Đầu tư phát triển có vai trò rất quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Qua đề tài này, chúng ta có thể thấy vai trò của đẩu tư phát triển là rất quan trọng nên việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trở thành vấn đề mang tính quyết định đối với sự phát triển nền kinh tế nói chung và đối với doanh nghiệp nói riêng. Đặc biệt với đặc điểm là nước XHCN, nước ta thành phần kinh tế nhà nước mà cụ thể là DNNN đang có vai trò chủ đạo trong việc định hướng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN dưới sự quản lý của nhà nước trong công cuộc hiện đại hoá đất nước. DNNN là một công cụ vật chất hết sức quan trọng của nhà nước trong quản lý nền kinh tế nhằm đưa đất nước phát triển. Hiện nay DNNN tuy có nhiều mặt tích cực, có những lợi thế và điểm mạnh nhưng cũng không ít hạn chế, tiêu cực trong đầu tư phát triển.
Trông khuôn khổ bài thảo luận này chúng tôi nêu ra những điểm đó và có ra một số giải pháp để khắc phục.
62 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 980 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lý luận chung về đầu tư phát triển trong doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ộ nghề nghiệp cho họ. Như vậy, xét về nội dung phát triển nhân lực bao gồm các hoạt động là: giáo dục, đào tạo và phát triển.
Giáo dục được hiểu là các hoạt động hcọ tập để chuẩn bị cho con người bước vào 1 nghề nghiệp hoặc chuyển sang 1 nghề nghiệp mới thích hợp hơn trong tương lai.
Đào tạo (hay còn được gọi là đào tạo kỹ năng) được hiểu là các hoạt động học tập nhằm giúp cho người lao động có thể thực hiện có hiệu quả hơn chức năng, nhiệm vụ của mình. Đó chính là quá trình học tập làm cho người lao động nắm vững hơn về công việc của mình, là những hoạt động để thực hiện nhiệm vụ lao động có hiệu quả hơn.
Phát triển là các hoạt động học tập vượt ra khỏi phạm vi công việc trước mắt của người lao động, nhằm mở ra cho họ những công việc mới dựa trên cơ sở những định hướng tương lai của doanh nghiệp.
Các lý do chủ yếu để doanh nghiệp tiến hành phát triển nguồn nhân lực, đó là:
+ Để đáp ứng yêu cầu của việc tổ chức hay nói cách khác là để đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
+ Để đáp ứng nhu cầu học tập và phát triển của người lao động trong doanh nghiệp.
+ Đào tạo và phát triển là những giải pháp có tính chiến lược tạo ra lới thế cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Khi doanh nghiệp đầu tư phát triển nguồn nhân lực thì doanh nghiệp đã mang lại cho mình nhiều lợi ích trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình như:
+ Nâng cao năng suất lao động, hiệu quả thực hiện công việc.
+ Nâng cao chất lượng của việc thực hiện công việc.
+ Giảm bớt sự giám sát vị người lao động được đào tạo có khả năng tự giám sát.
+ Nâng cao tính ổn định và năng động của tổ chức.
+ Duy trì và nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực.
+ Tạo điều kiện cho áp dụng tiến bộ kĩ thuật và quản lý vào doanh nghiệp.
+ Tạo ra lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp.
+ Ngoài ra, đối với người lao động thì phát triển nguồn nhân lực thể hiện ở chỗ: tạo ra được sự gắn bó giữa người lao động và doanh nghiệp, tạo ra tính chuyên nghiệp của người lao động, tạo ra sự thích ứng giữa người lao động và công việc hiện tại cũng như tương lai, đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng phát triển của người lao động, và tạo cho người lao động có cách nhìn cách tư duy mới trong công việc của họ là cơ sở để phát huy tính sáng tạo của người lao động trong công việc.
Chính vì những lý do trên mà các doanh nghiệp hiện nay đã chú trọng vào phát triển nguồn nhân lực, coi hoạt động đầu tư phát triển nguồn nhân lực như là một hoạt động thường xuyên và quan trọng của doanh nghiệp.
Ở nước ta thì hầu hết các doanh nghiệp để phát triển nguồn nhân lực mới chỉ sử dụng các biện pháp như: Tìm kiếm lao động đầu vào có chất lượng cao; Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao động trong doanh nghiệp; Và nâng cao điều kiện làm việc cho người lao động. Tuy nhiên trong các hình thức trên thì hình thức đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao động được áp dụng nhiều trong các doanh nghiệp nhà nước, còn hình thức lựa chọn lao động đầu vào chất lượng cao được sử dụng nhiều trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
4 _ Đầu tư vào hoạt động Marketing và tài sản vô hình khác.
- Đầu tư vào hoạt động Marketing:
Doanh nghiệp muốn cạnh tranh thắng lợi thì marketing được nhiều người cho rằng là chức năng then chốt của thành công của doanh nghiệp: nhờ có marketing dự báo nhu cầu tiêu thụ sản phẩm, dự tính các hành động cho doanh nghiệp, hỗ trợ bán hàng thông qua quảng cáo, khuyến mại,Muốn vậy đòi hỏi phải:
+ Xác định rõ hướng đi: doanh nghiệp phải suy tính kỹ trước khi quyết định có nên đối đầu trực tiếp với doanh nghiệp lớn hay không, nếu cảm thấy không có đủ nội lực thì chuyển hướng khác.
+ Xác định thời gian đi: nếu doanh nghiệp đã xác định được hướng đi và nếu không phạm sai lầm nào về kế hoạch tiếp thị cộng với một chút may mắn thì doanh nghiệp sẽ có được một mảng thị phần,
+ Phạm vi triển khai: doanh nghiệp nên lựa chọn phương án triển khai trên phạm vi nào thì cần phải cân nhắc rõ ràng.
+ Hiểu người tiêu dùng: Tiến hành nghiên cứu thị trường để am hiểu sâu sắc người tiêu dùng, để thiết kế sản phẩm phù hợp với họ, và khác biệt với đối thủ.
+ Hệ thống phân phối mạnh
+ Bao bì bắt mắt và hoàn hảo
+ Chất lượng sản phẩm hoàn hảo
+ Can đảm và kiên trì
- Đầu tư và tài sản vô hình: tài sản vô hình bao gồm:
+ Tài sản trí tuệ
+ Các yếu tố vô hình của sản nghiệp thương mại
+ R & D
+ Nguồn nhân lực
+ Các yếu tố khác.
Chương 2: Đánh giá thực trạng tình hình đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam.
I _ Đánh giá chung tình hình đầu tư phát triển thời gian gần đây.
1) Thành tựu đạt được:
Thứ nhất: Nguồn vốn huy động cho hoạt động đầu tư tăng lên đáng kể. Không chỉ những nguồn lực trong nước được khơi thông mà chúng ta đã chú ý khai thác cả những nguồn lực bên ngoài. Vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp đáng kể vào công cuộc CNH-HĐH đất nước.Trong những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX tốc độ tăng vốn đầu tư : 28%-29% /năm. Đặc biệt năm 1993 tăng đến 46% /năm. Tỷ trọng vốn đầu tư trên GDP tăng đều qua các năm:
Năm
đầu tư so với GDP(%)
tốc độ tăng trưởng kinh tế(%)
1991
15.22
6
1992
21.4
8.6
1993
29.5
8.1
1994
30.4
8.8
1995
28.4
9.5
1996
28.45
9.3
1997
28.7
8.2
1998
26.1
5.8
1999
25.4
4
2000
28.1
5
2001
31
6.68
Thứ hai: hoạt động đầu tư góp phần cho tăng trưởng và phát triển đất nước. Cùng với quy mô đầu tư huy động được, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta cũng tăng đều qua các năm (qua bảng số liệu trên cho chúng ta thấy được điều đó)
Thứ ba: hoạt động đầu tư góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH. Tỷ trọng vốn đầu tư trong nông nghiệp giảm dần, ngược lại tỷ trọng vốn đầu tư trong công nghiệp và xây dựng tăng lên đáng kể:
thời kỳ
Nông nghiệp(%)
Công nghiệp và xây dựng(%)
dịch vụ(%)
1986-1990
13.4
25.7
60.9
1991-1995
8.7
41.8
51.7
1996-1997
8.5
40.2
52.3
Tương ứng với nguồn vốn đầu tư trên, cơ cấu kinh tế nước ta trong những năm qua cũng có sự chuyển dịch theo hướng CNH-HĐH
Năm
Nông nghiệp
Công nghiệp và xây dựng
Dịch vụ
1995
27.18
28.76
44.16
1996
27.76
29.73
42.51
1997
25.77
32.06
42.15
1998
24.78
32.49
41.73
1999
25.43
34.49
40.08
2000
24.53
36.73
38.74
2001
23
38
39
Thứ tư: Hoạt động đầu tư góp phần nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ cho đất nước. Thông qua hoạt động của đầu tư nước ngoài, cho phép Việt Nam tiếp xúc với những thành tựu khoa học tiên tiến trên thế giới. Đồng thời, các ngành mới hình thành như:Công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ genvà trong quá trinh tiễp xúc và làm việc với nước ngoài chúng ta cũng học hỏi được nhiều kinh nghiệm làm việc và tổ chức quản lý
Thứ năm: tăng cường hợp tác quốc tế, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tếBên cạnh đó, năng lực nhiều ngành kinh tế tăng lên đáng kể, nhất là năng lực sản xuất của các ngành công nghiệp, năng lực tưới tiêu thuỷ lợi, năng lực ngành giao thông vận tải. Riêng trong năm 2004, số các dự án hoàn thành đưa vào sử dụng cao hơn so với những năm trước đây. Tổng số công trình, dự án hoàn thành trong năm 2004 khoảng 3640 dự án, trong đó cá bộ ngành trung ương khoảng 980 công trình, dự án; các tỉnh thành phố khoảng 2660 dự án. Cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng đã có nhiều đổi mới, thực hiện phân cấp, giao quyền và tạo chư động cho các bộ, ngành, địa phương trong việc quyết định chủ trương và phê duyện dự án đầu tư và bố trí vốn đẩu tư cụ thể cho các công trỉnh, dự án không phân biệt dự án nhóm A,B,C.
2) Những mặt còn hạn chế trong những năm gần đây:
Chất lượng của một số dự án quy hoạch chưa cao, chưa có tầm nhìn xa, quy hoạch chưa phù hợp với cơ chế thị trường, chưa theo kịp với quá trình thay đổi của các yếu tố khách quan. Các dự báo tác động của yếu tố bên ngoài như thị trường thế giới, tiến bộ công nghệ, sự cạnh tranh của các quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm nên tính định hướng cho doanh nghiệp còn hạn chế. Tính cục bộ, xu hướng khép kín trong quy hoạch đã gây nên sự lãng phí các nguồn lực do sự phát triển chồng chéo dư thừa công suất hoặc tạo ra độc quyền trong ngành, sử dụng quy hoạch để cản trở thành phần kinh tế khác tham gia. Quy hoạch thường xuyên chưa được cập nhập, bổ xung và điều chỉnh kịp thời, do đó có một số quy hoạch tỏ ra lạc hậu với tình hình thực tế, không đáp ứng nhu cầu, không đủ căn cứ để xây dựng kế hoạch.
Tình trạng đầu tư dàn trải chưa được khắc phục có hiêu quả. Trong những năm qua mặc dù đã có nhưng tiến bộ nêu trên nhưng tình trạng trong bố trí kế hoạch đầu tư bằng nguồn ngân sách các bộ, ngành và các tỉnh, thành phố vẫn chưa được khắc phục triệt để. Tình trạng này được tích tụ từ nhiều năm trước đây, gây lãng phí lớn dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp. Một số bộ ngành địa phương vẫn chưa chấp hành đúng quy định về quản lý đầu tư và xây dưng, bố trí vốn cho một số công trình, dự án chưa đủ thủ tục về đầu tư.
Tình hình thất thoát lãng phí còn lớn dẫn đến hậu quả đầu tư chưa cao đang là vấn đề bức xúc. Hiện tại vì chưa thể kiểm toán, thanh tra đánh giá toàn bộ các dự án đầu tư xây dựng nên chưa thể khẳng định con số thất thoát mà dư luận xưa nay đề cập tuy nhiên kết quả thanh tra cho thấy số sai phạm về tài chính chiếm 14-19% tổng vốn đầu tư được thanh tra, kiểm tra. Trong tổng số vốn bị phát hiện nói trên số vốn kiến nghị thu hồi chiếm 5-7% tổng số vốn được thanh tra. Qua các kết quả kiểm tra như trên ta thấy việc quản lý vốn, đặc biệt là nguồn vốn ngân sách , còn rất yếu kém, thiếu sót dẫn đến tình trạng đầu tư dàn trải, kém hiệu quả. Mặt khác cũng cho thấy khi thanh tra nhà nước tiến hành thanh tra thì số sai phạm bị phát hiện nhiều hơn khi tự các bộ ngành, tỉnh thành phồ thanh tra chính mình.
Hiệu quả sủ dụng vốn đầu tư chưa cao nhất là vốn ngân sách nhà nước. Cơ cấu đầu tư còn nhiều điểm chưa hợp lý
Việc giải ngân chậm, nhất là các dự án sử dụng nguồn vốn trái phiếu chính phủ, công trái giáo dục đã làm chậm đưa các công trình đi vào sử dụng. Mới chỉ chú ý đến đầu tư nhằm phát triển năng lực sản xuất mà chuă chú ý đến đầu ra sản xuất, công nghệ sử dụng, cơ sở hạ tầngdẫn đến sản phẩm chất lượng còn thấp, khả năng cạnh tranh chưa cao.
Sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển, vốn nhà nước kém hiệu quả, cơ chế quản lý không chặt chẽ dẫn đến tình trạng nợ nần, kém hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước.
Tình hình nợ khối lượng các công trình xây dựng cơ bản hoàn thành do chưa có vốn thanh toándiễn ra ở một số bộ, địa phương đang là vấn đề bức xúc
II _ Tình hình đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước.
1 _ Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam hiện nay:
+ Doanh nghiệp nhà nước có vị trí rất quan trọng, góp phần để khu vực kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là động lực thúc đẩy sự phân bổ lại dân cư theo hướng công nghiệp hoá, hình thành các trung tâm kinh tế, văn hoá, đô thị mới, trang bị lại kỹ thuật, đổi mới công nghệ cho toàn bộ cho nền kinh tế quốc dân, đào tạo bồi dưỡng cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề và tạo thêm điều kiện hạ tầng cho quá trình phát triển. Việc liên tục đổi mới hệ thống chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước nói riêng và kinh tế nhà nước nói chung bước đầu đã giúp hình thành đòn bẩy thu hút và khuyến khích các thành phần kinh tế khác liên doanh với doanh nghiệp nhà nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế.
+ Doanh nghiệp nhà nước là công cụ vật chất để nhà nước điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Doanh nghiệp nhà nước đã và đang chiếm vị trí quan trọng trong nhiều ngành kinh tế chủ chốt, bảo đảm các điều kiện cơ sở hạ tầng, dịch vụ xã hội ngày càng một tốt hơn; cung ứng hàng hoá, vật tư, năng lượng, chủ yếu cho sản xuất và đời sống. Doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò quyết định trong việc cung cấp những sản phẩm trọng yếu cho nền kinh tế quốc dân, như điện, sắt thép, xi măng, phân bón, xăng dầu, đồng thời là một trong các lực lượng chủ lực thực hiện các chính sách XH thông qua các doanh nghiệp công ích.
Sự phát triển cảu doanh nghiệp nhà nước trong các ngành hạ tầng như giao thông, năng lượng, Bưu chính viễn thông, dịch vụ, đã tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển. Mặc dù giảm mạnh về số lượng doanh nghiệp và phần tài trợ của nhà nước, doanh nghiệp nhà nước vẫn đạt được nhiều tiến bộ trong việc bảo đảm hầu hết yêu cầu sản phẩm và dịch vụ công ích, các điều kiện giao thông, điện, nước, thông tin, vật tư, hàng hoá cho xuất khẩu và thị trường trong nướ, đóng góp cho NSNN.
+ Doanh nghiệp nhà nước đang đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chính sách XH và ổn định chính trị - xã hội, định hướng công bằng, văn minh, góp phần cùng với khu vực kinh tế khác giải quyết các vấn đề việc làm, thu nhập cho người lao động, xoá đói giảm nghèo, páht triển văn hoá giáo dục, y tế làm cơ sở và nền tảng cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
+ Doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng khá cao về xuất nhập khẩu. Tốc độ tăng kim ngạch xuất nhập khẩu bình quân hàng năm đạt 20%. Doanh nghiệp nhà nước là đầu mối xuất khẩu hầu hết các mặt hàng quan trọng như dầu thô, than, gạo, hàng may mặc. Đồng thời, doanh nghiệp nhà nước cũng chiếm trên 98% tổng số dự án liên doanh với nước ngoài, đã góp phần tạo ra nguồn thu đáng kể từ khu vực.
+ Khu vực doanh nghiệp nhà nước chiếm vị trí quan trọng trong các nguồn thu của NSNN. Mặt khác các khoản tài trợ trực tiếp và gián tiếp từ ngân sách cho các DNNN đã làm cho phần đóng góp thực của DNNN vào ngân sách tăng lên.
+ Tổng công ty nhà nước đã thể hiện được vai trò nòng cốt, chủ lực trong nền kinh tế, hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, duy trì tỷ lệ tăng trưởng tương đối cao, hoàn thành nghĩa vụ nộp ngân sách, ổn định việc làm cho người lao động, nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên và tích cực tham gia vào các chính sách XH. Đồng thời huy động nguồn lực nội bộ trong toàn bộ tổng công ty kết hợp với các nguồn vốn khác để điều hoà thực hiện các chương trình đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất, tăng khả năng sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh, khai thác thị trường trong nước và mở rộng thị trường nước ngoài.
2 _ Đánh giá tình hình đầu tư phát triển trong khu vực kinh tế nhà nước.
2.1 _ Tạo ra tài sản cố định.
Vốn đầu tư cho tài sản cố định của các doanh nghiệp nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong các thành phần kinh tế. Trong năm 2005, Giá trị tài sản cố định khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 15,9%/năm.
Bên cạnh những thành tựu mà các doanh nghiệp nhà nước đã đạt được trong hoạt động đầu tư, vẫn còn đó những tiêu cực mà chúng ta cần phải nhắc tới như tình trạng thất thoát lãng phí và sự thiếu hiệu quả trong việc sử dụng vốn đầu tư phát triển tài sản cố định.
Tiền đầu tư bị thất thoát ở mọi giai đoạn đầu tư và diễn ra nổi lên theo một số dạng sau đây: Nâng giá; Khai khống khối lượng; Bớt vật tư,tráo vật tưCác hoạt động này diễn ra với nhiều thủ đoạn gian dối, tinh vi như: hối lộ quan chức, cán bộ; lợi dụng những sơ hở trong các quy định quản lý; mua bán hoá đơn chứng từ, lập hoá đơn chứng từ giả; tráo đổi vật tư, thiết bị đưa vào công trình; lập các công ty “ma”; liên kết giữa các nhà thầu; làm rối các thủ tục, quy trình triển khai quản lý; thiếu minh bạch, dân chủ trong quản lý dự án; phối hợp chặt chẽ, thông đồng giữa những kẻ có liên quan.
Trong đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB), mọi việc làm tăng chi phí đầu tư so với mức cần thiết dẫn đến làm giảm hiệu quả vốn đầu tư được coi là sự lãng phí.
Lãng phí diễn ra nổi lên ở một số dạng sau đây: Dự án được đầu tư khi chưa thực sự cần thiết phải đầu tư; Dự án được đầu tư với quy mô, công suất không phù hợp so với nhu cầu; Dự án được đầu tư với yêu cầu kỹ thuật và mỹ thuật không phù hợp so với nhu cầu; Dự án được đầu tư ở địa điểm và thời điểm không hợp lý; Thiết bị và công trình của dư án có chất lượng thấp làm giảm tuổi thọ của dự án; Tiến độ dự án bị kéo dài; Một số chi phí chung, chi phí khác, chi phí thiết bị, lao động và vật tư cao hơn thực tế; Một số khoản chi phí trong dự án được chi chưa tiết kiệm.
Các thực trạng nhức nhối trên đã đến lúc cần được loại bỏ để có thể nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn vào hoạt động đầu tư phát triển tài sản cố định hữu hình.
2.2 _ Về đầu tư vào nghiên cứu đổi mới, phát triển KHCN _ KT.
Hiện nay, trong những năm đổi mới cơ chế quản lý theo hướng thị trường có sự quản lý của nhà nước, các DNNN có cơ hội đổi mới công nghệ, lựa chọn hình thức đầu tư công nghệ mới, phần quan trọng vào sự tăng trưởng của sản xuất, cạnh tranh và trụ vững trong cạnh tranh với sản phẩm và dịch vụ của nước ngoài ở một số lĩnh vực.
Sự đổi mới công nghệ này có quan hệ không chỉ với máy móc thiết bị mà còn cả phương pháp tổ chức quản lý sản xuất, kỹ năng trình độ nghề nghiệp của người lao động
Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng hoạt động đổi mới công nghệ trong các DNNN cho đến nay chưa phải là rộng khắp và có chiều sâu. Năng lực cạnh tranh dựa trên công nghệ còn yếu, tỷ lệ máy móc, thiết bị hiện đại, tiên tiến trong các DNNN còn thấp. Theo ước tính thì có khoảng 80 – 90% công nghệ hiện đại đang sử dụng tại nước ta là nhập ngoại. Nhìn chung công nghệ nước ta còn thua kém xa so với trình độ thế giới và khu vực. Nguyên nhân của nó đó là các doanh nghiệp ở nước ta diễn ra chủ yếu dưới 2 hình thức đó là: thứ nhất là thông qua liên doanh, tiếp cận chuyển giao công nghệ mới. Thứ hai là tự đầu tư mới công nghệ.
Trong tình hình đất nước còn yếu kém về nhiều mặt hiện nay ở nước ta thì chuyển giao công nghệ, nhập công nghệ thông qua con đường đầu tư nước ngoài là chủ yếu. Và định hướng này sẽ tiếp tục được thực hiện và nó đã và đang mang lại nhiều thành quả to lớn và rõ ràng trong nâng cao trình độ công nghệ cho các doanh nghiệp mà chủ yếu là DNNN. Tuy nhiên:
Việc chuyển giao công nghệ chưa phải là loại tiên tiến bởi: từ phía chuyển giao công nghệ các đối tác vì mục tiêu tìm kiếm lợi nhuậncao, nhanh nên ít chịu chuyển giao công nghệ hiện đại tiên tiến. Từ phía nhận chuyển giao công nghệ là các DNNN thường có tâm lý ỷ lại, trông chờ vào nhà nước, trình độ hiểu biết về công nghệ mới còn rất hạn chế, động lực trục lợi cá nhân, thiếu đội ngũ cán bộ chuyên môn, thụ động trong tìm kiếm công nghệ và trong đàm phán, thiếu định hướng chiến lược lâu dài về sản xuất kinh doanh; Và mặt khác cũng do môi trường kinh tế xã hội còn chưa thật phù hợp và hấp dẫn, bộ máy quản lý nhà nước còn yếu kém, bất cập đối với chuyển giao công nghệ, thiếu hệ thống mạng lưới thông tin về công nghệ và các dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp nói chung và cả DNNN, Và năng lực nghiên cứu và phát triển KHCN của đất nước còn nhiều yếu kém, chưa đủ nội lực cần thiết để làm cơ sở cho việc tiếp thu và phát triển các công nghệ nhập trog điều kiện cụ thể.
Chưa có thiết kế tổng thể về đổi mới công nghệ với những bước đi cụ thể và lộ trình đổi mới công nghệ: sự thiếu hụt này bao gồm từ định hướng chiến lược với những ưu tiên trong đổi mới công nghệ cho tới việc xây dựng khung chính sách, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp đổi mới công nghệ.
Những công nghệ được chuyển giao đổi mới trong thời gian qua chưa tạo được động lực thúc đẩy cần thiết cho việc tiếp tục nâng cao năng lực công nghệ và tự đổi mới công nghệ: Những chuyển giao đỏi mới về công nghệ cho đến nay chủ yếu trong lĩnh vực lắp ráp, gia công, chế biến. Nhũng chuyển giao công nghệ thời gian qua còn dừng lại ở khâu tiếp nhận, vận hành, chứ chưa tạo được mối liên hệ chặt chẽ với các cơ quan nghiên cứu và triển khai công nghệ để nghiên cứu thích nghi, cải tiến công nghệ. Công nghệ được chuyển giao chủ yếu do nước ngoài giới thiệu, các doanh nghiệp nói chung và các DNNN nói riêng đa phần là bị động và thụ động.
Năng lực nội sinh của các DNNN còn yếu chưa đủ khả năng tự quyết định trong đổi mới công nghệ: năng lực nắm bắt và cập nhật cũng như xử lý thông tin có liên quan đến công nghệ mới còn hạn chế, nó ảnh hưởng tiêu cực và lâu dài đến không chỉ định hướng phát triển trong doanh nghiệp mà trong nhiều trường hợp còn cả tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Năng lực lựa chọn và quyết định về đổi mới công nghệ còn rất hạn chế, năng lực đàm phán trong hoạt động công nghệ còn yếu.
Sự thiếu tiến bộ, thiếu hoàn chỉnh của cơ sở hạ tầng kinh tế cho hoạt động chuyển giao công nghệ: hệ thống cơ sở hạ tầng yếu kém không chỉ làm nản lòng các nhà đầu tư chuyển giao công nghệ và đổi mới công nghệ, mà còn làm cho hoạt động đổi mới công nghệ, công nghệ được đổi mới vừa bị hạn chế phát huy tác dụng vừa phân bổ không đều giữa các vùng lãnh thổ.Hệ thống dịch vụ hỗ trợ cho đổi mới công nghệ còn yếu kém, thiếu vắng nhiều.
2.3 _ Về đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
Một trong những biện pháp mà các doanh nghiệp thường làm là tuyển chọn lao động đầu vào có chất lượng cao, đặc biệt là đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đối với DNNN khi tuyển chọn thì dựa vào bằng cấp, học vị trong hồ sơ xin việc, còn đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì họ dựa vào năng lực thể hiện thông qua cuộc thi thi tuyển chọn mà họ tổ chức từ đó họ đánh giá khả năng của ai là phù hợp với công việc của doanh nghiệp đặt ra.
Ta thấy rằng nếu so sánh giữa năng lực với bằng cấp thì năng lực là yếu tố quyết định giúp cho doanh nghiệp phát triển.
Hiện nay, ở nước ta bắt đầu xuất hiện hình thức thuê người quản lý như giám đốc vào làm trong các doanh nghiệp. Tuy nhiên nó chỉ mới phổ biến ở các doanh nghiệp nước ngoài; còn đối với DNNN thì còn mới mẻ, còn là chủ đề bàn bạc thảo luận. Nếu được chính phủ chấp nhận thì có thể hi vọng vào sự phát triển mạnh mẽ của DNNN. Việc thuê này là một biện pháp hiệu quả song rất tốn kém.
Việc tuyển chọn này có thể giúp doanh nghiệp lựa chọn được những nhân viên có năng lực phù hợp với công việc đặt ra song nó rất tốn kém bởi chi phí phải bỏ ra để tổ chức thi, việc lựa chọn những người có kinh nghiệm gặp khó khăn
Ngoài việc tuyển chọn thì hình thức đào tạo và đào tạo lại thường được sử dụng ở các DNNN: tính đến năm 2003 thì tổng số cán bộ, công chức được đào tạo, bồi dưỡng là 1,213 triều lượt. Các hình thức đào tạo rất phong phú, đa dạng như tổ chức các lớp bồi dưỡng kiến thức, tập huấn, gửi đi học nước ngoàitrong 3 năm từ 2002 đến 2005 thành phố HCM đã có kế hoạch đưa 1000 kỹ sư đi làm việc tại Bắc Mỹ, trong đó chủ yếu là Mỹ và Canada. Các kỹ sư này sau khi trở về Việt Nam đã trở thành lực lượng nòng cốt XD và phát triển công nghệ phần mềmNhìn chung doanh nghiệp đã dùng nhiều hình thức khác nhau để hỗ trợ nhân viên nâng cao trình độ, kỹ năng, kiến thứctrong đó phổ biến nhất vẫn là biện pháp trả lương cho nhân viên trong thời gian đi học. Phần lớn các DNNN đều thực hiện các chương trình đào tạo khác nhau, chi phí đào tạo khoảng 1 – 3% quỹ lương. So với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì DNNN hỗ trợ cho nhân viên đi học là nhiều hơn, 66,7% doanh nghiệp trả toàn bộ học phí cho nhân viên được cử đi đào tạo, còn 33,3% là doanh nghiệp tổ chức các khoá đào tạo và trả lương trong thời gian đi học. Còn đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì 50% tổ chức các khoá đào tạo và trả lương trong thời gian đi học, còn 50% thì trả toàn bộ và 1 phần học phíĐể tiết kiệm chi phí đào tạo thì một số doanh nghiệp đã áp dụng hình thức đào tạo trực tiếp bằng cách cử nhân viên có kinh nghiêm giảng dạy cho các nhân viên ít kinh nghiệm hơn hoặc là tiến hành theo phương pháp vừa học vừa làm. Hình thức này không chỉ tíêt kiệm được chi phí đào tạo cho doanh nghiệp mà còn giúp doanh nghiệp có những lao động phù hợp với điều kiện sản xuất của doanh nghiệp.
Việc tổ chức đào tạo và đào tạo lại đã nâng cao được trình độ của nhân viên phù hợp với công việc của doanh nghiệp, mặt khác nó còn giúp cho lao động nâng cao được tiền lương của mìnhĐối với các DNNN thì việc đào tạo và đào tạo lại cán bộ quản lý sẽ giúp DNNN phát triển bền vững và giữ vững được vị trí chủ đạo và định hướng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước. Tuy nhiên hình thức này vẫn còn có sự trùng lặp, còn nặng về lý thuyết trong khi yếu tố kỹ năng tác nghiệp, thực hành còn yếu, mặt khác một số DNNN đào tạo lao động nhằm tiêu hết quỹ tiền đào tạo bởi vậy mà hiệu quả đào tạo chưa cao.
Bên cạnh việc lực chọn và đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ, nhân viên, lao động thì môi trường làm việc và các điều kiện khuyến khích người lao động làm trong DNNN ngày càng được thông thoáng. Gần đây Chính phủ đã cho phép các DNNN được phép chi trả lương cho cán bộ công chức cao hơn tiền lương chung (nghị định 114/2002/NĐCP). Điều này đã tạo cho các DNNN chủ động hơn trong việc khuyến khích người lao động làm việc có hiệu quả hơn. Thêm vào đó theo chế độ lương mới nếu cán bộ công chức làm việc thêm trong ngày lễ thì sẽ được tăng 300% tiền lương. Ngoài ra nều có thành tích xuất sắc sẽ được tăng lương trước thời hạn 1 năm, ngược lại nếu không hoàn thành nhiệm vụ hay bị kỷ luật sẽ kéo theo 1 năm không được tăng lươngBên cạnh đó môi trường làm việc trong DNNN đạt mức độ an toàn tương đối cao trừ các Doanh nghiệp sản xuất. Việc trả lương đúng thời hạn và trả đủ lương cũng khuyến khích tinh thần làm việc của người lao động bởi chính nó đã đáp ứng mục đích của họ. Bộ lao động thương binh xã hội đã cho giảm tuổi nghỉ hưu của công nhân khai thác hầm mỏ xuống 50 tuổi là được nghỉ hưuNhìn chung thì môi trường làm việc trong DNNN đang ngày càng được quân tâm và có nhiều chế độ khuyến khích, ưu đãi hơn cho người lao động.
2.4 _ Đầu tư vào tài sản trí tuệ.
Hiện nay đầu tư vào tài sản trí tuệ bao gồm một số lĩnh vực:
Thứ nhất là đầu tư cho các phát minh sáng chế, các giải pháp hữu ích. Đó là hợat động đầu tư trong đó nhà đầu tư bỏ tiền và tri thức để ứng dụng hiệu quả trong thực tế. Sự sáng tạo của sản phẩm thể hiện sự đột phá so với trình độ kỹ thuật chung do đó tạo ra giá trị mới rất lớn, tồn tại lâu dài và tạo ra sức cạnh tranh cap của sản phẩm. Hoạt động đầu tư này được thực hiện dưới 2 phương thức: tự đầu tư nghiên cứu đê tạo ra các sáng chế giải pháp hữu ích hoặc mua lại công nghệ kèm với sáng chế và giải pháp hữu ích.
Nói chung xu hướng của các doanh nghiệp là thường mua công nghệ đi kèm với chuyển giao các sáng chế và giải pháp hữu ích, còn việc tự nghiên cứu chủ yếu được thực hiện ở quy mô quốc gia, trong các viện nghiên cứu, trung tâm khoa học hay các trường đại học. Do đó đối với hoạt động đầu tư này doanh nghiệp chưa có sự đầu tư đúng mức và chủ động.
Thứ hai là đầu tư vào bản quyền và các quyền cận kề trong lĩnh vực in ấn, giải trí, phát thanh truyền hình. Thực chất của hoạt động này là việc xây dựng và thực hiện và các quyền sở hữu tác phẩm, văn chương, nghệ thuật khoa học. Giá trị của nó được biểu hiện khi bán quyền sở hữu này cho người khác. Nói chung hoạt động đầu tư này đòi hỏi nhiều thời gian và chất xám và nó thường được đề cập đến với tư cách cá nhân hơn là các tổ chức doanh nghiệp.
Thứ ba là đầu tư nhãn hiệu thương mại, tên gọi xuất xứ hàng hoá. Đây không phải là hoạt động trực tiếp mà nó là kết quả của một loạt các yếu tố được đầu tư từ tài sản hữu hình như chất lượng sản phẩm, đặc tính nổi trội của sản phẩm. Do đó đây là một hoạt động đầu tư tốn rất nhiều thời gian và công sức, kết quả của nó là sự tổng hợp của các yếu tố. Một nhãn hiệu như cocacola, bưởi năm roichỉ có thể được công chúng biết đến và tin cậy khi nó tạo được ấn tượng tốt trong lòng khách hàng.
2.5 _ Đầu tư vào thương hiệu.
Một trong những từ xuất hiện nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng trong những năm gần đây là thương hiệu. Thương hiệu đã trở thành mối quan tâm không chỉ của doanh nghiệp mà còn cả của nhà quản lý và dư luận XH. Hiện nay khái niệm thương hiệu chưa có khái niệm thống nhất nhưng nó được khẳng định là TSVH của doanh nghiệp. Thương hiệu chắc chắn không chỉ dành cho các nhà kinh doanh hàng hoá tiêu dùng. Một nhà kinh doanh, một doanh nghiệp cho dù đang kinh doanh ở lĩnh vực nào thì cũng cần phải xây dựng thương hiệu cho mình. Hàng trăm tỷ đô la đang đổ ra trên thế giới mỗi năm đầu tư cho thương hiệu có cả những doanh nghiệp sản xuất từ cây kim sợi chỉ cho tới những doanh nghiệp sản xuất máy bay. Một khoản đầu tư cho thương hiệu hiệu quả là điều nên làm cho dù có thể đánh đổi bởi lợi nhuận.
Bản chất của thương hiệu là nhãn hiệu được thương mại hoá. Thương hiệu bao gồm: biểu tượng của công ty , biểu tượng, khẩu hiệu, tông màu, địa chỉ liên lạc và kể cả mùi vị đặc trưngcó nhiều loại đầu tư vào thương hiệu như đầu tư vào thương hiệu: doanh nghiệp,gia đình, cá nhân, tập đoàn, và nhà nước.
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm tăng tính hiệu quả của đầu tư phát triển trong DNNN.
I _ Đối với Chính phủ.
1. Đẩy mạnh công tác xắp xếp doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
- Trước hết cần phân loại, xác định rõ hai khu vực doanh nghiệp nhà nước: kinh doanh và công ích. Việc phân loại này dựa trên quy định của Luât doanh nghiệp nhà nước.Với các doanh nghiệp công ích chúng ta tiến hành:
+ chuyển sang chế độ khoán dịch vụ công ích thay cho chế độ bao cấp doanh nghiệp công ích.
+ Xã hội hoá các dịch vụ công ích thông qua các hình thức đấu thầu dịch vụ công ích, cho thuê doanh nghiệp công ích.
+ Tách phần kinh doanh của doanh nghiệp công ích để bớt phụ thuộc vào trợ cấp từ ngân sách nhà nước.
- Đối với các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh ta phân loại căn cứ vào các tiêu chí tầm quan trọng của ngành nghề, lĩnh vực hoạt động, từ đó đưa ra các biện pháp cần thiết về tổ chức lại quy mô xác định tỷ lệ và tính chất cổ phần nhà nước, cho phép độc quyền hay khuyến khích cạnh tranhCăn cứ vào các tiêu chí trên, các doanh nghiệp này đã được phân thành bốn nhóm:
+ Các doanh nghiệp nhà nước cần giữ hình thức 100% vốn.
Đây là các doanh nghiệp đặc biệt quan trọng để đảm bảo tính chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước ở những lĩnh vực cần thiết hay các doanh nghiệp đảm bảo nhu cầu phát triển sản xuất và nâng cao đời sống vật chất tinh thần của đồng bào các dân tộc miền núi và vùng sâu,vùng xa.
+ Các doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước nắm cổ phần chi phối.
Đây là các doanh nghiệp có vai trò khá quan trọng trong việc đảm bảo vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước, hoạt động trong các lĩnh vực tạo ra các cơ sở cần thiết cho sự vận hành của nền kinh tế như khai thác khoáng sản, vận tải hàng không, đường sắt, bưu chính viễn thông, kinh doanh xăng dầu
+ Các doanh nghiệp cổ phần hoá toàn bộ hoặc một phần.
Đây là các doanh nghiệp không có tầm quan trọng đặc biệt đang hoạt động có lãi hoặc có triển vọng có lãi. Chúng ta sẽ tiến hành cổ phần hoá tuỳ sức mua của cán bộ công nhân viên và thị trường vốn, có thể cổ phần hoá toàn bộ hoặc một phần.
+ Các doanh nghiệp giao, bán, khoán và cho thuê.
Đây là các doanh nghiệp nhà nước không quan trọng có vốn dưới 1 tỷ đồng hoặc làm ăn yếu kém kéo dài mà nhà nước không cần phải nắm giữ, doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng thua lỗ kéo dài trên 2 năm liên tục mà nhà nước cũng không cần phải nắm giữ.
Với các doanh nghiệp này ta cổ phần hoá toàn bộ hoặc nếu không cổ phần hoá được thì tiến hành một trong các hình thức giao, bán, khoán và cho thuê.Với các doanh nghiệp yếu kém, không cần thiết tồn tại độc lập thì có thể sáp nhập vào các doanh nghiệp khác hoặc giải thể, phá sản.
- Để thực hiện sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh, song song với việc thực hiện các phương án trên ta cần thực hiện đồng bộ các giải pháp kèm theo như sau:
+ Củng cố đổi mới tổ chức và cơ chế quản lý các tổng công ty.
+ Kết hợp sắp xếp lại với đầu tư mới hoặc cải tạo hiện đại hoá các doanh nghiệp nhà nước cần thiết.
+ Các cơ quan có trách nhiệm chỉ đạo đổi mới kinh tế và các Bộ ngành địa phương cần quán triệt nhận thức về các giải pháp sắp xếp doanh nghiệp nhà nước, thực hiện đồng bộ các biện pháp sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước.
+ Tổ chức tuyên truyền vận động rộng rãi trong công chúng để nhận được các ý kiến xây dựng về đổi mới doanh nghiệp nhà nước, mặt khác hiểu rõ chính sách của nhà nước, hăng hái mua cổ phần, qua đó đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá.
+ Hình thành đồng bộ các loại thị trường, phát triển thị trường vốn (đặc biệt là thị trường chứng khoán), phổ biến các phương thức định giá doanh nghiệp, cải tiến thủ tục hành chính liên quan.
+ Hoàn thiện các công cụ quản lý vĩ mô. Cần làm lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia, ổn định tiền tệ kiềm chế lạm phát nâng cao năng lực hoạt động của hệ thống ngân hàng.
+ Điều chỉnh và hoàn thiện hệ thống luật pháp về kinh tế thị trường. Ban hành pháp lệnh về chống độc quyền, hạn chế các hoạt động đầu cơ, bán phá giá, lừa đảo làm ảnh hưởng không tốt đến sự vận hành của thị trường. Tạo các hành lang pháp lý thuận lợi cho việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước.
+ Xây dựng chương trình tổng thể quốc gia về cổ phần hoá. Xác định tổng số doanh nghiệp cần tiến hành cổ phần hoá của cả nước, của từng địa phương từng bộ ngành. Xác định lộ trình cổ phần hoá cụ thể cho từng ngành, từng địa phương, từng doanh nghiệp trong một lộ trình tổng thể của cả nước.
Quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước bước đầu đã gặp phải nhiều khó khăn.Một trong những khó khăn chủ yếu là tiến độ cổ phần hoá còn khá chậm so với đòi hỏi của thực tiễn và so với tiến độ đặt ra. Theo một nguồn tin từ Tổng cục Thống kê, trong năm 2005, cả nước sẽ phải cổ phần hoá 724 doanh nghiệp mà trong 8 tháng đầu năm mới hoàn thành cổ phần hoá được 99 doanh nghiệp, đạt 15% so với yêu cầu. Nguyên nhân chính là do các bộ ngành địa phương chưa tích cực triển khai sắp xếp doanh nghiệp nhà nước, trông chờ vào Thủ tướng Chính phủ phê duyệt bổ xung phương án sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp.
Tuy nhiên bước đầu quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã có được nhiều thành công nhất định, tạo được tiếng vang lớn trên thị trường vốn. Tháng 2/2005 đã tiến hành cổ phần hóa Công ty Sữa Việt Nam (Vinamilk), Nhà nước giữ 80% vốn điều lệ của công ty, 20% còn lại được bán cho cán bộ nhân viên công ty và các cổ đông bên ngoài. Cuộc đấu giá cổ phần Vinamilk đã mang lại lợi nhuận cao cho Nhà nước, đem về cho Nhà nước gần 400 tỷ đồng. Thành công của việc đấu giá cổ phần Vinamilk còn khẳng định hiệu quả chủ trương của Chính phủ. Theo đó, đấu giá thông qua sàn giao dịch, hình thức mua bán công khai và công bằng, mang lại giá trị lợi nhuận nhiều hơn việc bán theo hình thức thông thường hoặc đấu giá không qua sàn mà lâu nay vẫn bị chỉ trích là thiếu minh bạch, chỉ phục vụ lợi ích một số ít nhà đầu tư hoặc thành viên trong DN cổ phần hóa.
Nhìn chung, các doanh nghiệp sau khi được cổ phần hoá đều có những bước chuyển biến tích cực, thích ứng được với cơ chế thị trường; trình độ quản lý và thiết bị công nghệ có nhiều tiến bộ, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đồng vốn được bảo toàn và tăng thêm... Hầu hết các doanh nghiệp khi cổ phần hoá, trách nhiệm và sự đóng góp công sức của người lao động được nâng lên, công tác điều hành quản lý ngày càng chặt chẽ và hợp lý hơn nên đã giảm được chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Bởi vậy, kết quả sản xuất kinh doanh của các công ty đều có lãi và khắc phục được tình trạng hiệu quả sản xuất không cao, thậm chí bị lỗ khi còn là doanh nghiệp nhà nước. Các công ty cổ phần hoạt động theo Luật doanh nghiệp, vai trò của Hội đồng quản trị đã được nâng lên và đã chủ động được kế hoạch sản xuất kinh doanh nên nhanh nhạy hơn trong việc tìm kiếm đối tác và thị trường mới. Nhờ đó, việc sản xuất kinh doanh của hầu hết các công ty đều có mức tăng trưởng cao hơn so với bình quân 3 năm trước khi cổ phần hoá.
2. Các giải pháp về cơ chế quản lý, cơ chế đầu tư và tài chính. Hình thành cơ chế sử dụng vốn có hiệu quả.
- Các doanh nghiệp nhà nước hiện nay vẫn chưa định hình rõ cơ chế quản lý, hoạt động theo cơ chế mang nặng tính bao cấp xin cho, được hưởng các ưu đãi của nhà nước dẫn đến ỷ lại, kém hiệu quả. Các giải pháp về cơ chế quản lý nhằm mục đích đưa các doanh nghiệp nhà nước trở lại hoạt động theo chế độ hạch toán, cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp khác mà vẫn đảm bảo tốt vị trí vai trò của mình. Nhà nước phải giám sát kiểm tra đánh giá được tình hình kinh doanh và tài chính của doanh nghiệp. Cần tạo ra cơ chế thúc đẩy cạnh tranh đi đôi với minh bạch về tài chính. Cần có cơ chế thưởng phạt và quy trách nhiệm rõ ràng, nhất là đối với người đứng đầu cơ quan tổ chức.
- Với cơ chế đầu tư và tài chính, cần kiên quyết xoá bỏ cơ chế xin cho trong quan hệ tài chính giữa nhà nước,cơ quan chủ quản với doanh nghiệp nhà nước. Đưa hoạt động đầu tư chuyển sang hình thức quỹ đầu tư hoặc công ty đầu tư tài chính của nhà nước. Đây là các thiết chế tài chính công chịu trách nhiệm đầu tư vào các doanh nghiệp nhà nước, bảo toàn vốn, điều phối vốn theo kiểu các công ty đầu tư tài chính (holding company). Đưa vào hoạt động các công ty tài chính chuyên xử lý nợ (factoring company), nâng cao hiệu lực của toà án kinh tế, chấm dứt tình trạng nợ khó đòi. Tháng 2/2004, công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng (DATC) thuộc Bộ Tài chính chính thức ra mắt, trở thành công ty đầu tiên có quy mô quốc gia có nhiệm vụ mua các khoản nợ và tài sản tồn đọng của DN (bao gồm cả tài sản và quyền sử dụng đất ) bằng các hình thức thoả thuận trực tiếp, đấu giá hoặc theo chỉ định.
- Tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp nhà nước được huy động vốn từ nhiều nguồn. Doanh nghiệp nhà nước tự chịu trách nhiệm sử dụng hiệu quả và trả nợ vốn vay. Mở rộng và đa dạng hoá các hình thức thuê mua tài chính.
- Cần phân cấp và xác lập quyền sở hữu của nhà nước với doanh nghiệp, phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp nhà nước. Việc này sẽ bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
3. Đầu tư mũi nhọn trong từng ngành ,hình thành các tập đoàn kinh tế.
- Báo cáo của Bộ Tài chính về tình hình quản lý tài chính đầu tư xây dựng cơ bản qua 6 tháng đầu năm 2005 đã nhận định :” Việc bố trí vốn đầu tư phân tán, dàn trải là tồn tại lặp đi lặp lại nhiều năm nay trong công tác xây dựng kế hoạch đầu tư ở cả trung ương và địa phương, gây lãng phí lớn, làm hiệu quả đầu tư thấp, nhưng chậm được khắc phục.”
Hiện nay,tình trạng vi phạm thủ tục đầu tư thể hiện ngay trong khâu bố trí kế hoạch năm vẫn còn khá phổ biến. Một số Bộ, ngành chưa chấp hành nghiêm túc các quy định về thời hạn phân bổ kế hoạch và giao kế hoạch cho chủ đầu tư. Chất lượng hồ sơ chuẩn bị không đảm bảo. Số lượng và trình độ cán bộ không phù hợp. Nhiều dự án dở dang không đưa vào sử dụng được. Tình hình này đã gây ra tình trạng lãng phí nợ đọng nghiêm trọng, đôi khi còn dẫn đến tệ tham nhũng đã trở thành bệnh kinh niên của nền kinh tế nước ta. Để giải quyết vấn đề này, bộ trưởng bộ kế hoạch đầu tư Võ Hồng Phúc đã nêu ra ý kiến “tôi tán đồng với ý kiến là đưa ra cơ chế giám sát việc lên kế hoạch dự án cho các HĐND và UBND để quyết định trong mỗi kỳ họp Quốc hội. Có như vậy mới xử lý được đầu tư dàn trải, chứ như trước đây là không kiểm soát được mà trách nhiệm cũng không thuộc về ai. Có vấn đề vi phạm là phải quyết tâm xử lý luôn”.
- Để tăng tính hiệu quả của đầu tư trong doanh nghiệp nhà nước, tăng tính cạnh tranh trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đòi hỏi phải tiến tới xây dựng củng cố các tổng công ty theo hướng hình thành các tập đoàn kinh tế.
+ Các tổng công ty phải có cơ cấu mềm dẻo, thành lập trên cơ sở có các doanh nghiệp nhà nước nòng cốt. Cần có quy hoạch cụ thể tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp gia nhập tổng công ty.
+ Các tổng công ty phải có tiềm lực tài chính mạnh,dần trở thành các tập đoàn kinh doanh mạnh tham gia cạnh tranh quốc tế. Đa dạng hoá sản xuất kinh doanh, tạo nên các tổng công ty đa ngành, đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường và hạn chế rủi ro trong đầu tư.
+ Phân định rõ ràng quyền sở hữu và quyền quản lý trong các tổng công ty. Quy định rõ về trách nhiệm và thẩm quyền của mỗi tổ chức. Cần nâng cao vai trò chủ sở hữu của Hội đồng quản trị. Thực hiện công ty hoá các doanh nghiệp nhà nước.
4. Thúc đẩy liên kết hỗ trợ giữa các doanh nghiệp nhà nước với các thành phần kinh tế khác kể cả kinh tế tư nhân và nước ngoài.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “Phải đổi mới căn bản tổ chức quản lý và nâng cao hiệu quả khu vực doanh nghiệp nhà nướcphát triển các hình thức liên doanh liên kết trực tiếp giữa các doanh nghiệp nhà nước với nhau, giữa kinh tế nhà nước với kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản tư nhân, cá thể và các công ty nước ngoài”.Những vấn đề trên vẫn còn giữ nguyên giá trị và tính thời sự cấp bách. Hơn bao giờ hết càng cần phải nâng cao hiệu quả trong tổ chức hoạt động và liên kết phối hợp hoạt động với các khu vực khác.
5. Bồi dưỡng phát triển các nguồn nhân lực, đào tạo và đào tạo lại cán bộ quản lý.
Hiện nay vấn đề nhân lực nhất là nhân lực trình độ cao đang là vấn đề cấp thiết đối với các doanh nghiệp nhà nước. Cần tạo lập hình thành quỹ phát triển nguồn nhân lực. Chú trọng đào tạo cho các nhà quản lý đầy đủ các kỹ năng như kỹ năng chuyên môn, kỹ năng chiến lược, kỹ năng quan hệChú trọng đào tạo đội ngũ kế cận, và tạo môi trường thuận tiện cho việc phát triển.
II _ Đối với doanh nghiệp.
1 _ Vấn đề lao động và việc làm trong DNNN.
Vấn đề lao động và việc làm có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công của lộ trình đổi mới và phát triển DNNN.
Các DNNN phải tiến hành rà soát định mức, định biên lao động để xác định số lượng lao động hợp lý theo nguyên tắc “có việc – có người”, đảm bảo gời công, ngày công, thu nhập theo luật định. Chấm dứt việc tiếp nhận lao động, thuê mướn nhân công thời vụ một cách tuỳ tiện làm cho năng suất lao động thấp, tỷ lệ thiếu việc, chờ việc cao. Tăng cường giám sát việc thực hiện quỹ tiền lương và tuyển dụng lao động của DNNN
Hướng giải quyết cho các đối tượng làm việc trong các doanh nghiệp:
- Số lượng có tên trong danh sách làm việc ở doanh nghiệp thành viên nhưng do không có việc làm nên đã tự tìm được việc làm ở nơi khác hoặc chưa tìm được việc làm mà chưa được hưởng các chế độ mất việc do pháp luật quy định thì được hưởng trợ cấp mất việc làm, sử dụng chi phí đào tạo, hỗ trợ BHXH cho những người còn chưa đủ 5 năm nữa mới đến tuổi nghỉ hưu.
- Số lao động sẽ mất việc do doanh nghiệp giải thể, phá sản khi thực sắp xếp thì được trả trợ cấp nửa tháng lương cho 1 năm làm việc theo quy định tại Bộ luật lao động, đồng thời được Nhà nước hỗ trợ thêm nữar tháng lương cho 1 năm làm việc.
- Số lao động dôi dư khi thực hiện hình thức chuyển đổi sở hữu, sáp nhập thì sử dụng Quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá DNNN để tổ chức đào tạo, đào tạo lại để có thể tiếp tục làm việc tại các doanh nghiệp đó hoặc tìm việc làm mới, có cơ chế để doanh nghiệp có điều kiện xuất khẩu số lao động này
Nguồn tiền để giải quyết chính sách cho số lao động dôi dư và không có việc làm thì ngoài phần lấy từ quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, còn được hỗ trợ thêm từ ngân sách và các nguồn tài chính có thể khác.
Tổ chức các chương trình hỗ trợ việc làm theo hướng tập trung vào việc tư vấn tìm việc làm, tự đứng ra kinh doanh, thúc đẩy phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là nguồn tạo công ăn việc làm mới lớn nhất. Do đó Nhà nước bổ sung nguồn cho quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm.
2 _ Vấn đề giải quyết các khoản nợ.
- Đối với doanh nghiệp duy trì 100% vốn nhà nước:
Làm rõ trách nhiệm của người quản lý doanh nghiệp nhà nước về công nợ của doanh nghiệp. Hội đồng quản trị, giám đốc phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ của doanh nghiệp. Đối với các khoản nợ đã quá hạn từ 5 năm thì phải hạch toán vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp (các khoản lỗ) nhưng doanh nghiệp thì vẫn phải theo dõi và đòi nợ, khi đòi được nợ thì phải hạch toán vào lãi của doanh nghiệp. Trường hợp doanh nghiệp bị thua lỗ liên tục từ 2 năm trở lên thì được xem xét giảm vốn, khi đòi nợ thì tăng vốn trở lại cho doanh nghiệp. Nghiêm cấm các doanh nghiệp đi vay các khoản ngắn hạn để đầu tư cho các dự án trung và dài hạn, ngân hàng phải có cơ chế kiểm tra giám sát và cùng chịu trách nhiệm nếu để xảy ra các trường hợp nói trên.
Đối với ngân hàng thì giao cho Ngân hàng nhà nước chịu trách nhiệm tổng hợp và phối hợp với các ngành đề xuất các trường hợp xoá nợ, khoanh nợ, giãn nợ, tham gia vốn với doanh nghiệp và khẩn trương tổ chức công ty mua bán nợ để mua lại các khoản nợ của doanh nghiệpXúc tiến thành lập cơ quan mua bán nợ để giải phóng nợ đọng cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp lành mạnh hoá tình hình tài chính và đảm bảo sản xuất kinh doanh bình thường.
Ban hành cơ chế kiểm tra giám sát tình hình nợ của DNNN gắn với hiệu quả đầu tư nhưng vẫn đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp.
- Đối với doanh nghiệp chuyển đổi sở hữu:
Đối với các khoản nợ khó đòi bao gồm: con nợ đã giải thể, phá sản, bỏ trốn, đang thi hành án; con nợ là các doanh nghiệp đang trong tình trạnh thua lỗ không có khả năng trả nợ và các khoản nợ đã quá hạn từ 3 năm trở lên thì tính kết quả kinh doanh đối với trường hợp doanh nghiệp có lãi hoặc giảm giá trị doanh nghiệp đối với doanh nghiệp không có lãi để chuyển đổi sở hữu. Ngoài ra doanh nghiệp được quyền bán nợ cho các tổ chức mua bán nợ. Các khoản nợ đã được xử lý cho doanh nghiệp nói trên giao cho công ty mua bán nợ để theo dõi và thu hồi cho nhà nước.
Đối với cá khoản nợ ngân sách mà doanh nghiệp đã đầu tư vào tài sản cố định thì coi như vốn nhà nước tại doanh nghiệp để chuyển đổi sở hữu, nếu đno thua lỗ không có khả năng trả nợ thì cho xoá nợ.
Đối với các khoản nợ vay ngân hàng thương mại quốc doanh, cần xử lý như sau:
+ Đối với các DNNN gặp khó khăn trong thanh toán, không cân đối được nguồn để thanh toán các khoản nợ quá hạn thì được khoanh các khoản nợ quá hạn có đến thời điểm chuyển đổi sở hữu trong thời hạn từ 3 đến 5 năm (đối với các doanh nghiệp nhà nước vẫn tiếp tục hoạt động).
+ Đối với các doanh nghiệp nhà nước bị thua lỗ, mất hết khả năng thanh toán thì cho phép xoá nợ lãi vay ngân hàng, nếu vẫn còn bị lỗ thì được tiếp tục xem xét xử lý nợ gốc tương ứng với phần lỗ của doanh nghiệp sau khi xử lý nợ ngân sách. Phần nợ gốc quá hạn còn lại, doanh nghiệp phối hợp với ngân hàng chủ nợ và các tổ chức mua bán nợ thuộc ngân hàng để xử lý theo hướng bán nợ (trước khi cổ phần hoá)
3 _ Về hệ thống cơ chế, chính sách đối với DNNN.
Cần xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách để nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp có 100% vốn nhà nước. Sửa đổi và ban hành mới cơ chế chính sách phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp.
- Đối với doanh nghiệp hoạt động công ích:
+ Về vốn: đối với doanh nghiệp đang hoạt động, nhà nước cấp đủ vốn (bao gồm cả vốn lưu động, vốn đầu tư mới, đầu tư mở rộng) đảm bảo để doanh nghiệp hoạt động ổn định, thực hiện được nhiệm vụ công ích nhà nước giao. Đối với doanh nghiệp thành lập mới, nhất thiết phải tuân theo quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của vùng, địa phương và ngành; được thẩm định chặt chẽ và do cơ quan có thẩm quyền phê duyệt từng trường hợp cụ thể và được cấp đủ vốn điều lệ xuất phát từ mục tiêu thành lập doanh nghiệp.
+ Về lao động tiền lương: hàng năm nhà nước phê duyệt chỉ tiêu lao động và quỹ tiền lương, đêt doanh nghiệp có điều kiện duy trì đội ngũ lao động và hoạt động ổn định. Trên cơ sở đó doanh nghiệp xây dựng và thực hiện quy chế trả lương cho người lao động gắn với kết quả hoàn thành nhiệm vụ.
+ Về cán bộ quản lý doanh nghiệp: nhà nước lựa chọn những người có đủ phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn đêt bổ nhiệm giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng. Giám đốc doanh nghiệp có trách nhiệm bố trí các chức danh quản lý khác trên cơ sở tiêu chuẩn của nhà nước đảm bảo để doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, phục vụ tốt cho XH. Nếu 3 năm liền doanh nghiệp không hoàn thành nhiệm vụ công ích giao cho thì giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng sẽ bị miễn nhiệm.
+ Về kiểm tra, kiểm soát: nhà nước thông qua các cơ quan của mình thực hiện việc kiểm tra giám sát chặt chẽ doanh nghiệp hoạt động công ích theo đúng mục tiêu thành lập, đối tượng phục vụ, pham vi hoạt động. Khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động công ích trong lĩnh vực dịch vụ công cộng chuyển sang hoạt động theo cơ chế kinh doanh. Những doanh nghiệp kinh doanh làm các dịch vụ công ích sẽ được hưởng mọi ưu đãi cho hoạt động công ích.
- Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh:
+ Về vốn: đối với doanh nghiệp đang hoạt động, nhà nước có cơ chế để từng bước cấp đủ vốn điều lệ cho doanh nghiệp đảm bảo từ 40 – 50% nhu cầu về vốn vủa doanh nghiệp tuỳ theo từng ngành cụ thể.
+ Về lao động, tiền lương: doanh nghiệp quyết định việc tuyển chọn lao động, bố trí việc làm căn cứ vào yêu cầu sản xuất kinh doanh và chủ động áp dụng hình thức trả lương cho người lao động một cách hợp lý, gắm với kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Về cán bộ quản lý: nhà nước áp dụng hình thức tuyển chọn và hình thức trả lương với giám đốc, quy định tiêu chuẩn để giám đốc lựa chọn phó giám đốc và kế toán trưởng, trình cơ quan có thẩm quyền quyết định. Nếu 3 năm liền doanh nghiệp thua lỗ thì giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng sẽ bị sa thải hoặc miễn nhiệm và phải chịu trách nhiệm vật chất theo quy định của nhà nước về thiệt hại chủ quan mà doanh nghiệp phải gánh chịu trong thời gian thực hiện chức trách của mình.
+ Về kiểm tra, giám sát: nhà nước thông qua các cơ quan của mình thực hiện việc kiểm tra giám sát trên cơ sở luật pháp và đảm bảo quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Kết luận.
Đầu tư phát triển có vai trò rất quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Qua đề tài này, chúng ta có thể thấy vai trò của đẩu tư phát triển là rất quan trọng nên việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trở thành vấn đề mang tính quyết định đối với sự phát triển nền kinh tế nói chung và đối với doanh nghiệp nói riêng. Đặc biệt với đặc điểm là nước XHCN, nước ta thành phần kinh tế nhà nước mà cụ thể là DNNN đang có vai trò chủ đạo trong việc định hướng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN dưới sự quản lý của nhà nước trong công cuộc hiện đại hoá đất nước. DNNN là một công cụ vật chất hết sức quan trọng của nhà nước trong quản lý nền kinh tế nhằm đưa đất nước phát triển. Hiện nay DNNN tuy có nhiều mặt tích cực, có những lợi thế và điểm mạnh nhưng cũng không ít hạn chế, tiêu cực trong đầu tư phát triển.
Trông khuôn khổ bài thảo luận này chúng tôi nêu ra những điểm đó và có ra một số giải pháp để khắc phục.
Do trình độ hiểu biết còn có hạn chế nên đề tài sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nên rất mong được sự thông cảm, góp ý chân thành của thầy.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0635.doc