Sau hơn mươi năm thực hiện đường lối đổi mới, chúng ta đạt được nhiều thành tựu đáng kể,đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội. Từ một nước thiếu lương thực lượng người chết đói đế 2 triệu dân (1945) nay đã trở thành một trong ba nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Tuy nhiên nền kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn, yếu kém. Để vượt qua được những bước đường đó, trước mắt chúng ta không ít những khó khăn,thách thức lớn. Trong đó nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực là thách thức to lớn và gay gắt. Đồng thời chúng ta cũng có những cơ hội để phát triển. Vấn đề đặt ra là phải chủ động nắm thời cơ, kiên quyết đẩy lùi và khắc phục những nguy cơ nhằm vượt lên để phát triển nhanh, vững chắc và đúng hướng. Có như vậy, đất nước ta mới có ngày trở nên phồn vinh, to đẹp hơn .
37 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1686 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về nền kinh tế thị trường và vận dụng nó ở Việt nam trong thời gian qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iêu nghạch.Trong nền kinh tế thị trường xảy ra một cách phổ biến,trong cả lĩnh vực sản xuất và trong cả lĩnh vực lưu thông.
Cạnh thanh trong lĩnh vực sản xuất bao gồm:cạnh tranh nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành với nhau.Cạnh tranh tronh lĩnh vực lưu thông bao gồm:cạnh tranh giữa những người tham gia trao đổi hàng hoá và dịch vụ trên thị trường.Hình thức và những biện pháp của cạnh tranh có thể rất phong phú nhưng động lực và mục đích cuối cùng của cạnh tranh chính là lợi nhuận.
Năm là. Kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế mở.Nó rất đa dạng,phức tạp và được điều hành với hệ thống tiền tệ và hệ thống pháp luật của Nhà nước.
Mỗi đặc trưng trên đây phản ánh một khía cạnh của mô hình kinh tế thị trường.Tổng hợp cả năm đặc trưng trên sẽ giúp chúng ta hình dung được khái quat cấu trúc của mô hình này.
d.Các hình thức của kinh tế thị trường.
Như trên đã nói:kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá.Nó đã trải qua ba giai đoạn phát triển:giai đoạn thứ nhất.Giai đoạn chuyển từ kinh tế hàng hóa lên kinh tế thị trường(còn gọi là kinh tế thị trường sơ khai).Giai đoạn thứ hai là giai đoạn phát triển kinh tế thị trường tự do,trong giai đoạn này sự phát triển kinh tế diễn ra theo tinh thần tự do,Nhà nước không can thiệp vào hoạt động kinh tế.Giai đoạn ba là giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại,trong giai đoạn này Nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu kinh tế với các nước ngoài.
Nền kinh tế thị trường không có sự can thiệp của Nhà nước là nền kinh tế thị trường tự điêu tiết,trong đó Nhà nước chỉ làm các chức năng truyền thống của Nhà nước pháp quyền như:-Bảo vệ quyền sở hữu của các nhà kinh doanh.Nhà nước bảo đảm an ninh,chính trị,quốc phòng,an toàn xã hội,tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp.Xử lý các tranh chấp trong kinh doanh và vi phạm pháp luật.
Trong giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại,Nhà nước can thiệp vào kinh tế hay còn gọi kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.Trên thế giới ngày nay không có nước nào mà Nhà nước không can thiệp vào kinh tế.Chỉ khác ở biện pháp,mục tiêu và kết quả đạt được.Kinh tế thị trường ở các nước đều có sự kết hợp giữa cơ chế thị trường(Bàn tay vô hình) và sự can thiệp điều tiết của Nhà nước còn gọi là “bàn tay hữu hình”.Thực tiễn đã chỉ rõ cần có “bàn tay” của Nhà nước đối với kinh tế thị trường dù phát triển theo khuynh hướng nào,mục tiêu nào.Mặt khác một điều cần khẳng định là mô hình kinh tế của các nước trên thế giới ngày nay dù có phát triển và hoàn thiện đến mức nào cũng không phải là thiên đường mà vẫn có những khuyết tật nhất định.Theo thời gian kinh tế thị trường ngày càng bộc lộ nguyên hình những mặt trái của nó:nạn thất nghiệp,bất công xã hội,phân hoá giàu nghèo,tình trạng tội phạm...Những điều đó khẳng định thêm một lần nữa nền kinh tế thị trường cần có sự can thiệp của Nhà nước.Nhà nước đưa ra những chính sách để hạn chế những khuyết tật nói trên.Chẳng hạn,chính sách tài chính-tiền tệ,kinh tế đối ngoại(Thuế,lãi suất,điều tiết xuất nhập khẩu...) chú ý vấn đề tiền lương,trợ cấp thất nghiệp,phúc lợi xã hội...
1.3.Các quy luật vận động của kinh tế thị trường.
a.Khái quát về hàng hoá và hai thuộc tính của hàng hoá.
Hàng hoá là sản phẩm của loa động,nó có thể thoả mãn được nhu cầu nào đó của người lao động;nó được sản xuất ra để bán chứ không phải sản xuất ra để người sản xuất ra nó tiêu dùng.
Hàng hoá có hai thuộc tính:giá trị sử dụng và giá trị.
Giá trị sử dụng là công dụng của sản phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người.Ví dụ:cơm để ăn,áo để mặc,máy móc thiết bị nguyên nhiên vật liệu để sản xuất...Công dụng của sản phẩm do thuộc tính tự nhiên của sản phẩm quy định.Khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển giúp con người ngày càng phát hiện ra những thuộc tính mới của sản phẩm và phương pháp lợi dụng những thuộc tính đó.
Giá trị sử dụng chỉ thể hiện ở việc sử dụng hay tiêu dùng.Một sản phẩm đã là hàng hoá thì nhất thiết phải có giá trị sử dụng,nhưng không phải bất kì sản phẩm gì có giá trị sử dụng cũng đều là hàng hoá.Chẳng hạn,không khí,nước suối cũng có giá trị sử dụng nhưng không phải là hàng hoá.Trong kinh tế hàng hoá nói chung giá trị sử dụng là cái mang giá trị trao đổi.
Giá trị trao đổi trước hết là tỉ lệ về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị sử dụng khác.Ví dụ,1 rìu trao đổi lấy 20 kg thóc.Tại sao rìu và thóc là hai hàng hoá có giá trị sử dụng khác nhau lại có thể trao đổi được với nhau?Tại sao lại đổi tỉ lệ 1 rìu lấy 20 kg thóc?Hai giá trị sử dụng khác nhau có thể trao đổi được với nhau khi giữa chúng có một cơ sở chung.Hao phí lao động chíng là cơ sở chung để so sánh rìu với thóc.Còn sở dĩ phải trao đổi với một tỉ lệ nhất định, 1 rìu lấy 20 kg thóc là vì người ta cho rằng lao động hao phí sản xuất ra 1 cái rìu bằng hao phí sản xuất ra 20 kg thóc.Khi chủ rìu và chủ thóc đồng ý trao đổi với nhau thì họ cho rằng lao động của họ để sản xuất ra rìu bằng giắ trị của 20kg thóc.
Từ phân tích trên chúng ta rút ra kết luận quan trọng:giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá.
Sản phẩm nào không chứa đựng lao động của con người thì không có giá trị.Khi giá trị thay đổi thì giá trị trao đổi cũng thay đổi,giá trị trao đổi chính là hình thức biểu hiện của giá trị.
Giá trị và giá trị sử dụng là hai thuộc tính của hàng hoá,hàng hoá được thể hiện như là sự thống nhất chặt chẽ nhưng lại mâu thuẫn giữa hai thuộc tính này.
b.Khái niệm về thị trường,vai trò và tác dụng,phân loại thị trường.
Thị trường gắn liền với quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá.Nó ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất lưu thông hàng hoá
Vậy thị trường là gì? Theo nghĩa ban đầu thị trường gắn liền với địa điểm nhất định,trên đó diễn ra quá trình trao đổi mua bán hàng hoá.Thị trường có tính không gian và thời gian.Theo nghĩa này thị trường là cái chợ,cái địa dư,khu vực tiêu thụ hàng hoá phân theo các mặt hàng,ngành hàng.
Sản xuất hàng hoá luôn phát triển,lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường ngày càng dồi dào và phong phú,thị trường được mở rộng.Thị trtường được hiểu theo nghĩa đầy đủ hơn,nó là lĩnh vực trao đổi hàng hoá thông qua tiền tệ làm môi giới.Tại đây người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và sản lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường.
Ngày nay các nhà khoa học thống nhất với nhau khái niệm về thị trường như sau:Thị trường là một quá trình mà trong đó người bán và người mua tác động qua lại với nhau để xác định giá cả và sản lượng.
Phân đoạn thị trường: Trong lịch sử đã xuất hiện nhiều cách phân loại thị trường khác nhau.Chẳng hạn dựa vào lưu thông hàng hoá người ta đã phân chia thị trường thành:thị trường cung ứng vật tư kĩ thuật,thị trường hàng tiêu dùng.Dựa vào quan hệ sở hữu người ta chia thị trường thành thị trường có tổ chức và thị trường tự do.Kinh tế học hiện đại chia thị trường thành thị trường yếu tố sản xuất và thị trường hàng hoá tiêu dùng,dịch vụ;thị trtường trong nước và thị trường nước ngoài.
Thị trường yếu tố sản xuất hay thị trường “đầu vào” là nơi mua bán các yếu tố sản xuất như sức lao động,tư liệu sản xuất,vốn và các điều kiện vật chất để sản xuất kinh doanh.
Có thị trường này mới có các yếu tố để sản xuất hàng hoá,mới có hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ hay mới có thị trường đầu ra.Số lượng,chất lượng,tính đa dạng của thị trường đầu ra do thị trường đầu vào quy định.Tuy nhiên thị trường đầu ra cũng có ảnh hưởng tới thị trường đầu vào,kích thích tính tích cực của thị trường đầu vào.
Thị trường hàng tiêu dùng,dịch vụ hay thị trường “đầu ra” là nơi mua bán các hàng hoá tiêu dùng cuối cùng và dịch vụ.
Hàng hoá tiêu dùng là các vật phẩm tiêu dùng như lương thực,thực phẩm,quần áo,nhà ở, các hàng hoá dịch vụ như sửa chữa,du lịch,chữa bệnh...
Thị trường trong nước là việc mua bán trao đổi hàng hoá giữa các chủ thể kinh tế và người tiêu dùng trong nước.Thị trường nước ngoài là sự mua bán trao đổi hàng hoá giữa nước này với nước khác.
Thị trường ngoài nước thông qua ngoại thương có tác động thúc đẩy và hỗ trợ thị trường trong nước phát triển.Ngược lại,thông qua ngoại thương thị trường trong nước có thể nhanh chóng tiếp cận với thị ttrường thế giới.
Vai trò của thị trường: Như trên đã khẳng định kinh tế hàng hoá gắn liền với thị trường.Sản xuất cho thị trường,tiêu dùng thông qua thị trường.Thị trường là trọng tâm của toàn bộ qua trình tái sản xuất.
Trong nền kinh tế hàng hoá cần sản xuất mặt hàng gì,số lượng bao nhiêu, điều đó phải thông qua thị trường.Như vậy thị trường chính là lực lượng hướng dẫn đặt nhu cầu cho sản xuất,và do đó thị trường có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế hàng hoá.
Để sản xuất cần phải có các yếu tố sản xuất.Thị trường chính là nơi cung cấp những yếu tố đó bảo đảm cho quá trình sản xuất được tiến hành bình thường.Sản xuất hàng hoá là để trao đổi,để bán.Thị trường là nơi tiêu thụ những hàng hoá cho các doanh nghiệp,thông qua thị trường giá trị hàng hoá được thực hiện và các doanh nghiệp thu được vốn.Nếu coi doanh nghiệp là một cơ thể sống thì thị trường là nơi bảo đảm các yếu tố cho sự sống đó và cũng là nơi thực hiện sự trao đổi chất để cho sự sống tồn tại và phát triển.
Từ đó,thị trường chính là điều kiện và là môi trường cho hoạt động sản xuất hàng hoá.Thị trường là nơi kiểm tra cuối cùng chủng loại các hàng hoá,số lượng hàng hoá cũng như chất lượng hàng hoá.Thị trường kiểm nghiệm tính phù hợp của sản xuất đối với tiêu dùng xã hội.Thị trường còn là nơi cuối cùng để chuyển lao động tư nhân cá biệt thành lao động xã hội.
c. Khái niệm về cơ chế thị trường, quy luật vận động của kinh tế thị trường.
Cơ chế thị trường là gì?cho đến nay đã có nhiều định nghĩa về cơ chế thị trường do nội hàm và ngoại diện rộng,cho nên rất khó định nghĩa,nhưng ta có thể hiểu một cách cơ bản như sau:
“ Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế hàng hoá do sự tác động của các quy luật vốn có của nó để nhằm giải quyết 3 vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế xã hội là cái gì ? bằng cách nào ? và cho ai? ”
Nói tới cơ chế thị trường trước hết phải nói tới thị trường
Nói tới cơ chế thị trường là phải nói tới các nhân tố cơ bản cấu thành thị trường đó là hàng - tiền , người mua và người bán . Từ đó hình thành nên các quan hệ hàng hoá - tiền tệ,mua bán,cung cầu và giá cả thị trường
Nói tới cơ chế thị trường là phải nói tới lợi nhuận vì nó là động lực thúc đẩy các chủ thể tham gia thị trường.Cho nên ở trong nền kinh tế thị trường phải lấy lỗ, lãi để tính toán.
Nói tới cơ chế thị trường và thị trường là phải nói tới cạnh tranh và các quy luật kinh tế chi phối sự vận động của thị trường (quy luật giá trị ,cạnh tranh, cung cầu...) trong đó quy luật giá trị là căn bản nhất.Chừng nào còn sản xuất và trao đổi hàng hoá thì chừng đó còn quy luật giá trị
Nội dung và yêu cầu của quy luật giá trị.
Quy luật giá trị là trừu tượng.Nó thể hiện sự vận động thông qua sự biến động của giá cả thị trường.Giá cả thị trường là giá bán hàng hoá trên thị trường,đó là giá cả thoả thuận giữa người mua và người bán,người bán muốn bán giá cao còn người mua muốn mua giá thấp.Giá cả thị trường chính là biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường,giá cả thị trường lên xuống xoay quanh giá trị thị trường của hàng hoá,nghĩa là sự hình thành giá cả thị trường phải dựa trên cơ sở giá trị thị trường.Ngoài giá trị thị trường,sự hình thành giá cả thị trường còn chịu sự tác động của quan hệ cung cầu hàng hoá.
Tính quy luật của quan hệ giữa giá cả thị trường với giá trị trong sự tác động của quan hệ cung cầu được biểu hiện:
Quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường là biểu hiện của quan hệ giữa người bán và người tiêu dùng.Nếu cung lớn hơn cầu thì giá cả thị trường sẽ nhỏ hơn giá trị thị trường,nếu cung nhỏ hơn cầu thì giá cả thị trường sẽ lớn hơn giá trị thị trường.Sự vận động của giá cả thị trường cũng có tác động tới quan hệ cung cầu hàng hoá.Nếu giá cả của một loại hàng hoá nào đó giảm xuống,nó sẽ kích thích mức cầu làm cho mức cầu của thị trường về loại hàng hoá này tăng lên,đồng thời giá cả giảm xuống lại hạn chế mức cung,làm cho mức cung giảm xuống.Ngược lại nếu giá cả của một loại hàng hoá nào đó tăng lên,nó sẽ kích thích mức cung làm cho mức cung tăng lên và đồng thời hạn chế mức cầu làm cho mức cầu giảm xuống.Như vậy có thể nhận biết được quan hệ cung cầu qua giá cả thị trường,giá cả hàng hoá trên thị trường lên xuống xoay quanh giá trị của nó.C.Mác gọi đó là vẻ đẹp của quy luật giá trị. Yêu cầu của quy luật giá trị là sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở lượng giá trị hàng hoá hay thời gian lao động xã hội cần thiết.Vấn đề quan trọng trong kinh tế hàng hoá là hàng hoá sản xuất ra có bán được hay không.Để có thể bán được thì hao phí lao động xã hội cá biệt để sản xuất ra hàng hoá phải phù hợp với hao phí lao động xã hội cần thiết,tức là phải phù hợp với mức hao phí mà xã hội có thể chấp nhận được.Trong trao đổi hàng hoá cũng phải dựa vào hao phí lao động xã hội cần thiết.Hai hàng hoá có giá trị sử dụng khác nhau có thể trao đổi với nhau được khi lượng giá trị của chúng bằng nhau.
Vai trò và tác dụng của quy luật giá trị:
Quy luật giá trị có tác dụng điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá.Trong sản xuất quy luật giá trị điều tiết việc phân phối tư liệu sản xuất và sức lao động giữa các ngành sản xuất thông qua sự biến động của giá cả thị trường.Như đã nói ở trên,do ảnh hưởng của quan hệ cung cầu nên giá cả của hàng hoá trên thị trường lên xuống xoay quanh giá trị của nó.Nếu có ngành nào đó cung không đáp ứng cầu,giá cả hàng hoá tăng lên thì người sản xuất sẽ đổ xô vào ngành đó.Ngược lại,khi ngành đó thu hút qúa nhiều lao động xã hội,cung vượt cầu dẫn đến giá cả hàng hoá hạ xuống thì người sản xuất sẽ phải chuyển bớt tư liệu sản xuất và sức lao động ra khỏi ngành này để đầu tư vào nơi có giá cả hàng hoá cao.Nhờ vậy mà tư liệu sản xuất và sức lao động được phân phối qua lại một cách tự phát vào các ngành khác nhau.Trong lĩnh vực lưu thông,quy luật giá trị điều tiết nguồn hàng từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao.
Quy luật giá trị có tác dụng kích thích lực lượng sản xuất phát triển:Lợi nhuận là cái mà người sản xuất luôn mong muốn đạt được,càng nhiều càng tốt.Hơn nữa trên thị trường luôn xảy ra sự cạnh tranh.Để đạt được lợi nhuận ngày càng nhiều,đứng vững và thắng trong cạnh tranh thì mọi người sản xuất đều tìm cách rút ngắn đến mức tối thiểu hao phí lao động cá biệt.Để làm được điều đó họ phải luôn luôn tìm cách cải tiến kĩ thuật,tăng năng suất lao động.Vì thế trong nền kinh tế thị trường lực lượng sản xuất được kích thích và phát triển nhanh hơn nhiều so với trong nền kinh tế tự cấp tự túc.
Quy luật giá trị có tác dụng thực hiện sự bình tuyển tự nhiên và phân hoá người sản xuất thành kẻ giàu người nghèo: Trong cuộc cạnh tranh chạy theo giá trị,lao động cá biệt của mỗi người sản xuất có thể không nhất trí với lao động xã hội cần thiết.Những người làm giỏi,làm tốt có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí xã hội cần thiết.Nhờ đó phát tài,làm giàu,mua sắm thiệt bị sản xuất,mở rộng theo quy mô sản xuất,mở rộng doanh nghiệp của mình.Bên cạnh đó,những người làm ăn kém cỏi,không gặp may,hao phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội cần thiết.Nên họ bị lỗ vốn,thâm chí đi đến phá sản.Như vậy quy luật giá trị có ý nghĩa bình tuyển,đánh giá người sản xuất,nó mang lại phần thưởng cho những người làm tốt,làm giỏi và hình phạt cho những người làm ăn kém cỏi.Về phương diện này thì quy luật giá trị bảo đảm sự bình đẳng với người sản xuất.
2.Sự phát triển của Lênin về kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội.
Kinh tế thị trường có sự phát triển từ thấp lên cao,đỉnh cao nhất của sự phát triển của nó ở giai đoạn đã qua đạt được trong chủ nghiã tư bản,được xã hội đó sử dụng triệt để.Đó là cơ sở để trước đây nhiều người đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản.Quan điểm đó được củng cố thêm do trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây,hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa đều kì thị với kinh tế thị trường.Tuyệt đối hoá kinh tế kế hoạch mang tính tập trung quan liêu.Do vậy đã có sự đối lập về kinh tế thị trường đối với chủ nghĩa xã hội.Kết quả nghiên cứu lý luận,hộat động thực tiễn và nhận thức mới về chủ nhgiã xã hội trong những năm gần đây cho phép ta kết luận rằng:Nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải là nền kinh tế hàng hoá,thị trường.
Sự biến đổi về chất trong phương pháp tổ chức kinh tế của xã hội đã gây ra nhiều nỗi băn khoăn cho không ít người.Bằng nhiều luận cứ,từ di sản của những người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học đến thực tiễn lịch sử người ta kết luận:chủ nghĩa xã hội không có chỗ cho thị trường,càng nhiều thị trường bao nhiêu thị càng ít chủ nghĩa xã hội bấy nhiêu.Có ý kiến còn cho là đã là kinh tế thị trường thì đừng nói đến chủ nghĩa xã hội;rằng cái “ruột” kinh tế thị trường thì không thể mang cái “vỏ”là chủ nghĩa xã hội.Nói kinh tế thị trường định hướng lên chủ nghĩa xã hội chẳng qua chỉ là một sự “huyền hoặc” và nếu quả là như thế-theo ý nghĩa của những người có quan điểm này thì “công lao” của nó là “đã cung cấp cho nhân loại thêm một con đường để tư bản hoá”. Những ý kiến trên đây là không đúng cả trên phương diện lý luân lẫn thực tiễn.Vì nó đồng nhất kinh tế hàng hoá với kinh tế tư bản chủ nghĩa,đồng nhất “cách tổ chức của kinh tế xã hội” nói chung với “cách tổ chức kinh tế xã hội tư bản” nói riêng.
Sự thật như thế nào? Liệu chúng ta có xa rời những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội hay không?
Quan điểm của C.Mác – Ph.Ăngghen.
Ph.Ăngghen đã tóm tắt ý nghĩa của C.Mác năm 1875 rằng: một khi xã hội nắm giữ các tư liệu sản xuất nền sản xuất hàng hoá sẽ bị loại trừ.Tuy nhiên,từ những di sản lý luận của các ông,đó mới chỉ là một trong hai cách luận giải về vận mệnh của nền sản xuất hàng hoá trong xã hội cộng sản tương lai,xét từ góc độ biến đổi sẽ xảy ra trong tính chất của chế độ sở hữu.Còn khi hai ông xem xét vấn đề từ góc độ nguyên tắc tổ chức kinh tế kiểm kê và thông ước và hao phí lao động,bức tranh đã biến đổi nó,và giá trị,với tất cả các đặc thù của nó,ít ra cũng là tất yếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản.Nghĩa là,ở hai ông người ta chỉ tìm thấy những phán đoán lẻ tẻ chứ chưa phải là một học thuyết hoàn chỉnh về vận mệnh của nền sản xuất hàng hoá ttrong tương lai.Như vậy cả hai phương hướng tìm kiếm khoa học giải quyết vấn đề,không một phương hướng nào cho ta câu trả lời dứt khoát.
Còn Lênin thì sao? Quan điểm của Lênin.
Sau khi cách mạng tháng mười Nga thành công.Nước Nga bước vào cuộc nội chiến.Nhà nước xô viết thực hiện chính sách cộng sản thời chiến.Thực chất của chính sách này là xoá bỏ nhanh chóng những chế độ tư hữu tư bản về tư liệu sản xuất,không thừa nhận quan hệ hàng hoá tiền tệ,quan hệ thị trường…Sau khi nội chiến kết thúc chính sách cộng sản thời chiến không thích hợp nữa.Lênin đề ra chính sách kinh tế mới.Như vậy thoạt đầu ông cũng mắc sai lầm như chính ông thừa nhận:tưởng rằng có thể trực tiếp dùng pháp luật của Nhà nước vô sản để tổ chức theo kiểu cộng sản chủ nghĩa việc sản xuất và phân phối sẩn phẩm trong một nước tiểu nông.
Và để sửa sai,ông đã đưa ra chính sách kinh tế mới mà thực chất là sử dụng quan hệ hàng hoá-tiền tệ,đặt thương nghiệp,thị trường lên hàng đầu.Coi nó như chiếc “đòn xeo” để phát triển lực lượng sản xuất.Như vậy chính Lênin là người mác xít đầu tiên đã đưa ra luận điểm về sự cần thiết phải sử dụng và phát triển kinh tế hàng hoá trong điều kiện chính quyền do giai cấp vô sản lãnh đạo.
Luận điểm này phù hợp với quy luật phát triển tự nhiên của lịch sử kinh tế theo quan điểm biện chứng duy vật,sự ngự trị của một hình thức tổ chức kinh tế – xã hội nào đó là tuỳ thuộc trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và nhu cầu của phương thức sản xuất công nghệ.Thoạt đầu loài người chỉ có thể sống bằng nền kinh tế tự nhiên.Cùng với sự lớn mạnh của lực lượng sản xuất(biểu hiện ở sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất ngày càng phát triển và sâu sắc).Xã hội loài người theo Lênin bước vào một cách tổ chức kinh tế xã hội mới,tức sản xuất hàng hoá.Nền kinh tế này ngày càng phát triển và trở thành nền kinh tế thị trường mà cho đến nay đang là nền kinh tế thống trị và mang tính chất toàn cầu.Loài người chưa đủ điều kiện để chuyển sang một nền kinh tế phi hàng hoá.Vì nền sản xuất xã hội hoá ttrên thực tế chưa cao đến mức làm cho mỗi lao động tập thể cũng như cá nhân trở thành một bộ phận hữu cơ của lao động xã hội trực tiếp.Do vậy,xã hội vẫn chưa thể vòng tránh những yếu tố thị trường và “việc xác định giá trị vẫn mang tính chất thống trị như C.Mác đã dự đoán trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản.
Do giáo điều và định kiến,do ngộ nhận cái xã hội hoá về hình thức là cái đã xã hội hoá trên thực tế.Cùng với những nguyên nhân khác.Sau khi Lênin mất sản xuất hàng hoá ở nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên(và sau đó ở các nước xã hội chủ nghĩa khác) đã bị thủ tiêu và được thay thế bằng một nền kinh tế “phi hàng hoá” được quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung tuyệt đối.Mặc dù nền kinh tế ấy cũng đạt được sự tăng trưởng mạnh mẽ,song đó chỉ là sự tăng trưởng về chiều rộng.Chỉ thích hợp với điều kiện về tài nguyên nhân lực và công nghệ nhất định.Khi yếu tố tăng trưởng về lượng đã cạn,và đặc biệt khi có sự biến đổi về chất trong công nghệ thì nền kinh tế lâm vào cuộc khủng hoảng trì trễ.Những khiếm khuyết cơ bản của phương pháp tỏ chức kinh tế “phi hàng hoá” trước đây là ở chỗ:nó triệt tiêu tinh thần lao động sáng tạo,nó không trực tiếp tác động lực cố hữu,thiết thân của người lao động là lợi ích vật chất.
II. Sự vận dụng lý thuyết trên ở Việt Nam.
1.Đặc điểm kinh tế xã hội ở Việt Nam trước khi đổi mới.
a.Cơ chế kế hoạch hoá tập trung.
Sau khi kháng chiến thắng lợi,dựa vào kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa,nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tâp trung dựa trên hình thức sở hữu công cộng về tư liệu ssản xuất.Với sự nỗ lực của nhân dân ta có thêm sự giúp đỡ tận tình của các nước xã hội chủ nghĩa khác,mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã phát huy được tính ưu việt của nó.Từ một nền kinh tế lạc hậu và phân tán bằng công cụ kế hoạch hoá,Nhà nước đã tập trung vào tay mình một lực lượng vật chất quan trọng về đất đai,tài sản và tiền bạc để ổn định và phát triển nền kinh tế.Nền kinh tế kế hoạch hoá trong thời kì đầu thực hiện ở nước ta đã tỏ ra phù hợp,nó đã tạo ra những bước chuyển biến quan trọng về mặt kinh tế xã hội.Đồng thời nó cũng thích hợp với nền kinh tế thời chiến và đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra chiến thắng vĩ đại của dân tộc.Bởi nó đã cho phép Đảng và Nhà nước huy động ở mớc cao nhất sức người và sức của cho tiền tuyến.
Tuy nhiên sau ngày giải phóng Miền nam,chúng ta vẫn duy trì cơ chế kinh tế trên.Do các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều,việc áp dụng cơ chế quản lý kinh tế cũ vào điều kiện nền kinh tế đã thay đổi làm xuất hiện rất nhiều hiện tượng tiêu cực,đó là:
- Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng các mệnh lệnh hành chính,mang tính tổ chức hình thức.Nhiều nơi không nắm vững nguyên tắc động viên tự nguyện và làm đúng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất của lực lượng sản xuất,coi nhẹ hiệu qua kinh tế xã hội.
- Không xác định rõ và can thiệp không đúng về quyền tự chủ về kinh tế –tài chính,quyền chủ động sáng tạo của cấp dưới,không gắn nghĩa vụ với quyền lợi,trách nhiệm với quyền hạn,lợi ích với kết quả cuối cùng.
- Coi nhẹ và không vận dụng các quy luật kinh tể trong tổng thể hệ thống các quy luật khách quan,tồn tại trong nền kinh tế có thời gian dài nặng về kế hoạch hoá tập trung,không gắn kế hoạch sản xuất với thị trường,kìm hãm sản xuất và lưu thông,coi nhẹ các quan hệ hàng hoá-tiền tệ,quan niệm còn giản đơn về chủ nghĩa xã hội,không đảm bảo quan hệ thích đáng giữa ba lợi ích:xã hội-tập thể-người tiêu dùng làm cho xã hội thiếu động lực phát triển hay phát triển không lành mạnh.
- Các cấp, ngành thường ỷ vào ngân sách Nhà nước,vào trung ương,cấp dưới ỷ vào cấp trên,gây lãng phí, gây hạn chế tính năng động của cơ sở.
- Bộ máy quản lý cồng kềnh,chồng chéo,quan liêu.Đội ngũ cán bộ quản lý về Nhà nước thiếu hiểu biết về Nhà nước,pháp luật,không sâu sát cơ sở,kém năng động.Bộ phận kém phẩm chất đẻ ra nạn tham nhũng,buôn lậu,gây ra các tệ nạn xã hội.
Cho đến cuối những năm 80 xã hội Việt nam về cơ bản vẫn dựa trên nền tảng văn minh nông nghiệp lúa nước,nông dân chiếm đại đa số.Việt nam vẫn là một nước nghèo nàn,lạc hậu và kém phát triển.Trong những năm này giá cả leo thang,khủng hoảng kinh tế đi liền với lạm phát cao làm cho đời sống nhân dân bị giảm sút thậm chí một số nơi nạn đói đang rình rập.Nguyên nhân sâu xa về sự suy thoái nền kinh tế ở nước ta là do chúng ta duy trì quá lâu,rập khuôn một cách máy móc mô hình kinh tế chưa phát triển và kém hiệu quả.Thể hiện ở chỗ ta đã thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất trên một quy mô lớn,thực hiện việc phân phối theo lao động trong khi điều kiện chưa cho phép.Điều này đã dẫn đến một bộ phận tài sản vô chủ và đã không sử dụng có hiệu qủa nguồn lực rất khan hiếm của đất nước trong khi dân số ngày càng tăng,và dẫn đến việc làm mất động lực của sự phát triển.Trước sự suy thoái kinh tế nghiêm trọng,việc viện trợ nước ngoài giảm sút đã đặt nền kinh tế nước ta tới sự bức bách phải đổi mới,phải chuyển toàn bộ nền kinh tế quốc dân sang trạng thái của sự phát triển là phát triển nền kinh tế thị trường.
2.Sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt nam từ khi đổi mới đến nay.
2.1.Thực trạng nền kinh tế Việt nam khi chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Khi chuyển sang kinh tế thị ttrường chúng ta đứng trước một thực trạng là: đất nước đã và đang từng bước qua độ lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội rất thấp.Đất nước lại trải qua hàng chục năm chiến tranh,hậu qủa để lại còn nặng nề.Những tàn dư thực dân,phong kiến còn nhiều,lại chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
Với những đặc điểm xuất phát như trên có thể nhận xét rằng:Nền kinh tế nước ta không còn hoàn toàn là nền kinh tế tự nhiên tự cấp tự túc,nhưng cũng chưa phải là kinh tế hàng hoá theo nghĩa đầy đủ.Mặt khác,do có sự đổi mới về mặt kinh tế cho nền kinh tế nước ta cũng không còn là kinh tế chỉ huy.Có thể nói thực trạng nước ta khi chuyển sang kinh tế hàng hoá là nền kinh tế hàng hoá kém phát triển,còn mang nặng dấu ấn tự cấp tự túc và chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.Thực trạng đó được biểu hiện ở các mặt sau đây:
a.Kinh tế hàng hoá còn kém phát triển,nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cung tự cấp.
Sự yếu kém của kinh tế hàng hoá nước ta được thể hiện ở những dấu hiệu có tính điển hình dưới đây:
Trình độ cơ sở vật chất kĩ thuật và công nghệ sản xuất còn thấp kém.
Hệ thống kết cấu hạ tầng dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội chưa đủ để phát triển kinh tế thị trường ở trong nước và chưa có khả năng để mở rộng giao lưu với thị trường quốc tế.
Cơ cấu kinh tế còn mất cân đối và kém hiệu quả.Từ điểm xuất phát thấp,nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ cho nên cơ cấu kinh tế của nước ta còn mang nặng đặc trưng của một cơ cấu kinh tế nông nghiệp.Hiện tượng độc canh cây lúa vẫn tồn tại,ngành nghề chưa phát triển.
Chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó.
Thị trường ở nước ta còn là thị trường ở trình độ thấp,tính chất của nó còn hoang sơ,dung lượng thị trường còn thiếu và có phần rối loạn.Chúng ta mới từng bước có thị trường hàng hoá nói chung:trước hết là thị trường hàng tiêu dùng thông thường với hệ số giá cả và quan hệ mua bán bình thường theo cơ chế thị trường.Về cơ bản nước ta vẫn chưa có thị trường tiền tệ và thị trường tiền vốn mà chỉ có thị trường này ở khu vực ngoài quốc doanh với quan hệ vay trả,mua bán còn thô sơ.Khu vực kinh tế Nhà nước vẫn sử dụng lãi suất,tỉ giá và quan hệ tài chính tiền tệ do Nhà nước quy định.Chưa có lãi suất,tỉ giá và tín dụng thực sự theo cơ chế thị trường.
Thực trạng trên đây của nước ta là hậu quả của nhiều nguyên nhân khác nhau.Về mặt khách quan,đó là do trình độ phát triển của phân công lao động xã hội còn thấp,nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cấp tự túc.Về mặt chủ quan là do những nhận thức chưa đúng đắn về nền kinh tế xã hội chủ nghĩa,do sự phân biệt duy ý chí giữa thị trường có tổ chức và thị trường tự do.
Năng suất lao động xã hội và thu nhập quốc dân tính theo đầu người còn thấp,phần này phản ánh tổng hợp thực trạng kinh tế hàng hoá còn kém phát triển.Do trình độ cơ sở vật chất kĩ thuật và công nghệ còn thấp,kết cấu hạ tầng dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội còn kém;cơ cấu kinh tế còn mất cân đối;thị trường trong nước chưa phát triển cho nên năng suất lao động xã hội và thu nhập bình quân theo đầu người ở nước ta tất yếu vẫn còn thấp.
b. ảnh hưởng của mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
Hai cơ chế kinh tế cũ và mới(cơ chế tập trung quan liêu bao cấp và cơ chế thị trường)có nhiều điểm khác nhau,trong đó điểm khác nhau căn bản nhất là ở chỗ:cơ chế cũ hình thành trên cơ sở thu hẹp hoặc gần như xoá bỏ quan hệ hàng hoá-tiền tệ làm cho nền kinh tế bị “hiện vật hoá”.Cơ chế mới hình thành trên cơ sở mở rộng quan hệ hàng hoá-tiền tệ.Cơ chế cũ đó là cơ chế lệnh kế hoạch kèm theo lệnh giá cả,tài chính tiền tệ theo quy tắc cấp phát,giao nộp nhằm thực hiện kế hoạch.Cơ chế mới là cơ chế kế hoạch kinh doanh;giá cả kinh doanh,tài chính kinh doanh,tín dụng kinh doanh phục vụ nhu cầu mua bán của các chủ thể sản xuất theo nguyên tắc hạch toán kinh tế. Như vậy, trong cơ chế cũ các phạm trù giá cả, tài chính, lưu thông tiền tệ là những phạm trù vốn có của kinh tế hàng hoá mặc dù có sử dụng nhưng chỉ là hình thức.Việc mở rộng sản xuất và lưu thông hàng hoá là một tất yếu lịch sử cho nên sự hạn chế quan hệ hàng hoá tiền tệ và quy luật giá trị trở thành sự cản trở tiến bộ kinh tế,kìm hãm nhân tố mới.Do đó làm cho Nhà nước không thể làm chủ những quá trình kinh tế khách quan mặc dù trong tay Nhà nước có thực lực kinh tế to lớn.Vì vậy Đại hội lần thứ VII của Đảng ta đã khẳng định: “Xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp,hình thành cơ chể thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật,kế hoạch,chính sách và các công cụ khác.Xây dựng và phát triển đồng bộ các thị trường hàng tiêu dùng,vật tư,dịch vụ,tiền vốn,sức lao động... thực hiện giao lưu kinh tế thông suốt trong cả nước và với thị trường thế giới”.
2.2.Thực chất của qua trình chuyển nền kinh tế Việt nam sang kinh tế thị trường định hường xã hội chủ nghĩa.
Trong khi mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung ở nước ta rơi vào tình trạng như đã nêu trên thì các nước vận dụng mô hình kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường.Tuy nền kinh tế có lâm vào suy thoái,nhưng nó khắc phục được nhanh,nó thích nghi với sự tác động vủa cách mạng khoa học và công nghệ,nền kinh tế còn tăng trưởng ở mức độ nhất định.Vì vậy Đảng và Nhà nước ta chủ trương chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang sang phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa.Hay nói cách khác là phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam.
Chủ trương trên là đúng đắn vì:
Thứ nhất: Theo quan điểm của C.Mác- kinh tế hàng hoá không phải là một phương thức sản xuất độc lập mà là một hình thức tổ chức kinh tế tồn tại trong các phương thức sản xuất xã hội.Với phạm vi và mức độ khác nhau,tuy cùng là kinh tế hàng hoá nhưng bản chất của chế độ xã hội qui định đặc điểm của kinh tế hàng hoá của xã hội đó.Cón theo quan điểm của Lênin khi thực hiện chính sách kinh tế mới là phát triển kinh tế hàng hoá trong chủ nghĩa xã hội.Kinh nghiệm của Trung Quốc khi bước vào thời kì đổi mới là phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung Quốc.
Thứ hai:Trong nền kinh tế hàng hoá của nước ta mặc dù kinh tế hàng hoá không được thừa nhận chính thức nhưng điều kiện cho sự ra đời,tồn tại của nó vẫn còn đó là:Sự phân công lao động xã hội,sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế tức là tồn tại nhiều người chủ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất.
Thứ ba: Thực tế cho thấy nếu không thay đổi cơ chế kinh tế,vẫn giữ nguyên cơ chế kinh tế cũ thì không thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa muốn nói đến tích luỹ vốn để mở rộng sản xuất.
Thư bốn: Xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang hoà nhập với nền kinh tế thị trường thế giới.Sự giao lưu về hàng hoá,dịch vụ và đầu tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta gần gũi hơn với nền kinh tế thị trường thế giới.
Xu hướng chung phát triển kinh tế của thế giới là sự phát triển kinh tế của mỗi nước không thể tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế.Tiềm lực kinh tế đã trở thành thước đo chủ yếu,vai trò và sức mạnh của các dân tộc là công cụ chủ yếu để bảo vệ uy tín và duy trì sức mạnh của các đảng cầm quyền.Để có tiền lực nhất thiết chúng ta phải tiến lên phát triển nền kinh tế thị trường. Như vậy,phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam là khách quan.
Vai trò và tác dụng của kinh tế hàng hoá đối với sự phát triển kinh tế hàng hoá ở nước ta:
Có phát triển kinh tế hàng hoá ở nước ta mới phát triển được lực lượng sản xuất,mới nâng cao được trình độ xã hội hoá của sản xuất,mới thúc đẩy sự nghiệp Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất nước,mới đấy lùi được kinh tế tự nhiên,khắc phục được những hậu quả của kinh tế kế hoạch hoá tập trung,mới làm cho kinh tế của nước ta hoà nhập vào kinh tế của khu vực và thế giới.
Có phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa chúng ta mới xây dựng thành công việc sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Có phát triển kinh tế hàng hoá chúng ta mới nâng cao được đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,mới góp phần làm cho con người phát triển toàn diện và tự do,mới thực hiện được mục tiêu dân giàu,nước mạnh,xã hội công bằng văn minh.
Thực tiễn nước ta kể từ Đại hội VI của Đảng đến nay là bằng chứng cho thấy tính tích cực của kinh tế hàng hoá và cần phát triển mạnh mẽ hơn nó.Nhưng trong điều kiện nước ta,sự phát triển một nền kinh tế như vậy có làm cho đất nước đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản hay không?
Không ít người đã coi kinh tế thị trường là đồng nhất với chủ nghĩa tư bản.Sự khẳng định này là trái với cả lịch sử lẫn logic.Hẳn ai cũng biết sản xuất hàng hoá ra đời cách đây mấy nghìn năm,còn chủ nghĩa tư bản đến nay mới là thế kỷ thứ bốn,thứ năm của nó.Qua khứ và hiện tại đã và đang chứng kiến những hình thức sản xuất hàng hoá cũng dựa trên cơ sở chế độ tư hữu nhưng lại mang bản chất hoàn toàn khác nhau là không và có bóc lột lao động làm thuê.Nếu là cách “tổ chức kinh tế xã hội tư bản” thì nhất thiết nền kinh tế thị trường phải sinh ra sự bóc lột.Nghĩa là, “Cách tổ chức của kinh tế xã hội”chịu sự chi phối của những quan hệ kinh tế khác nhau.Do đó,có nền kinh tế hàng hoá này và có nền kinh tế hàng hoá khác.Chúng khác nhau về bản chất,mặc dù chúng đều chịu sự chi phối bởi những yêu cầu hết sức giống nhau về phương pháp tổ chức kinh tế.
Trong điều kiện đã có sự hiện diện của chế độ sở hữu toàn dân về những tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định đối với toàn bộ nền kinh tế,đã có sự hiện diện của một Nhà nước đại biểu cho lợi ích của nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo,như ở nước ta thì kinh tế thị ttrường vận động vì mục tiêu bảo đảm các lợi ích trong xã hội và phúc lợi của nhân dân,chứ không phải vì lợi nhuận tối đa của các nhà tư bản dựa trên cơ sở bóc lột lao động làm thuê.Nó là phương tiện để xây dựng vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội,chứ không phải để thiết lập hệ thống chuyên chính tư sản.Trong điều kiện kinh tế và chính trị như ở nước tã hiện nay,cần và có thể kết hợp giữa việc bảo đảm tính công bằng xã hội với việc nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế.Hiệu quả sản xuất và kinh tế có tác động đến những yêu cầu về công bằng xã hội.Sự khác nhau về chất giữa kinh tế thị trường với tính cách là tổ chức kinh tế xã hội tư sản với kinh tế thị trường với tính cách là tổ chức kinh tế xã hội xã hội chủ nghĩa là như thế.Nhưng bản chất này có tính lịch sử cụ thể của nó.Nền kinh tế của nước ta đang là nền kinh tế qua độ lên chủ nghĩa xã hội.Vì vậy,trên bước đường đi tới một nền kinh tế thị trường ứng với chủ nghĩa xã hội cần và có thể chấp nhận sự cùng tồn tại của nhiều hình thức sản xuất hàng hoá khác nhau,trong đó có hình thức chứa đựng sự bất công của xã hội lớn nhất-sự bóc lột-nhưng có giới hạn phân định.Đương nhiên bóc lột là không phù hợp với lý tưởng xã hội chủ nghĩa,nhưng trên con đường đi tới mục tiêu nhân đạo nhất là không còn áp bức bóc lột,không phải lúc nào bóc lột cũng là điều kiêng kỵ.Xét từ lợi ích phát triển lực lượng sản xuất,cũng như từ lợi ích trước mắt và căn bản lâu dài của người lao động:Đó là qua trình đi từ chỗ chấp nhận bóc lột trong điều kiện nhất định,tới chỗ xoá bỏ nó.
Trong kinh tế thị ttrường chủ nhĩa xã hội,thực hiện nguyên tắc “phân phối theo lao động” là chính và kết hợp với nhiều hình thức phân phối khác.Sở dĩ chủ nghĩa xã hội phải giữ vững nguyên tắc phân phối theo lao động là chính là vì: phân phối theo lao động là sự phủ định căn bản với chế độ người bóc lột người.Xoá bỏ chế độ người bóc lột người,thực hiện quyền làm chủ của người lao động đối với tư liệu sản xuất,đó là đặc trưng bản chất của nền kinh tế thị trường dưới chủ nghĩa xã hội.Nếu để cho các hình thức phân phối khác chiếm vai trò chủ đạo hoặc mở rộng qua mức các hình thức phân phối khác để gây ra sự chênh lệch qua đáng về thu nhập,gây ra phân hoá hai cực thì cuối cùng không tránh khỏi dẫn đến sự thay đổi tính chất của nền kinh tế và từ đó dấn đến sự thay đổi tính chất về chính trị.
Có điều cần phải thừa nhận rằng một nền kinh tế hàng hoá phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa đến nay chưa hề có.Cho nên thế hệ trực tiếp tổ chức một nền kinh tế hàng hoá như thế đang đóng vai trò người mở đường.Còn phải trải qua nhiều suy nghĩ tìm tòi quan trọng,tổng kết được thực tiễn để đưa ra được lý thuyết về một nền kinh tế hàng hoá như thế.Tuy nhiên có thể lý giải bước đầu những nét chung về con đường đi.Trước hết là khả năng thực tế của sự quản lý của Nhà nước ta đối với một nền kinh tế thị trường như chúng ta chủ trương chứ không phải như ai đó cho rằng:đã là cái gì chưa có tiền lệ lịch sử thì đều không làm được và không được phép làm.Những khả năng thực tế là chế độ công hữu và chính quyền nhân dân theo đường lối của Đảng lãnh đaọ.Sức mạnh kinh tế và chính trị của Nhà nước ta được thể hiện thông qua một tổng thể biện pháp:kinh tế hành chính giao dục,trong đó các biện pháp kinh tế có vai trò quan trọng nhất,thông qua công cụ kế hoạch hoá,đòn bẩy kinh tế,pháp luật,lực lượng dự trữ...
Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã nêu ra năm nội dung “định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần”.Những nội dung đó được xem là nội dung giữ vững định hướng đối với kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay và đó cũng là nội dung khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” ở Việt nam.
Từ nội dung định hướng xã hội chủ nghĩa đối với sự phát triển kinh tế thị trường có thể nêu lên những đặc điểm nổi bật sau:
Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình phát triển từ một nền kinh tế hàng hoá còn kém phát triển,còn mang nặng dấu ấn của kinh tế tự nhiên,dấu ấn của kinh tế kế hoạch hoá tập trung lên nền kinh tế hàng hoá phát triển vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
- Do đi từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ nên cơ sở vật chất kĩ thuật yếu kém,sản xuất thủ công năng suất chất lượng và hiệu quả chưa cao.
- Thị trường chưa phát triển và chưa đồng bộ,sức mua còn bị hạn chế.
- Các doanh nghiệp còn kém sức cạnh tranh,đội ngũ cán bộ và công nhân chưa thích nghi được với nền kinh tế thị trường hiện đại.
- Nước ta phát triển nền kinh tế hàng hoá không phải là kinh tế hàng hoá giản đơn cũng không phải là kinh tế hàng hoá tự điều chỉnh mà là nền kinh tế hàng hoá hiện đại tức nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam.
Nền kinh tế hàng hoá của nước ta nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường,trong đó thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Nói tới kinh tế hàng hoá là nói tới nhiều người chủ sở hữu,nhiều chủ thể kinh tế tham gia.Ơ nước ta trong công cuộc đổi mới Đảng đã xác định tồn tại năm thành phần kinh tế là:thành phần kinh tế Nhà nước-thành phần kinh tế hợp tác-thành phần kinh tế tư bản Nhà nước-thành phần kinh tế tư bản tư nhân-thành phần kinh tế cá thể và tiểu chủ.Năm thành phần kinh tế trên đều tham gia vào sản xuất hàng hoá,đều vận động theo cơ chế thị trường,đều chịu sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.Muốn cho kinh tế hàng hoá định hướng theo chủ nghĩa xã hội chúng ta phải tăng cường củng cố khu vực quản lý Nhà nước để cho nó thực sự giữ được vai trò chủ đạo,có như vậy mới định hướng được nền kinh tế thị trường theo chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Nền kinh tế của nước ta phát triển theo hướng nền kinh tế mở rộng và quan hệ với nước ngoài.
- Kinh tế tự nhiên là nền kinh tế khép kín,kinh tế hàng hoá là nền kinh tế mở.Nước ta phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển nền kinh tế mở.
- Với quan điểm Việt nam muốn làm bạn với các nước trên thế giới và trong khu vực,cho nên chúng ta đa phương hoá,đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại để tranh thủ vốn,khoa học công nghệ tiên tiến.Trình độ quản lý hiện đại làm cho nền kinh tế nước ta nhanh chóng hoà nhập với kinh tế của thế giới và của khu vực.Muốn vậy đòi hỏi chúng ta phải có những điều kiện,phải tạo được môi ttrường thuận lợi cho nước ngoài đầu tư,cũng như người Việt nam ở nước người đầu tư vào trong nước.
Trên cơ sở mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại đòi hỏi chúng ta phải giữ vững nguyên tắcđộc lập cùng có lợi,tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau,không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Nền kinh tế của nước ta có sự quản lý của nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế hàng hoá tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất,ngoài cái chung của kinh tế hàng hoá mỗi phương thức sản xuất xã hội bản chất của chế độ có ảnh hưởng rất lớn đến đặc điểm kinh tế của chế độ đó.Bản chất của Nhà nước quy định cái tính chất của kinh tế hàng hoá.Nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa cho nên vai trò quản lý của nhà nước định hướng nền kinh tế hàng hoá theo chủ nghĩa xã hội ở Việt nam.Như vậy,chúng ta phải đổi mới vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự quản lý của Nhà nước,củng cố các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Bốn đặc điểm trên có quan hệ mật thiết với nhau,nói lên đặc điểm của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam.
2.3. Nội dung các giai đoạn phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam.
Sự hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là cả một qua trình bao gồm các mối quan hệ phức tạp,có nhiều khó khăn.Không nên quan niệm giản đơn và nóng vội mà cần phải tuân thủ những quy luật của qua trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường.Qua trình đó trải qua các giai đoạn sau đây:
Giai đoạn quá độ chuyển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam.
Về mặt lịch sử giai đoạn này được bắt đầu từ năm 1979 với mốc lịch sử rất quan trọng là Nghị quyết hội nghị ban chấp hành trung ương lần thứ VI(khoá IV) tháng 9 - 1979.Về mặt logic giai đoạn này bắt đầu từ việc hình thành và củng cố những đơn vị sản xuất hàng hoá theo đúng nghĩa nhằm tạo ra mối quan hệ vừa chủ,vừa lệ thuộc lẫn nhau giữa các chủ thể sản xuất.
Nội dung chính của giai đoạn này là khắc phục tính hiện vật của quan hệ trao đổi,hình thành quan hệ hàng hoá tiền tệ trên thị trường.
Giai đoạn phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hường xã hội chủ nghĩa ở Việt nam.
Đại hội VI của Đảng năm 1986 đã đặt nền móng vững chắc cho quan điểm phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hường xã hội chủ nghĩa ở nước ta.Quan điểm này đã được tái khẳng định rõ hơn ở Đại hội lần thứ VII và lần thứ VIII của Đảng ta.
Nội dung chủ yếu của quan điểm này: phát triển và mở rộng quan hệ hàng hoá tiền tệ tạo điều kiện tiền đề cho kinh tế hàng hoá phát triển.
Giai đoạn hình thành và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam.
Nội dung chủ yếu của giai đoạn này là tiền tệ hoá các quan hệ kinh tế tạo lập cơ sở hinh tế cho các quy luật kinh tế của kinh tế thị trường phát huy tác dụng một cách đầy đủ,phát triển kinh tế trong nước và hoà nhập với kinh tế thế giới.
2.4.Các giải pháp để phát triển kinh tế hàng hoá ở Việt nam.
Giải pháp 1. Phải đa dạng hoá loại hình sở hữu để trên cơ sở đó đa dạng hoá các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh.Trước kia,do phát triển theo mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung cho nên trong nền kinh tế chỉ còn tồn tại hai hình thức sở hữu chủ yếu là sở hữu Nhà nước và sở hữu tập thể,sởhữu cá thể còn lại rất ít.Ngay nay,chuyển sang nền kinh tế hàng hoá cho nên ta phải đa dạng hoá loại hình sở hữu.Đại hội Dảng VIII đã xác định nước ta tồn tại cơ cấu sở hữu gồm có sở hữu Nhà nước,sở hữu tập thể,sở hữu hỗn hợp,sở hữu tư bản tư nhân,sở hữu cá thể trên cơ sở đó hình thành nên các thành phần kinh tế.Thành phần kinh tế Nhà nước,thành phần kinh tế hợp tác,thành phần kinh tế tư bản Nhà nước,thành phần kinh tế tư bản tư nhân,thành phần kinh tế cá thể.
Giải pháp 2. Thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển.Phân công lao động là cơ sở của kinh tế hàng hoá,kinh tế hàng hoá phát triển gián tiếp thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển.Muốn thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển phải đẩy mạnh công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nước.Công nghiệp hoá,hiện đậi hoá là một trang bị kĩ thuật mới cho nền kinh tế,mặt khác chuyển dịch cơ cấu kinh tế,xây dựng cơ cấu kinh tế mới ở nước ta.
Giải pháp 3. Phát triển đồng bộ các loại thị trường theo hường hiện đại và cân đối.Thị trường là phạm trù kinh tế gắn liền với nền kinh tế hàng hoá.nước ta do kinh tế hàng hoá kém phát triển nên thị trường kém phát triển vá chưa đồng bộ.Vì vậy phải phát triển đồng bộ các loại thị trường :thị trường sưc lao động,thị trường tư liệu sản xuất ,thị trường vốn tài chính tiên tệ chứng khoán thị trường bất đông sản.
Giải pháp 4: Phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng của xã hội .Đi từ sản xuất nhỏ và lại bị chiến tranh tàn phá cho nên kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội của nước ta rất thấp kém phát triển .Vì vậy phải phát triển kết cấu hạ tầng về kinh tế xã hội theo hướng hiện đại.
Giải pháp 5: Xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật.Hệ thống pháp luật của nước ta chưa hoàn thiện.Vì vậy chung ta phải xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật tạo hành lang pháp lý,luât pháp nước ta một mặt phải dữ vững độc lập chủ quyền của đất nước ,nhưng mặt khác phải phù hợp với phong tục tập quan của luật pháp quốc tế.
Giải pháp 6: Đổi mới vai trò lãnh đạo của đảng, vai trò quản lý của nhà nước xây dựng nhà nước pháp quyền Việt nam. Trên cơ sơ đổi mới về kinh tế từng bước đổi mới về chính trị cho thích hợp do đó phải đổi mới vai trò lãnh đạo của đảng,vai trò quản lý của Nhà nước khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hứơng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam .
Các giải pháp trên phải tiến hành đồng bộ,có như vậy chúng ta mới phát triển được nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam .
C. Kết Luận.
Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đều sử dụng cỗ xe kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường để phát triển lực lượng sản xuất, phải chăng chỗ khác nhau là sự cân bằng kinh tế, xã hội,con người và quan hệ giữa con người với con người, quan hệ kinh tế, thiết chế chính trị,cả hai đều sử dụng cạnh tranh làm động lực phát triển, nhưng dưới chủ nghĩa tư bản không tránh khỏi quy luật cá lớn nuốt cá bé, bất bình đẳng,bất công.Chúng ta chấp nhận thị trường là chấp nhân cạnh tranh,đua tranh nhưng sẽ không dã man, tăng trưởng kinh tế đi đôi với công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu gắn với xoá đói,giảm nghèo,sự gia tăng về mức sống nhưng giữ gìn về đạo đức,bản sắc văn hoá dân tộc.Tất nhiên đó là công việc cực kỳ khó khăn,phải tạo dựng lâu dài,song có thể làm được.Và nếu như vậy,kinh tế thị trường không đối lập,mà có thể là bạn đồng hành của chủ nghĩa xã hội,là con đường dẫn đến giàu có văn minh.
Trong quan niệm của Đảng ta,để thực hiện sự nghiệp xây dựng đất nước với mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh ” thì nhất thiết phải chuyển đổi nền kinh tế, nước ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường.Nền kinh tế của nước ta được phát triển theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước cho phép tối đa những nhân tố tích cực của cơ chế thị trường, khắc phục nền kinh tế đưa nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sau hơn mươi năm thực hiện đường lối đổi mới, chúng ta đạt được nhiều thành tựu đáng kể,đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội. Từ một nước thiếu lương thực lượng người chết đói đế 2 triệu dân (1945) nay đã trở thành một trong ba nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Tuy nhiên nền kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn, yếu kém. Để vượt qua được những bước đường đó, trước mắt chúng ta không ít những khó khăn,thách thức lớn. Trong đó nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực là thách thức to lớn và gay gắt. Đồng thời chúng ta cũng có những cơ hội để phát triển. Vấn đề đặt ra là phải chủ động nắm thời cơ, kiên quyết đẩy lùi và khắc phục những nguy cơ nhằm vượt lên để phát triển nhanh, vững chắc và đúng hướng. Có như vậy, đất nước ta mới có ngày trở nên phồn vinh, to đẹp hơn .
Tài liệu tham khảo.
1. C Mác : Tư Bản (Quyển 1 tập 1 & quyển 3).
C Mác : Phê phán cương lĩnh Gôta.
Các Văn kiện Đại hội Đảng VI, VII, VIII .
Giáo trình kinh tế chính trị Mác-Lênin. (tập 1,2).
Kinh tế học. (tập 1,2 ) của David Begg.
Kinh tế chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản.
Bàn về thuế lương thực.
Tác dụng của vàng.
Sách “ Tìm hiểu về kinh tế thị trường ”.
Tạp chí nghiên cứu và lý luận.
Tạp chí triết học.
Tạp chí thông tin lý luận.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34577.doc