Đề tài Lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở trong thời kỳ chuyên chính vô sản. Sự vận dụng lý luận trên của Lênin vào điều kiện hoàn cảnh nước ta trong giai đoạn đổi mới hiện nay khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nướ

Mục tiêu của nước ta trong giai đoạn hiện nay là quá độ thành công lên chủ nghĩa xã hội. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta cùng gắng sức đưa nền kinh tế nước nhà phát triển tạo nên cái cốt vững chắc cho chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản Nhà nước là con đường, là biện pháp hữu ích nhất mà nếu thiếu nó thì mục tiêu đi lên của chủ nghĩa xã hội chỉ là viễn vông. Lênin đã để lại một trong những di sản quý báu nhất của Người là những lý luận về chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Không chỉ là vận dụng không thôi mà phải vận dụng lý luận đó cho phù hợp với điều kiện của đất nước trong thời đại ngày nay là nhiệm vụ vô cùng quan trọng của chúng ta. Tất nhiên khi sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước sẽ không tránh được những sai lầm, nhưng không được vì những khó khăn trước mắt mà bỏ cuộc, qua mỗi bước đi ta càng rút ra thêm được những kinh nghiệm quý báu cho công cuộc kiến thiết nước nhà vững mạnh.

doc25 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1522 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở trong thời kỳ chuyên chính vô sản. Sự vận dụng lý luận trên của Lênin vào điều kiện hoàn cảnh nước ta trong giai đoạn đổi mới hiện nay khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nướ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g bàn đến là chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở trong một Nhà nước vô sản. Lênin nói "Chủ nghĩa tư bản Nhà nước của chúng tôi khác về căn bản so với chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở những nước có chính phủ tư sản, sự khác biệt là ở chỗ Nhà nước của chúng tôi không phải đại diện cho giai cấp tư sản mà đại diện cho giai cấp vô sản" và "chủ nghĩa tư bản Nhà nước của chúng tôi... chẳng những nắm ruộng đất mà còn nắm cả những bộ phận quan trọng nhất của công nghiệp nữa". Giai cấp vô sản sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước chính là để phục vụ cho lợi ích của giai cấp mình cũng như toàn thể nhân dân lao động. Lợi ích mang lại ở đây chính xác là lợi ích cơ bản và lâu dài. Bởi vì ban đầu những người được lợi nhiều hơn là các nhà tư bản, những người có sức mạnh kinh tế và kỹ thuật hơn hẳn. Điều này âu cũng hợp lý vì việc phân chia lợi ích trong kinh doanh được dựa trên sức mạnh kinh tế và kỹ thuật. Nước Nga lúc đó về sẽ mạnh kinh tế và kỹ thuất chưa thể so sánh với các nước tư bản. Do đó đầu tiên, giai cấp vô sản phải chấp nhận cho nhà tư bản có những quyền lợi như được phép sử dụng những hầm mỏ, được khai thác một số tài nguyên... để thu được lợi ích cơ bản hơn, lâu dài hơn. Và như Lênin phân tích nhà nước vô sản lại được lợi ngay trên cái lợi của nhà tư bản. Vì khi chủ nghĩa tư bản được lợi thế thì sản xuất công nghiệp được tăng lên, giai cấp vô sản cũng theo đó mà lớn mạnh lên và là giai cấp sản xuất ra của cải vật chất có ích cho xã hội. Chủ nghĩa tư bản nhà nước tại sao lại cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở những nước tiểu nông đã có điều kiện chính quyền nằm trong tay giai cấp vô sản? Bởi vì nó là con đường, là phương tiện để phát triển lực lượng sản xuất lên trình độ cao, là biện pháp biến các xí nghiệp tư bản chủ nghĩa thành xí nghiệp xã hội chủ nghĩa. Vì chưa có điều kiện để chuyển trực tiếp từ tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội ở các nước tiểu nông lên giai cấp vô sản " phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản, nhất là bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản Nhà nước) làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, làm con đường, phương pháp, phương thức để tăng lực lượng sản xuất lên". Đó là vấn đề thứ hai. Vậy thì những cái lợi cụ thể sẽ đạt được khi sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước hay tác dụng cụ thể của chủ nghĩa tư bản Nhà nước là như thế nào? Chủ nghĩa tư bản Nhà nước là công cụ để liên hợp nền sản xuất nhỏ lại, khắc phục tình trạng phân tán và đấu tranh chống tính tự phát tiểu tư sản và tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội phải được xây dựng trên cơ sở kinh tế là nền sản xuất lớn hiện đại. Nhưng đối với những nước tiểu nông như nước Nga thời gian sau nội chiến thì kinh tế nhỏ vẫn tồn tại một cách độc lập do giữa chúng vẫn chưa có cái gì để chúng liên kết lại với nhau. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì không thể để nền kinh tế nhỏ tồn tại riêng rẽ, manh mún như vậy được. Và chính chủ nghĩa tư bản Nhà nước là công cụ kết hợp nền sản xuất nhỏ lại. Bởi vì theo qui luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất và lịch sử đã chứng minh nền sản xuất nhỏ phát triển đển mức độ nào đó tất yếu sẽ đẻ ra chủ nghĩa tư bản. "Tư bản làm cho sản xuất nhỏ liên hợp lại, tư bản sinh ra từ sản xuất nhỏ". Nếu phát triển được chủ nghĩa tư bản Nhà nước thì sẽ phát triển được nền đại sản xuất tiên tiến thay cho nền tiểu sản xuất lạc hậu để có điều kiện phát triển chủ nghĩa xã hội. Là công cụ để liên hợp nền sản xuất nhỏ lại thì nó cũng là công cụ để đấu tranh chống tính tự phát triển tư bản và tư bản chủ nghĩa. Trong một nước tiểu nông thì tất yếu tính tự phát tiểu tư sản và tư bản chủ nghĩa sẽ chiếm ưu thế. Và theo Lênin, chính giai cấp tiểu tư sản cộng với chủ nghĩa tư bản tư nhân cùng nhau đấu tranh chống lại cả chủ nghĩa tư bản Nhà nước lẫn chủ nghĩa xã hội. "Giai cấp tiểu tư sản chống lại bất cứ sự can thiệp, kiểm kê và kiểm soát nào của Nhà nước, dù là chủ nghĩa tư bản Nhà nước hay chủ nghĩa xã hội Nhà nước. Phải bắt những người tiểu tư sản phục tùng sự kiểm soát kiểm kê của Nhà nước vô sản nếu không họ sẽ lật đổ chính quyền, đó là điều không tránh khỏi. Xây dựng được chủ nghĩa xã hội trong điều kiện trình độ lực lượng sản xuất còn thấp chủ nghĩa tư bản Nhà nước như là một công cụ hữu hiệu nhất để chiến thắng tình trạng hỗn độn, sự khắc phục tính tập quán của sản xuất nhỏ, đập tan sự phá hoại của bọn đầu cơ gian thương muốn làm lũng đoạn nền kinh tế. Du nhập được chủ nghĩa tư bản bên ngoài chính là du nhập được trình độ kỹ thuật cao, trình độ tổ chức quản lý sản xuất một nền sản xuất lớn. Ngoài ra tư bản nước ngoài có vốn rất lớn sẽ rất cần thiết cho công cuộc xây dựng một nền sản xuất lớn khi mà lượng vốn từ bên trong rất thiếu. Vấn đề đặt ra ở đây là phải sử dụng những hình thức nào để vừa thu hút được tư bản bên ngoài vừa ngăn chặn được những ảnh hưởng xấu mà nguy hại nhất là có thể làm thay đổi bản chất của nền chuyên chính vô sản. Vấn đề này ta sẽ xem xét sau. Chủ nghĩa tư bản Nhà nước còn được xem là công cụ đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu và những lệch lạc quan liêu chủ nghĩa. Vì khi nói về thực chất của chính sách kinh tế mới Lênin đã đề cập đến nhiệm vụ "đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu và tác phong lề mề" mà chính sách kinh tế mới là sự sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Du nhập chủ nghĩa tư bản bên ngoài qua chủ nghĩa tư bản Nhà nước chính là du nhập được trình độ kỹ tiên tiến, học tập được cách thức tổ chức quản lý một nền sản xuất lớn hiện đại. Phải thừa nhận một thực tế là chủ nghĩa tư bản hơn hẳn chúng ta về trình độ khoa học kỹ thuật và họ đã có được nền sản xuất lớn hiện đại với trình độ quản lý rất cao. Như Lênin nói về nước Nga khi đó rằng: "Giai cấp vô sản Nga so với bất cứ giai cấp vô sản ở các nước phát triển nào khác là giai cấp tiên tiến hơn về chế độ chính trị và về sức mạnh chính quyền công nông nhưng lại lạc hậu hơn những nước lạc hậu nhất ở Tây Âu về mặt tổ chức một chủ nghĩa tư bản Nhà nước có qui cũ, về trình độ văn hoá, về mức độ chuẩn bị cho việc thực hiện chủ nghĩa xã hội trong lĩnh vực sản xuất vật chất". Những nước tiểu nông hay những nước chưa có cơ sở vật chất, kỹ thuật cao muốn tiến lên được chủ nghĩa xã hội họ phải trải qua một thời kỳ quá độ. Mục tiêu của thời kỳ quá độ, theo cách nói hình tượng của Lênin là "đặt nền móng kinh tế cho toà nhà mới, toà nhà xã hội chủ nghĩa, để thay thế cho toà nhà phong kiến đã bị phá huỷ, và cho toà nhà tư bản đã bị phá huỷ một nửa". Nhưng để đạt mục tiêu đó phải đi bằng con đường nào. Thực tế cho thấy rằng không thể áp dụng trực tiếp tổ chức theo kiểu cộng sản chủ nghĩa là Nhà nước sản xuất và phân phối sản phẩm. Thực tế đã chứng minh nưững người cộng sản Nga đã thất bại trong chính sách "Cộng sản thời chiến" khi muốn chuyển sang chủ nghĩa xã hội ngay bằng việc thiết lập chế độ sản xuất quốc doanh và chế độ Nhà nước phân phối sản phẩm. Chính sách "Cộng sản thời chiến" chỉ có tác dụng như một biện pháp tức thời để đưa nước Nga thoát khỏi tình hình nội chiến. Vậy không muốn bị thất bại và sai lầm thì phải thông qua trao đổi hàng hoá, qua sản xuất hàng hoá tức là kinh tế thị trường. Cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội là trình độ xã hội hoá sản xuất cao. Kinh tế thị trường văn minh cực thịnh chính là một biểu hiện của trình độ xã hội hoá sản xuất cao. Cho nên để bước quá độ thành công thì phải tiến tới xã hội hoá trong thực tế bằng sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Nhưng có trao đổi hàng hoá tất yếu đẻ ra chủ nghĩa tư bản. Tư bản sinh ra từ sản xuất hàng hoá, giai cấp vô sản không thể tìm cách để chặn đứng sự phát triển của trao đổi tư nhân hay của chủ nghĩa tư bản (Lênin nói đó là "dại dột" và "tự sát") mà phải hướng chủ nghĩa tư bản vào con đường chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Vậy có thể nói hoàn toàn không quá rằng chủ nghĩa tư bản Nhà nước có vai trò tối quan trọng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở những nước có trình độ lực lượng sản xuất còn thấp. Còn những tác dụng cụ thể của chủ nghĩa tư bản Nhà nước ta đã xét. Bây giờ là vấn đề liệu có thể sử dụng thành công chủ nghĩa tư bản Nhà nước hay không? "Liệu chính quyền Nhà nước vô sản có khả năng khống chế được các ngài tư bản một cách thích đáng, để hướng chủ nghĩa tư bản đi theo đúng phương hướng mà Nhà nước đã vạch ra và tạo ra một thứ chủ nghĩa tư bản phục tùng Nhà nước và phuc vụ Nhà nước không?" Câu trả lời là có nếu đảm được những điều kiện cần thiết. Điều kiện cần là điều kiện liên quan đến việc tạo những thuận lợi hay môi trường để chủ nghĩa tư bản hình thành và phát triển những nước có nền chuyên chính vô sản. Chắc chắn là phải phát triển kinh tế hàng hoá như ta đã đề cập ở trên. Theo Lênin "Nền kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng kinh tế cơ bản của thời kỳ quá độ không phải chỉ đối với một nước tiểu nông, mà nói chung đối với mọi nước khi chưa có cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở vào trình độ xã hội hoá sản xuất cao độ". Muốn xây dựng được một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải có cơ cấu sở hữu hợp lý. Đó phải là chế độ sở hữu hỗn hợp đảm bảo cho chủ nghĩa tư bản Nhà nước có thể tồn tại và phát triển. Điều kiện đủ là điều kiện chủ nghĩa tư bản Nhà nước chịu "phục tùng".Trong thời kỳ quá độ phải "dung nạp" chủ nghĩa tư bản nhưng phải hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Chủ nghĩa tư bản có bản chất khác hẳn chủ nghĩa xã hội. Do đó chủ nghĩa tư bản Nhà nước như "con dao hai lưỡi". Nếu sử dụng không khéo nó sẽ cho tác dụng phản hồi. Muốn ngăn chặn được những tác động xấu khi sử dụng chủ nghĩa tư bản thì Nhà nước phải là Nhà nước chuyên chính vô sản và đồng thời Nhà nước phải nắm được các đỉnh cao kinh tế. Nhà nước phải có trong tay một thực lực kinh tế dựa trên hình thức sở hữu xã hội mà Nhà nước là đại biểu , nắm giữ những vị trí then chốt, trọng yếu của nền kinh tế, giữ vai trò chủ đạo đối vưói các thành phần kinh tế khác. Có như vậy Nhà nước mới có thể hướng các thành phần kinh tế theo sự điều khiển của mình. Nhà nước xã hội chủ nghĩa mới ngăn chặn được bất cứ chủ nghĩa tư bản nào vượt ra khỏi chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Và có như vậy, chủ nghĩa tư bản Nhà nước mới là "cái không đáng sợ" theo cách nói của Lênin. ở dưới thời Lênin có một số hình thức của chủ nghĩa tư bản Nhà nước được vận dụng. Mặc dù sự thành công của nó chưa đạt được những mục tiêu đặt ra nhưng những lý luận của Lênin về các hình thức này thì rất cần thiết cho việc để vận dụng trong điều kiện hiện nay. Ta hãy đi tìm hiểu những hình thức cụ thể của chủ nghĩa tư bản Nhà nước đồng thời kết quả thực hiện thời Lênin để có những bài học bổ ích. Hình thức đầu tiên mà Lênin nêu ra là tô nhượng "Đó là một giao kèo một sự liên kết, một liên minh giữa chính quyền Nhà nước Xô Viết nghĩa là Nhà nước vô sản với chủ nghĩa tư bản Nhà nước chống lại thế lực tự phát triển tư sản. Người nhận tô nhượng là nhà tư bản. Họ kinh tế theo phương thức tư bản để lấy lợi nhuận, họ đồng ý thoả thuận với chính quyền vô sản để cốt thu được lợi nhuận bất thường, lợi nhuận tiểu ngạch hoặc để có loại nguyên liệu mà họ không thể tìm ra hoặc khó tìm bằng cách khác". Còn chính quyền Xô Viết thì được lợi gì? " Chính quyền Xô Viết tăng cường được nền đại sản xuất đối lập với nền tiểu sản xuất, nền sản xuất tiêu trên đối lập với nền sản xuất lạc hậu, nền sản xuất cơ khí hoá đối lập với nền sản xuất thủ công, nó tăng thêm sản phẩm mà nó thu được của đại công nghiệp, nó củng cố được những quan hệ kinh tế do Nhà nước điều chỉnh đối lập với những quan hệ tiêu tư sản vô chính phủ. Tô nhượng là hình thức của chủ nghĩa tư bản Nhà nước mà Lênin đánh giá cao nhất cũng vì lý do đó. Khi sử dụng tô nhượng, Lênin nêu ra một nhiều điều phải chú ý là: - Khi sử dụng tô nhượng đôi lúc phải biết chịu đựng những hy sinh, chấp nhận sai lầm. - Người nhận tô nhượng có trách nhiệm cải thiện đời sống công nhân trong xí nghiệp tô nhượng sao cho đạt tới mức số trung bình của nước ngoài. - Hình thức trả lương cho công nhân được qui định tuỳ từng hợp đồng. - Điều kiện về thuê mướn, về sinh hoạt vật chất, về trả lương cho các công nhân lành nghề và nhân viên người nước ngoài được qui định theo sự thoả thuận tự do giữa người nhận tô nhượng với những loại công nhân viên nói trên. - Phải tôn trọng pháp luật của nước Nga. - Phải nghiêm chỉnh tuân theo những qui tắc khoa học và kỹ thuật phù hợp với pháp luật của nước Nga và của nước ngoài. Hình thức thứ hai được áp dụng thời Lênin là hợp tác xã. Thoạt đầu Lênin quan niệm hợp tác xã là một hình thức của chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Sau đó trong một tác phẩm người lại viết "cần phải viện đến một cái gần giống như chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Tôi muốn nói đến chế độ hợp tác xã" tiếp theo ngay sau đó Lênin lại nói "thường thường trong hoàn cảnh nước ta chế độ hợp tác xã là hoàn toàn đồng nhất với chủ nghĩa xã hội". Trong các ý kiến của Lênin thì hợp tác xã dần càng khác nhau. Điều này là do những thời điểm lịch sử khác nhau. Ban đầu Lênin coi hợp tác xã là một "hình thức của chủ nghĩa tư bản Nhà nước nhưng ít đơn gian hơn, có hình thù ít rõ rệt hơn, phức tạp hơn và vì thế trong thực tế nó đặt chính quyền Xô Viết trước những khó khăn lớn hơn". Sau này từ thực tiễn nước Nga Lênin đã phân biệt hai chế độ hợp tác xã tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Chế độ hợp tác xã tư bản chủ nghĩa trong lòng chế độ Xô Viết được coi là một hình thức chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Chế độ hợp tác xã theo kiểu thứ nhất là sự kết hợp những xí nghiệp tư bản tư nhân với những xí nghiệp kiểu xã hội chủ nghĩa chính cống, đây là một bước chuyển từ hình thái đại sản xuất này sang hình thái đại sản xuất khác. Trong một nước tư bản chủ nghĩa hợp tác xã là những tổ chức tư bản tập thể. Còn trong điều kiện kinh tế mới tức chính quyền Xô Viết hình thành kiểu xí nghiệp hợp tác xã, đây là sự kết hợp những xí nghiệp tư bản tư nhân (xây dựng trên đất đai thuộc về xã hội) với những xí nghiệp kiểu xã hội chủ nghĩa chính cống. Còn một con đường khác là con đường của chủ nghĩa tư bản hợp tác xã. Đây là tổ chức bao gồm hàng ngàn thậm chí hàng triệu tiểu nghiệp chủ, nó là nước chuyển tư nền tiểu sản xuất sang đại sản xuất. Lênin quan niệm về sau là con đường theo chế độ này hoàn toàn đồng nhất với chủ nghĩa xã hội. Hình thức thứ ba là hình thức đại lý uỷ thác. "Nhà nước lôi cuốn nhà tư bản với tư cách một nhà buôn trả cho họ một số tiền hoa hồng để họ bán sản phẩm của Nhà nước và mua sản phẩm của người sản xuất nhỏ. Hình thức thứ tư là Nhà nước cho tư bản thuê những xí nghiệp, vùng mỏ, vùng đất... hình thức này phân biệt với tô nhượng ở chỗ đối tượng thuê là tư bản trong nước. Hình thức thứ năm là cho nông dân thuê những hầm mỏ nhỏ . Đây cũng là kiểu cho thuê nhượng đối tượng thuê - theo cách nói của Lênin là các tiểu tư bản. Hình thức thứ sáu là Công ty hợp doanh. Hình thức này tồn tại trong lĩnh vực thương nghiệp, nó được thành lập theo thể thức chính quyền Xô Viết tư bản trong và ngoài nước cùng góp vốn. Trên đây là một số hình thức của chủ nghĩa tư bản Nhà nước được thực hiện dưới thời của Lênin. Sự thực hành chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở thời Lênin đã mang lại những kết quả to lớn cả về mặt thực tiễn cũng như mặt lý luận. Sau khoảng hơn một năm thực hành đến tháng 11/1922, Lênin đã trình bày khái quát những thành tựu của chính sách kinh tế mới nói chung và chủ nghĩa tư bản Nhà nước nói riêng như sau: Về hình thức giai cấp nông dân, từ hình thức đói kém và một số nông dân bất mãn với chế độ cộng sản thời chiến thì đến lúc này nông dân đã thoát khỏi nạn đói và còn nộp thuế lương thực hàng trăm triệu put. Đời sống công nhân được cải thiện, công nhân không còn bất bình nữa. Công nghiệp nhẹ được phát triển, công nghiệp năng gặp phải nhiều khó khăn khi áp dụng hình thức tô nhượng do các nước đế quốc giàu có vẫn muốn bóp chết nước xã hội chủ nghĩa non trẻ nên không có những khoản vay lớn được. Tuy nhiên nhờ có chính sách kinh tế mới mà đã thu được một số vốn lớn hơn 20 triệu put vàng để cứu vãn công nghiệp nặng. Qua các tài liệu tự đánh giá về chính sách chủ nghĩa tư bản Nhà nước cho đến năm 1924, nhìn chung là mang lại những đóng góp tích cực, làm sống động nền kinh tế nước Nga Xô Viết. Hình thức tô nhượng với nước ngoài đã đem lại nhiều kết quả cao. Nhiều ngành công nghiệp quan trọng đã phát triển, kỹ thuật, thiết bị hiện đại được đưa vào sản xuất cùng kinh nghiệm quản lý tiên tiến đã mang lại hiệu quả sản xuất cao. Nguồn ngoại tệ đất nước được tăng thêm, ngoại thương với các nước Phương Tây được phát triển .Thông qua hoạt động của các Công ty hợp doanh mà những người cộng sản Nga đã thực sự học được cách buôn bán. Hoạt động của các xí nghiệp cho thuê, các xí nghiệp hồn hợp đã giúp nước Nga Xô Viết duy trì được hoạt động bình thường ở các cơ sở kinh tế, tăng thêm sản phẩm cho xã hội, việc làm cho người lao động. Hình thức đại lý và các hợp tác xã tư bản chủ nghĩa trong các lĩnh vực sản xuất, tín dụng và tiêu thụ đã góp phần hỗ trợ thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, đẩy nhanh quá trình trao đổi và lưu thông hàng hoá tiền tệ, làm sống động nền sản xuất hàng hoá nhỏ, qua đó cải biến những người tiểu nông, nối liền quan hệ công -nông nghiệp, thành thị-nông thôn. So với mục tiêu đã đặt ra thì những kết quả thực hành chủ nghĩa tư bản Nhà nước dưới thời Lênin vẫn còn thấp. Ví như trong những năm 1923-1924 (năm cuối cùng của Lênin) tỷ trọng của thành phần kinh tế tư bản Nhà nước chỉ chiếm 1% tổng sản phẩm cả nước. Năm 1923, các xí nghiệp tô nhượng mới chỉ sản xuất được khối lượng sản phẩm trị giá 35,1triệu rúp. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng quan trọng nhất là chủ nghĩa đế quốc vẫn tìm mọi cách bóp chế Nhà nước Xô Viết nền đầu tư hợp tác không đạt kết quả như mong muốn. Tuy nhiên kết quả quan trọng nhất đó là chủ nghĩa tư bản thực sự đã trở thành một phần đặc trưng của chính sách "kinh tế mới" và nhờ có chính sách "kinh tế mới" mà chính quyền Xô Viết vẫn giữ được vị trí vững chắc trong nông nghiệp và công nghiệp và có khả năng để tiếp tục đưa nền kinh tế nước Nga tiến lên. Ta đã nghiên cứu những lý luận cơ bản của V.I.Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Lý luận của Người là di sản quí báu mà Người để lại cho chúng ta, nhiệm vụ của nước ta là phải vận dụng, phát triển lý luận đó vào thực tiễn nước nhà như thế nào? Bây giờ chúng ta xem xét sự vận dụng chủ nghĩa tư Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. II- Sự vận dụng lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước vào Việt Nam. Những lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước có một ý nghĩa vô cùng quan trọng cho những nước đi lên chủ nghĩa xã hội muốn bỏ qua giai đoạn chủ nghĩa tư bản. Nhưng lý luận của Người cần được vận dụng một cách hợp lý vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước. Không thể đưa nguyên xi vào mô hình chủ nghĩa tư bản Nhà nước đã được áp dụng ở Liên Xô vào áp dụng ở một môi trường, ở một quốc gia khác được. Thực tế đã chứng minh khi các nước Đông Âu xây dựng chủ nghĩa xã hội đã sao chép mô hình của Liên Xô và kết quả là khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô sụp đổ thì kéo theo sự sụp đổ ở các nước này và hệ thống xã hội chủ nghĩa trên toàn thế giới không còn. Lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước phải được lấy làm cơ sở để từ đó mỗi nước có sự ứng biến linh hoạt khi áp dụng. Luân điểm quan trọng nhất làm cơ sở xuất phát để nghiên cứu đó là: Việc chuyển sang chủ nghĩa xã hội cần thiết phải có một loạt nhữg bước quá độ như chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Điều này ta đã xem xét ở phần trước. Thực tiễn của công cuộc đổi mới được tiến hành ở Việt Nam trong những năm qua đã chứng minh rằng trong bối cảnh quốc tế hiện thời, Việt Nam không có điều kiện để bỏ qua hoàn toàn chủ nghĩa tư bản để quá độ trực tiến lên chủ nghĩa xã hội mà chỉ có khả năng rút ngắn giai đoạn phát triển đó, phương pháp rút ngắn là phải sử dụng chủ nghĩa tư bản. Đảng cộng sản Việt Nam chủ trương trong quá trình đổi mới là phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường cho phép tự do buôn bán trao đổi hàng hoá, chủ trương thu hút đầu tư nước ngoài, góp vốn hợp tác, liên doanh với tư bản nước ngoài, phát triển doanh nghiệp tư nhân ... Điều này tất yếu dẫn đến sự phục hồi chủ chủ nghĩa tư bản. Nhưng như Lê nin đã khẳng định rằng không phải thủ tiêu nó mà tìm cách hướng nó vào chủ nghĩa tư bản Nhà nước, đó là biện pháp hữu hiệu nhất. Một thực tế có thể nhận thấy ngay là nước ta chưa có đủ cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho chủ nghĩa xã hội. Quan hệ sản xuất của chủ nghĩa xã hội dựa trên lực lượng sản xuất phát triển cao. Nước ta muốn xây dựng được chủ nghĩa xã hội phải tuân theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất nhưng nước ta vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất còn nhỏ lẻ nên phải đi bằng con đường gián tiếp, phải sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước để hạn chế tính tự phát trong sản xuất và chiến lược phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong thời kỳ quá độ không thể không phát triển kinh tế tư bản Nhà nước, lực lượng sản xuất của nước ta còn hết sức lạc hậu. Muốn có cơ sở vật chất kỹ thuật cho bước quá độ thì phải mau chóng công nghiệp hoá để hiện đại lực lượng sản xuất. Dưới góc nhìn của lịch sử công nghiệp hoá là nhiệm vụ của chủ nghĩa tư bản. Nhưng Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà không qua chủ nghĩa tư bản để giảm bớt những đau thương có thể xảy ra. Để sự lựa chọn này thành công và đồng thời để có thể tiến hành công nghiệp hoá mau chóng thì buộc phải sử dụng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đặt dưới sự kiểm kê kiểm soát của Nhà nước chuyên chính vô sản và để hiện đại hoá lực lượng sản xuất, phải gắn công nghiệp hoá, hiện đại hóa với việc sử dụng rộng rãi các hình thức của chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Dưới hình thức tư bản Nhà nước chẳng những Việt Nam thu hút được tư bản nước ngoài mà còn thu hút được tư bản trong nước bằng cách cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, hùn vốn liên doanh để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển hơn nữa. Nhờ đó có thể thu hút vốn và hiện đại hoá công nghệ và năng lực quản lý của các nhà đầu tư tư nhân, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài, nhờ đó ta có thể huy động tối đa mọi tiềm năng, tận dụng mọi nguồn lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng như cho các chương trình khác. Từ Đại hội VI của Đảng ta đã quyết định chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Nền kinh tế thị trường phải chấp nhận các quy luật của thị trường. Có mua bán, trao đổi tất yếu sẽ đẻ ra chủ nghĩa tư bản. Quan hệ chủ nghĩa tư bản tồn tại và phát triển thì tất yếu sẽ có tính tự phát của nó.. Để đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa thì nhất thiết phải hướng các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vào con đường chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Phải dung nạp chủ nghĩa tư bản trong và ngoài nước dưới sự kiểm soát và hướng dẫn của Nhà nước. Nếu không cho tư bản tư nhân theo con đường chủ nghĩa tư bản Nhà nước chẳng những chúng ta không hướng nó theo xã hội chủ nghĩa mà đôi khi còn làm nó đi lệch lạc sang chủ nghĩa tư bản. Sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước ta sẽ nâng cao trình độ xã hội hoá của lực lượng sản xuất, đồng thời sử dụng được những thành tựu về khoa học và kinh tế của nhân loại vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Để phát triển kinh tế thì nước ta không thể không hội nhập với nền kinh tế thế giới. Trong điều kiện hiện nay, khi mà chủ nghĩa tư bản đang tạm thời thắng thế, muốn các nước này chấp nhận hội nhập với nước ta là một vấn đề nan giải vì giữa hai bên có bản chất chế độ chính trị khác nhau, nước ta muốn hội nhập được chỉ có thể bằng con đường chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Chủ nghĩa tư bản Nhà nước không những để cho các nước tư bản chấp nhận quan hệ với nước ta và ta có thể lợi dụng được những cái tiến bộ của họ mà còn giúp cho chúng ta huy động được những lợi thế cho quá trình hội nhập. Một sự cần thiết nữa để áp dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước vào nước ta là để đạt mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Muốn cho dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh thì phải có một quá trình phát triển bền vững. Chính chủ nghĩa tư bản Nhà nước là cứu cánh giúp cho đất nước được những thành tựu trong thời gian qua khi mà nước ta đang mắc phải hai khó khăn thiếu thốn và trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu. Đồng thời trong bối cảnh hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ và có hiệu quả của thành phần kinh tế tư bản Nhà nước trong nền kinh tế kế hoạch hoá nhiều thành phần chẳng những giúp chúng ta đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, rút ngắn quá trình khắc phục tình trạng tụt hậu mà còn tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động và góp phần cải thiện đời sống cho họ. Với tất cả những lý do trên thì có thể nói hiện nay Việt Nam không thể không vận dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước để hoàn thành thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên cũng cần phải nhấn mạnh một điều là không nên tuyệt đối hoá vai trò của kinh tế tư bản Nhà nước, xem nó là cứu cánh duy nhất cho thời kỳ quá độ, phải lấy kinh tế Nhà nước làm chủ đạo, phát triển kinh tế hợp tác xã, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế này dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Học thuyết về kinh tế tư bản Nhà nước của Lênin là lý luận cho đường lối của thời kỳ quá độ của các nước tiểu nông lên chủ nghĩa xã hội. Học thuyết đó cần được vận dụng linh hoạt cho các điều kiện hoàn cảnh cụ thể khác nhau. Nước ta có những thuận lợi lớn để sử dụng được thành công chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Trước hết là những thuận lợi thuộc về yếu tố chủ quan. Một đảm bảo quan trọng nhất đó là sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam-đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Trải qua một quá trình đấu tranh gian khổ và lâu dài, Đảng ta đã trở thành người lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa của nước nhà. Đảng đại diện cho ý chí quyền lợi của giai cấp công nhân và đoàn thể nhân dân lao động. Có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng mới có thể dung nạp được chủ nghĩa tư bản, đảm bảo chủ nghĩa tư bản không gây tác hại cho quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản của nước nhà. Toàn thể nhân dân một lòng theo Đảng là nguồn sức mạnh lớn lao để đi đến thành công. Sức mạnh của toàn dân tộc được phát huy dưới sự chỉ đạo của Đảng có thể vượt qua mọi trở ngại để đi đến thành công. Thuận lợi chủ quan thứ hai là những yếu tố nguồn lực, gồm hai nguồn lực quan trọng nhất là tài nguyên thiên nhiên là nguồn lao động xã hội. Việt Nam có vị trí địa lý thuận lợi, nằm ở trung tâm khu vực kinh tế được đánh giá là năng động nhất thế giới, có điều kiện quan hệ với các nước trên thế giới cũng như hội nhập cùng nền kinh tế thế giới. Là nước nhiệt đới gió mùa thuận lợi cho phát triển nền nông nghiệp, lâm nghiệp và hải thủy sản đa dạng. Đặc biệt nước ta có nguồn tài nguyên nhiên liệu, khoáng sản phong phú, là một thị trường hấp dẫn để thu hút đầu tư nước ngoài... tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Việt Nam cũng có một nguồn lao động dồi dào với giá lao động rẻ khiến các nhà đầu tư nước ngoài chú ý đến. Những nguyên nhân khách quan chính là những nét đặc trưng của thời đại ngày nay. Đó là sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang tạo ra một lực lượng sản xuất mới có tính chất và trình độ cao hơn rất nhiều so với lực lượng sản xuất cũ. Các nước trên thế giới ngày càng phụ thuộc nhau hơn do trình độ xã hội hoá mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Điều này cho phép chúng ta có thể áp dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật và công nghệ phục vụ cho sự phát triển nước nhà. Và chính chủ nghĩa tư bản Nhà nước là công cụ để ta có thể có được những thành tựu đó. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tạo ra cho đất nước ta cả những thách thức bên cạnh những thời cơ. Nếu như không nắm bắt được với nhịp độ phát triển của nó thì nước ta có thể bị tụt hậu lại so với thế giới. Một đặc trưng khác nữa của thời đại ngày nay là xu thế đối thoại và hợp tác hoá. Đất nước ta có điều kiện cho việc bình thường hoá quan hệ với các nước trước đây vốn là thù địch, thuận lợi cho việc du nhập chủ nghĩa tư bản từ bên ngoài, từ các nước tư bản phát triển. Tuy nhiên trong quá trình hợp tác quan hệ, ta phải luôn cảnh giác với âm mưu "diễn biến hoà bình" , dã tâm của các nước đế quốc vẫn không thay đổi. Đó là những điều kiện mà nước ta có được trong thời đại ngày nay, thuận lợi hơn rất nhiều so với thời Lênin. Hay nói cách khác đây chính là tính hiện thực của những khả năng. Tuy nhiên trong tính hiện thực đó thì nước ta còn tồn tại nhiều khó khăn, thách thức. Trước hết, một thực tế là nước ta đang là một nước nghèo, có thu nhập quốc dân tính trên đầu người đứng vào hàng những nước thấp nhất thế giới. Nhiệm vụ phát triển kinh tế là rất nặng nề, trình độ khoa học kỹ thuật còn kém xa với các nước tư bản phát triển. Nước ta còn rất thiếu đội ngũ tri thức cũng như đội ngũ kinh doanh hiện đại. Những khó khăn này ảnh hưởng lớn đến việc du nhập chủ nghĩa tư bản. Bên cạnh đó, sự chống phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước của các thế lực phản động trong và ngoài nước cũng là một trở ngại lớn. Nhìn chung lại, việc thực hành chủ nghĩa Nhà nước ở nước ta có cả những khó khăn cũng như những thuận lợi. Phải có những bước đi khôn ngoan để vượt qua được những khó khăn và tận dụng tối đa những thuận lợi để vận dụng thành công chủ nghĩa tư bản Nhà nước phục vụ cho công cuộc tiến lên xã hội chủ nghĩa thành công. Sử dụng kinh tế tư bản Nhà nước là một trong những điều kiện quyết định thành công cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, trong báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ VIII đã xác định "kinh tế tư bản Nhà nước bao gồm các hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế Nhà nước và tư bản, tư nhân trong và ngoài nước. Kinh tế tư bản Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý.... của các nhà tư bản vì lợi ích của bản thân họ, cũng như của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước..." ở dưới thời Lênin, chủ nghĩa tư bản đã được áp dụng vào thực tiễn. Đã có những kết quả đáng kể tuy nhiên vẫn còn nhiều điều mà chưa thực hiện được cho hoàn cảnh lúc bấy giờ. Nước ta có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển chủ nghĩa tư bản Nhà nước so với thời Lênin. Lý luận của Lênin được lấy làm cơ sở, làm nền móng để từ đó nghiên cứu phát triển thêm và áp dụng vào nước ta. ở nước ta hiện nay những hình thức tư bản Nhà nước sau đang được áp dụng: 1. Hình thức liên doanh liên kết giữa Nhà nước với kinh tế tư nhân trong nước. Sự liên doanh liên kết của Nhà nước với chủ nghĩa tư bản có thể huy động được nhiều vốn, kỹ thuật công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến của các nhà tư bản. Khái niệm liên doanh liên kết cần được mở rộng, không chỉ liên doanh liên kết với chủ nghĩa tư bản từ bên ngoài mà cả với chủ nghĩa tư bản trong nước. Qua hình thức này Nhà nước cơ thể thực hiện được chức năng kiểm kê, kiểm soát, hướng dẫn, chỉ đạo sự phát triển cơ cấu kinh tế cho phù hợp với đòi hỏi của thị trường. ở nước ta trong thời kỳ cải tạo đối với công nghiệp - tư doanh ở miền Nam trước đây, hình thức này được gọi là "Công ty hợp doanh", nhưng chúng ta chỉ mới áp dụng một cách hạn chế với chủ trương cốt để cải tạo xã hội chủ nghĩa nhằm sớm xoá bỏ kinh tế tư nhân. Do nằm trong mô hình "kinh tế chỉ huy tập trung" lúc đó nên đã biến hoạt động của Công ty hợp doanh thành tổ chức quốc doanh. Bắt đầu quá trình đổi mới xác định từ đại hội lần thứ VI của Đảng nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, là nền kinh tế "mở". Trong điều kiện đó, hình thức liên doanh liên kết giữa Nhà nước với các nhà tư bản tư nhân được thiên hơn về bên kinh tế tư nhân và tổ chức kinh tế nước ngoài qua đầu tư trực tiếp. Còn mối liên doanh liên kết với kinh tế tư nhân trong nước ít nhiều bị lãng quên chưa được sử dụng đúng mức. Hai hình thức này cần được chú ý đúng mức hơn. - Tiềm năng của lực lượng kinh tế tư nhân có những bước phát triển đáng kể. Năm 1991 cả nước có 123 doanh nghiệp tư nhân với số vốn điều lệ là 69 tỷ VND, đến đầu năm 1997 theo số lượng đăng ký kinh doanh có 8.903 Công ty TNHH với số vốn 7.296 tỷ VND, hơn 20.000 doanh nghiệp tư nhân, gần 2.000 Công ty cổ phần.... Số Công ty TNHH có vốn điều lệ 300 triệu đồng khi thành lập chiếm 32,2% đến năm 1998 chỉ còn 22,3%. Số Công ty có vốn điều lệ 1 đến 5 tỷ đồng khi mới thành lập chỉ 11,05% đã tăng lên 22,08% tiềm năng của kinh tế tư nhân còn được thể hiện ở nhu cầu, chương trình phát triển như nhu cầu tăng qui mô và ngành nghề, nhu cầu gọi thêm vốn trong nước và nước ngoài. Ngoài ra còn phải kể đến đội ngũ đông đảo của cá nhân, nhóm kinh doanh, hộ gia đình (lên đến con số hàng triệu) tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo nên động lực cho đời sống kinh tế xã hội. Để phát huy sức mạnh của thành phần kinh tế tư nhân, bên cạnh việc tạo điều kiện cho nó phát triển cần khuyến khích họ liên doanh liên kết với kinh tế Nhà nước qua đó mà tăng vốn, đổi mới công nghệ, mở rộng qui mô sản xuất, tăng sức cạnh tranh và sức hợp tác với nước ngoài. Muốn vậy Nhà nước cần có những biện pháp và chính sách hợp lý như có những luật pháp chính sách ưu đãi và thông thoáng, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho thành phần kinh tế này phát triển, đóng góp ngày càng nhiều cho nền kinh tế nước nhà. Bên cạnh việc Nhà nước liên doanh liên kết với kinh tế tư nhân trong nước thì trong những năm qua từ sau đổi mới ở nước ta đã có sự du nhập của kinh tế tư bản ngoài nước. Hai hình thức kinh tế tư bản Nhà nước thời gian qua đã có những đóng góp hết sức quan trọng cho nền kinh tế quốc dân là: hình thức liên doanh giữa Nhà nước với nước ngoài và hình thức tô nhượng. Ta lần lượt để xem xét các hình thức này. 2. Hình thức liên doanh với nước ngoài. Ngay từ năm 1946, khi vừa khai sinh ra nước Việt Nam , chủ tịch Hồ Chí Minh đã long trọng tuyên bố: "Nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực: a) nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật, nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình. b) nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường xá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế. c) nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc dân dưới sự lãnh đạo liên hợp quốc". Điều đó khẳng định tầm quan trọng của việc liên doanh liên kết với nước ngoài đối với kinh tế nước ta. Hình thức liên doanh với nước ngoài là hình thức kinh doanh theo tỷ lệ vốn có mức độ vốn khác nhau giữa Nhà nước và tư nhân Việt kiều và các tổ chức kinh tế nước ngoài, được tổ chức dưới tên gọi là xí nghiệp liên doanh. Nhiều năm qua chúng ta đã đạt được kết quả khả quan. Thể hiện ở số lượng dự án đầu tư được cấp giấy phép và đi vào hoạt động tăng lên với tốc độ nhanh chóng góp phần ổn định và tăng trưởng kinh tế. Theo niên giám thống kê năm 1994 một số dự án được cấp giấy phép đến cuối năm 1994 là 1.170 với tổng số đầu tư là 12.200.403,4 triệu USD và tổng vốn pháp định là 6.376.441,9 triệu USD. Tính đến tháng 7/1997 cả nước có 2.067 dự án đầu tư được cấp giấp phép với tổng số vốn đăng ký là 31,3 tỷ USD, trong đó vốn đầu tư trực tiếp lên đến 12,13 tỷ USD. Tuy nhiên cuộc khủng hoảng tiền tệ ở khu vực Châu á xảy ra giữa năm 1997 thì không những đã ảnh hưởng tàn phá nền kinh tế của các nước Đông Nam á, mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến kinh tế các nước láng giềng như Trung Quốc, Việt Nam, Mianma.. cho nên tốc độ thu hút và thực hiện vốn đầu tư tại Việt Nam bị chững lại từ giữa 1997 do nguồn vốn FDI cho Việt Nam chủ yếu là các nước Châu á. Như năm 1998, cả nước thu hút được 260 dự án mới (giảm 21,5% so với năm 1997) với số vốn đăng ký 4.058,6 triệu (giảm 11%). Ước tính tổng vốn đăng ký năm 1998 là 4.827,6 triệu USD (giảm 13,9%). Trong khi đó, đầu tư nước ngoài trên thế giới năm 1998 vẫn gia tăng và đạt mức cao kỷ lục 4.000 tỷ USD, tăng 10% so với năm 1997 và vốn đầu tư nước ngoài vào các nước Châu á vẫn chiếm khoảng 1/3 tổng vốn đầu tư nước ngoài toàn cầu. Vậy bên cạnh những yếu tố khách quan từ bên ngoài như tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ thì trong những nguyên nhân dẫn đến sự chững lại về tăng trưởng đầu tư nước ngoài còn do nhiều cản trở từ môi trường đầu tư trong nước, do cơ chế điều hành quản lý của chúng ta còn nhiều bất cập, mặc dù Đảng và Nhà nước đã có rất nhiều chủ trương chính sách khuyến khích tạo điều kiện cho hoạt động đầu tư ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên có một dấu hiệu đáng mừng là hiệu quả của đồng vốn đầu tư đã tăng lên mặc dù vốn thực hiện năm 1998 thấp bằng 58% năm 1997 và 86% năm 1996. Năm 1997 nộp ngân sách Nhà nước là 315 triệu USD hoạt động của đồng vốn đầu tư nước ngoài thì năm 1998 đã tăng lên 320 triệu, giải quyết được công ăn việc làm cho thêm gần 20.000 lao động. Nhìn chung, việc thực hiện hình thức này trong thời gian qua vẫn còn chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Để đẩy mạnh việc thu hút và thu hút có hiệu quả đầu tư nước ngoài, cần mở rộng các hình thức liên doanh, trong đó cho phép các nhà tư bản và Công ty nước ngoài tham gia mua cổ phiếu của các Công ty cổ phần kể cả một số doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hoá, phát hành trái phiếu của chính phủ, trái phiếu công trình ra nước ngoài để giảm bớt những hạn chế về quyền hạn phải tăng tỷ lệ vốn góp của Việt Nam trong các công ty liên doanh với nước ngoài. Bên cạnh đó phải giải quyết một vấn đề bức xúc còn tồn tại là thủ tục giấy tờ cấp duyệt vốn đầu tư còn rườm rà, nhiều giai đoạn qua nhiều cơ quan thẩm định, và năng lực điều hành quản trị còn nhiều yếu kém. Phải chủ động hơn nữa trong việc gọi vốn đầu tư và tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư để việc liên doanh liên kết với nước ngoài mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế nước nhà. 3. Hình thức tô nhượng. Đây là hình thức kinh tế tư bản Nhà nước mà Lênin đặc biệt chú trọng. Thực chất của hình thức này là hình thức xí nghiệp có 100% vốn nước ngoài được hình thành trong khu chế xuất. Nó là một sự giao kèo, một sự liên kết, một liên minh giữa chính quyền Nhà nước và nhà tư bản nước ngoài. Nhà tư bản nước ngoài nhận tô nhượng kèm theo một số điều khoản mà chính quyền Nhà nước đặt ra. Theo kinh nghiệm của các nước, việc thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài dưới hình thức liên doanh 100% vốn nước ngoài là hấp dẫn và có hiệu quả hơn so với vay vốn và tiếp nhận viện trợ của nước ngoài. ở nước Nga trước đây dưới thời Lênin hình thức này ít được các nhà tư bản nước ngoài hưởng ứng do điều kiện lịch sử lúc bấy giờ. ở nước ta loại hình xí nghiệp 100% vốn nước ngoài còn mới mẻ, vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Ngày 18/10/1991 Chính phủ đã ban hành qui chế khu chế xuất với nội dung bao gồm việc xác định mục tiêu, đối tượng đầu tư, ngành được khuyến khích đầu tư, những chính sách ưu đãi và việc quản lý của Nhà nước đối với khu chế xuất. Mục tiêu của việc hình thành khu chế xuất là: Thu hút vốn đầu tư nước ngoài Du nhập kỹ thuật hiện đại và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Giải quyết công ăn việc làm và đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân lành nghề. Tạo nguồn hàng xuất khẩu và sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, thúc đẩy sự hội nhập của kinh tế Việt Nam vào kinh tế thế giới và khu vực. Tăng nguồn thu ngoại tệ. Thúc đẩy nền kinh tế nội địa có mũi nhọn theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Đến cuối năm 1998 cả nước được Chính phủ cho phép hình thành 8 khu chế xuất. Thành phố Hồ Chí Minh có hai là khu chế xuất Tân Thuận và khu chế xuất Linh Trung. Hà Nội có khu chế xuất Nội Bài. Hải phòng có khu chế xuất Đồ Sơn. Đà Nẵng có khu chế xuất An Đồn. Hai tỉnh Cần Thơ và Đồng Nai cũng có khu chế xuất. Mặc dù việc triển khai khu chế xuất ở một số nơi có đưa lại một số kết quả nhất định nhưng nhìn chung vẫn còn chậm so với dự kiến. Có nhiều nguyên nhân: thủ tục xuất vào nội địa và thủ tục từ nội địa xuất vào khu chế xuất còn quá rườm rà, giá thuế đất còn cao, kinh nghiệm quản lý còn kém... Lợi dụng bên Việt Nam thiếu vốn, thiếu năng lực mà bên nước ngoài đã có nhiều vi phạm như chèn ép hà khắc công nhân Việt Nam, mua bán bất động sản trái phép, lừa đảo, trốn thuế, đầu tư chui... Theo kinh nghiệm của nước khác như Trung Quốc thì đối với nước ta vẫn nên tiếp tục phát triển rộng rãi hình thức này. Không nên vì những khó khăn trước mắt mà phủ nhận vai trò của nó. Vấn đề là phải sớm tìm được những giải pháp để khắc phục khó khăn sửa chữa những hạn chế, tiếp tục đưa hình thức này vào thực tiễn trong thời gian tới ở nước ta. 4. Hình thức cho thuê. Hình thức này được thực hiện thông qua hợp đồng ký kết giữa Nhà nước với lực lượng kinh tế tư nhân trong và ngoài nước thông qua đấu thầu một số cơ sở vật chất của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nước. So với tô nhượng hình thức cho thuê kinh doanh khác ở hai điểm là: a) thời gian hợp đồng thường ngắn hơn. b) đối tượng cho thuê không chỉ chủ yếu là quyền sử dụng đất mà còn là hầm mỏ, khu rừng, xí nghiệp, cửa hàng.... Mục đích của việc áp dụng hình thức này là thông qua nó mà mở rộng một số ngành, hình thức kinh tế vào những đối tượng mà Nhà nước không có khả năng nắm hoặc nếu để Nhà nước kinh doanh sẽ không có hiệu quả, đồng thời để Nhà nước có điều kiện tập trung vốn đầu tư vào các ngành, lĩnh vực trọng yếu, then chốt nhằm tăng cường vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần. 5. Hình thức gia công đặt hàng. Hình thức này áp dụng ở các ngành sản xuất vật chất, các ngành đòi hỏi nhiều lao động sống .Trong điều kiện hiện nay của nước ta, khi trình độ công nghệ của nước ta còn kém, chưa thể sản xuất hoàn chỉnh có hiệu quả một số loại sản phẩm, nhưng với lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công rẻ, vị trí địa lý thuận lợi, thị trường tiêu thụ lớn và hấp dẫn, ta có thể nhận gia công cho các công ty lớn ở nước ngoài về mặt hàng giày da, may mặc, sản xuất các mặt hàng tái xuất, lắp ráp ô tô, xe máy, và đồ điện tử... Hình thức này khá phù hợp với nước ta vì nước ta có tỷ lệ gia tăng dân số và gia tăng lao động cao nên có thể bằng hình thức này giải quyết công ăn việc làm cho một số lượng khá lớn những người trong độ tuổi lao động. Hình thức này ở nước ta đang được thực hiện theo hai chiều: các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam nhận gia công cho kinh tế tư nhân trong và ngoài nước, ngược lại kinh tế tư nhân trong và ngoài nước nhận gia công cho các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam. 6. Hình thức đại lý. Hình thức này áp dụng trong các ngành dịch vụ. Thông qua các đại lý mua bán và cơ sở dịch vụ, Nhà nước nhận hoặc cho các nhà tư bản trong và ngoài nước tiêu thụ, cung cấp các yếu tố cần thiết cho phát triển sản xuất và các sản phẩm tiêu dùng cho xã hội. Trên đây là những hình thức kinh tế tư bản Nhà nước chủ yếu đã và đang được áp dụng ở nước ta. Mặc dù trong các hình thức chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở nước ta vẫn còn hạn chế nhưng chủ nghĩa tư bản Nhà nước đã đóng góp lớn vào những thắng lợi trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ và nó còn giữ vai trò quan trọng trong chặng đường tiếp theo, chặng đường sẽ khó khăn và lâu dài hơn nhiều. Tiếp tục mở rộng các hình thức kinh tế tư bản Nhà nước: * Những điều kiện đảm bảo thành công của việc mở rộng và phát triển các hình thức kinh tế tư bản Nhà nước: Điều kiện chính trị tiên quyết là phải đảm bảo giữ vững được vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam và sự lãnh đạo đó là duy nhất. Có điều kiện này mới có đảm bảo được tính định hướng xã hội chủ nghĩa . Vì Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, Đảng đại diện cho ý chí của giai cấp công nhân, chỉ có sự lãnh đạo của Đảng mới đảm bảo cho việc đạt được mục tiêu lớn nhất của dân tộc là tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Cũng chỉ có Đảng cộng sản Việt Nam mới có khả năng đảm bảo, tổ chức và giải quyết mọi vấn đề của thời kỳ quá độ. Muốn vậy phương thức lãnh đạo của Đảng phải được đổi mới và bộ máy lãnh đạo của Đảng cần phải được củng cố, kiện toàn trong sạch , vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Điều kiện có tính chất tổng quát và cơ bản nhất để thực hành kinh tế tư bản Nhà nước là Nhà nước phải có thực lực mạnh. Chủ nghĩa tư bản Nhà nước trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước tiểu nông lên chủ nghĩa xã hội là chủ nghĩa tư bản phục tùng Nhà nước dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên sự thành công trong việc thực hành chủ nghĩa tư bản phụ thuộc vào sự vững mạnh của bộ máy Nhà nước. Sức mạnh của Nhà nước được thể hiện trên tất cả các mặt kinh tế ,chính trị, xã hội và luật pháp. Nhà nước phải nắm lấy các đỉnh cao kinh tế. Trong điều kiện kinh tế thị trường, sức mạnh kinh tế thể hiện tập trung ở sức mạnh tài chính, ai nắm được nguồn tài chính sẽ chi phối sự phát triển kinh tế xã hội theo hướng của mình. Vì vậy Nhà nước ta cần vươn tới nắm chắc lấy quyền chi phối về tài chính. Thông qua công cụ tài chính ngân hàng, Nhà nước vừa điều khiển được toàn bộ sự vận động xã hội, vừa thoát khỏi sự can thiệp trực tiếp, vụn vặt vào các hoạt động sản xuất kinh doanh. Muốn vậy phải đảm bảo Nhà nước phải nắm giữ được những ngành, những lĩnh vực then chốt trọng yếu của nền kinh tế quốc dân. Lực lượng dự trữ quốc gia về vật tư hàng hoá phải đảm bảo có thể dập được những cơn sốt của thị trường. Tỷ lệ vốn của Nhà nước trong các hình thức kinh tế tư bản Nhà nước phải tăng lên về tỷ trọng. Hệ thống ngân sách, ngân hàng, các công cụ như thuế phải đủ sức vững mạnh. Có như vậy Nhà nước có thể chỉ đạo được nền kinh tế quốc dân cho phù hợp với từng giai đoạn của thời kỳ quá độ. Pháp luật có vai trò làm công cụ để Nhà nước điều tiết đất nước nên cần quan tâm đến hệ thống luật pháp. Nhà nước cần có những qui định nghiêm ngặt về luật pháp và kiểm soát được hoạt động đầu tư của tất cả các chủ thể kinh tế. Phải có hệ thống pháp luật và hệ thống các cơ quan hành pháp đồng bộ, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các thành phần kinh tế nói chung và thành phần kinh tế tư bản Nhà nước nói riêng hoạt động mạnh mẽ vào những ngành, những lĩnh vực mà luật pháp không cấm và phải hướng sự phát triển của kinh tế tư nhân vào con đường kinh tế tư bản Nhà nước dưới những hình thức thích hợp và có hiệu quả . Phải đẩy mạnh cải cách Nhà nước về hành chính, xây dựng đồng bộ hệ thống luật pháp, đổi mới kế hoạch hoá, tăng cường năng lực của các cơ quan luật pháp, hành pháp và tính nghiêm minh của các cơ quan tư pháp. Một điều kiện nữa là phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập chủ quyền dân tộc và sự hợp tác kinh tế quốc tế. Đây là điều kiện đảm bảo thành công của công cuộc đổi mới nói chung và việc thực hành chủ nghĩa tư bản Nhà nước nói riêng. * Những biện pháp để tiếp tục mở rộng kinh tế tư bản Nhà nước - Đối với đầu tư nước ngoài: Cần thu hút đầu tư nước ngoài trên cơ sở cân đối các quy hoạch theo ngành và lãnh thổ, tuyệt đối tránh việc kêu gọi đầu tư tràn lan. Chính phủ cần xây dựng một quy hoạch chi tiết gọi vốn đầu tư nước ngoài trên đầu tư toàn quốc, xác định rõ những lĩch vực nào cần hay không cần đầu tư nước ngoài, nếu cần thì cần ở mức độ nào. Cần có những biện pháp cụ thể và hợp lý để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam nhiều hơn như phát triển môi trường đầu tư bằng nhiều hình thức. Vấn đề đào tạo cán bộ đối tác phải là một trong những mục tiêu hàng đầu. Họ phải là những người có năng lực, có phẩm chất đạo đức vì quản lý đầu tư nước ngoài cần có hiệu quả và đầu tư nước ngoài trong tương lai vẫn là rất quan trọng đối với kinh tế nước ta. Phải có những chỉ đạo hướng dẫn từ trên xuống dưới để phối hợp đồng bộ giữa các ngành trung ương và địa phương. Xây dựng một hệ thống các chính sách, luật pháp đảm bảo quản lý đầu tư nước ngoài có hiệu quả. - Đối với đầu tư trong nước: Đầu tư nước ngoài dù quan trọng đến đâu cũng không thể giữ vai trò quyết định trong nền kinh tế quốc dân. Theo dự đoán thì số tiền nhàn rỗi trong dân chưa được sử dụng lên đến hàng tỷ USD. Do vậy cần phải có những biện pháp kịch thích nhân dân vỏ vốn đầu tư. Những biện pháp thiết thực như sớm hoàn thiện luật đầu tư trong nước, kích cầu... Đi đôi với kích thích đầu tư là phải sử dụng nguồn vốn đầu tư có hiệu quả, một điểm cần lưu ý là hiện nay nước ta không nên tiến hành cổ phần hoá hàng loạt mà nên làm từng bước vững chắc vì ở hình thức này ở nước ta chưa có nhiều kinh nghiệm. Tóm lại, tiếp tục mở rộng và phát triển các hình thức kinh tế tư bản Nhà nước ở nước ta là một vấn đề rất cần thiết. Để kinh tế tư bản Nhà nước ngày càng đóng góp lớn cho thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì toàn Đảng, toàn Nhà nước và toàn nhân dân ta phải thống nhất một lòng tìm ra những bước đi đúng đắn để hoàn thành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. phần kết Mục tiêu của nước ta trong giai đoạn hiện nay là quá độ thành công lên chủ nghĩa xã hội. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta cùng gắng sức đưa nền kinh tế nước nhà phát triển tạo nên cái cốt vững chắc cho chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản Nhà nước là con đường, là biện pháp hữu ích nhất mà nếu thiếu nó thì mục tiêu đi lên của chủ nghĩa xã hội chỉ là viễn vông. Lênin đã để lại một trong những di sản quý báu nhất của Người là những lý luận về chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Không chỉ là vận dụng không thôi mà phải vận dụng lý luận đó cho phù hợp với điều kiện của đất nước trong thời đại ngày nay là nhiệm vụ vô cùng quan trọng của chúng ta. Tất nhiên khi sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước sẽ không tránh được những sai lầm, nhưng không được vì những khó khăn trước mắt mà bỏ cuộc, qua mỗi bước đi ta càng rút ra thêm được những kinh nghiệm quý báu cho công cuộc kiến thiết nước nhà vững mạnh. Đến đây em xin được kết thúc bài viết của mình, em mong được sự sửa chữa bổ sung của các Thầy Cô giáo để em hiểu rõ hơn về vấn đề./. Tài liệu tham khảo 1. V.I.Lênin: Bàn về thuế lương thực, toàn tập, NXB Tiến bộ, Matxcơva 1984, tập 43, trang. 244- 296. 2. V.I.Lênin: Chính sách kinh tế mới và những nhiệm vụ của các ban giáo dục chính trị. Toàn tập, NXB Tiến bộ, Matxcơva 1984, tập 43, trang 194-219. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị Quốc gia, hiện nay 1996, trang 91-96. 4. Vũ Hữu Ngoan: Mấy vấn đề về cg tư bản Nhà nước, NXB Chính trị Quốc gia, hiện nay 1995. 5. Vũ Ngọc Long: Về cuộc cải cách kinh tế của Lênin, NXB Thanh niên, hiện nay 1996. 6. Nghiên cứu lý luận số 226 - tháng 3/1997 7. Nghiên cứu lý luận số 3/1998 8. Tạp chí Cộng sản, số 8 tháng 7/1995.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34993.doc
Tài liệu liên quan