty ngày càng tăng lên. Tuy nhiên, trong điều kiện vốn kinh doanh còn hạn chế để bổ xung nguồn vốn kinh doanh đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất,công ty nên có giải pháp hữu hiệu như huy động vốn của cán bộ công nhân viên, tăng hợp lý khoản chiếm dụng của người bán và các đơn vị khác. 7. Tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Chi phí là một trong những yếu tố xác định nên lợi nhuận do vậy tiết kiệm chi phí hạ giá thành sản phẩm là nguồn quan trọng để nâng cao lợi nhuận. Từ đó việc sử dụng hợp lý các khoản chi phí đồng thời tránh lãng phí là mục tiêu mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng cần phải đạt được. Xuất phát từ thực trạng hoạt động công ty trong những năm qua ta thấy chi phí đặc biệt là chi phí giá vốn còn ở mức cao so với doanh thu ( năm nào cũng chiếm trên 90 % ) và chi phí quản lý doanh nghiệp cũng quá lớn. Trước tình hình đó công ty cần thực hiện các giải pháp sau: - Tổ chức tốt quá trình mua vào bán ra và quản lý hàng hợp lý để giảm bớt tối đa các chi phí bảo quản, bảo dưỡng các loại hàng hoá vật tư ứ đọng kém phẩm chất. Đối với hàng hoá này một mặt công ty nên hạ giá bán nhằm thu lại một phần vốn đã bỏ ra, mặt khác công ty có thể sử dụng chúng làm hàng khuyến mại khi bán các sản phẩm hàng hoá vừa để giải phóng kho bãi lấy chỗ dự trữ sản phẩm hàng hoá mới vừa khuyến khích khách hàng mua sản phẩm của công ty. Thực hiện tiết kiệm các khoản chi phí gián tiếp ( chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp ), tăng cường chi cho các hoạt động bán hàng như quảng cáo , nghiên cứu thị trường, và quản lý chặt chẽ các khoản chi phí như chi phí văn phòng, chi phí tiếp khách…. đồng thời công ty cần phấn đấu hạ thấp chi phí dịch vụ mua ngoài: tiết kiệm nước, điện thoại đặc biệt đối với điện thoại di động. - Ngoài ra công ty nên thực hiện tốt các quy định của nhà nước, thực hiện đúng theo hợp đồng đã ký kết để giảm bớt các khoản chi phí không đáng có, góp phần hạ giá thành sản phẩm và làm tăng lợi nhuận cho công ty. III. Một số kiến nghị với cơ quan cấp trên. 1. Đối với Nhà nước: Nhà nước cần quan tâm giúp đỡ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn về hoạt động kinh doanh trong phạm vi thẩm quyền nhất là có biện pháp quản lý hàng nhập ngoại, hàng lậu thuế như xe đạp và phụ tùng xe máy. Đề nghị Nhà nước giảm thuế nhập khẩu đối với vật tư chuyên dùng sản xuất ngành xe đạp. - Giảm thuế VAT đối với ngành hàng sản xuất cơ khí tiêu dùng xuống 5%. Đối với các mặt hàng cơ khí đây là mặt hàng đang còn khó khăn ở nước ta để góp phần thúc đẩy ngành công nghiệp nặng phát triển. - Các dự án đầu tư xe đạp cho tới nay vẫn chưa được hưởng những ưu đãi cao nhất. Đề nghị Nhà nước có nhiều biện pháp quan tâm hơn nữa tới ngành hàng sản xuất này. - Quyết toán thuế kịp thời để doanh nghiệp điều chỉnh số dư đầu năm thuận tiện cho hạch toán kinh tế. 2. Đối với nội bộ liên hiệp + Về sản phẩm: Hiện nay để đáp ứng nhu cầu thị trường, công thức lắp xe máy của các đơn vị hoàn toàn khác nhau. Chính những công thức này là đặc thù của các loại xe như: Xuân Hoà, Thống Nhất, VIHA... Vì vậy, các đơn vị nên công bố công thức lắp xe của mình để từ đó làm cơ sở thống nhất các công thức lắp xe trong toàn liên hiệp, có như vậy chúng ta mới có thể dễ dàng phát hiện những xe giả, xe nhái. + Các đơn vị công bố giá bán trên thị trường cho các loại xe, tỷ lệ hoa hồng cho các đại lý ở các địa bàn khác nhau, và cam kết chống phá giá. + Về thị trường: Để chống lại sự cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường đề nghị LIXEHA phải thường xuyên phối kết hợp tác với các cơ quan chức năng tại các địa phương để chống nạn hàng giả, hàng nhái và nên thành lập một quỹ để chi phí cho công việc này mà các thành viên có trách nhiệm đống góp, các đơn vị cần phải tôn trọng thị trường của nhau. 3. Đối với Ngân hàng: Ngân hàng cần có chính sách lãi suất hợp lý, cần thi hành thông tin của Nhà nước về việc giảm lãi suất cho vay đối với các sản phẩm cơ khí từ 0,7%/năm xuống 0,4%/năm nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty trong việc huy động vốn đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Kết luận Lợi nhuận giữ vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có tồn tại và phát triển được hay không thì điều quan trọng là doanh nghiệp đó có tạo ra được lợi nhuận hay không. Lợi nhuận đã trở thành đòn bẩy kinh tế quan trọng đồng thời là một chỉ tiêu kinh tế cơ bản đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp. Vì vậy nó đòi hỏi người quản lý kinh doanh phải quản lý điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả và lợi nhuận không ngừng tăng. Xuất phát từ thực tiễn tổ chức quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình thực hiện lợi nhuận của Công ty sản xuất – xuất nhập khẩu xe đạp xe máy Hà Nội em thấy rằng vấn đề này đã đang và sẽ tiếp tục được quan tâm giải quyết. Công ty đã đưa ra được một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng lợi nhuận doanh nghiệp và gặt hái thành công đáng kể. Sau khi tìm hiểu hoạt động kinh doanh, dựa trên tồn tại phát hiện được em mạnh dạn đưa ra các biện pháp góp phần làm lợi nhuận cho Công ty. Tuy nhiên các biện pháp còn mang nặng tính lý thuyết và để thực hiện các biện pháp này cần phải đưa ra các giải pháp cụ thể hơn nữa và đòi hỏi phải có sự nổ lực cố gắng của ban lãnh đạo và tập thể cán bộ công nhân viên trong Công ty. Do trình độ bản thân có hạn nên bản luận văn này không thể tránh khỏi thiếu sót. Do vậy em mong các thầy cô giáo và các bạn đóng góp ý kiến phê bình để bản luận văn được hoàn thiện hơn. Một lần nữa qua bản luận văn này cho phép em được gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới các thầy cô giáo trong tổ bộ môn tài chính – khoa kế toán tài chính trường Đại học tài chính cùng các cô chú trong Công ty sản xuất- xuất nhập khẩu xe đạp xe máy Hà Nội, đặc biệt là thầy Nguyễn Đình Kiệm đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn em hoàn thành bản luận văn này.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0067.doc
Tài liệu liên quan