Đề tài Lợi thế trong sản xuất và giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của lúa gạo Việt Nam

Chính sách tiền tệ phải duy trì tỉ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam và ngoại tệ mạnh ở mức hợp lý để làm tăng hoặc ít nhất không làm giảm sức cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thị trường thế giới. Phát triển tín dụng xuất khẩu , ưu tiên một số vùng bước đầu chuyên canh cho đầu tư cho sản xuất và chế biến gạo được hưởng tín dụng với mức lãi suất ưu đãi. Nhà nước có chính sách tín dụng thích hợp tạo điều kiện cho vay vốn lưu động các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo chờ cơ hội giá thế giới có lợi mới xuất khẩu. Thủ tục vay phải đơn giản cho phép thế chấp bằng hàng và hợp đồng xuất khẩu trả chậm. Dùng quỹ hỗ trợ xuất khẩu để hỗ trợ lãi xuất vay tín dụng khi được phép xuất khẩu trả chậm, để giữ thị trường truyền thống khi nhập khẩu gạo khó khăn trong thanh toán hoặc mở ra một thị trường mới. Phổ biến và ứng dụng các phương thức thanh toán văn minh, tiện lợi. Khuyến khích thanh toán qua ngân hành ngoại thương nhằm giảm gian lận trong thương mại. Đầu tư cho cơ sở hạ tầng: kho tàng, bến cảng, chế biến, giảm chi phí lưu thông, vận chuyển bốc xếp hàng hoá nhanh làm tăng sức cạnh tranh và uy tín hàng xuất khẩu. Tích cực khai thác thông tin thị trường, giá cả, tình hình hoạt động của các thành viên trong và ngoài nước, phổ biến kịp thời các chính sách mới của nhà nước cho các nhà xuất khẩu. Cung cấp cho nhà xuất khẩu những thông tin hướng dẫn cơ bản về đặc điểm từng thị trường và phương thức tiếp cận. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ ban đầu cho quảng cáo, tiếp thị, tham gia hội trợ triển lãm gạo, nông sản thế giới. Tiếp tục triển khai hoàn thiện đề án Xây dựng trang Web: trưng bày, giới thiệu nông sản Việt Nam, tiến tới đặt hàng, mua bán trực tiếp qua mạng.

doc32 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1350 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lợi thế trong sản xuất và giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của lúa gạo Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ục tiêu chiến lược của cạnh tranh chuyển trọng tâm từ lợi thế so sánh dựa vào điều kiên tự nhiên, nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào và giá nhân công rẻ sang lợi thế cạnh tranh mạnh hơn dựa trên tiềm lực khoa học với chi phí thấp cũng như nhiều sản phẩm và quy trình độc đáo hơn. 5.4. Nguồn lao động của Việt Nam dồi dào. Hiện nay với 37 triệu người đang ở trong độ tuổi lao động ( chiếm 50 % dân số ), hàng năm có khoảng 1 - 1,2 triệu người đến tuổi lao động. Lao động Việt Nam hơn 60 % hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp với các ưu thế đặc trưng là cần cù, thông minh và có khả năng tiếp thu nhanh chóng khoa học công nghệ...Hơn nữa, giá nhân công lại rẻ và thấp hơn nhiều các nước trong khu vực: giá công lao động của Việt Nam chỉ bàng 1/3 của Thái Lan, bằng 1/30 của Đài Loan, 1/26 của Singapo. Đây là lợi thế rất lớn cần khai thác có hiệu quả. Bên cạnh đó còn không ít hạn chế về lao động của Việt nam như: trình độ lao động còn thấp, hầu hết chưa qua đào tạo, ý thức tổ chức kỷ luật chưa cao. Do đó chúng ta cần phải không ngừng khắc phục những hạn chế đó để đáp ứng được yêu cầu của phân công lao động quốc tế. 5.5 Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Kể từ khi thực hiện đường lối của Đảng ( từ đại hội VI – 1981 ) đến nay nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tưu đáng kể, kinh tế nông nghiệp không ngừng được phát triển, đời sống nông thôn từng bước được nâng cao, nền kinh tế xã hội trở nên năng động, linh hoạt, kinh tế đối ngoại được tăng cường và phát triển trên tất cả các lĩnh vực: hoạt động nhập khẩu, đầu tư, hợp tác và tham gia vào các tổ chức quốc tế. Chính sự ổn định về chính trị và đổi mới chính sách đã tạo đà cho quá trình phát triển. Như vậy, chính sách và môi trường được xem như là một trong những lợi thế có vai trò quyết định tới quá trình phát triển của nền kinh tế. Trong quá trình thực hiện luôn được bổ sung và hoàn thiện các chính sách, tạo môi trường kinh tế thuận lợi cho yêu cầu của sự nghiệp phát triển nền kinh tế xã hội. Uy tín và vai trò của Việt Nam trên thị trường xuất khẩu nông sản, đặc biệt là thị trường lúa gạo trên thế giới không ngừng được tăng lên. Tuy còn yếu cả về kinh nghiệm và bề dày trong việc tham gia vào thị trường xuất khẩu nhưng đã có tốc độ phát triển nhanh thể hiện sự trưởng thành, biểu hiện sản lượng và kim ngạch xuất khẩu có vị trí cao trên thị trường - xuất khẩu lúa gạo Việt Nam dã đứng hàng thứ hai trên thế giới. Như vậy Việt Nam có ảnh hưởng đáng kể trên thị trường thế giới về mặt hàng gạo xuất khẩu với số lượng và chất lượng ngày càng tăng, vị thế của Việt Nam ngày càng được củng cố trong kinh tế đối ngoại. II. Xu hướng biến động của thị trường gạo thế giới. 1. Cung: Gạo là nhu yếu phẩm tối cần thiết cho nhu cầu hàng ngày của con người. Do nhận thức được tầm quan trọng của lúa gạo mà ngày nay hầu hết các quốc gia đều quan tâm đến lĩnh vực an ninh lương thực, trong đó họ đặc biệt quan tâm đến vấn đề cân đối cung - cầu tạo sự ổn định cho nhu cầu trong nước. Hơn nữa, diễn biến thuận tiện của thời tiết khí hậu trong vài năm gần đây làm lượng lúa gạo trao đổi trên thị trường ngày càng nhiều, rất nhiều quốc gia dư thừa gạo đặc biệt là các nước đang phát triển. Trong vài thập niên vừa qua các nước đang phát triển vẫn thường xuyên chiếm khoảng 80% lượng gạo xuất khẩu trên toàn thế giới, phần còn lại các nước phát triển chiếm 20%. Theo phạm vi châu lục thì Châu á trung bình xuất khẩu lớn nhất chiếm 75%, thứ đến là Mỹ xuất khẩu khoảng 20%, cả 3 châu Châu âu, châu Đại Dương, Châu Phi chỉ chiếm 5% tổng xuất khẩu gạo thế giới. Theo kinh tế học, độ co giãn của cung đối với giá cả thường lớn hơn độ co giãn của cầu. Khi giá tăng người ta có thể đầu tư cho xuất khẩu gạo nhiều hơn như thông qua mở rộng diện tích canh tác, cải tiến giống, công nghệ chế biến...Song điều này diễn ra chậm chạp và cần có thời gian để điều chỉnh. Tổng cung gạo biến động phụ thuộc nhiều vào các yếu tố tự nhiên như thời tiết, thiên tai, bão lũ, hạn hán,sâu bệnh... 2.Cầu: Khi giá tăng, người ta cũng có thể thay thế việc tiêu dùng gạo bằng các loại lương thực khác như: lúa mỳ, ngô...song sự thay đổi này bị hạn chế bởi thói quen và tập quán tiêu dùng. Trong ngắn hạn tổng cầu về gạo (AS) là tương đối ổn định. Trước khi do thiếu lương thực triền miên nhu cầu lương thực của con người rất đơn giản chỉ cần có gạo là đủ ăn. Trước nhu cầu đó, việc sản xuất lúa gạo cũng đơn giản, những loại giống lúa nào ngắn ngày cho năng suất cao đều được coi là giống tốt và được áp dung rộng rãi. Đối với những giống lúa đặc trưng truyền thống mặc dù có hương vị nhưng năng suất thấp nên việc bảo tồn gần như được coi nhẹ. Cùng với văn minh xã hội hiện đại ngày nay thì nhu cầu của con người cũng không ngừng tăng lên. Nhu cầu của con người không chỉ dừng lại ở mức đủ gạo để ăn mà đòi hỏi những loại gạo có chất lương cao - đặc sản, những loại gạo tự nhiên. Sở dĩ có gạo “tự nhiên” bởi lẽ cùng với những thành tựu của KHCN là tác hại của lượng hoá chất tồn đọng trong sản phẩm. Nhiều công trình khoa học nghiên cứu đã phát hiện ra rằng: tiêu dùng những loại gạo còn lưu lượng hoá chất là vô cùng tác hại. Hơn nữa, những loại gạo còn thâm canh theo phương thức cổ truyền, tự nhiên bao giờ cũng có hương vị đậm đà hơn các sản phẩm cùng loại mà sử dụng quá nhiều hoá chất. Chính điều này đã dẫn đến một xu hướng có tính quy luật về nhu cầu gạo hiện nay: Cầu về số lượng gạo chất lượng thấp có xu hướng tăng chậm thậm chí giảm, còn cầu về gạo chất lượng cao vẫn không ngừng tăng lên. 3.Giá: Giá gạo trên thị trường thế giới rất nhạy cảm. Sự dao động của nó phụ thuộc vào sản lượng, tồn kho, dự trữ toàn cầu, tỷ lệ thay thế biên giữa gạo và các loại lương thực khác như: lúa mỳ, ngô... đặc biệt tình mùa vụ trong sản xuất và trao đổi. Nhìn chung giá lúa gạo trên thế giới gần đây có xu hướng giảm xuống, nguyên nhân của sự giảm giá này do nhu cầu gạo tương đối ổn định trong khi cung ngày càng có xu hướng tăng lên. Đứng trước xu hướng của thị trường gạo thế giới, Việt Nam với cương vị là một nước xuất khẩu. Biện pháp lâu dài đối với chúng ta trước hết là nâng cao chất lương lúa gạo, tiếp đó là mở rộng thị trường tiêu thụ. III. một số nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh và xuất khẩu lúa gạo Việt Nam. 1. Sự biến động của thị trường. Thị trường là phạm trù kinh tế gắn liền với sản xuất và tiêu dùng, ở đâu có sản xuất, lưu thông hàng hoá thì ở đó có thị trường. Để nắm vững các quy luật vận động của thị trường nhằm xử lý các tình huống trong kinh doanh nhất thiết chúng ta phải nghiên cứu và hiểu biết thị trường mà mình địng kinh doanh. Chúng ta nghiên cứu tác đọng của thị trường thế giới đến xuất khẩu gạo của Việt Nam hai vấn đề: Thứ nhất: dung lượng của mặt hàng gạo trên thị trường Đó là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên phạm vi thị trường nhất định. Chúng ta nghiên cứu dung lượng thị trường gạo để xác định nhu cầu thật của thị trường gạo thế giới. Như chúng ta đã biết, gạo là sản phẩm thiết yếu rất cần thiết cho cuộc sống, nhưng nhu cầu nhập khẩu tăng lên cầu về gạo của mỗi cá nhân giảm xuống, song nhu cầu của toàn xã hội vẫn tăng lên. Nguyên nhân là khi thu nhập tăng lên thì người tiêu dùng gạo trực tiếp ít đi nhưng người ta sẽ tiêu dùng những sản phẩm được chế biến từ gạo tăng lên. Đồng thời nhu cầu gạo tăng lên do dân số tăng lên. Vì vậy vhúng ta thực hiện chiến lược xuất khẩu sản phẩm, ta phỉa lấy cơ sở xuất khẩu là do nhu cầu khi có nhu cầu mới xuất hiện. Đánh giá tương đối dung lượng thế giới sẽ cho phép xác định nhu cầu và khả năng cung cấp gạo cho thị trường. Thứ hai: Sự biến động của giá gạo. Giá gạo xuất khẩu gạo được coi là giá tổng hợp trong đó bao gồm: chi phí sản xuất, bao bì, vận chuyển, thu mua, thuế xuất nhập khẩu ... Cũng như các mặt hàng khác, giá gạo biến động rất phức tạp bởi nó bị chi phối bởi nhiều yếu tố như: cung, cầu, cạnh tranh. Hơn nữa gạo là sản phẩm thiết yếu nên một sự biến động nhỏ của cung hoặc cầu đều làm thay đổi giá. Tuy nhiên, trong những năm gần đây cầu về gạo tương đối bão hoà, cung về gạo ngày càng tăng dẫn đến giá gạo trên thị trường thế giới rất thấp - ảnh hưởng lớn đến đời sống nông dân nhất là những vùng chuyên canh cây lúa. Để khắc phục tình trạng này, Chính phủ cần quan tâm hơn nữa đến những biện pháp hỗ trợ nông dân trồng lúa và những doanh nghiệp xuất khẩu gạo. 2. Thị hiếu người tiêu dùng. Tuỳ theo mức sống, tập quán, việc tiêu thụ gạo của các nước, của các khu vực trong những thời gian nhất định có những yêu cầu khác nhau thông thường, gạo đánh bóng và sát trắng được ưa chuộng hơn. Tuy vậy, có những vùng nông thôn người ta lại ưa loại gạo sát không kỹ chứa nhiều Vitamin và này nay thế giới thiên về gạo ngon hạt dài. Từ những khác nhau về thị hiếu đó, ta thấy rằng khi thâm nhập vào một thị trường nào đó trước hết ta phải tìm hiểu thị hiếu của họ, xem họ cần loại gạo nào từ đó cung ứng phù hợp, có như vậy mới nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo. 3.Chất lượng gạo xuất khẩu. Chất lượng gạo là một trong những yếu tố quyết định tới sự cạnh tranh trên thị truờng, đồng thời nó cải thiện được hiệu quả xuất khẩu. Chất lượng gạo xuất khẩu cần được hiểu một cách rộng hơn với ý nghĩa là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh mức độ thoả mãn nhu cầu gạo xuất khẩu về quy cách, phẩm chất, kiểu dáng, sở thích, tập quán tiêu dùng. Chất lượng gạo không phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó giống, kỹ thuật canh tác và bảo quản chế biến là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng gạo. 3.1 Giống: Đây là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng gạo, bởi lẽ giống tốt bản thân nó đã đảm bảo các chỉ tiêu: õ Khả năng chống chọi với điều kiện tự nhiên. õ Cho phép sinh trưởng và phát triển mạnh. õ Tạo ra sản phẩm mới có năng suất chất lượng cao, mẫu mã đẹp. õ Có khả năng hạn chế các loại sâu bệnh. Để có thể tạo ra chất lượng tốt thì Đảng và Nhà nước và Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn cần có sự đầu tư thích đáng vào lĩnh vực nghiên cứu giống cây trồng, lĩnh vực công nghệ gen, bên cạnh đó cần tranh thủ trình độ khoa học tiên tiến của các nước trên thế giới như vấn đề chuyển giao công nghệ, vấn đề nghiên cứu ứng dụng ... 3.2. Kỹ thuật canh tác: Là tổng hợp các biện pháp bao gồm các khâu: gieo cấy, chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh. Đây là nhân tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình sinh trưởng và phát triển cây lúa, việc thực hiện đúng quy trình kỹ thuạt là việc vô cùng quan trọng tạo ra loại gạo có chất lượng cao. 3.3 Công nghệ sau thu hoạch: Đây là khâu cuối cùng ảnh hưởng đến chất lượng lúa gạo bao gồm: phơi sấy, xay xát, bao gói và kỹ thuật bảo quản. Mỗi một công đoạn thực hiện là một lần làm thay đổi chất lượng hạt gạo. Sự thay đổi này là tăng lên khi công đoạn đó được thực hiện đúng quy trình và sự thay đổi đó là giảm đi khi không đúng quy trình kỹ thuật. Xét một cách cụ thể hơn: Với khâu phơi sấy: Đây là công đoạn làm giảm độ ẩm của lúa gạo khi mới gặt về. Độ ẩm đảm bảo của hạt thóc là 14% thì khi cho vào kho bảo quản loại thóc này thường dễ bị nảy mầm điều này cũng đồng nghĩa với hạt gạo làm ra dễ biến màng và bạc bụng không đảm bảo tiêu chuẩn cho xuất khẩu gạo. Hơn nữa, bản thân quá trình sấy khô lúa gạo nếu không đúng quy trình tức là cho vào máy sấy một khối lượng lúa gạo quá lớn hoặc một lượng nhiệt quá cao sẽ dẫn đến việc tạo ra một lượng lúa gạo có độ ẩm không đồng đều và gạo sẽ nhiều hạt vỡ. Với kho bảo quản: Bất kể quốc gia nào có lúa gạo thì đều có kho bảo quản. Kho bảo quản là một hệ thống các kho từ kho bảo quản ở các chợ thu mua, kho bảo quản tập trung ở nơi xay xát và kho bảo quản ở các cảng giao hàng. Việc xây dựng các kho một cách hiện đại đảm bảo là yêu cầu cần thiết đặt ra với mọi quốc gia xuất khẩu lúa gạo. Với chế biến: Kỹ thuật xay sát được đánh giá theo chất lượng hạt gạo nguyên. Tuy nhiên, lượng gạo nguyên cao hay thấp còn phụ thuộc kỹ thuật xay xát và giống lúa. Thị hiếu tiêu dùng quyết định tới cách chế biến như thế nào. Có nước ưa gạo sát trắng, không còn phôi và lớp cám ngoài cùng. Có nhiều nước ưa gạo hấp chứa nhiều Vitamin và có giá trị dinh dưỡng cao. Việc chế biến sao cho phù hợp thị hiếu người tiêu dùng cũng đồng nghĩa với chất lượng gạo được nâng lên để đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng. 4. Cơ chế chính sách của Nhà nước đối với việc xuất khẩu gạo. Cơ chế quản lý, chính sách kinh tế và quan hệ đối ngoại là yếu tố rất nhạy cảm, tác động trực tiếp đến nền kinh tế nói chung và xuất khẩu nói riêng. Sự tác động của cơ chế chính sách đến xuất khẩu gạo theo hai hướng: kìm hãm xuất khẩu nếu chính sách đó không phù hợp và thúc đảy mạnh mẽ xuát khẩu đạt hiệu quả cao nếu chính sách đó phù hợp. Đối với xuất khảu gạo, chính sách tác động mạnh mẽ nhất là: õ Chính sách đầu tư. õ Chính sách vốn tín dụng. õ Chính sách bảo hiểm và trợ giá. Hơn nữa, xuất khẩu gạo là hoạt động buôn bán vượt ra ngoài phạm vi một quốc gia thông qua mối quan hệ thương mại có tổ chức từ bên trong ra bên ngoài nhằm thu được lợi ích ngoại vi lớn hơn. Vì vậy các mối quan hệ kinh tế đối ngoại có ảnh hưởng mạnh mẽ đến xuất khẩu gạo. Đối với một nước các cơ quan kinh tế đối ngoại cởi mở cho phép tìm kiếm được nhiều bạn hàng để xuất khẩu. Sự biến động các ngoại tệ mạnh tạo ra sự thay đổi tỷ giá hối đoái cũng là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu gạo. Đặc biệt đối với Việt Nam đến năm 2003, Hiệp định Thương mại tự do giữa các nước Đông Nam á có hiệu lực, hàng rào thuế quan được xoá bỏ. Đây không chỉ là nhân tố ảnh hưởng đơn thuần mà là thách thức lớn cho xuất khẩu gạo của nước ta. Trước thực tế đó, yêu cầu đặt ra cho chính phủ Việt Nam hiện nay là cần có một chính sách hợp lý trong điều hành xuất khẩu gạo, cũng như các doanh nghiệp xuất khẩu, có thể giảm thuế quan, trợ cấp vận chuyển, cho vay ưu đãi để thu mua thóc của nông dân, đồng thời khi giá giảm có thể giúp họ bằng quỹ bình ổn ...Quy định mức giá trần, giá sàn để đảm bảo lợi ích cho người sản xuất và tiêu dùng. Nhà nước cần xác định tỉ giá hối đoái hợp lý để tạo ra sức cạnh tranh cho xuất khẩu gạo. Vì tỷ giá hối đoái là đòn bẩy để điều tiết cung cầu, tỷ giá hối đoái thấp sẽ cho tác dụng khuyến khích nhập khẩu nhưng tỷ giá hối đoái cao sẽ bất lợi cho nhập khẩu nhưng nó lại khuyến khích xuẩt khẩu vì khi đó hàng xuất khẩu sẽ có giá tương đối thấp. Trước xu thế vận động và phát triển không ngừng của xã hội, KHCN ngày càng hiện đại cùng với đó là nhu cầu tiêu dùng của con người ngày càng được nâng cao, ngành lúa gạo cũng phải thay đổi để đáp ứng nhu cầu đó. Vì vậy, một chính sách cho ngành lúa gạo khi đưa ra không chỉ đúng, phù hợp mà còn kịp thời nữa. CHƯƠNG II THựC TRạNG XUấT KHẩU GạO VIệT NAM I. Khái quát thị trường gạo thế giới. Thị trường là một phạm trù kinh tế gắn liền với sự ra đời – phát triển sản xuất và trao đổi hàng hoá, cũng như các thị trường khác thị trường gạo là tập hợp thoả thuận giữa người mua và người bán. Tuy nhiên gạo là sản phẩm tiêu dùng tất yếu và là sản phẩm của ngành nông nghiệp nên có những đặc điểm sau: Thứ nhất: Thị trường gạo có tính thời vụ trong trao đổi vì sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ – tính thời vụ quy định bởi đặc điểm khí hậu sinh thái kết hợp với đặc điểm kỹ thuật cây rồng. Thứ hai: Chủ yếu là buôn bán gạo giữa các chính phủ. Thứ ba: Chủ thể xuất khẩu gạo và nhập khẩu gạo không ổn định. Thứ tư: Các nước lớn đóng vai trò chi phối thị trường gạo thế giới. Thứ năm: Thị trường chủng loại gạo phong phú và có sự khác biệt về thị hiếu tiêu dùng của mỗi nước nhập khẩu. Có thể nói thị trường lúa gạo là rộng khắp, hầu hết các khu vực trên thế giới đều nhập khẩu gạo, đặc biệt là các nước đang phát triển nhập trên 50% sản lượng gạo giao dịch trên thị trường thế giới. Đặc điểm thị trường gạo thế giới Về mặt cung: Gạo thương mại thế giới hàng năm ở mức 21 - 23 triệu tấn. Trong đó, Thái Lan và Việt Nam đảm bảo 50% thị phần gạo thế giới; Thái Lan khoảng 7 triệu tấn, Việt Nam 4 triệu tấn. Ngoài ra các nước khác như Mỹ: 2,5 triệu tấn, Pakistan: 2 triệu tấn, Trung Quốc: 2 triệu tấn, ấn Độ: 1,6 triệu tấn. Từ năm 1996 trở lại đây, khối lượng gạo xuất khẩu thế giới có xu hướng ổn định. ấn Độ có tốc độ tăng nhanh nhất và dự đoán sẽ tiếp tục tăng trong 10 năm tới. Về mặt cầu: Châu á là khu vực nhập khẩu lớn nhất, chiếm khoảng 60% tổng lượng nhập toàn cầu. Các nước nhập khẩu chủ yếu là Indõeia, Bangladéh, Malãyia, Philipines, Ian, Irăc, Nhật Bản, Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc. Châu Phi chiếm 21% tổng lượng nhập toàn cầu, là thị trường dễ tính cho gạo phẩm cấp trung bình và thấp, tuy nhiên hiện tại khả năng thanh toán còn nhiều hạn chế. Các khu vực khá gồm: Châu âu, Châu Mỹ Latinh, Bắc Mỹ và Châu úc nhu cầu không lớn nhưng được giá cao và khả năng thanh toán tốt, yêu cầu phẩm chất cao, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm chặt chẽ. Xuất khẩu gạo của 7 nước hàng đầu thế giới Tên nước 1991 (1.000 tấn) 1995 (1.000 tấn) 2001 (1.000 tấn) Tốc độ tăng bình quân hàng năm 1991-2001(%) Thái Lan (1) 1.515 6.298 7.500 17 Việt Nam (2) 1.050 2.308 3.550 13 Trung Quốc(3) 1.030 235 1.800 6 ấn Độ (4) 580 551 1.500 10 Hoa Kỳ (5) 2.230 2.528 2.700 2 Pakítan(6) 1.512 1.852 2.300 4 Myanma(7) 199 392 500 10 Tổng (1+2+...7) 11.759 14.066 21.914 6 Các nước khác(8) 4.372 9.237 1.866 -8 Toàn cầu(1+2+...8) 16.086 23.303 23.780 4 Nguồn: Bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ II. THựC TRạNG KHả NĂNG CạNH TRANH Và XUấT KHẩU GạO CủA VIệT NAM. 1.Khái quát tình hình sản xuất lúa gạo Việt Nam. Sau Nghi quyết 10 của Bộ Chính trị (5/4/1988) sản xuất nông nghiệp nước ta thực sự được “bung” ra về mọi mặt. Hộ nông dân được công nhận là đơn vị kinh tế tự chủ. Sản xuất lương thực từ đó có những bước tiến nhảy vọt đáng kể, chúng ta đã từ một nước phải nhập khẩu lương thực trở thành một nước xuất khẩu lương thực lớn. Chính sách mới đã thúc đẩy khai hoang, phục hoá diện tích trồng lúa qua các năm từ 6.037 triệu ha năm 1990 lên 7.632 ha năm 2000, tăng 2.1%. Cùng với mở rộng diện tích là đầu tư cho công tác nghiên cứu giống, xây dựng công trình thuỷ lợi, tăng lượng phân hoá học và thực hiện tốt công tác bảo vệ thực vật đã nâng cao trình độ thâm canh tăng năng suất lúa một cách rõ rệt. Hiện nay, khoảng 70% tổng giá trị nông nghiệp nước ta thuộc ngành trồng trọt, trong đó chủ yếu là sản xuất lương thực. Trong sản xuất lương thực, một mặt khẳng định rõ vị trí đặc biệt của sản xuất lúa gạo, mặt khác lý giải kịp thời sự khởi sắc cơ bản của xuất khẩu gạo. Số liệu dưới đây sẽ khắc họa những nét cơ bản tình hình sản xuất lúa gạo của nước ta trong thời gian qua. Sản suất lúa gạo Việt Nam 13 năm qua. Năm Sản lượng của Việt Nam ( 1000 tấn ) Năng suất của Việt Nam ( tạ/ha ) Sản lượng của thế giới ( 10.000 tấn ) Năng suất của thế giới ( tạ/ha ) 1989 18.996,3 32,2 498,7 33,5 1990 19.225,2 31,9 507,9 34,7 1991 19.621,9 31,3 520,4 35,5 1992 21.590,3 33,3 525,2 35,6 1993 23.836,6 34,8 526,9 35,9 1994 23.528,3 35,6 527,2 36,2 1995 24.963,7 36,9 540,1 36,5 1996 26.396,7 37,7 550,9 37,2 1997 27.623,9 38,8 563,5 37,6 1998 29.201,7 39,6 574,3 38,0 1999 30.922,6 40,8 585,6 38,4 2000 32.524,0 41,2 607,7 39,2 2001 31.970,0 40,0 593,9 38,9 Nguồn: Vụ xuất nhập khẩu – Bộ thương mại Căn cứ vào bảng số liệu cho thấy, năng suất lúa của Việt Nam không ngừng được tăng lên, từ chỗ thấp hơn năng suất bình quân của thế giới và trong 6 năm liên tục trở lại đây đã vượt năng suất trung bình của thế giới. Năng suất tăng, kết hợp với thâm canh mà sản lượng lúa của Việt Nam tăng trưởng mạnh từ gần 19 triệu tấn năm 1989 lên mức 30,9 triệu tấn năm 1999 tăng 53,3% ( Việt Nam hiện đang là nước dẫn đầu về tốc độ tăng năng suất lúa bình quân là 2.5 %/năm và tăng sản lượng 5.6%/năm ). Như vậy, trong 13 năm qua mức tăng trưởng bình quân hàng năm của Việt Nam đều vượt xa so với thế giới nói chung và Châu á nói riêng. Như vậy không phải vô cớ mà các nhà kinh tế thế giới đánh giá là thành tựu lớn nhất của Việt Nam đạt được trong cuộc đổi mới trước hết là thành tựu nông nghiệp, cụ thể trong sản xuất lương thực ở đây là thời kỳ hưng thịnh nhất trong sản xuất lúa của Việt Nam. Năm 1999, mặc dù diễn ra hai trận lũ lụt nghiêm trọng trên quy mô lớn xảy ra ở 9 tỉnh miền Trung như cả nước và thế giới đã biết, nhưng lương thực quy thóc của Việt Nam vẫn đạt trên 34 triệu tấn (vượt năm 1998 là 1,7 triệu tấn). Năm 2001 sản lượng Việt Nam giảm đi đôi chút ( giảm 0.554 triệu tấn ), không chỉ riêng sản lượng Việt Nam giảm mà sản lượng thế giới cũng giảm. Mặc dù dân số nước ta phát triển nhanh nhưng sản lượng lương thực bình quân nói chung và sản lượng thóc bình quân nói riêng vẫn liên tục tăng, cho nên chúng ta không những đảm bảo an ninh lương thực quốc gia mà còn gia tăng xuất khẩu. Tuy nhiên, không phải ngẫu nhiên mà ta có được những kết quả đáng khích lệ như vậy. Để đạt được kết quả đó chúng ta phải kể đến rất nhiều yếu tố quyết định, trong đó có các chủ trương chính sách của Nhà nước. 2. Thực trạng xuất khẩu gạo Việt Nam. Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam đã sớm phát hiện ra tiềm lực sản xuất lúa gạo ở vùng thuộc địa này, năm 1865 sau năm ngày chiếm Sài Gòn chúng đã cho mở cửa xuất khẩu gạo nước ta. Năm 1929 chúng ta đã xuất được 1.9 triệu tấn. Trước năm 1989, Việt Nam đang trong thời kỳ khôi phục kinh tế, vừa phải giải quyết hậu quả chiến tranh kéo dài vừa có những chính sách bất hợp lý trong cơ chế chính sách về nông nghiệp và lương thực nên hàng năm chúng ta phải nhập khẩu 600-800 nghìn tấn, có năm lên đến 1 triệu tấn, mặc dù lúc đó ta có đến 80% dân số làm nông nghiệp. Năm 1989 với Nghị quyết 10 của Bộ chính trị đã đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng cho hoạt đông xuất khẩu gạo Việt Nam. Sau những năm dài vóng bóng, Việt Nam lại tiếp tục xuất hiện trên thị trường quốc tế với tư cách là một nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Số lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo Việt Nam so với thế giới. Năm Số lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam (1.000 tấn) Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam (triệu USD) Số lượng gạo xuất khẩu của thế giới (1.000 tấn) Số lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam/thế giới (%) 1989 1.372 310.249 13.900 9,9 1990 1.478 275.390 11.700 12,6 1991 1.016 229.857 13.139 7,7 1992 1.954 405.132 15.836 12,0 1993 1.649 335.651 16.332 10,0 1994 1.962 420.861 17.989 11,0 1995 2.025 538.838 22.515 9,0 1996 3.047 868.417 20.352 15,0 1997 3.628 891.342 20.861 17,0 1998 3.793 1.005.484 28.605 13,0 1999 4.559 1.025.000 25.099 18,0 2000 3.470 667.000 22.690 15,0 2001 3.720 624.700 22.869 15,7 Nguồn: Vụ xuất nhập khẩu – Bộ thương mại Nhìn chung trong 13 năm mặc dù tình hình thời tiết có những năm không thuận lợi lại thêm khó khăn của khủng hoảng tài chính, nhưng số lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam vẫn tăng, năm 2001 tăng lên so với năm 1989 là 2,34 triệu tấn (gấp 2 lần) . Cùng với sản lượng là kim ngạch xuất khẩu cũng tăng khoảng 390,751 triệu USD. Tuy nhiên diễn biến cụ thể qua các năm thì lại khác nhau. Năm 1999 là năm đạt kỷ lục về xuất khẩu gạo là 4,559 triệu tấn mặc dù trong năm này như chúng ta biết có những diễn biến khá phức tạp về thời tiết. Hiện nay xuất khẩu gạo Việt Nam đang đi vào quỹ đạo ổn định về số lượng là trên 3 triệu tấn/năm, tuy nhiên phải thấy một thực tế rằng kim ngạch xuất khẩu của ta có xu hướng giảm. Điều này do nhiều nguyên nhân cả chủ quan và khách quan. Để có được giải pháp cụ thể chúng ta phải xem xét khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thị trường thế giới. 3.Khả năng cạnh tranh của lúa gạo Việt Nam. 3.1. Khả năng cạnh tranh về chất lượng: Chất lượng gạo liên quan đến hàng loạt các yếu tố từ khâu sản xuất như: đất đai, nước tưới tiêu, phân bón đến gống lúa, bảo quản, vận chuyển. Để đánh giá gạo trên thị trường thế giới người ta căn cứ vào các tiêu thức: hình dang, kích thước, mùi vị, tỷ lệ thoc, tỷ lệ tạp chất, độ bóng, độ đều, độ bạc bụng...nhưng trong đó tỷ lệ tấm đóng vai trò quan trọng nhất, tỷ lệ tấm càng thấp thì giá càng cao. Xét về tỷ lệ tấm gạo Việt Nam trong những năm qua tăng rõ rệt. Ngoài tỷ lệ tấm các tiêu thức các tiêu thức khác như: tỷ lệ hạt đỏ, sọc đỏ, tỷ lệ bạc bụng, tỷ lệ hạt lẫn tạp chất cũng giảm rõ rệt,màu sắc và mùi vị tự nhiên ngày càng được cải thiện. Cụ thể những tiến bộ đó được thể hiện ở biểu sau: Tỷ lệ phẩm cấp gạo Việt Nam Năm Gạo phẩm cấp cao (5-10% tấm) Gạo phẩm cấp trung bình (15-20% tấm) Gạo phẩm cấp thấp (> 25% tấm) 1989 0.32 2.6 97.08 1990 14.21 9.06 76.13 1991 34.5 9.0 56.50 1992 37.78 15.25 46.97 1993 51.15 21.44 27.41 1994 74.47 8.53 17.00 1995 54.2 22.41 23.39 1996 45.5 11.0 43.50 1997 41 9.0 43.50 1998 53 11.0 36.00 1999 34.78 23.24 41.88 2000 42.68 26.24 31.08 2001 40.25 13.64 46.11 Nguồn: Vụ xuất nhập khẩu – Bộ thương mại Nhìn vào bảng số liệu ta thấy có sự thay đổi lớn về tỷ trọng các loại gạo. Vào năm 1989, tỷ lệ gạo phẩm cấp cao chiếm 0,32% nhưng đến nay nó đã lên tới 42,68% tăng gấp 133,4 lần. Tuy nhiên, trong cơ cấu xuất khẩu của ta thì gạo phẩm cấp thấp vẫn chiếm đa số. Khi tham gia thị trường thế giới, loại gạo này chịu sự cạnh tranh gay gắt nên bán giá thấp. Chính bởi chất lượng gạo Việt Nam trong thời gian qua chưa được cao nên trong suốt thời gian đó chúng ta ít xuất khẩu được trực tiếp mà thường xuất khẩu qua trung gian. Chúng ta thường bán cho Thái Lan, Singapo,... Các nước này thực hiện chế biến lại và sau đó tái xuất cho các nước khác. Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Thái Lan xuất khẩu gạo phảm chất cao chiếm 60-62%, trong khi Việt NAm mới đạt 35-40%. Chất lượng gạo thấp của ta giải thích bởi các yếu tố cơ bản sau: õ Vấn đề nghiên cứu chọn lọc giống chưa được quan tâm đầy đủ. Chưa có giống chuẩn cho vùng. Giống gạo Việt Nam phần lớn thuộc loại ngắn, còn nhiều bạc bụng, gạo đặc sản, gạo thơm còn ít. õ Công nghệ chế biến của ta còn lạc hậu, chỉ có 10/625 cơ sở quốc doanh được trang bị hiện đại. Các nhà máy chế biến thiếu thiết bị phân loại, tách tấm đánh bóng,...nên tỷ lệ tấm, rạn vỡ hạt,tỷ lệ tạp chất, độ đục còn cao sao với gạo Thái Lan và Mỹ. Hệ thống phơi sấy của chúng ta chủ yếu là phơi sân, phơi ruộng nên rất dễ bị lẫn giống lúa khác, cát, sỏi... õ Hiện nay công tác bảo quản và lưu tữ còn nhiều tồn tại. Hệ thống kho dự trữ của ta phần lớn không đảm bảo têu chuẩn kĩ thuật nên tỷ lệ hư hao do nấm mốc, côn trùng và chuột còn cao.độ ẩm cho phép của hạt gạo là 14%, bị vượt quá ngưỡng cho phép hạt lúa sẽ nảy mầm hoặc có biến đổi về chất lượng, nhưng phần lớn kho dự trữ rất khó để hạt lúa duy trì độ ẩm đó. 3.2. Khả năng cạnh tranh về giá cả. Nhìn chung giá gạo Việt Nam còn thấp so với giá mặt hàng chung thế giới, thường xuyên thấp hơn Thái Lan 20-25 USD. Đây cũng là điều kiện thuân lợi cho cạnh tranh song lại gây ra sự mất mát không nhỏ trong kim ngạch xuất khẩu. Việt Nam có lợi thế so với sản xuất lúa gạo của Thái Lan ở chi phí sản xuất: chi phí lao động chỉ bằng 1/3, năng suất gấp 1,5 lần, các chi tiêu liên quan về giá vật tư đầu vào bằng 50-80% chi phí của Thái Lan. Do vậy chi phí sản xuất lúa gạo của Việt Nam bình quân từ 90 - 110 USD/tấn, Thái Lan là 120 - 150 USD/tấn. Như vậy đây là lợi thế không nhỏ đối với Việt Nam trong xuất khẩu lúa gạo. Phần lớn các phân tích đều cho rằng trong 10 năm tới Thái Lan là đối thủ cạnh tranh mạnh mẽ nhất của Việt Nam và ngược lại. Tuy nhiên xét về các lợi thế so sánh lâu dài trong sản xuất và xuất khẩu, cả Thái Lan và Việt Nam để giữ được thị trường của mình đều sẽ phải khó khăn trong cạnh tranh với Pakistan, Myanma và Campuchia. Ba nước này đều có điều kiện thuận lợi cho sản xuất lúa gạo hàng hoá lớn, thu nhập đầu người và chi phí lao động cũng ở mức xấp xỉ như Việt Nam, do đó khả năng cạnh tranh về giá thành sản xuất – là lợi thế của Việt Nam hiện cũng đang là thách thức. 3.3. Hoạt động tiếp cận thị trường. Gạo Việt Nam hiện đã có mặt tại 82 quốc gia, chiếm 20% thị phần gạo thế giới, tuy nhiên chúng ta chưa có thị trường lớn tiêu thụ ổn định. Các doanh nghiệp Việt Nam còn thụ động trong quan hệ với bạn hàng, chưa thiết lập được hệ thống bạn hàng ổn định trên cơ sở làm ăn lâu dài, các hợp đồng chủ yếu ở cấp chính phủ chiếm 50% lượng xuất khẩu. Nhà nước quản lý xuất khảu bằng việc cấp quota nên các doanh nghiệp cũng không chủ động trong việc ký kết hợp đồng. Vẫn còn tình trạng bán hàng qua trung gian. Đối với thị trường có nhu cầu lớn về gạo có phẩm cấp thấp như Châu Phi chúng ta chưa xuất khẩu trực tiếp do chưa có chính sách hỗ trợ bạn trong thanh toán, ở các thị trường có sức mua lớn đòi hỏi chất lượng cao ta cũng chưa tiếp cận được. Thị trường tiêu thụ lúa gạo Việt Nam trên thế giới ĐVT:% Thị trường 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Châu á 33,3 31,0 73,7 54,46 54,16 45,87 Châu Phi 31,0 42,0 7,6 23,67 26,27 29,75 Trung Đông 19,0 15,0 11,6 12,52 17,50 10,17 Châu Mỹ 15,7 9,0 3,1 5,54 5,20 6,55 Châu âu và các thị trường khác 1,0 3,0 4,0 3,81 5,87 7,66 Nguồn: Vụ xuất nhập khẩu – Bộ Thương mại. Về khách quan, hiện nay mặt hàng nông sản chưa phải là mặt hàng được đưa vào danh mục đàm phán để cắt giảm thuế quan trong quá trình tự do hoá thương mại của (wTO). Trong ASEAN, nó được coi là mặt hàng nhạy cảm. Do đó tình trạng trợ cấp, bán phá giá và các hành vi buôn bán bất bình đẳng vẫn còn. Tóm lại: theo các kết quả phân tích ở trên chúng ta có thể thấy khả năng cạnh tranh của lúa gạo nước ta còn thấp, do chất lượng gạo Việt Nam chưa đáp ứng được đòi hỏi của thị trường có nhu cầu gạo chất lượng cao. Giá cả cạnh tranh tuy có nhiều thuận lợi song chi phí dịch vụ ngoài sản xuất cao đã kéo giá thành của sản xuất lên, bao bì mẫu mã vẫn chưa đáp ứng được cac tiêu chuẩn thế giới, hoạt động tiếp cận thị trường còn gặp nhiều khó khăn. Chính những vướng mắc trên đã làm giảm khả năng xuất khẩu gạo. Nhiệm vụ của chúng ta là tìm giải pháp hữu ích để giải quyết những khó khăn đó nhằm tăng khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam. Chương III giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và mở rộng thị trường xuất khẩu lúa gạo Việt Nam. i. Kinh nghiệm của một số nước xuất khẩu gạo và bài học cho Việt Nam. 1.Kinh nghiệm của Thái Lan. Thái Lan là một quốc gia nằm trong cùng khu vực Đông Nam á với Việt Nam , có diện tích canh tác 19,62 triệu ha, gấp 2,62 lần Việt Nam. Dân số khoảng 60 triệu dân, bình quân đất canh tác trên đầu người gấp 4 lần so với Việt Nam. Cách đây 25 năm, Thái Lan là một nước nông nghiệp lạc hậu nhưng hiện nay đã là một nước phát triển trong khu vực có mức bình quân thu nhập /người gấp 10 lần Việt Nam. Sự phát triển vượt bậc đó nhờ vào chính sách đổi mới của Thái Lan . Trên quan điểm nông nghiệp - nông thôn là xương sống của đất nước. Chính phủ Thái Lan đã chấp nhận những giáp pháp đặc biệt để giải quyết tình hình tụt hậu đất nước, trong kế hoạch 5 năm (1977 - 1981 ). Chính phủ khuyến khích phát triển công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn, thực hiện chủ trương đa dạng hoá nền kinh tế hướng vào xuất khẩu. Hình thành ngày càng nhiều khu công nghiệp chế biến nông sản được trang bị hiện đại, thu hút nông sản chế biến. Như vậy vừa khuyến khích nông dân sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, vừa nâng cao giá tri nông sản hàng hoá có sức cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Hiện nay nông sản Thái Lan có uy tín rất lớn và đang được tiêu thụ trên 100 nước khắp các châu lục trên thế giới. Thành tựu mà Thái Lan đạt được đó hơn hết là do sự đổi mới chính sách và sự đầu tư của chính phủ đến nông nghiệp nông thôn. Thật vậy, Thái lan rất chú trọng phát triển ngành lúa gạo từ việc duy trì các giống có chất lượng ngon phù hợp với thị hiếu tiêu dùng thế giới ( về độ dẻo, độ mịn, độ dài, độ bóng của hạt ). Đến đầu tư KHKT, các trang thiết bị dây truyền hiện đại thoả mãn các yêu cầu theo chất lượng EU, Mỹ, Nhật... Ngoài ra, Thái Lan còn có các biện pháp khuyến khích xuất khẩu gạo từ nhiều năm nay như: Bỏ chế độ hạn ngạch ( quota ); không thu thuế xuất khẩu; nhà xuất khẩu chỉ nộp thuế lợi tức nếu có; tạo tín dụng thuận tiện cho các nhà kinh doanh được vay ngân hàng với lãi xuất ưu đãi, khi cần thiết được chính phủ hỗ trợ xuất khẩu; định hướng những thị trường chủ yếu; can thiệp ký các hợp đồng lớn ...Thái lan đã nâng cao được khả năng cạnh tranh và vị thế trên thị trường quốc tế trong xuất khẩu nông sản nói chung và xuất khẩu lúa gạo nói riêng. 2.Kinh nghiêm của nước Mỹ. Sản xuất lúa của Mỹ chỉ chiếm 1,5% tổng sản lượng lúa toàn cầu và đứng thứ 11 trong các nước sản xuất lúa, nhưng Mỹ lại giữ vị trí thứ 2 trong các nước xuất khẩu gạo trong nhiều năm. Trong những năm gần đây, mặc dù thị phần gạo của Mỹ chỉ chiếm 13%, nhưng khả năng chi phối của Mỹ đối với thị trường gạo là rất lớn. Mỹ cạnh tranh và chi phối thi trường xuất khẩu gạo bằng chất lượng ưu việt so với gạo Thái Lan vì Mỹ có lợi thế hơn hẳn về khoa học – công nghệ trong chế biến và thiết bị kho tàng bảo quản... Với chiến lược toàn cầu, có thể cạnh tranh được với gạo xuất khẩu các nước, Mỹ thường dùng ngân sách trợ cấp để xuất khẩu gạo với giá chỉ bằng 60% giá thành. Chi phí sản xuất gạo ở Mỹ rất cao, theo tính toán giá thành sản xuất gạo ở Mỹ khoảng 400USD/tấn, Chính phủ trợ cấp hàng năm khoảng 700 – 800 triệu USD để các nhà xuất khẩu mua vào với giá 500USD/tấn, thậm chí có năm mua với giá trên 800USD/tấn rồi bán ra thị trường thế giới với giá dưới 300USD/tấn, mức giá này tương đương với giá thành sản xuất gạo của xác nước. Cùng với chính sách trợ cấp cho xuất khẩu, Mỹ cũng rất quan tâm đến khuyến khích và bảo hộ sản xuất trong nước. Trên cơ sở giám sát chặt chẽ diện tích trồng lúa, Chính phủ Mỹ thông qua các công ty mua lúa gạo ứng trước 1/3 chi phí sản xuất để hỗ trợ cho người sản xuất. Khi thiên tai xảy ra gây mất mùa, thu nhập của người sản xuất bị ảnh hưởng, Nhà nước trợ cấp cho người sản xuất đạt mức thu nhập tương đương với thu nhập của vụ sản xuất trung bình. Mỹ là nước xuất khẩu hạt dài và trung bình chất lượng cao tới châu Mỹ La Tinh đặc biệt là Mêhicô và Brazin, Trung Đông, Châu Âu. Đây là những thị trường chính quan trọng của Mỹ. Khác với các nước xuất khẩu gạo khác là Mỹ có ngành gạo phục vụ thị trường nội địa lớn và có giá trị cao. Thị trường nội địa đặt giá của Mỹ cao hơn nhiều so với giá của các đối thú khác. Ngành gạo của Mỹ có khả năng thoả mãn những đòi hỏi cao và phong phú của các nước nhập khẩu, có khả năng xuất khẩu hạt dài và trung bình ở bất kỳ giai đoạn nào của chế biến gạo, ở bất kỳ những yêu cầu về chất lượng gạo như thế nào, hình thức đóng gói và vận chuyển. Từ kinh nghiệm thành công của các nước trong việc thúc đẩy xuất khẩu gạo, bài học cần rút ra cho Việt Nam : õ Thực hiện quy hoạch vùng chuyên canh lúa xuất khẩu, phát huy lợi thế so sánh trong xuất khẩu lúa gạo Việt Nam. õ Đầu tư kịp thời và đồng bộ công nghệ chế biến, bảo quản nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm. õ Sử dụng các chính sách kinh tế vĩ mô để can thiệp gián tiếp và điều tiết sản xuất gạo có hiệu quả. õ Chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông thuỷ lợi, kho cảng... õ Tăng cường đổi mới hệ thống tiếp thị phát triển các kênh sản xuất – xuất khẩu coi trọng chữ tín mở rộng và tạo lập thị trường mới õ Thực thi các chính sách nhằm hỗ trợ xuất khẩu gạo như: hướng dẫn giá xuất khẩu, nhà nước trực tiếp tìm kiếm thị trường, đàm phán với chính phủ các nước nhập khẩu để ký các hiệp định mua bán gạo nhằm giúp các doanh nghiệp tiêu thụ gạo có lợi nhất. Nhà nước cho các nhà xuất khẩu gạo vay với lãi xuất thấp để mua gạo xuất khẩu; nhà nước giảm thuế xuất khẩu, thậm chí thực hiện trợ giá xuất kẩu trong những điều kiện cần thiết để giúp các nhà cuất khẩu cạnh tranh được và chiếm lĩnh thị trường. II. Một số đề xuất nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và mở rộng xuất khẩu gạo Việt Nam trong thời gian tới. 1. Nhóm biện pháp nhằm nâng cao chất lượng gạo. Giải pháp về giống. Một là: Xúc tiến nhanh việc bình tuyển các loại giống lúa đặc sản của các địa phương từ đó hình thành quỹ gien và các giống lúa chất lượng cao để xuất khẩu. Hai là: Hoàn thiện hệ thống quản lý Nhà nước về giống theo bước rút ngắn thời gian từ khâu thử nghiệm đến khâu sản xuất đại trà đồng thời vẫn giải quyết được an toàn khi các giống mới chưa được sản xuất đại trà. Ba là: Hình thành hệ thống nhân giống lúa thích hợp để thường xuyên thay giống lai tạp bằng giống thuần chủng cho nông dân, đa phần các giống luá mới đều xuống cấp nhanh và dễ bị lai tạp. Bốn là: Mỗi tỉnh, huyện cần nghiên cứu để xác định được cơ cấu giống lúa và chủng loại thích hợp. Nghiên cứu trồng một giống lúa thống nhất trong vùng, đảm bảo thuận tiện cho sản xuất, chế biến. Phát triển vùng chuyên canh gạo xuất khẩu, tăng sản xuất gạo đặc sản, gạo thơm gắn với thị hiếu của thị trường cụ thể. Năm là: Đối với công nghệ chế biến sau thu hoạch thì cần tập trung theo chiều sâu, không đầu tư lan tràn gây lãng phí. Kiểm định công nghệ được nhập khẩu. Chú ý đầu tư cho cơ sở hạ tầng chế biến ở các tỉnh có sản lượng lúa hàng hoá lớn. Tận dụng năng lực chế biến hiện có của các thành phần kinh tế; tu bổ các kho cũ, xây dựng hệ thống sấy tại kho, tổ chức bảo quản tốt hơn. Giải pháp về phân bón. Thứ nhất: Trước hết trong vài thập niên tới chúng ta vẫn duy trì việc sử dụng cac loại phân hữu cơ truyền thống để bón lúa, đồng thời có sự kết hợp giữa phân bón hữu cơ và vô cơ một cách phù hợp. Để nâng cao chất lượng lúa gạo xuất khẩu, việc giảm dần phân bón vô cơ thay vào đó là phân hữu cơ là rất tốt. Vì vậy sẽ giảm được chi phí sản xuất do phân hữu cơ có sẵn còn phân vô cơ thường nhập khẩu giá thành cao, làm tăng khả năng cạnh tranh của lúa gạo Việt Nam. Thứ hai: Tăng cường quản lý Nhà nước về lĩnh vực kinh doanh phân bón đảm bảo quảng cáo chất lượng phân bón trung thực, sản xuất theo đúng chất lượng đăng ký, chống sản xuất phân bón giả gây thiệt hại cho nông dân. Giải pháp phòng trừ sâu bệnh. Trong vòng 5-10 năm tới các loại phòng trừ sâu bệnh bằng hoá chất vẫn còn chiếm chủ yếu. Khi sử dụng hoá chất này cần tuân thủ 4 nguyên tắc củ yếu: đúng lúc, đúng mức, đúng cách, đúng chỗ. Do vậy để đảm bảo sử dụng có hiệu quả chúng ta cần cung cấp vốn kịp thời cho nông dân, nâng cao hiểu biết cho nông dân về các loại sâu bệnh cũng như tính năng, tác dụng của từng loại hoá chất cần sử dụng. Trong tương lai cần tăng cương sử dụng các phương tiện sinh học và giải pháp IPM thay thế cho các loại thuốc trừ sâu hoá học. Việc làm này sẽ nâng cao được chất lượng gạo xuất khẩu và bảo vệ môi trường sinh thái. Giải pháp ở khâu chế biến. Trước hết phải đầu tư hệ thống phơi sấy sau thu hoạch. Hiện nay ở Việt Nam làm khô thóc chủ yếu vẫn dựa vào ánh sáng mặt trời để giảm độ ẩm của thóc. Tăng cường công nghệ bảo quản thóc theo hướng áp dụng công nghệ bảo quản kén gạo sát trắng, gạo lột bằng cách sử dụng màng PVC trong môi trường CO2 hoặc Nitơ trong các kho quốc gia và dự trữ kinh doanh. Sản xuất và áp dụng một số chế phẩm vi sinh, các chế phẩm từ thực vật có tác dụng diệt côn trùng mà không gây độc hại cho ngưòi và gia súc. Sản xuất các thiết bị kho chứa với dung tích gia đình từ 200 – 2000 Kg cho các tỉnh phía Bắc và từ 1000 – 5000 Kg cho các tỉnh phía Nam. Nâng cấp hệ thống kho chứa, bến bãi tại các đầu mối thu mua thóc gạo, mặt khác phải nâng cao hệ thống xay xát gạo. 2. Nhóm chính sách thị trường. Nhà nước có chủ trương cơ chế xúc tiến thị trường. Thực hiện nhất quán chính sách thương mại, tích cực đàm phán ký kết hiệp định thương mại song phương và đa phương, ký kết hợp đồng xuất khẩu gạo cấp chính phủ. Mục tiêu là tiếp cận thị trường tiêu dùng cuối cùng. Do đó, việc sản xuất và tiêu thụ cũng phải căn cứ trên nhu cầu từng loại thị trường mà đáp ứng. Có thể xây dựng chiến lược thâm nhập và phát triển thị trường dựa trên việc phân loại những nước nhập khẩu gạo thành 3 loại: • Nhóm nước sử dụng gạo là lương thực chính, song do điều kiện sản xuất khó khăn – trên cơ sở lợi thế só sánh: chi phí cao, hiệu quả thấp nên họ sản xuất ở mức nhất định còn lại nhập khẩu như: Hồng Kông, Malaysia, Singapore, Cô-oét, Nhật Bản... Các nước này có nhu cầu khá ổn định song chủ yếu nhập gạo có chất lượng cao. • Nhóm nước mà gạo không phải là lương thực chính, song người nhập cư khá đông và có nguồn gốc từ các quốc gia sử dụng lúa gạo như Châu Âu, Canada, SNG... Nhóm này có nhu cầu khá ổn định, mỗi nước khoảng vài trăm ngàn tấn, chủ yếu là gạo cao cấp. • Nhóm nước có nhu cầu nhập khẩu lớn và thường xuyên, song khả năng thanh toán hạn chế nen thực tế nhập thấp hơn nhu cầu gồm các nước: Bắc Triều Tiên, Irắc, Apganistan, Trung và Đông Phi... Gạo xuất vào khu vực này là loại có chất lượng trung bình và thấp, chủ yếu là qua con đường viện trợ và cứu tế nhân đạo hoặc phải thông qua cấp tín dụng, trả chậm trong thời hạn nhất định. Các công ty kinh doanh lương thực cần phải nắm được đặc điểm của từng loại thị trường, có biện pháp thâm nhập từng thị trường cụ thể về giá cả, chủng loại, chất lượng, bao bì. Chẳng hạn, đối với loại gạo ngon, gạo đặc sản khi xuất đến các thị trường có thu nhập khá, văn minh thương mại phát triển như Châu Âu, Châu úc thay vì xuất khẩu với hình thức đóng bao truyền thống 50kg, 100kg có thể sử dụng bao bì nhỏ 5kg, 10kg, bao bì được ghi đầy đủ những thông số cần thiết về đặc tính gạo, chất lượng, nguồn gốc, xuất xứ... xuất cho nhà nhập khẩu bán trực tiếp tại các siêu thị vừa tạo điều kiện cho nhà nhập khẩu gạo của ta ở các nước này có thể tiêu thụ dễ dàng, vừa thuận lợi cho người tiêu dùng, nâng cao uy tín, nhãn hiệu và giá xuất khẩu. Nhà nước và hiệp hội xuất khẩu gạo cần trợ giúp các doanh nghiệp tổ chức các hoạt động giới thiệu và tiếp thị thông qua hội chợ triển lãm, quảng cáo, tìm kiếm và mở rộng thị trường nước ngoài. Trên phương diện vĩ mô, Chính phủ cần nâng cấp hơn nữa hoạt động trao đổi thông tin, liên kết trong việc hoạch định chính sách kin tế vĩ mô với các nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới như Thái Lan, Trung Quốc, ấn Độ... để có những điều chỉnh chính sách nhằm đem lại lợi ích ổn định và ngày càng tăng từ xuất khẩu gạo. Xây dựng một nền văn hoá kinh doanh trên cơ sở hiểu biết, tin cậy và cùng có lợi. Tạo uy tín trong thương mại quốc tế, từng bước gây dựng thói quen ưa chuộng gạo Việt Nam mà đẩy mạnh xuất khẩu, chiếm lĩnh thị trường. 3. Nhóm về tổ chức mạng lưới các doanh nghiệp xuất khẩu. Gắn mỗi công ty kinh doanh lương thực với một vài vùng lúa gạo và một số thị trường cụ thể. Trên cơ sở đó, công ty phối hợp với địa phương (Sở Nông nghiệp, Trung tâm khuyến nông tỉnh) hỗ trợ nông dân những yếu tố đầu vào cho sản xuất: về vốn, giống, phân bón, khoa học kĩ thuật... và ổn định thị trường đầu ra, thu mua lúa cho nông dân. Các công ty chủ động tập trung nghiên cứu thị trường trọng điểm, định hướng sản xuất, có biện pháp xâm nhập phù hợp theo đặc điểm về số lượng và thị hiếu. Cần có sự liên hệ chia sẻ thông tin giữa các doanh nghiệp và sự hỗ trợ từ phía Bộ Thương mại và hiệp hội xuất khẩu gạo nhằm đảm bảo quyết định kinh doanh phù hợp trong tổng thể chung, tránh được những rủi ro thị trường không đáng có. 4. Nhóm chính sách thu mua tạm trữ và dự trữ lương thực. Về thu mua tạm trữ. Thứ nhất, tiếp tục hệ thống kho tạm trữ lúa ngay tại địa phương. Việc này một mặt giúp nông dân không bị ép buộc phải bán ngay sau khi thu hoạch làm nguồn cung tăng đột biến trên thị trường gây sụt giá ảnh hưởng đến lợi ích chung của người nông dân, mặt khác đảm bảo nguồn cung gạo xuất khẩu ổn định. Thứ hai, hỗ trợ về vốn tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp thu mua lúa của nông dân khi thu hoạch rộ, để chủ động cung ứng ra thị trường khi được lợi về giá. Doanh nghiệp mua theo thời vụ và bán theo thời giá. Về dự trữ lương thực. Thứ nhất, Cục Dự trữ Quốc gia cần nâng cấp mạng lưới kho dự trữ, cải tiến kĩ thuật dự trữ, học hỏi kinh nghiệp của các nước có hệ thống dự trữ lương thực tương đối tốt như Mỹ, úc, Thái lan... Bên cạnh đó, Cục Dự trữ cần có cơ chế hoạt động linh hoạt để hệ thống này chỉ có vai trò dự trữ đảm bảo an ninh lương thực quốc gia mà tận dụng cơ sở vật chất để hỗ trợ doanh nghiệp và người nông dân trong sản xuất kinh doanh. Thứ hai, quan điểm hành động đáp ứng mục tiêu an toàn lương thực là: “Dù quan trọng tới mức nào, mục tiêu phát triển sẽ không đạt được nếu bỏ qua những nhóm người dễ bị ảnh hưởng trong xã hội. Chìa khoá của chính sách là phải đảm bảo an ninh lương thực cho tất cả mọi người”. Vậy cách tốt nhất để đảm bảo an ninh lương thực là gì? Nếu cố gắng đáp ứng các yêu cầu của người nghèo bằng các chính sách về giá làm giảm giá lương thực và bằng chính sách thương mại hạn chế xuất khâủ thường là chính sách tự phản lại mình. Bởi giá lúa quá thấp và xuất khẩu ít dẫn đến kết quả tăng truởng nông nghiệp chậm, thu nhập quốc gia thấp và ảnh hưởng tới người nông dân nông thôn – những người được coi là nghèo nhất trong xã hội. Như vậy, mục tiêu tăng thu nhập của nông dân qua khai thác lợi thế so sánh của Việt Nam trong xuất khẩu gạo là cách tốt nhất đảm bảo an ninh lương thực và tăng trưởng kinh tế đất nước. 5. Chính sách ruộng đất. Chính sách ruộng đất là vấn đề lớn có tác động trực tiếp thúc đấy nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Song trước những yêu cầu của sự phát triển cần xác định và quy hoạch các vùng sản xuất lúa tập trung chuyên canh xuất khẩu. Theo hướng quy hoạch và đầu tư xây dưng một cách đồng bộ ( bao gồm: cơ sở hạ tầng, thuỷ lợi, giao thông, điện, thông tin liên lạc, chế biến..). Đồng thời cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đất. Trên thực tế đã xảy ra hiện tượng “ kinh tế ngầm” thực chất là vấn đề mua bán đất, tình trạng đó dẫn đến việc quản lý của Nhà nước gặp khó khăn, thất thoát về nguồn thu ngân sách, sử dụng sai mục đích, nạn tham nhũng nảy sinh gây khó khăn cho quá trình tích tụ, tập trung để phát triển sản xuất hàng hoá. Vì vậy cần tập trung vào các giả pháp sau: Giải quyết nhanh chóng việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ nông dân, tạo điều kiện cho hộ nông dân yên tâm đầu tư khai thác và sử dụng tốt tiềm năng tài nguyên đất. Giải quyết ruộng đất cho những người sống ở nông thôn làm nông nghiệp có đất để cấy lúa và để sản xuất. Tạo điều kiện cho những người được giao đất nhưng không trực tiếp sản xuất, làm nghề khác có thu nhập cao để họ chuyển nhượng cho các hộ khác và khuyến khích hình thành các trang trại để sản xuất xuất khẩu có hiệu quả. Nghiên cứu sự vận động có tính quy luật của các yếu tố đầu vào của sản xuất có tính đặc biệt như đất đai để sớm có hành lang pháp lý cho hình thành thị trường đất đai. 6. Các chính sách khác. Chính sách tiền tệ phải duy trì tỉ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam và ngoại tệ mạnh ở mức hợp lý để làm tăng hoặc ít nhất không làm giảm sức cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thị trường thế giới. Phát triển tín dụng xuất khẩu , ưu tiên một số vùng bước đầu chuyên canh cho đầu tư cho sản xuất và chế biến gạo được hưởng tín dụng với mức lãi suất ưu đãi. Nhà nước có chính sách tín dụng thích hợp tạo điều kiện cho vay vốn lưu động các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo chờ cơ hội giá thế giới có lợi mới xuất khẩu. Thủ tục vay phải đơn giản cho phép thế chấp bằng hàng và hợp đồng xuất khẩu trả chậm. Dùng quỹ hỗ trợ xuất khẩu để hỗ trợ lãi xuất vay tín dụng khi được phép xuất khẩu trả chậm, để giữ thị trường truyền thống khi nhập khẩu gạo khó khăn trong thanh toán hoặc mở ra một thị trường mới. Phổ biến và ứng dụng các phương thức thanh toán văn minh, tiện lợi. Khuyến khích thanh toán qua ngân hành ngoại thương nhằm giảm gian lận trong thương mại. Đầu tư cho cơ sở hạ tầng: kho tàng, bến cảng, chế biến, giảm chi phí lưu thông, vận chuyển bốc xếp hàng hoá nhanh làm tăng sức cạnh tranh và uy tín hàng xuất khẩu. Tích cực khai thác thông tin thị trường, giá cả, tình hình hoạt động của các thành viên trong và ngoài nước, phổ biến kịp thời các chính sách mới của nhà nước cho các nhà xuất khẩu. Cung cấp cho nhà xuất khẩu những thông tin hướng dẫn cơ bản về đặc điểm từng thị trường và phương thức tiếp cận. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ ban đầu cho quảng cáo, tiếp thị, tham gia hội trợ triển lãm gạo, nông sản thế giới. Tiếp tục triển khai hoàn thiện đề án Xây dựng trang Web: trưng bày, giới thiệu nông sản Việt Nam, tiến tới đặt hàng, mua bán trực tiếp qua mạng. Kết luận Như vậy chúng ta đã tiến hành xem xét các vấn đề lý luận về lợi thế tuyệt đối, lợi thế tương đối, lợi thế cạnh tranh và áp dụng vào phân tích các lợi thế đó trong hoạt động xuất khẩu lúa gạo của Việt Nam. Nhìn chung nước ta có đầy đủ các điều kiện thuận lợi cần thiết cho phát triển rộng rãi sản xuất lúa hàng hoá xuất khẩu như: vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, nguồn nhân lực...Nhưng thực tế ta chưa khai thác triệt để các ưu đãi đó tạo lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu gạo. Khả năng cạnh tranh nước ta về các mặt như chất lượng, giá cả, quy cách mẫu mã, tiếp cận thị trường thấp. Do vậy việc tìm ra các giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng gạo, giảm giá thành sản xuất, nâng giá xuất khẩu, tăng cường hoạt động tiếp cận thị trường là rất cần thiết. Tổ chức thực hiện một cách đồng bộ và có hiệu quả các giải pháp được đưa ra sẽ tạo ra những đột biến quan trọng trong hoạt động xuất khẩu gạo thời gian tới như: thực hiện thành công chiến lược, kế hoạch xuất khẩu giai đoạn 2000 - 2001, tăng kim ngạch xuất khẩu và tăng vị thế của xuất khẩu gạo nói riêng và nông nghiệp Việt Nam nói chung trên trường quốc tế. Trong những năm qua, xuất khẩu gạo Việt Nam đã gặt hái được những thành tựu đáng kể, từ một nước thiếu ăn nay đã trở thành nước xuất khẩu thứ hai thế giới và đem lại nguồn ngoại tệ lớn cho đất nước. Trong tương lai, nhờ có lợi thế về tự nhiên, nguồn lực... Việt Nam đang còn có nhiều triển vọng cho sản xuất cũng như xuất khẩu. Tuy nhiên hiện nay chúng ta đang đang phải đối mặt với những thách thức lớn, và sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt của thị trường thế giới, đòi hỏi phải có những đổi mới để củng cố và nâng cao vị thế của mình, đưa sản xuất – xuất khẩu Việt Nam vươn tới những tầm cao mới./ Tài liệu tham khảo Giáo trình “Kinh tế nông nghiệp” NXB Thống Kê 2001. Giáo trình “Quản trị kinh doanh Nông nghiệp” NXB Thống Kê 2001. “Lúa gạo Việt Nam - nguyên nhân kỳ tích” TS. Nguyễn Tiến Thoả - NXB Nông nghiệp. Tạp chí Thời báo Kinh tế số đặc biệt năm 2000. Tạp chí Nông nghiệp Phát triển Nông thôn - Tháng 5/2001 Tạp chí Nông nghiệp Việt Nam - Tháng 10/ 2001 Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 284 - Tháng 1/2002. Tạp chí Thị trường - Giá cả - Tháng 4,8,9/2002. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docJ0111.doc
Tài liệu liên quan