Qua kết cấu mà nguồn hình thành lợi nhuận của doanh nghiệp, ta thấy lợi nhuận là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp nói nên kết quả của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh, nó phản ánh một cách tổng hợp các mặt: cung cấp, sản xuất và tiêu thụ của doanh nghiệp.
Tuy nhiên lợi nhuận không phải là chỉ tiêu duy nhất để đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như để so sánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp khác nhau hay trong cùng doanh nghiệp giữa các thời kỳ khác nhau. Bởi chỉ tiêu này chưa cho ta thấy được mối quan hệ giữa lợi nhuận thu được với số vốn doanh nghiệp đã sử dụng, cũng như giá thành sản phẩm như thế nào và mối quan hệ với doanh nghiệp ra sao. Mặt khác lợi nhuận là kết quả ài chính cuối cùng do đó chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, có nhân tố chủ quan, có nhân tố khách quan và đôi khi có bù trừ lẫn nhau.
30 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1065 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lợi nhuận và những biện pháp cơ bản góp phần nâng cao lợi nhuận ở công ty xây dựng - 17, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Hiệu qủa là vấn đề cơ bản sản xuất kinh doanh của một hình thái kinh tế xã hội. Các chủ thể tham gia vào nền kinh tế tiến hành sản xuất kinh doanh phải đặc mục tiêu hiệu quả lên hàng đầu cùng với nâng cao năng suất và chất lượng. Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả là doanh nghiệp thoả mãn tối đa nhu cầu về hàng hoá - dịch vụ của xã hội trong giới hạn cho phép của nguồn lực hiện có và thu được nhiều lợi nhuận nhất, đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất. Như vậy có thể nói mục đích chính của sản xuất kinh doanh là lợi nhuận. Mục đích lợi nhuận là mục tiêu trước mắt, lâu dài và thường xuyên của hoạt động sản xuất kinh doanh và nó cũng là nguồn động lực của sản xuất kinh doanh.
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây với chế độ hạch toán kinh tế mang nặng tính hình thức...hoạt động đã được kế hoạch trước trên cơ sở cân đối thu chi từ một trung tâm chỉ huy và giao kế hoạch chỉ tiêu cho từng đơn vị. Lãi nộp Nhà nước bù. Dẫn đến tình trạng lãi giả, lỗ thật triệt tiêu động lực sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, kìm hãm sử phát triển của các doanh nghiệp và tăng trưởng nền kinh tế.
Kể từ khi đối mới, nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường với chế độ hạch toán kinh doanh đúng thực chất thì các vấn đề sản xuất kinh doanh đều được giải quyết thông qua thị trường. Doanh nghiệp có điều kiện chủ động trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, nhằm tìm kiếm lợi nhuận cao nhất trên cơ sở khai thác các khả năng hiện có. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp muốn tồn tại vàphát triển được cần phải tạo ra lợi nhuận. Vì vậy yêu cầu đặt ra cho các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh và phải đảm bảo có lợi nhuận và lợi nhuận cao.
Xuất phát từ lý luận đó, trong thời gian thưc tập tại công ty XD 17 - Tổng công ty XD trường sơn - Bộ QP - với sự giúp đỡ của các cán bộ phòng tài chính - kế toán tôi đã đi sâu nghiên cứu đề tài: "Lợi nhuận và những biện pháp cơ bản góp phần nâng cao lợi nhuận ở công ty XD - 17".
Nội dung nghiên cứu gồm 3 chương:
Chương I - Lợi nhuận và sự phát triển của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Chương II - Tình hình thực hiện lợi nhuận và các biện pháp tăng lợi nhuận ở công ty XD - 17
Chương III - Một số kiến nghị nhằm tăng lợi nhuận ở công ty XD - 17
Chương I
Lợi nhuận và sự phát triển của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
I. Lợi nhuận và phân tích chỉ tiêu lợi nhuận
1. Lợi nhuận của doanh nghiệp
a. Khái niệm lợi nhuận và các nhân tố tác động
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tiền riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được thành lập nhằm mục đích thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh.
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ góc độ doanh nghiệp thì lợi nhuận của doanh nghiệp là khoản chênh lệch giữa doanh thu và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Lợi nhuận là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh toàn bộ hiệu quả của qúa trình kinh doanh kể từ khi bắt đầu tìmkiếm nhu cầu thị trường, chuẩn bị và tổ chức qúa trình kinh doanh, đến khâu tổ chức bán hàng và giao dịch cho thị trường. Nó phản ánh cả về mặt số lượng và mặt chất của quá trình kinh doanh.
Lợi nhuận của doanh nghiệp chịu tác động của nhiều nhân tố:
- Trước hết là quy mô sản xuất hàng hoá, dịch vụ. Quan hệ cung cầu về hàng hoá thay đổi sẽ làm cho giá cả thay đổi. Điều đó ảnh hưởng trực tiếp đên việc quyết định quy mô sản xuất và tác động trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Hai là giá cả và chất lượng của các yếu tố đầu vào (lao động, nguyên vật liệu, trang thiết bị công nghệ) và phương pháp kết hợp các đầu vào trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Những vấn đề này tác động trực tiếp đến chi phí sản xuất và đương nhiên sẽ tác động đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Giá bán hàng hoá, dịch vụ cùng toàn bộ hoạt động nhằm thúc đẩy nhanh quá trình tiêu thụ và thu hồi vốn, đặc biệt là hoạt động Marketing và công tác tài chính của doanh nghiệp.
Do tính chất của lợi nhuận nên doanh nghiệp luôn phải có chiến lược và phương án kinh doanh tổng hợp, đồng bộ để không ngừng nâng cao lợi nhuận.
b. Nội dung của lợi nhuận
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đa dạng, mỗi hoạt động đều tạo ra lợi nhuận cho nó. Do đó lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm các phần khác nhau ứng với từng hoạt động sản xuất kinh doanh, gồm có:
- Lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh chính và phụ
Đây là khoản chênh lệch giữa doanh thu tiêu thụ và chi phí của khối lượng hàng hoá - dịch vụ và lao vụ thuộc các bộ phận. Lợi nhuận này là phần cơ bản nhất, chủ yếu nhất trong tổng lợi nhuận của doanh nghiệp sản xuất, vì nó thường chiếm tỷ trọng lớn nhất và có ý nghĩa quyết định đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Lợi nhuận thu được từ các hoạt động liên doanh liên kết .
Đây là phần thu được do phân chia từ kết quả của hoạt động liên doanh với chi phí của đơn vị đã bỏ ra để tham gia liên doanh. Trước đây hoạt động này chưa phổ biến nên lợi nhuận này chưa đáng kể. Nhưng trong giai đoạn hiện nay, với cơ chế kinh tế mới sản xuất gắn với thị trường, các doanh nghiệp có quyền tự chủ trong kinh doanh, hoạt động này có xu hướng ngày càng phát triển. Do đó nguồn này càng góp phần đáng kể trong tổng lợi nhuận của donah nghiệp.
- Lợi nhuận thu được do các nghiệp vụ tài chính.
Đây là chênh lệch giữa các khoản thu và chi có tính chất nghiệp vụ tài chính trong qúa trình hoạt động sản xuất kinh doanh như: Lãi tiền gửi ngân hàng, lãi tiền cho vay... khoản thu này chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng lợi nhuận.
- Lợi nhuận do các hoạt động khác mang lại như: Thanh lý, nhượng bán tài sản cố định...
Theo chế độ hạch toán doanh nghiệp ban hành tại nghị quyết 1141/QĐ/CĐKT ngày 01/11/1995 của Bộ Tài chính trong cả nước kể từ ngày 01/01/1996 thì lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm 3 bộ phận chính sau:
- Lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh:
Là khoản chênh lệch giữa doanh thu thuần với giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Trong đó:
+ Doanh thu thuần hoạt động sản xuất kinh doanh là chênh lệch giữa doanh thu bán hàng với các khoản giảm trừ( chiết khấu, giảm giá, giá trị hàng hoá bị trả lại, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu phải nộp).
+ Chi phí bán hàng là những chi phí thực tế phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, lao vụ, dịch vụ như: Chi phí vận chuyển, bốc dỡ, bao gói, quảng cáo...
+ Chi phí quản lý là các chi phí liên quan đến quản lý chung của doanh nghiệp bao gồm các khoản như: Chi phí kinh doanh, chi phí hành chính.
- Lợi nhuận hoạt động tài chính:
Là khoản chênh lệch giữa thu nhập của hoạt động tài chính với chi phí hoạt động tài chính.
+ Thu nhập hoạt động tài chính là khoản thu hoạt động đầu tư tài chính hoặc kinh doanh về vốn mang lại, bao gồm thu về hoạt động góp vốn liên doanh, hoạt động đầu tư mua bán chứng khoán ngắn hạn, dài hạn, thu từ tài sản cố định...
+ Chi phí hoạt động tài chính là những chi phí có liên quan đến các hoạt động tài chính như: chi phí liên doanh, lỗ liên doanh, giảm giá đầu tư chứng khoán và các khoản khác.
- Lợi nhuận bất thường:
Là khoản chênh lệch giữa các khoản thu nhập bất thường và chi phí bất thường.
+ Thu nhập bất thường là khoản thu mà doanh nghiệp không dự tính được không mang tính thường xuyên như: Thu và thanh lý tài sản cố định, thu về vi phạm hợp đồng kinh tế, các khoản nợ khó đòi đã được sử lý...
+ Chi phí bất thường là những chi phí liên quan đến hoạt động bất thường bao gồm chi phí thanh lá nhượng bán tài sản cố định, tiến bán do vi phạm hợp đồng kinh tế, bị phạt thuế, các khoản chi do kế toán bị nhầm hay bỏ sót khi vào sổ, truy nộp thuế...
Tổng cộng ba khoản lợi nhuận trên cho ta tổng lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp.
2. Phân tích chỉ tiêu lợi nhuận.
Qua kết cấu mà nguồn hình thành lợi nhuận của doanh nghiệp, ta thấy lợi nhuận là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp nói nên kết quả của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh, nó phản ánh một cách tổng hợp các mặt: cung cấp, sản xuất và tiêu thụ của doanh nghiệp.
Tuy nhiên lợi nhuận không phải là chỉ tiêu duy nhất để đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như để so sánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp khác nhau hay trong cùng doanh nghiệp giữa các thời kỳ khác nhau. Bởi chỉ tiêu này chưa cho ta thấy được mối quan hệ giữa lợi nhuận thu được với số vốn doanh nghiệp đã sử dụng, cũng như giá thành sản phẩm như thế nào và mối quan hệ với doanh nghiệp ra sao. Mặt khác lợi nhuận là kết quả ài chính cuối cùng do đó chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, có nhân tố chủ quan, có nhân tố khách quan và đôi khi có bù trừ lẫn nhau.
Để đánh giá, so sánh chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp, ngoài việc sử dụng chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối còn dùng chỉ tiêu tương đối, đó là các tỉ suất lợi nhuận hay hệ số sinh lời.
Tỉ suất lợi nhuận là chỉ tiêu tương đối cho phép so sánh hiệu quả sản xuất kinh doanh giữa các thời kỳ khác nhau trong một doanh nghiệp hay giữa các doanh nghiệp. Mức tỷ xuất lợi nhuận (doanh lợi) càng cao thì sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp càng có hiệu quả.
a. Tỉ suất lợi nhuận vốn:
Là quan hệ tỉ lệ giữa lợi nhuận đạt được với số vốn sử dụng bảo quản trong kỳ (vốn cố định và vốn lưu động).
TSV = 100
TSV: Tỷ suất lợi nhuận vốn
P: Lợi nhuân vốn trong kỳ
Vbq: tổng vốn sản xuất sử dụng bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh cứ 100đ vốn kinh doanh trong kỳ thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Việc sử dụng chỉ tiêu sử dụng lợi nhuận vốn nói lên trình độ tài sản vật tư, tiền tệ của doanh nghiệp, thông qua đó kích thích doanh nghiệp tìm ra khả năng tiềm tàng quản lý và dùng vốn đạt hiệu quả cao.
b. Tỷ suất lợi nhuận giá thành.
Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận tiêu thụ so với giá thành của toàn bộ sản phẩm tiêu thụ.
Ts2 = 100
Ts2: Tỷ suất lợi nhuận giá thành
P: Lợi nhuận tiêu thụ trong kỳ
Zt: giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá tiêu thụ trong kỳ.
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả của việc quản lý giá thành cụ thể: cứ 100đ chỉ phải bỏ ra được sử dụng để sản xuất và tiêu thụ một đơn vị sản phẩm đem lại được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Khi xác định chỉ tiêu này cần tính tỷ suất lợi nhuận giá thành riêng cho từng loại sản phẩm và tính chung cho toàn bộ sản phẩm tiêu thụ của doanh nghiệp.
c. Tỷ suất lợi nhuận doanh thu bán hàng
Là quan hệ tỉ lệ giữa lợi nhuận tiêu thụ và doanh thu bán hàng trong kỳ.
Tst = 100
Tst: Tỉ suất lợi nhuận doanh thu bán hàng
Pt: Lợi nhuận tiêu thụ trong kỳ
T: Doanh thu tiêu thụ trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh kêt quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Qua chỉ tiêu này cho thấy trong 100đ doanh thu có bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Nếu tỉ suất này thấp hơn tỉ suất của ngành chứng tỏ doanh nghiệp bán hàng với giá thấp hoặc do gía thành của doanh nghiệp cao hơn so với các doanh nghiệp cùng ngành. Ngươc lại tỷ suất nâng cao hơn tỷ suất của ngành chứng tỏ doanh nghiệp bán hàng với giá thấp hoặc do giá thành của doanh nghiệp thấp hơn so với giá thành của doanh nghiệp cùng ngành.
d. Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu.
So với người cho vay, thì việc bỏ vốn vào hoạt động sản xuất kinh doanh của chủ sở hữu mang tính mạo hiểm nhưng lại có cơ hội mang lại lợi nhuận lớn. Chỉ tiêu tỷ xuất lợi nhuận vốn chủ sở hữu được dùng làm thước đo mức doanh lợi trên mức đầu tư của chủ sở hữu. Đó là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận ròng với vốn tự có của doanh nghiệp:
Tsvc = 100
Tsvc: Tỉ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu
Pr: Lợi nhuận ròng trong kỳ
Vsh: Vốn chủ sở hữu bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này cho thấy có bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng trong 100đ vốn chủ sở hữu.
Tóm lại thông qua các chỉ tiêu về tỉ suất lợi nhuận có thể đánh giá một cách tương đối đầy đủvà chính xác tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó có thể so sánh, đánh giá một cách hoàn chỉnh hơn giữa các doanh nghiệp. Để thực hiện tốt và có hiệu quả cao đòi hỏi các doanh nghiệp phải biết kết hợp chặt chẽ hai chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối và lợi nhuận tương đối.
II. Phấn đấu tăng lợi nhuận vấn đề tất yếu đối với mỗi doanh nghiệp.
Tối đa hoá lợi nhuận là mục tiêu của bất cứ doanh nghiệp nào trong nền kinh tế thị trường. Sự quan tâm chú ý của doanh nghiệp tới vấn đề lợi nhuận và tối đa hoá lợi nhuận là tất yếu khách quan, xuất phát từ những lý do chủ yếu sau:
1. Do vai trò của lợi nhuận đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Lợi nhuận là chỉ tiêu quan trọng trong phân tích hoạt động kinh tế. Lợi nhuận giữ vị trí trọng yếu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, lấy thu bù chi và có lãi, doanh nghiệp có tồn tại và phát triển được hay không đều dựa vào điều kiện doanh nghiệp có tạo ra lợi nhuận hay không. Do vậy lợi nhuận được coi là chỉ tiêu cơ bản đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
Lợi nhuận là đòn bẩy kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển. Lợi nhuận tác động đến tất cả các mặt hoạt động của doanh nghiệp. Tất cả mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều nhằm tăng doanh thu giảm chi phí tăng lợi nhuận. Ngược lại lợi nhuận cũng thúc đẩy các hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển, tạo ra động lực phát triển trên cơ sở tận dụng khả năng và tiềm lực hiện có.
Lợi nhuận góp phần tăng đầu tư tích luỹ tái mở rộng sản xuất cho doanh nghiệp. Trong cơ chế phân phối lợi nhuận hiện nay có tới 80% lợi nhuận còn lại được đầu tư vào quỹ đầu tư phát triển. Từ quỹ này doanh nghiệp có điều kiện bổ sung vốn cho qúa trình tái sản xuất kinh doanh, đầu tư máy móc thiết bị mở rộng quy mô phát triển chiều sâu trong sản xuất kinh doanh.
Lợi nhuận góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước. ở tầm vĩ mô trong nền kinh tế quốc dân, tăng lợi nhuận tạo điều kiện cho nền sản xuất xã hội phát triển ngày càng mạnh mẽ, đồng thời tạo thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước, thể hiện ở các khoản nộp thuế cho nhà nước, cũng như các nghĩa vụ khác của doanh nghiệp. Trên cơ sở các khoản thu này, ngân sách có điều kiện tập trung vốn mở rộng đầu tư, thành lập đơn vị sản xuất kinh doanh mới cũng như đầu tư phát triển các công trình phúc lợi xã hội.
2. Xuất phát từ yêu cầu quản lý tài chính doanh nghiệp của nhà nước.
Do yêu cầu của nguyên tắc hạch toán kinh doanh. Trước đây, trong thời ỳ bao cấp các vấn đề sản xuất của doanh nghiệp đều do nhà nước quyết định, bao cấp về vốn. Doanh nghiệp không phải tính đến hiệu quả kinh tế, lãi nộp nhà nước, lỗ nhà nước bù. Do đó lợi nhuận chưa trở thành thiết thực đối với doanh nghiệp. Song hiện nay khi nền kinh tế chuyển sang nền kinh tế thị trường thì các doanh nghiệp thực sự trở thành chủ thể trong kinh doanh tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp phải giải quyết các vấn đề sản xuất kinh doanh qua thị trường và tự cấp phát tài chính cho mọi nhu cầu sản xuất kinh doanh của mình. Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh những thứ mà thị trường cần thiết chứ không phải những thứ doanh nghiệp có, sao cho đạt doanh thu cao nhất, giảm chi phí, nhằm thu lợi nhuận cao nhất. Vì vậy lợi nhuận của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường vừa là mục tiêu, vừa là động lực trực tiếp của mỗi doanh nghiệp.
Do yêu cầu của việc bảo toàn và phát triển vốn. Để tiến hành sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải đầu tư tiền vốn và các yếu tố đầu vào khác. Để thực hiện quá trình tái sản xuất mở rộng doanh nghiệp phải thu hồi vốn đầu tư có lợi nhuận bổ sung vốn đầu tư cho phép tăng nguồn vốn và sản xuất kinh doanh.
Xuất phát từ những lý do trên mà trong thời kỳ hiện nay việc phấn đấu tăng lợi nhuận là một tất yêú khách quan đối với doanh nghiệp.
III. Các nhân tố ảnh hưởng và các biện pháp cơ bản làm tăng lợi nhuận.
1. Các nhân tố ảnh hưởng.
Trong tổng số lợi nhuận của doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm là bộ phận chủ yếu chiếm tỉ trọng lớn nhất do đó việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận về cơ bản là nghiên cứu các nhân tố đến lợi nhuận tiêu thụ sản phẩm.
Xuất phát từ công thức xác định lợi nhuận:
Pt = D - Zt - Th
Pt: Lợi nhuận tiêu thụ trong kỳ
D: doanh thu tiêu thụ trong kỳ
Zt: Là giá thành toàn bộ sản phẩm tiêu thụ trong kỳ
Th: Thuế gián thu trong kỳ
Từ công thức ta thấy lợi nhuận của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi doanh thu tiêu thụ, giá thành sản phẩm hàng hoá, dịch vụ và các khoản thuế gián thu phải nộp trong kỳ.
Doanh thu tiêu thụ là nhân tố ảnh hưởng tỉ lệ thuận với lợi nhuận. Doanh thu càng lớn thì lợi nhuận càng lớn và ngược lại doanh thu càng nhỏ thì lợi nhuận càng ít. Giá thành và thuế là nhân tố ảnh hưởng tỷ lệ nghịch với lợi nhuận. Giá thành và thuế cành cao thì lợi nhuận càng thấp và ngược lại. Doanh thu tiêu thụ và giá thành sản phẩm là các nhân tố có cấu thành phức tạp do đó biến động cuả các nhân tố này phụ thuộc vào các bộ phận cấu thành nên chúng.
a. Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến giá thành
Giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá được cấu thành theo công thức:
Zt = Zcx + QL + B
Zt: giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ trong kỳ
QL: Chi phí quan hệ doanh nghiệp
B: Chi phí tiêu thụ sản phẩm
Zcx: Giá thành công xưởng sản phẩm tiêu thụ.
Công thức này cho thấy ảnh hưởng để giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá tiêu thụ gồm có ba nhân tố:
- Giá thành công xưởng sản phẩm tiêu thụ: Là biểu hiện bằng tiền của những khoản chi phí sản xuất được tính vào giá thành của từng mặt hàng bao gồm:
+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Là các chi phí về nguyên vật liệu, nhiên liệu và động lực dùng trực tiếp cho sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp.
+ Chi phí nhân công trực tiếp: Là tiền lương thù lao phải trả cho số lao động trực tiếp chế tạo sản phẩm cùng các khoản trích cho các quỹ BHXH, BHYT, chi phí công đoàn theo tỷ lệ quy định phân tích vào chi phí kinh doanh.
+ Chi phí sản xuất chung: Là các chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng, bộ phận sản xuất trừ chi phí vật liệu và chi phí nhân công trực tiếp. Bao gồm: điện cho phân xưởng, khấu hao máy móc...
- Chi phí tiêu thụ sản phẩm: Là các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá bao gồm: tiền lương nhân viên bán hàng, chi phí vật liệu bao gói, dụng cụ bán hàng.
- Chi phí quản lý doanh nghiệp: Là các chi phí quản lý kinh doanh, quản lý hành chính và các chi phí chung khác có liên quan đến hoạt động của toàn doanh nghiệp như: tiền lương và phụ cấp cho nhân viên quản lý các phòng ban, lãi vay vốn kinh doanh, chi phí tiếp tân...
b. Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu tiêu thụ.
r
Doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá trong kỳ được xác định theo công thức:
D = ồ (Stigi)
i = 1
D: Là doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá trong kỳ
Sti: Khối lượng hàng hoá tiêu thụ trong kỳ
gi: Giá bán đơn vị sản phẩm hàng hoá
i: Loại sản phẩm hàng hoá tiêu thụ thứ i
Công thức trên cho thấy nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá do đó ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm:
- Khối lượng sản phẩm và tiêu thụ.
Trong điều kiện nhân tố khác không thay đổi, nếu khối lượng sản phẩm và tiêu thụ tăng lên và sẽ làm tăng doanh thu tiêu thụ dẫn tới trực tiếp làm tăng lợi nhuận tiêu thụ và ngược lại nếu khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ giảm xuống sẽ làm giảm doanh thu tiêu thụ dẫn đến giảm lợi nhuận tiêu thụ. Khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ phụ thuộc vào các yếu tố: quy mô sản xuất, dây truyền công nghệ, thị trường tiêu thụ... đây được coi là nhân tố ảnh hưởng chủ quan phản ánh sự cố gắng của doanh nghiệp trong công tác quản lý kinh doanh nói chung và quản lý lợi nhuận nói riêng.
- Chất lượng sản phẩm và tiêu thụ.
Đây là yếu tốt rất quan trọng ảnh hưởng tới doanh thu nên tiêu thụ thể hiện ở chỗ có thể thúc đẩy hay kìm hãm công tác tiêu thụ chất lượng sản phẩm tốt không chỉ làm tăng khả năng tiêu thụ mà còn có thể nâng cao giá bán, ngược lại chất lượng sản phẩm sấu thì chất lượng tiêu thụ thấp thì giá bán không cao. Ngoài việc là phương tiện hỗ trợ bán hàng thì chất lượng sản phẩm còn là một vũ khí cạnh tranh sát bén giữa các đối thủ trong nền kinh tế thị trường. Việc đảm bảo chất lượng sản phẩm ở mức cao sẽ tạo uy tín cho doanh nghiệp đối với khách hàng, đây là điều kiện cơ bản bảm đảm cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
+ Giá tiêu thụ sản phẩm:
Trong điều kiện các nhân tố khác thay đổi, giá bán đơn vị sản phẩm tăng lên làm doanh thu và do đó tăng lợi nhuận, ngược lại giá bán đơn vị sản phẩm làm giảm doanh thu và dẫn đến lợi nhuận giảm. Tuy nhiên trong cơ chế thị trường giá bán của sản phẩm thường được hình thành khách quan do quan hệ cung cầu trên thị trường quy định. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp không thể tự tăng giá cao hơn các mặt hàng cùng loại trên trị trường, cũng như giảm giá hơn các đối thủ. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước được Nhà nước ra chỉ tiêu sản xuất tiêu thụ một số mặt hàng nào đó thì giá bán này do Nhà nước quy định. Trong trường hợp này thì giá bán biến đổi dẫn đến lợi nhuận tiêu thụ biến đổi, nó được đánh giá là tác động khách quan đối với doanh nghiệp.
+ Kết cấu sản phẩm tiêu thụ:
Đối với các doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm, chi phí để sản xuất ra mỗi loại sản phẩm là khác nhau, mỗi loại sản phẩm tiêu thụ trong kỳ có mức lãi, lỗ khác nhau. Do đó trong điều kiện nhân tố khác không đổi việc biến đổi cơ cấu mặt hàng có thể làm tăng tỷ trọng của hàng hoá có mức lãi cao và làm giảm tỷ trọng hàng hoá có mức lãi thấp làm tổng lợi nhuận tiêu thụ tăng hoặc có thểlàm giảm tỉ trọng hàng hoá có mức lợi nhuận cao và làm tăng tỷ trọng có mức lợi nhuận thấp kết quả là làm giảm tổng lợi nhuận tiêu thụ.
Sự biến đổi kết cấu mặt hàng có thể do yếu tố chủ quan của doanh nghiệp tạo ra, song cũng có dựa vào sự biến động nhu cầu của thị trường. Trong trường hợp này doanh nghiệp phải điều chỉnh cho phù hợp với nhu cầu đó.
2. Các biện pháp cơ bản làm tăng lợi nhuận
Tăng lợi nhuận là tất yếu khách quan đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên ở các doanh nghiệp khác nhau trong các thời kỳ khác nhau có các biện pháp khác nhau để đạt được mục đích này. Nói chung để tăng lợi nhuận trong các đơn vị sản xuất kinh doanh hiện nay, có một số biện pháp cơ bản sau:
a. Nâng cao số lượng và chất lượng sản phẩm
Tiêu thụ là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất. Hoàn thành việc tiêu thụ sản phẩm là điều kiện để đảm bảo cho quá trình tái sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Kết quả của việc tiêu thụ sản phẩm phụ thuộc chủ yếu vào khối lượng và chất lượng sản phẩm tiêu thụ. Trong đó khối lượng và chất lượng sản phẩm sản xuất, tiêu thụ lại phụ thuộc rất nhiều vào các nhân tố như trình độ trang bị kỹ thuật...
Do đó để thực hiện tốt biện pháp này doanh nghiệp cần phải tiến hành các nội dung sau:
- Tăng cường đầu tư chiều sâu, hiện đại hoá máy móc thiết bị.
- Tổ chức quản lý và sử dụng hiệu quả lao động, đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ cho công nhân viên nhằm nâng cao năng suất lao động.
- Mở rộng mặt hàng sản xuất và đa dạng hoá sản phẩm
- Thúc đẩy qúa trình tiêu thu bằng các chính sách xúc tiến bán hàng, phát triển mạng lưới cung ứng sản phẩm và thực hiện dịch vụ.
b. Hạ giá thành sản phẩm
Hạ giá thành sản phẩm chính là giảm chi phí sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm đó. Nếu như giá bán và mức thuế đã xác định thì lợi nhuận đơn vị sản phẩm sẽ do giá thành sản phẩm quyết định. Để hạ giá thành sản phẩm cần thực hiện các nội dung sau:
- Tăng năng suất lao động: Là thực hiện tiết kiệm thời gian lao động hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm hay tăng số lượng sản phẩm trong một đơn vị thời gian.
Do năng suất lao động phụ thuộc nhiều yếu tố như: Trình độ trang bị máy móc thiết bị, trình độ tay nghề của lao động... do đó việc tăng năng suất lao động là cần phải:
+ Cải tiến máy móc thiết bị cho phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tạo tiền đề cho việc sản xuất sử dụng triệt để công suất máy móc thiết bị.
+ Tăng cường công tác sử dụng máy móc thiết bị để tăng năng suất lao động. Việc đẩy mạnh công tác sử dụng máy móc thiết bị tạo cho doanh nghiệp một tiềm năng khai thác. Việc tăng cường thời gian và công suất có thể làm tăng khấu hao máy móc thiết bị, nhưng số sản phẩm tạo ra được nhiều hơn nên số tiền khấu hao tính cho mỗi đơn vị sản phẩm giảm do đó làm giá thành đơn vị sản phẩm giảm.
+ Tổ chức lao động khoa học hợp lý, tạo ra sự kết hợp cân đối, hài hoà giữa các yếu tố sản xuất, giảm tình trạng lãng phí lao động,lãng phí giờ máy, có tác động thúc đẩy năng suất lao động.
+ Nâng cao trình độ nghiệp vụ, tay nghề, giáo dục ý thức trách nhiệm cho người lao động. Điều này cho phép nâng cao hiệu quả lao động, tổ chức xắp xếp lao động hợp lý, giảm lao động gián tiếp... từ đó giảm các chi phí quản lý và hạ gía thành sản phẩm. Đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị do công nhân nắm bắt thành thạo quá trình vận hành góp phần tăng năng suất lao động.
- Sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu. Chi phí nguyên vật liệu thường chiếm tỷ trọng cao hơn trong toàn bộ chi phí và giá thành sản phâmr của mỗi doanh nghiệp. Do đó, việc phấn đấu giảm chi phi nguyên vật liệu có ý nghĩa rất lớn đối với việc hạ giá thành sản phẩm. Doanh nghiệp cần căn cứ vào kế hoạch sản xuất để có kế hoạch thu mua dự trữ nguyên vật liệu hợp lý về số lượng, chủng loại, chất lượng đảm bảo cho quá trình sản xuất hiệu quả.
+ Doanh nghiệp cần làm tốt công tác quản lý sử dụng nguyên vật liệu, quản lý chặt chẽ từ khâu thu mua, vận chuyển đến khi đưa vào sản xuất. Cung ứng hiện định mức tiêu hao nguyên vật liệu phù hợp cho từng loại sản phẩm.
+ Cần áp dụng công nghệ mới sử dụng nguyên vật liệu thay thế rẻ tiền dễ khai thác trên cơ sở đảm bảo chất lượng sản phẩm.
+ Bên cạnh đó phải thường xuyên kiểm tra quá trình sản xuất để ngăn ngừa tổn thất hao hụt tự nhiên hoặc do sử dụng lãng phí vật tư có thể làm tăng giá thành.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tài sản.
Sử dụng vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh không chỉ là một hoạt động đơn thuần về thu chi tài chính mà thực chất còn là một nghệ thuật. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là việc sử dụng vốn sản xuất đem lại hiệu quả cao nhất. Đứng trên góc độ chu chuyển vốn, vốn kinh doanh bao gồm hai bộ phận chính: vốn lưu động và vốn cố định.
- Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động và vốn lưu thông (các loại vật tư, tiền vốn, thành phẩm). Sử dụng tốt vốn lưu động là nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất có tác dụng làm tăng vòng quay của vốn, vốn vật tư hàng hoá và vốn thành phẩm không bị ứ đọng, tránh mất mát hư hao, tiết kiệm được chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định.
Tài sản cố định dùng trong sản xuất kinh doanh tham gia hoàn toàn vào quá trình sản xuất kinh doanh, nhưng về mặt giá trị có thể thu hồi dần sau nhiều chu kỳ kinh doanh. Sử dụng tốt vốn cố định là nâng cao hiệu qủa sử dụng tài sản cố định, có biện pháp trích khấu hao phù hợp thu hồi đủ vốn ch các đầu tư tài sản cố định mà mở rộng tài sản cố định.
Trên đây là một số biện pháp cơ bản làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Trên thực tế mỗi doanh nghiệp có điều kiện sản xuất kinh doanh khác nhau vì vậy các doanh nghiệp phải căn cứ vào đặc điểm tình hình sản xuất kinh doanh của mình để đề ra các biện pháp tăng lợi nhuận hợp lý trong từng thời kỳ phù hợp với điều kiện của mình.
Để đi sâu vào nghiên cứu một cách cụ thể và chi tiết về lợi nhuận và một số biện pháp tăng lợi nhuận, chúng ta đi xem xét quá trình thực hiện lợi nhuận và biện pháp tăng lợi nhuận của công ty xây dựng 17.
Chương III
Một số kiến nghị nhằm tăng lợi nhuận ở công ty xây dựng 17
Qua phân tích hiệu quả sản xuất và tình hình thực hiện lợi nhuận của công ty xây dựng 17 trong năm 1999, có thể thấy rằng mặc dù phải hoạt động trong điều kiện khó khăn cạnh tranh gay gắt song với sự cố gắng, nỗ lực của tập thể cán bộ công nhân viên, Công ty đã đạt được những thành tích đáng kể, hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng được mở rộng, uy tín của Công ty ngày càng được khẳng định, tăng tích luỹ nội bộ, góp phần đáng kể cho ngân sách Nhà nước và không ngừng nâng cao đời sống vật chất cho người lao động.
Tuy vậy, bên cạnh những kết quả đạt được trong quá trình hoạt động Công ty còn bộc lộ nhiều hạn chế, có ảnh hưởng không tốt đến tình hình thực hiện sản xuất kinh doanh làm giảm hiệu quả cũng như lợi nhuận của Công ty như đã nêu ở trên (ở mục II.4 chương II).
Từ thực tế đã phân tích ở phần II chương II có thể nêu ra một số phương hướng, biện pháp cơ bản góp phần thúc đẩy làm tăng lợi nhuận ở Công ty như sau:
1. Đối với Công ty:
a. Đẩy mạnh công tác quản lý và nâng cao chất lượng các công trình.
Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường về cơ bản là sự cạnh tranh về chất lượng và giá bán. Chất lượng sản phẩm góp phần đảm bảo giá bán hợp lý là điều kiện tiên quyết tạo uy tín và chỗ đứng cho doanh nghiệp trên thị trường.
Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản như Công ty xây dựng 17, do đặc điểm của sản phẩm có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài nên vấn đề bảo đảm chất lượng công trình luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp.
Trong năm 1999 Công ty xây dựng 17 đã không ngừng mở rộng thị trường ra các tỉnh phía Nam và các tỉnh miền Trung. Đây là sự năng động và linh hoạt của công ty trong hoạt động sản xuất kinh doanh, mặt khác khẳng định uy tín của công ty trên thị trường. Việc tạo được uy tín là một thành công đối với công ty song để giữ được uy tín đó lại làvấn đề nan giải đặt ra cho công ty đòi hỏi công ty phải tăng cường hơn nữa trong công tác quản lý chất lượng cũng như nâng cao chất lượng công trình.
Để làm tốt điều này trong thời gian tới Công ty cần thực hiện các biện pháp sau:
- Đầu tư đổi mới máy móc thiết bị
Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và việc áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất là nhân tố cực kỳ quan trọng cho phép công ty nâng cao chất lượng thi công, đẩy nhanh tiến độ, tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu, từ đó tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Trong thời gian qua công ty đã có sự đầu tư mua máy móc thiết bị song vẫn chưa đáp ứng nhu cầu cho thi công nhiều công trình nhận thầu, hơn nữa số máy móc thiết bị này vẫn chưa hiện đại. Vì vậy số máy móc chuyên dùng cần đầu tư trong thời gian tới là khá lớn, điều này đặt ra cho doanh nghiệp một khó khăn là nguồn vốn đầu tư khá hạn hẹp. Để giải quyết khó khăn này công ty cần phải tổ chức khai thác huy động có hiệu quả các nguồn vốn trong thị trường:
+ Nguồn vốn bên trong: Công ty có thể sử dụng lợi nhuận được trích lập vào các quỹ (quỹ đầu tư phát triển) hoặc công ty có thể dùng số tiền trích khấu hao tài sản cố định được nhà nước cho phép để lại cho đầu tư đổi mới tài sản cố định.
+ Nguồn vốn bên ngoài: Khi nguồn vốn bên trong chưa đáp ứng đủ nhu cầu vốn, Công ty có thể huy động thêm vốn bên ngoài như:
Đề nghị Tổng công ty cấp thêm vốn. Để được cấp nguồn vốn này công ty cần giải quyết tốt các vấn đề: Lập kế hoạch sản xuất kinh doanh có tính khả thi, đảm bảo quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả, tránh tình trạng lãng phí và thất thoát vốn.
* Huy động nguồn vốn nhàn rỗi từ cán bộ công nhân viên chức và trong nhân dân. Để huy động được nguồn vốn này công ty cần có tỉ lệ lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng để hấp dẫn họ nhưng phải thấp hơn lãi suất tiền vay ngân hàng để đảm bảo có lợi cho công ty. Đây là một nguồn rất có triển vọng khai thác với khối lượng lớn có hiệu quả cao.
* Liên doanh liên kết với các đơn vị khác. Công ty có thể thực hiện liên doanh liên kết với các doanh nghiệp trong và ngoài nước nhằm khắc phục các nhược điểm tạm thời về máy móc thiết bị nhằm đổi mới hiện đại hoá thiết bị và công nghệ sản xuất, đồng thời học tập tiếp thu kinh nghiệm tổ chức quản lý hiện đại. Việc liên doanh liên kết có thể được tiến hành toàn bộ hay từng phần.
Công ty có thể cổ phần hoá doanh nghiệp nhưng áp dụng hình thức khuyến khích và bắt buộc công nhân viên của công ty mua cổ phần (chẳng hạn công ty có thể quy định về số cổ phiếu tối thiểu mà mỗi công nhân viên phải mua). Việc bán cổ phiếu cho cán bộ công nhân viên trong công ty có nhiều ưu điểm: giải quyết được nhu cầu về vốn của công ty; tạo ra sự ràng buộc giữa người lao động với công ty khi đã trở thành người chủ sở hữu thì họ sẽ có trách nhiệm hơn trong công việc làm tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng công trình vì sự thành bại của công gắn liền với quyền lợi cá nhân và lợi ích kinh tế của họ.
- Sử dụng vật tư đúng quy cách, chất lượng và định mức kinh tế kỹ thuật.
Vật liệu là bộ phận chính cấu tạo nên sản phẩm công trình do đó nó ảnh ưởng lớn nhất đến chất lượng công trình cũng như giá thành công trình, vì vậy trước khi đưa vật liệu vào xây dựng, bộ phận kỹ thuật của công ty cần phải kiểm tra chặt chẽ chất lượng của từng loại vật liệu. Những loại vật tư nào kém phẩm chất cần phải loại bỏ để đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật của công trình. Đồng thời kiểm tra khối lượng vật liệu đưa vào sử dụng theo đúng định mức tránh lãng phí không cần thiết phấn đấu giảm định mức tiêu hao vật liệu.
Ngoài ra, vật liệu được chọn để thi công phải phù hợp với trình độ kỹ thuật công nghệ của công ty.
Để làm tốt công tác này công ty cần tiến hành điều tra nghiên cứu tìm kiếm nguồn cung cấp vật liệu có chất lượng và ổn định thường xuyên phù hợp với yêu cầu của từng công trình và mang lại hiệu quả kinh tế.
- Nâng cao trình độ tay nghề cho cán bộ công nhân viên.
Đây là một biện pháp quan trọng để nâng cao năng suất lao động và chất lượng thi công để từ đó góp phần hạ giá thành sản phẩm và tăng lợi nhuận của công ty.
Trình độ tay nghề là yếu tố quyết định tới hiệu quả của quá trình sản xuất. Cho dù máy móc hiện đại đến đâu nhưng nếu trình độ công nhân không đáp ứng được những đòi hỏi về kỹ thuật sử dụng thì cũng không thể phát huy được hết những tác dụng của nó. Vì vậy nâng cao trình đọ tay nghề cho cán bộ công nhân viên là một chiến lược quan trọng và mang tính lâu dài. Công ty cần có sự đầu tư thích đáng cho việc nâng cao trình độ tay nghề của cán bộ nhân viên như: cử cán bộ đi nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm thi công mới; mở các lớp đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ kỹ thuật ngắn hạn tạo điều kiện cho công nhân học tập, nâng cao tay nghề; thường kỳ tổ chức báo cáo và đúc rút kinh nghiệm trong phạm vi từng tổ, đội, đơn vị trực thuộc cũng như toàn công ty.
Bên cạnh đó công ty cũng cần phải có chính sách lương theo bậc thợ f tiền lương theo khối lượng thi công một cách hợp lý để kích thích tạo động lực cho công nhân thực sự quan tâm đến công việc và phấn đấu phát huy hết khả năng của mình. Với các công nhân bậc cao phải được tăng lương một cách thích đáng đối với đóng góp của họ.
- Đẩy mạnh công tác quản lý chất lượng các công trình.
b. Quản lý chi phí sản xuất kinh doanh phấn đấu hạ giá thành sản phẩm.
Tiết kiệm hạ thấp chi phí sản xuất kinh doanh là nhiệm vụ quan trọng của công tác quản lý doanh nghiệp đối với công ty. Một đồng chi phí không hợp lý sẽ làm giảm lợi nhuận của công ty. Trong 6 tháng đầu năm 1999 lợi nhuận của cong ty chỉ bằng ?... so với cùng kỳ năm 1998. Nguyên nhân chính của sự giảm sút này là do hầu hết các khoản chi của công ty đều tăng lên với tốc độ tăng lớn hơn tốc độ tăng doanh thu. Bên cạnh sự tác động khách quan thì còn do các nhân tố chủ quan trong bản thân doanh nghiệp gây ra do sự quản lý chi phí của công ty còn chưa tốt. Vì vậy trong thời gian tới công ty cần thực hiện tốt các giải pháp sau:
- Hạ thấp chi phí đầu vào vật liệu.
Đây là khoản chi phí chiếm tỉ trọng khá lớn trong chi phí sản xuất và giá thành thi công của công trình. Do đó việc hạ thấp chi phí vật liệu có ý nghĩa rất lớn đối với việc hạ thấp giá thành công trình. Trong kỳ vừa rồi khoản chi vật liệu tăng lên 1,12% so với cùng kỳ năm 1998 do sự biến động giá cả trên thị trường. Để có thể hạ thấp chi vật liệu đòi hỏi công ty cần có các biện pháp tìm nguồn hàng và khai thác nguồn hàng có giá cả thấp và tổ chức công tác tiếp nhận bảo quản và cung ứng vật tư có hiệu quả tiết kiệm chi phí thu mua bảo quản. Công ty cần phải kiểm tra chặt chẽ quá trình cung ứng vật liệu, lựa chọn nguồn vật tư, địa điểm giao hàng, phương tiện vận chuyển, cước phí vận chuyển bốc dỡ, cần phải có sự dự đoán những biến động về cung cầu vật tư trên thị trường để đề ra những biện pháp thích ứng. Thông qua việc thanh toán tiền hàng, kiểm tra lại giá mua vật tư đơn vị, giá vận chuyển bốc dỡ, bên cạnh đó công ty cần phải có những biện pháp khuyến khích vật chất kịp thời đối với những cán bộ làm công tác cung ứng nếu tìm được nguồn hàng cung ứng vật tư giá thấp nhưng vẫn đảm bảo chất lượng. Công ty có thể trích thưởng theo tỉ lệ nhất định trên tổng số tiền tiết kiệm được do mua vật tư giá thấp tạo ra yếu tố kích thích tìm ra các nguồn vật tư mới với giá hạ. Bên cạnh đó công ty cũng cần phải có các biện pháp xử lý kịp thời những trường hợp gian lận chiếm đoạt công quỹ bằng cách khai man giá thành vật tư thu mua. Xử lý nghiêm bằng phạt hành chính đối với các trường hợp cung ứng các loại vật tư không đúng quy cách chủng loại, thiếu hụt so với hoá đơn mà không phải do nguyên nhân bên bán vật tư chịu trách nhiệm.
- Tổ chức lao động khoa học, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả chi phí tiền lương.
Trong công tác phân công lao động, công ty cần sắp xếp theo đúng trình độ chuyên môn tay nghề, cân đối giữa các đơn vị, tổ đội xây lắp để có thể phát huy tối đa năng suất lao động của từng người. Nâng cao chất lượng giờ công, ngày công, phát huy năng lực sở trường của từng người từng lúc. Giáo dục khơi dậy trong ý thức người lao động tinh thần làm việc hăng say vì công việc vì công ty làm cho họ gắn bó và cống hiến tài năng cho công ty tạo điều iện nâng cao năng suất lao động hạ thấp giá thành sản phẩm. Tiền lương phải được thanh toán chi trả hợp lý. Dựa vào thang biểu lương và bảng chấm công để chi trả đúng với sức lao động của người công nhân viên bỏ ra đảm bảo bù đắp được hao phí sức lao động, tránh chi bừa bãi, vô căn cứ, vừa không động viên khuyến khích năng suất lao động vừa gây lãng phí tiền vốn. Việc tăng lương cho công nhân viên là cần thiết song phải đảm bảo tốc độ tăng lương nhỏ hơn tốc độ tăng lợi nhuận. Sử dụng tiền thường phải phát huy được vai trò của nó, không nên thưởng tràn lan bình quân đầu người. Công ty có thể áp dụng nhiều hình thức thưởng như: tăng năng suất lao động, sử dụng tiết kiệm vật tư, phát huy sán kiến... Bên cạnh đó, công ty cũng cần xử phạt nghiêm mọi hành vi lãng phí vật tư tiền vốn, làm hư hỏng máy móc thiết bị... qua đó nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của người lao động.
- Xây dựng và quản lý hệ thống chỉ tiêu định mức nội bộ.
Công ty cần có sự thị sát nghiên cứu thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh trong tất cả các hoạt động thu mua bảo quan chi phí nguyên nhiên vật liệu để từ đó xây dựng một hệ thống định mức nội bộ có khoa học và hợp lý và phù hợp với tình hình hoạt động của công ty. Trên cơ sở hệ thống định mức đó cho phép công ty kế hoạch hoá được công tác thu mua, dữ trữ vật tư và cung ứng vật tư hợp lý đảm bảo cho sản xuất liên tục không bị gián đoạn, cũng như lập dự toán cho những khoản chi phí này một cách phù hợp. Đồng thời thông qua thực hiện dự toán, thanh toán chi phí, công ty có thể kiểm tra tình hình thực hiện với kế hoạch để loại trừ những chi phí bất hợp lý, ngăn chăn tình trạng chi phí quá mức cần thiết, kém hiệu quả.
c. Tăng cường quản lý nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định.
Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu tham gia vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, do đó nếu huy động tối đa số lương lẫn năng lực của tài sản cố định hiện có vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì sẽ giảm được chi phí hạ giá thành, tăng lợi nhuận cho công ty. Để quản lý nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định, công ty cần thực hiện tốt những biện pháp cơ bản sau:
- Lựa chọn mức khấu hao thích hợp.
Trong điều kiện hiện nay khi khoa học kỹ thuật phát triển ngày càng mạnh mẽ thì máy móc dễ bị hao mòn vô hình. Để chống lại hiện tượng trên đòi hỏi phải khấu hao nhanh máy móc thiết bị nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư đổi mới. Vấn đề là phải lựa chọn mức khấu hao phù hợp với từng loại máy móc thiết bị để đảm bảo bù đắp cả hao mòn hữu hình lẫn hao mòn vô hình nhưng vẫn không được phép đẩy chi phí khấu hao tài sản cố định trong giá thành lên cao làm tăng giá thành qúa cao ảnh hưởng đến lợi nhuận.
Trong 6 tháng đầu năm 1999, công ty đã thực hiện trích khấu hao quá nhanh với thời gian sử dụng tối thiểu đối với các loại máy móc thiết bị đã làm cho chi phí khấu hao trong giá thành tăng cao làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh dẫn đến làm giảm lợi nhuận của công ty xuống.
Để khắc phục tình trạng này, công ty vẫn có thể áp dụng phương pháp khấu hao nhanh song nên lựa chọn thời gian sử dụng hợp lý cho một "Khung" quy định của Nhà nước để vừa có thể nhanh chóng thu hồi vốn, vừa tránh tình trạng hấu hao trong giá thành quá lớn làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh ảnh hưởng làm giảm lợi nhuận của công ty.
- Phát huy hết công suất máy móc thiết bị.
Trong kỳ vừa qua hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị của công ty còn thấp, thời gian ngừng máy nhiều do đó chi phí về máy thi công trên một mét vuông tăng lên làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty. Để giải quyết được những hạn chế này công ty cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận chức năng trong công ty cụ thể là:
Kế toán công trường, các tổ đội xây lắp đảm đảm nhiệm việc xây lắp, giám sát tình hình thực hiện định mức công trường mình, cuối mỗi tháng giao dữ liệu cho phòng kế toán tài chính và phòng kế hoạch dự thầu.
Phòng tài chính kế toán kết hợp với phòng kế hoạch dự thầu xây dựng hệ thống định mức các máy và biểu theo dõi năng suất của từng loại máy móc thiết bị.
Sự phối hợp chặt chẽ như trên sẽ làm cho việc đánh giá hiệu qủa sử dụng tài sản cố định một cách chính xác tới từng loại máy trên cơ sở đó có biện pháp sử lý và phương hướng đúng đắn có hiệu quả.
Đối với những tài sản cố định không cần dùng, chờ thanh lý hiện nay chiếm một tỷ lệ không nhiều trong tổng số tài sản cố định. Số tài sản này đã khấu hao hết giá trị, hiệu suất sử dụng thấp giá trị còn lại nhỏ, tuy nhiên công ty cần phải thanh lý nhượng bán hết số tài sản này để tránh tình trạng mất mát hư hỏng.
- Thực hiện tốt công tác bảo quản sủa chữa tài sản cố định.
Đi đôi với việc sử dụng tài sản cố định công ty cần phải tăng cường công tác bảo quản sữa chữa, đại tu và vệ sịnh máy móc thiết bị nhằm nâng cao năng lực hoạt động, đảm bảo cho quá trình hoạt động không bị gián đoạn, đẩy nhanh tiến độ thi công và đảm bảo về chất lượng sản phẩm công trình. Công ty phải bộ trí được một đội ngũ công nhân lành nghề có tinh thần sáng tạo sẵn sàng thực hiện công việc sửa chữa khi cần. Công ty cũng cần đặt ra các định mức kỹ thuật về nhiên liệu phụ tùng thay thế, dụng cụ sửa chữa để có căn cứ kiểm tra giám sát công tác sửa chữa. Đồng thời cũng là căn cứ để công ty khen thưởng những người làm tốt và có biện pháp xử lý những trường hợp thiếu trách nhiệm từ đó có thể nâng cao hiệu quả của công tác sửa chữa máy móc thiết bị. Ngoài ra phòng tài chính kế toán của công ty phải tính toán dự toán dự trù, đảm bảo vốn cho công tác sửa chữa và điều quan trọng là phải tính đến hiệu quả của công việc sửa chữa đó. Nếu chi phí sưả chữa lớn hơn giá trị của máy móc thiết bị đánh giá tại thời điểm sửa chữa thì việc sửa chữa là không có hiệu quả. Cùng với sửa chữa, công ty cần phải đảm bảo chế độ bảo dưỡng máy móc thiết bị theo đúng yêu cầu kỹ thuật và thực trạng của máy móc thiết bị. Công tác bảo dưỡng này phải được gắn liền với từng đơn vị tổ đội trực thuộc công ty và lợi ích của công nhân bảo dưỡng.
đ. Tổng chức tốt công tác thanh toán công nợ.
Trong 6 tháng vừa qua trong khi thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh thì công ty lại để cho khách hàng chiếm dụng một lượng vốn quá lớn gây ảnh hưởng tiêu cực tới hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung và đến doanh thu và lợi nhuận nói riêng. Để giải quyết tình trạng này công ty cần thực hiện các nội dung sau:
- Định thời gian thanh toán cụ thể trong khi ký kết các hợp đồng xây dựng.
- áp dụng hình thức triết khấu thanh toán để kích thích khả năng thanh toán nhanh của khách hàng. Việc áp dụng các hình thức triết khấu thanh toán phải căn cứ vào lãi xuất ngân hàng để xây dựng nhằm đảm bảo kết hợp hài hoà lợi ích của công ty và khách hàng.
Với những khoản thu đến hạn thì công ty cần phải có những kế hoạch đôn thúc khách hàng trở nợ tránh tình trạng rây dưa kéo dài làm thiệt hại đến vốn kinh doanh của công ty.
- Với những khoản thu quá hạn, công ty cần xác định rõ số ngày quá hạn và tính với lãi suất quá hạn, nếu khách cố tình dây dưa thì phải nhờ đến pháp luật can thiệp.
- áp dụng những hình thức thanh toán linh hoạt như: thanh toán theo từn hạng mục công trình, thanh toán theo giai đoạn hoàn thành. Khi hoàn thành công việc thì yêu cầu bên kiểm tra quyết toán cho khối lượng đã hoàn thành.
- Hàng tháng nên tổ chức đối chiếu công nợ với khách hàng với các đơn vị nội bộ để có cơ sở thúc đẩy công tác thanh toán.
2. Đối với tổng công ty và Bộ quốc phòng
Công ty xây dựng 17 là công công ty trực thuộc tổng công ty xây dựng Trường Sơn, do đó sự hoạt động của công ty phải chịu sự quản lý về chuyên môn của tổng công ty cũng như phải thực hiện các khoản trích nộp các quỹ thực hiện các nghĩa vụ của một đơn vị thành viên. Ngoài ra công ty có thể hỗ trợ giúp đỡ của tổng công ty trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình khi cần thiết đặc biệt là sự hỗ trợ về vốn. Do đó tổng công ty phải có trách nhiệm nhất định đố với sự hoạt động và phát triển của công ty.
Để giúp đỡ công ty xây dựng 17 làm tăng lợi nhuận của công ty thì tổng công ty xây dựng Trường Sơn cần phải:
- Hỗ trợ kịp thời về vốn cho công ty.
Đây là nguồn vốn quan trọng mà tổng công ty có thể cấp cho công ty đảm bảo cho công ty tiến hành sản xuất kinh doanh tốt. Khi công ty xây dựng 17 có kế hoạch sản xuất kinh doanh khả thi trình lên tổng công ty, nếu xét duyệt thấy có hiệu quả và đảm bảo sử dụng vốn hợp lý thì tổng công ty nên tiến hành cung cấp vốn cho công ty để triển khai kế hoạch sản xuất kịp thời mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Tổng công ty cũng cần có kế hoạch theo dõi quá trình đầu tư của công ty để nắm bắt tình hình thực hiện lợi nhuận của công ty để có biện pháp điều chỉnh kịp thời.
- Tổ chức các hội thảo chuyên ngành áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào thi công công trình trong tất cả các công ty góp phần nâng cao chất lượng công trình tạo ra sức mạnh cạnh tranh đối với các tổng công ty các công ty khác trong ngành.
- Xây dựng hệ thống định mức chung của tổng công ty làm tham khảo cho việc xây dựng tiêu chuẩn định mức trong từng công ty.
- Tổ chức các khoá đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công nhân viên nâng cao tay nghề cho các công ty thành viên.
3. Đối với nhà nước.
- Nhà nước cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo hành lang pháp lý an toàn cho các doanh nghiệp hoạt động độc lập tự chủ trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh của mình.
-Có chính sách hỗ trợ về vốn thích hợp cho doanh nghiệp như cấp thêm vốn mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh. Tiến hành đặt hàng cho công ty trong các công trình quốc phòng, các công trình phúc lợi xã hội mà công ty có thể đảm nhận được. Tuy nhiên Nhà nước cần kiên quyết xoá bỏ các hình thức bao cấp không làm thay cho công ty trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Tạo ra cơ chế về quyền lợi và trách nhiệm rõ ràng. Đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh cho công ty để công ty phát huy quyền làm chủ của mình. Xoá bỏ sự can thiệp của các cơ quan hành chính vào hoạt động của công ty.
- Hình thành nên tập đoàn kinh doanh xây dựng lớn đủ sức chi phối thị trường trong nước và đặc biệt là có thể đủ sức kinh doanh trên thị trường quốc tế, có thể tham dự thầu và thắng thầu các công trình xây dựng quốc tế.
Kết luận
Lợi nhuận là mục tiêu kinh tế cao nhất, là điều kiện tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường nói chung và của công ty xây dựng 17 nói riêng. Để tiến hành sản xuất kinh doanh công ty phải bỏ tiền vốn cũng như các yếu tố đầu vào khác. Mục tiêu của công ty là đạt được doanh thu cao bù đắp chi phí và thu được lợi nhuận để không chỉ tái sản xuất giản đơn mà còn tái sản xuất mở rộng, không ngừng tích luỹ phát triển, củng cố và tăng cường uy tín, địa vị của công ty trên thị trường.
Với thời gian hoạt động còn chưa đủ dài như các công ty xây dựng cùng ngành nhưng trong thời gian qua công ty đã đạt được những kết quả khả quan với quy mô sản xuất ngày càng tăng, sản xuất dần đi vào ổn định, doanh thu ngày càng cao thu lợi nhuận lớn, đóng góp càng thiếu cho ngân sách cũng như góp phần nâng cao thu nhập cho cán bộ công nhân viên cải thiện đời sống cho người lao động.
Bên cạnh những thành tích đạt được công ty còn có nhiều tồn tại cần phải giải quyết mới cho phép công ty tăng doanh thu hạ thấp giá thành để đạt được lợi nhuận ngày càng cao hơn phù hợp với tính tất yếu khách quan trong kinh doanh trong cơ chế thị trường.
Qua việc thực tập ở công ty xây dựng 17 tôi đã cố gắng đi vào tìm hiểu mọi mặt của hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty với khả năng có thể kết hợp với kiến thức lĩnh hội được trong qúa trình học tập tại Trường đại học tài chính kế toán tôi đã xin phép đưa ra một số đề xuất nhằm tăng cao hơn nữa lợi nhuận cho công ty. Tuy nhiên do trình độ và thời gian có hạn nên tất yếu sẽ không tránh khỏi những thiếu xót. Vì vậy tôi rất mong được sự thông cảm và đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo cũng như các đồng nghiệp để hoàn thiện bản luận văn này.
Cuối cùng cho phép tôi được trân trọng cảm ơn lãnh đạo phòng kế toán - tài chính và các phòng chức năng công ty xây dựng 17đã tạo điều kiện giúp đỡ về mọi mặt. Xin cảm ơn các thầy, cô giáo bộ môn tài chính doanh nghiệp - Trường Đại học Tài chính kế toán Hà Nội. Đặc biệt xin chân thành cảm ơn PTS Nguyễn Đăng Nam - Trưởng bộ môn tài chính doanh nghiệp, người thầy đã giáo dục, chỉ đạo và giúp đỡ thường xuyên tôi trong học tập cũng như trong suốt quá trình hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Hà Nội, ngày 20 tháng 04 năm 2000
Sinh viên
Lê Thế Hoạt
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6713.doc