Đề tài Lý luận của Lênin về Chủ nghĩa Tư bản Nhà nước ở trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội và sự vận dụng lý luận đó ở Việt Nam hiện nay

Lênin đã để lại một trong những di sản quý báu nhất của Người là những lý luận về chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Đây không chỉ là tư tưởng đúng đắn đã được chứng minh từ thực tiễn nước Nga mà còn là một vũ khí sắc bén dẹp tan những tư tưởng sai lầm, phá hoại.Đây thực sự là kim chỉ nam cho những nước chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn khó khăn của những bước chuyển còn lạ lẫm.Tuy nhiên, không chỉ là vận dụng không thôi mà phải vận dụng lý luận đó cho phù hợp với điều kiện của đất nước trong thời đại ngày nay là nhiệm vụ vô cùng quan trọng của chúng ta. Tất nhiên khi sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước sẽ không tránh được những sai lầm, nhưng không được vì những khó khăn trước mắt mà bỏ cuộc, qua mỗi bước đi ta càng rút ra thêm được những kinh nghiệm quý báu cho công cuộc kiến thiết nước nhà vững mạnh. Nghiên cứu lý luận của Lênin về Chủ nghĩa tư bản Nhà nước trong hoàn cảnh nước Nga thời bấy giờ để hiểu sâu sắc về lý luận này không những giúp chúng ta vững vàng trên con đường đi tới mà còn có thể thấy nảy sinh những phát hiện mới, đúng đắn trong tư duy chính trị. Lý luận của Lênin về Chủ nghĩa tư bản Nhà nước ra đời là nhờ vào sự phân tích sâu sắc và thấu đáo những vấn đề cần giải quyết và những tiềm lực hiện có của lực lượng cách mạng. Lênin không những đã khắc phục được những yếu điểm để phát triển mà giá trị hơn là bước phát triển đó được bắt nguồn từ chính sự cải tạo những lực lượng được coi là phá hoại, những phần tử mà trước kia người ta cho rằng cần phải cắt bỏ bằng những biện pháp bạo lực, cưỡng chế. Việt Nam cũng đã vấp phải sai lầm này ngay sau giải phóng khi chúng ta chủ quan, nóng vội, duy ý chí, cho rằng có thể ngay tức khắc cắt bỏ những thành phần sai lầm, lạc hậu bằng những biện pháp mạnh nẽ và dứt khoát. Từ những sai lầm đó và từ sự nghiên cứu thấu đáo những luận điểm của Lênin về Chủ nghĩa Xã hội có thể thấy rằng nhiệm vụ tiến lên Chủ nghĩa Xã hội là một nhiệm vụ khó khăn, lâu dàI, nhiều thử thách. Nhưng không được nản lòng trước những thử thách này mà càng phải kiên định, sáng suốt phân tích chính bản thân những mối quan hệ và những nguồn lực hiện tại để phát triển. Đối với Việt Nam, mục tiêu của nước ta trong giai đoạn hiện nay là quá độ thành công lên chủ nghĩa xã hội. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta cùng gắng sức đưa nền kinh tế nước nhà phát triển tạo nên cái cốt vững chắc cho chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản Nhà nước là con đường, là biện pháp hữu ích nhất mà nếu thiếu nó thì mục tiêu đi lên của chủ nghĩa xã hội chỉ là viển vông. Cần phải nhận rõ tầm quan trọng của việc thực hành chủ nghĩa tư bản nhà nước để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì là chủ nghĩa tư bản nhà nước nên hiệu quả của việc thực hành nó phụ thuộc vào năng lực tổ chức của bộ máy nhà nước ta – nhà nước của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Việt Nam đang từng bước trưởng thành trên con đường xây dựng Chủ nghĩa Xã hội. Những năm gần đây chúng ta đã có nhiều những thay đổi chiến lược và những có những bước phát triển vượt bậc, từng bước tìm được vị trí của mình trong khu vực và trên thế giới. Thế giới đã bước vào một cuộc đua mới trên những lĩnh vực mới với tốc độ chóng mặt. Ngày nay, chúng ta phải không ngừng học tập những cái mới trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là về tư tưởng chính trị để đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của kinh tế tri thức, của tin học, viễn thông toàn cầu Đó chính là nhiệm vụ và yêu cầu đối với thế hệ trẻ Việt Nam

doc47 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1761 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lý luận của Lênin về Chủ nghĩa Tư bản Nhà nước ở trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội và sự vận dụng lý luận đó ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
công -nông nghiệp, thành thị-nông thôn. So với mục tiêu đã đặt ra thì những kết quả thực hành chủ nghĩa tư bản Nhà nước dưới thời Lênin vẫn còn thấp. Ví như trong những năm 1923-1924 (năm cuối cùng của Lênin) tỷ trọng của thành phần kinh tế tư bản Nhà nước chỉ chiếm 1% tổng sản phẩm cả nước. Năm 1923, các xí nghiệp tô nhượng mới chỉ sản xuất được khối lượng sản phẩm trị giá 35,1triệu rúp. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng quan trọng nhất là chủ nghĩa đế quốc vẫn tìm mọi cách bóp chế Nhà nước Xô Viết nền đầu tư hợp tác không đạt kết quả như mong muốn. Tuy nhiên kết quả quan trọng nhất đó là chủ nghĩa tư bản thực sự đã trở thành một phần đặc trưng của chính sách "kinh tế mới" và nhờ có chính sách "kinh tế mới" mà chính quyền Xô Viết vẫn giữ được vị trí vững chắc trong nông nghiệp và công nghiệp và có khả năng để tiếp tục đưa nền kinh tế nước Nga tiến lên. Tổng kết lại chúng ta thấy : Nguyên tắc cơ bản của chính sách kinh tế mới là lợi dụng thị trường, lợi dụng thương nghiệp, lưu thông tiền tệ để kiến thiết chủ nghĩa xã hội. Chính sách đó đảm bảo cho việc kết hợp giữa công nghiệp xã hội chủ nghĩa và tập thể hoá nông nghiệp ở Nga được thành công. Kết luận Ta đã nghiên cứu những lý luận cơ bản của V.I.Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước, và những biện pháp thực hành cụ thể ở Nước Nga Xô Viết. Từ thực tế những thành công ở Nước Nga chúng ta cũng thấy được con đường đúng đắn để đi qua giai đoạn quá độ với nhiều vấn đề và nhiều mâu thuẫn. Lý luận của Lênin thông qua đó còn đánh đổ những tư tưởng sai lầm, và những luận điểm tiêu cực của những kẻ chống phá cách mạng. Chính sách kinh tế mới của Lênin có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, trước hết nó khôi phục được nền kinh tế sau chiến tranh. Từ đó nó khắc phục khủng hoảng chính trị, củng cố lòng tin cho nhân dân vào sự thắng lợi tất yếu và bản chất tốt đẹp của CNXH theo những nguyên lý mà Lênin vạch ra. Chính sách kinh tế mới của Lênin đánh dấu một bước phát triển mới về lý thuyết nền kinh tế XHCN. Theo tư tưởng này, nền kinh tế nhiều thành phần, các hình thức kinh tế quá độ, việc duy trì và phát triển quan hệ hành hoá - tiền tệ, quan tâm tới lợi ích kinh tế cá nhân trước hết là của nông dân là những vấn đề có tính nguyên tắc trong việc xây dựng mô hình kinh tế XHCN. Chính sách kinh tế mới có ý nghĩa quốc tế to lớn đối với các nước phát triển theo định hướng XHCN, trong đó có Việt Nam. Lý luận của Người là di sản quí báu mà Người để lại cho chúng ta, nhiệm vụ của nước ta là phải vận dụng, phát triển lý luận đó vào thực tiễn nước nhà như thế nào? Bây giờ chúng ta xem xét sự vận dụng chủ nghĩa tư Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. II- Sự vận dụng lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước vào Việt Nam. Những lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước có một ý nghĩa vô cùng quan trọng cho những nước đi lên chủ nghĩa xã hội muốn bỏ qua giai đoạn chủ nghĩa tư bản. Nhưng lý luận của Người cần được vận dụng một cách hợp lý vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước. Không thể đưa nguyên xi vào mô hình chủ nghĩa tư bản Nhà nước đã được áp dụng ở Liên Xô vào áp dụng ở một môi trường, ở một quốc gia khác được. Thực tế đã chứng minh khi các nước Đông Âu xây dựng chủ nghĩa xã hội đã sao chép mô hình của Liên Xô và kết quả là khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô sụp đổ thì kéo theo sự sụp đổ ở các nước này và hệ thống xã hội chủ nghĩa trên toàn thế giới không còn. Lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước phải được lấy làm cơ sở để từ đó mỗi nước có sự ứng biến linh hoạt khi áp dụng. Luận điểm quan trọng nhất làm cơ sở xuất phát để nghiên cứu đó là: Việc chuyển sang chủ nghĩa xã hội cần thiết phải có một loạt nhữg bước quá độ như chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Điều này ta đã xem xét ở phần trước. 1. Sự cần thiết áp dụng Chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở Việt Nam Thực tiễn của công cuộc đổi mới được tiến hành ở Việt Nam trong những năm qua đã chứng minh rằng trong bối cảnh quốc tế hiện thời, Việt Nam không có điều kiện để bỏ qua hoàn toàn chủ nghĩa tư bản để quá độ trực tiến lên chủ nghĩa xã hội mà chỉ có khả năng rút ngắn giai đoạn phát triển đó, phương pháp rút ngắn là phải sử dụng chủ nghĩa tư bản. Đảng cộng sản Việt Nam chủ trương trong quá trình đổi mới là phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường cho phép tự do buôn bán trao đổi hàng hoá, chủ trương thu hút đầu tư nước ngoài, góp vốn hợp tác, liên doanh với tư bản nước ngoài, phát triển doanh nghiệp tư nhân ... Điều này tất yếu dẫn đến sự phục hồi chủ chủ nghĩa tư bản. Nhưng như Lê nin đã khẳng định rằng không phải thủ tiêu nó mà tìm cách hướng nó vào chủ nghĩa tư bản Nhà nước, đó là biện pháp hữu hiệu nhất. Một thực tế có thể nhận thấy ngay là nước ta chưa có đủ cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho chủ nghĩa xã hội. Quan hệ sản xuất của chủ nghĩa xã hội dựa trên lực lượng sản xuất phát triển cao. Nước ta muốn xây dựng được chủ nghĩa xã hội phải tuân theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất nhưng nước ta vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất còn nhỏ lẻ nên phải đi bằng con đường gián tiếp, phải sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước để hạn chế tính tự phát trong sản xuất và chiến lược phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong thời kỳ quá độ không thể không phát triển kinh tế tư bản Nhà nước, lực lượng sản xuất của nước ta còn hết sức lạc hậu. Muốn có cơ sở vật chất kỹ thuật cho bước quá độ thì phải mau chóng công nghiệp hoá để hiện đại lực lượng sản xuất. Dưới góc nhìn của lịch sử công nghiệp hoá là nhiệm vụ của chủ nghĩa tư bản. Nhưng Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà không qua chủ nghĩa tư bản để giảm bớt những đau thương có thể xảy ra. Để sự lựa chọn này thành công và đồng thời để có thể tiến hành công nghiệp hoá mau chóng thì buộc phải sử dụng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đặt dưới sự kiểm kê kiểm soát của Nhà nước chuyên chính vô sản và để hiện đại hoá lực lượng sản xuất, phải gắn công nghiệp hoá, hiện đại hóa với việc sử dụng rộng rãi các hình thức của chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Dưới hình thức tư bản Nhà nước chẳng những Việt Nam thu hút được tư bản nước ngoài mà còn thu hút được tư bản trong nước bằng cách cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, hùn vốn liên doanh để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển hơn nữa. Nhờ đó có thể thu hút vốn và hiện đại hoá công nghệ và năng lực quản lý của các nhà đầu tư tư nhân, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài, nhờ đó ta có thể huy động tối đa mọi tiềm năng, tận dụng mọi nguồn lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng như cho các chương trình khác. Từ Đại hội VI của Đảng ta đã quyết định chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Nền kinh tế thị trường phải chấp nhận các quy luật của thị trường. Có mua bán, trao đổi tất yếu sẽ đẻ ra chủ nghĩa tư bản. Quan hệ chủ nghĩa tư bản tồn tại và phát triển thì tất yếu sẽ có tính tự phát của nó.. Để đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa thì nhất thiết phải hướng các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vào con đường chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Phải dung nạp chủ nghĩa tư bản trong và ngoài nước dưới sự kiểm soát và hướng dẫn của Nhà nước. Nếu không cho tư bản tư nhân theo con đường chủ nghĩa tư bản Nhà nước chẳng những chúng ta không hướng nó theo xã hội chủ nghĩa mà đôi khi còn làm nó đi lệch lạc sang chủ nghĩa tư bản. Sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước ta sẽ nâng cao trình độ xã hội hoá của lực lượng sản xuất, đồng thời sử dụng được những thành tựu về khoa học và kinh tế của nhân loại vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Để phát triển kinh tế thì nước ta không thể không hội nhập với nền kinh tế thế giới. Trong điều kiện hiện nay, khi mà chủ nghĩa tư bản đang tạm thời thắng thế, muốn các nước này chấp nhận hội nhập với nước ta là một vấn đề nan giải vì giữa hai bên có bản chất chế độ chính trị khác nhau, nước ta muốn hội nhập được chỉ có thể bằng con đường chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Chủ nghĩa tư bản Nhà nước không những để cho các nước tư bản chấp nhận quan hệ với nước ta và ta có thể lợi dụng được những cái tiến bộ của họ mà còn giúp cho chúng ta huy động được những lợi thế cho quá trình hội nhập. Một sự cần thiết nữa để áp dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước vào nước ta là để đạt mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Muốn cho dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh thì phải có một quá trình phát triển bền vững. Chính chủ nghĩa tư bản Nhà nước là cứu cánh giúp cho đất nước được những thành tựu trong thời gian qua khi mà nước ta đang mắc phải hai khó khăn thiếu thốn và trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu. Đồng thời trong bối cảnh hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ và có hiệu quả của thành phần kinh tế tư bản Nhà nước trong nền kinh tế kế hoạch hoá nhiều thành phần chẳng những giúp chúng ta đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, rút ngắn quá trình khắc phục tình trạng tụt hậu mà còn tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động và góp phần cải thiện đời sống cho họ. Với tất cả những lý do trên thì có thể nói hiện nay Việt Nam không thể không vận dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước để hoàn thành thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên cũng cần phải nhấn mạnh một điều là không nên tuyệt đối hoá vai trò của kinh tế tư bản Nhà nước, xem nó là cứu cánh duy nhất cho thời kỳ quá độ, phải lấy kinh tế Nhà nước làm chủ đạo, phát triển kinh tế hợp tác xã, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế này dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. 2.Những thuận lợi của chúng ta trong sử dụng Chủ nghĩa tư bản Nhà nước Học thuyết về kinh tế tư bản Nhà nước của Lênin là lý luận cho đường lối của thời kỳ quá độ của các nước tiểu nông lên chủ nghĩa xã hội. Học thuyết đó cần được vận dụng linh hoạt cho các điều kiện hoàn cảnh cụ thể khác nhau. Nước ta có những thuận lợi lớn để sử dụng được thành công chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Trước hết là những thuận lợi thuộc về yếu tố chủ quan. Một đảm bảo quan trọng nhất đó là sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam-đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Trải qua một quá trình đấu tranh gian khổ và lâu dài, Đảng ta đã trở thành người lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa của nước nhà. Đảng đại diện cho ý chí quyền lợi của giai cấp công nhân và đoàn thể nhân dân lao động. Có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng mới có thể dung nạp được chủ nghĩa tư bản, đảm bảo chủ nghĩa tư bản không gây tác hại cho quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản của nước nhà. Toàn thể nhân dân một lòng theo Đảng là nguồn sức mạnh lớn lao để đi đến thành công. Sức mạnh của toàn dân tộc được phát huy dưới sự chỉ đạo của Đảng có thể vượt qua mọi trở ngại để đi đến thành công. Thuận lợi chủ quan thứ hai là những yếu tố nguồn lực, gồm hai nguồn lực quan trọng nhất là tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động xã hội. Việt Nam có vị trí địa lý thuận lợi, nằm ở trung tâm khu vực kinh tế được đánh giá là năng động nhất thế giới, có điều kiện quan hệ với các nước trên thế giới cũng như hội nhập cùng nền kinh tế thế giới. Là nước nhiệt đới gió mùa thuận lợi cho phát triển nền nông nghiệp, lâm nghiệp và hải thủy sản đa dạng. Đặc biệt nước ta có nguồn tài nguyên nhiên liệu, khoáng sản phong phú, là một thị trường hấp dẫn để thu hút đầu tư nước ngoài... tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Việt Nam cũng có một nguồn lao động dồi dào với giá lao động rẻ khiến các nhà đầu tư nước ngoài chú ý đến. Những nguyên nhân khách quan chính là những nét đặc trưng của thời đại ngày nay. Đó là sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang tạo ra một lực lượng sản xuất mới có tính chất và trình độ cao hơn rất nhiều so với lực lượng sản xuất cũ. Các nước trên thế giới ngày càng phụ thuộc nhau hơn do trình độ xã hội hoá mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Điều này cho phép chúng ta có thể áp dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật và công nghệ phục vụ cho sự phát triển nước nhà. Và chính chủ nghĩa tư bản Nhà nước là công cụ để ta có thể có được những thành tựu đó. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tạo ra cho đất nước ta cả những thách thức bên cạnh những thời cơ. Nếu như không nắm bắt được với nhịp độ phát triển của nó thì nước ta có thể bị tụt hậu lại so với thế giới. Một đặc trưng khác nữa của thời đại ngày nay là xu thế đối thoại và hợp tác hoá. Đất nước ta có điều kiện cho việc bình thường hoá quan hệ với các nước trước đây vốn là thù địch, thuận lợi cho việc du nhập chủ nghĩa tư bản từ bên ngoài, từ các nước tư bản phát triển. Tuy nhiên trong quá trình hợp tác quan hệ, ta phải luôn cảnh giác với âm mưu "diễn biến hoà bình" , dã tâm của các nước đế quốc vẫn không thay đổi. Tóm lại, trong đIều kiện hiện tạI Việt Nam có nhiều những mặt mạnh trong thu hút tư bản nước ngoài. Cái mà chủ nghĩa tư bản thế giới cần là sự chuyển hướng sang nền kinh tế thị trường thì chúng ta đã bắt đầu.Về khách quan, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường là cáI quan trọng nhất quyết định xu hướng hoà nhập của nền kinh tế thế giới, quyết định triển vọng phát triển của nền kinh tế nước ta. Công cuộc đổi mới của chúng ta đã thu được những thành tựu ban đầu rất quan trọng. Nhà nước ta đã thiết lập được nhiều mối quan hệ kinh tế với bên ngoàI và đã có những chính sách kinh tế đối ngoạI được nước ngoàI đánh giá klà rộng mở và thức thời. Nước ta cũng có một số tàI nguyên quí giá, là một thị trường không phảI nhỏ. Đặc biệt là sự ổn định chính trị là cáI mà nước ngoàI có thể tin cậy để đầu tư lâu dài. Đó là những điều kiện mà nước ta có được trong thời đại ngày nay, thuận lợi hơn rất nhiều so với thời Lênin. Hay nói cách khác đây chính là tính hiện thực của những khả năng. Tuy nhiên trong tính hiện thực đó thì nước ta còn tồn tại nhiều khó khăn, thách thức. 3.Những khó khăn của chúng ta để sử dụng thành công Chủ nghĩa tư bản Nhà nước Trước hết, một thực tế là nước ta đang là một nước nghèo, có thu nhập quốc dân tính trên đầu người đứng vào hàng những nước thấp nhất thế giới. Nhiệm vụ phát triển kinh tế là rất nặng nề, trình độ khoa học kỹ thuật còn kém xa với các nước tư bản phát triển. Nước ta còn rất thiếu đội ngũ tri thức cũng như đội ngũ kinh doanh hiện đại. Đó là do chúng ta xuất phát từ một nền kinh tế chủ yếu là tự nhiên, tự cung tự cấp, hiện vật.Do vậy, cáI thiếu thốn nhất và từ đó gây nhiều khó khăn nhất trong quản lí nền kinh tế nói chung , quản lí sự hồi sinh, dung nạp chủ nghĩa tư bản nói riêng là chưa có thói quen làm ăn theo kiểu buôn bán, thiếu tri thức. Toàn thế giới đang lao vào cuộc chạy đua vào những ngành công nghệ cao, kỹ thuật cao, nên hố sâu ngăn cách về đội ngũ khoa học, kỹ thuật là vấn đề khó khăn của chúng ta trong hội nhập kinh tế. Những khó khăn này ảnh hưởng lớn đến việc du nhập chủ nghĩa tư bản. Bên cạnh đó, sự chống phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước của các thế lực phản động trong và ngoài nước cũng là một trở ngại lớn. Chúng mưu toan thực hiện “diễn biến hoà bình” và hướng công cuộc đổi mới của chúng ta đI chệch khỏi con đường xã hội chủ nghĩa. NgoàI ra, những mặt tráI của quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước là những vấn đề xã hội hết sức phức tạp, đến mức có thể gây ra những bất bình của cả một tầng lớp đan cư nào đó trước sự dung nạp, du nhập chủ nghĩa tư bản. Chúng ta luôn phảicân nhắc cẩn thận , xem xét hậu quả, cáigiá phải trả cho những vấn đề này. Nhìn chung lại, việc thực hành chủ nghĩa Nhà nước ở nước ta có cả những khó khăn cũng như những thuận lợi. Những khó khăn là không nhỏ và chúng ta cũng phải xác định là sẵn sàng trả giá để phát triển. Vấn đề là làm sao cho cái giá phải trả là nhẹ nhất. Phải có những bước đi khôn ngoan để vượt qua được những khó khăn và tận dụng tối đa những thuận lợi để vận dụng thành công chủ nghĩa tư bản Nhà nước phục vụ cho công cuộc tiến lên xã hội chủ nghĩa thành công. Sử dụng kinh tế tư bản Nhà nước là một trong những điều kiện quyết định thành công cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, trong báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ VIII đã xác định "kinh tế tư bản Nhà nước bao gồm các hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế Nhà nước và tư bản, tư nhân trong và ngoài nước. Kinh tế tư bản Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý.... của các nhà tư bản vì lợi ích của bản thân họ, cũng như của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước..." 4.Những hình thức của Chủ nghĩa tư bản Nhà nước được sử dụng ở Việt Nam 4.1 Những quan điểm chiến lược thống nhất - Phát triển và xây dựng một thị trường văn minh: ý tưởng về Chủ nghĩa tư bản Nhà nước với tư cách là một bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội bắt nguồn từ nhận thức rằng không thể trực tiếp chuyển lên chủ nghĩa cộng sản từ một nước chưa tạo được nền móng kinh tế của chủ nghĩa xã hội mà phải thông qua con đường gián tiếp - qua trap đổi hàng hóa - như Lênin nói. Tự do trao đổi được coi là chiếc "đòn xeo chủ yếu của chính sách kinh tế mới","chiếc gậy chống" để đứng lên. Trải qua rất nhiều năm, có thể nói từ thời Lênin và sau khi Lênin mất đến nay cuộc tranh luận vẫn kéo dài xung quanh vấn đề về tính chất của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa : hàng hóa hay phi hàng hóa. Quan điểm tính chất phi hàng hóa đã ngự trị suốt mấy chục năm, đó là một sai lầm nghiêm trọng . Ngày nay đã có sự thống nhất về tính chất hàng hóa của nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội, của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ; về xu hướng toàn cầu hóa của nền kinh tế hàng hóa. Cũng đã có sự thống nhất về cơ bản rằng cần phải xây dựng một nênf kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, rằng quyền lực của thị trường hạn chế được tối đa quyền hành quan liêu, nhưng bản thân nó chỉ có thể hoạt động trong khuôn khổ pháp luật được con đường chính trị thiết lập và bảo vệ. Bất cứ ở nơi đâu thị trường cũng cần phải và có sự điều tiết được. Nhìn tổng quát, yếu tố quan trọng nhất để nhận thức và thực hành chế độ Chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở nước ta - là phát triển kinh tế hàng hóa. Tiến bộ kinh tế của thế kỉ XX hoàn toàn khẳng định rằng chỉ có nền kinh tế thị trường mới có khả năng bảo đảm mức hiệu quả cao trong nền kinh tế quốc dân. Nhưng người ta chỉ hay nói đến nó một cách chung chung, coi đó là một hiện tượng nhất dạng. Trong đời sống thực tế,"thị trường"nói chung không tồn tại mà đó chỉ là một khái niệm trừu tượng phản ánh một số đặc trưng của một nền hình thức phổ biến nhất trong phát triển kinh tế. Trong thực tế, thị trường ở các nước khác nhau rất khác nhau, tùy thuộc vào trình độ phát triển, cơ cấu kinh tế - xã hội đã hình thành, trình độ văn hóa và học vấn cảu xã hội và nhiều nhân tố khác nữa. Bởi thế, hậu quả của hoạt động thị trường ở các xã hội khác nhau hoàn toàn không giống nhau.Do vậy, cần phải làm rõ đặc thù của nền kinh tế nước ta trong quá trình chuyển đổi và đề phòng những khuynh hướng, những quan hệ thị trường không lành mạnh có thể diễn ra và dẫn tới một loại hình Chủ nghĩa tư bản Nhà nước mất định hướng Xã hội Chủ nghĩa . Đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường và hòa nhập vào thị trương hiện đại từ một cơ cấu kinh tế tiểu tiểu nông . Trong lịc sử và theo trật tự tiến hóa một nền kinh tế như vậy chuyển sang nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa phải trải qua 2 bước chuyển hóa. Theo Lênin, trong sự phát triển lịch sử của Chủ nghĩa tư bản, có 2 nhân tố quan trọng: 1- Sự chuyển hóa nền kinh tế tự nhiên của những người trực tiếp sản xuất thành nền kinh tế hàng hóa; và 2- sự chuyển hóa nền kinh tế hàng hóa thành nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Để có bước chuyển hóa thứ nhất cần phải phát triển sự phân công xã hội trong nông nghiệp, phải có sự chuyên môn hóa những người sản xuất riêng lẻ. Để có bước chuyển hóa thứ 2, những người sản xuất riêng lẻ phải ở vào quan hệ cạnh tranh với nhau. Tóm lại, để thực hành Chủ nghĩa tư bản Nhà nước trong điều kiện nước ta, trước hết cần phát triển mạnh kinh tế thị trường phù hợp với điểm xuất phát của nước ta và theo định hướng một thị trường văn minh, nghĩa là phải có sự điều tiết chín chắn của nhà nước dựa vào sự tham gia dân chủ của đông đảo quần chúng. - Phát huy mạnh mẽ tiềm năng của các thành phần kinh tế Vấn đề được đặt ra xuất phát từ thực trạng kinh tế - xã hội của nước ta và từ việc tạo ra những tiền đề kinh tế - xã hội từ một nền kinh tế tiểu nông là chủ yếu sang nền kinh tế hàng hóa định hướng lên xã hội chủ nghĩa . Sản xuất hàng hóa không thể ra đời nếu không có sự phát triển của phân công xã hội và chuyên môn hóa sản xuất đến một trình độ nhất định. Cái gốc của vấn đề là phải phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa sỉư dĩ được coi là hiện đại vì dựa trên trình độ lực lượng sản xuất hiện đại. Thực chất tiềm năng kinh tế của đất nước ta hiẹn nay là do tiềm năng cảu các bộ phận kinh tế hợp thành nền kinh tế ấy. Lênin nói : bài học của quá khứ là chúng ta không biết chúng at là những ai. Chính sách cảu chúng ta do đó đã không khai thác , phát huy được mọi tiềm năng kinh tế nằm trong trong các thành phần kinh tế phi công hữu hóa. Chính sách xã hội hóa hình thức cũng lại làm cho các cơ sở kinh tế công hữu hóa, toàn dân hóa không phát huy được mọi tiềm năng vốn có của nó. Cái khó đối với một nước kinh tế tiểu nông đi lên chủ nghĩa xã hội là làm sao liên hợp được những người sản xuất nhỏ, liên hợp trên cơ sở lực lượng sản xuất phát triển và tự nguyện. Theo số liệu điều tra của viện nghiên cứu quản lí trung ương cùng với Tổ chức lao động quốc tế về các cơ sở kinh doanh nhỏ có những nhận xét đáng chú ý sau đây: - Họ chưa có động lực thúc đẩy tham gia các hoạt động kinh tế Đó chính là lợi ích cá nhân bao gồm cả lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần. Cho nên việc chú trọng và đảm bảo lợi ích vật chất cá nhân bằng pháp luật và chính sách của nhà nước có tác dụng khuyến khích những người có vốn, có tài năng tham gia vào các hoạt động kinh tế. - Phần lớn các chủ doanh nghiệp tư nhân chưa có kiến thức cơ bản về kinh doanh. Tình trạng phổ biến là các chủ doanh nghiệp tư nhân trưởng thành từ thực tiễn , và cũng không phải từ thực tiễn sản xuất kinh doanh hiện đại mà từ kinh doanh hiện đaị, mà từ kinh doanh thương nghiệp; làm giàu bằng thủ đoạn đầu tư tích trữ. Phần lớn sự kinh doanh vẫn dựa vào khả năng trực giác, tức là sự thính nhạy qua quá trình tích lũy kinh nghiệm. Còn sự phân tích khoa học, tức là khả năng phát hiện những mối liên hệ tất yếu, cơ bản, bản chất trong nhiều mối liên hệ của đối tượng quản lí, từ đó ra quyết định đúng đắn- khả năng này nhìn chung là yếu kém. Cho nên, nhà nước cần có chương trình đào tạo về quản lý kinh doanh cho họ, đồng thời có chính sách thu hút nhiều người có trình độ quản lý tham gia vào khu vực kinh tế tư nhân... - Biết học tập Chủ nghĩa tư bản Bất cứ chế độ xã hội nào với tính cách là một nấc thang tất yếu lich sử của sự tiến hóa đều chứa đựng những giá trị mang tính nhân loại. Và chính những cái đó đã thúc đẩy xã hội loài người phát triển, không ngừng tiến lên và hoàn thiện. Chủ nghĩa tư bản cũng không nằm trong ngoại lệ đó. Những thành tựu kinh tế về tư duy đã chỉ ra rằng: những nước kinh tế lạc hậu chỉ có lợi dụng Chủ nghĩa tư bản một cách đúng đắn, biết học tập Chủ nghĩa tư bản mới có thể làm cho đất nước phồn vinh, giàu mạnh. Thực tiễn cũng chỉ ra rằng để qáu độ lên chủ nghĩa xã hội cần phát triển kinh tế hàng hóa, phát triển mậu dịch đối ngoại, trah thủ vốn của nước ngoài, thu hút kĩ thuật tiên tiến, kinh nghiệm quản lý khoa học, thu hút các loại chuyên gia , nhân tài, sử dụng một số quan điểm mô hình và phương pháp trong lý luận kinh tế vẫn được coi là Chủ nghĩa tư bản hiện đại. Lợi dụng Chủ nghĩa tư bản bằng cách thực hành Chủ nghĩa tư bản Nhà nước trong điều kiện chính trị mới. Lý luận về Chủ nghĩa tư bản Nhà nước của Lênin chính cũng là một biểu hiện sinh động của sự cần thiết phải học tập Chủ nghĩa tư bản. Cần phải quán triệt trong thực tiễn luận điểm của Lênin rằng không thể hình dung một tứ Chủ nghĩa Xã hội nào khác hơn là Chủ nghĩa Xã hội dựa trên cơ sở của những bài học mà nền văn minh lớn của Chủ nghĩa tư bản đã thu được. - Xác định bước đi hiện thực có hiệu quả Việc xác định những bước đi cũng là một quan điểm chiến lược. Bước đi đúng hay sai có quan hệ mật thiết đến hiệu quả ít hay nhiều của việc thực hành Chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Cũng có thể coi đây là chiến lược kinh doanh từ đó mà có thể xác định phương hướng, hình thức, trình độ cụ thể, những cái giá nào cần phải trả khi thực hành Chủ nghĩa tư bản Nhà nước qua các giai đoạn khác nhau. Phải xuất phát từ xu hướng kinh tế khách quan là sự phân công lao động quốc tế mới trong một nền sản xuất ngày càng quốc tế hóa, trong một nền kinh tế hàng hóa đang toàn cầu hóa; từ tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế của các quốc gia ngày càng chặt chẽ; từ thực lực xuất phát của mình, kể cả cái thế trong bàn cân chính trị - kinh tế thế giới. Yêu cầu đặt ra là làm sao phải nhanh chóng tìm được chỗ đứng của mình trong trào lưu phát triển kinh tế thế giới.Chúng ta cần thực hiện theo ba bước đi chiến lược. Bước một: Bước đi ban đầu được gọi là theo sau: ở bước đi này, hầu hết các doanh nghiệp đều tập trung vốn đầu tư vào công nghiệp chế tạo hàng tiêu dùng, quay vòng nhanh, vàog những sản phẩm có sức co giãn tốt, ít vốn, cần nhiều lao động, nhằm đẩy nhanh tiến độ tích luỹ. Tổ chức sản xuất chủ yếu là quy mô nhỏ. Bước hai: được gọi là đuổi bắt: Khi chấm dứt thời kỳ theo sau, nền sản xuất tong nước đã trưởng thành ở một mức độ nhất định. Từ chỗ đuổi kịp kỹ thuật trung bình, trên một số hàng tiêu dùng, dần dần đã có thể nắm bắt một số kỹ thuật cao, tự nghiên cứu, triển khai một số công nghệ mới thuộc nhiều ngành tiêu biểu cho cách mạng khoa học công nghệ. Bước ba: Mục tiêu cuối cùng là vượt lên: Mục tiêu này chỉ trở thành hiện thực khi đã san bằng được hố ngăn cách về kỹ thuật, sản xuất, quản lý và hoạt động tiếp thị với các công ty xuyên quốc gia. 4.2. Các hình thức của Chủ nghĩa Tư bản Nhà nước ở Việt Nam hiện nay. ở dưới thời Lênin, chủ nghĩa tư bản đã được áp dụng vào thực tiễn. Đã có những kết quả đáng kể tuy nhiên vẫn còn nhiều điều mà chưa thực hiện được cho hoàn cảnh lúc bấy giờ. Nước ta có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển chủ nghĩa tư bản Nhà nước so với thời Lênin. Lý luận của Lênin được lấy làm cơ sở, làm nền móng để từ đó nghiên cứu phát triển thêm và áp dụng vào nước ta. ở nước ta hiện nay những hình thức tư bản Nhà nước sau đang được áp dụng: 4.2.1. Hình thức liên doanh liên kết giữa Nhà nước với kinh tế tư nhân trong nước. Sự liên doanh liên kết của Nhà nước với chủ nghĩa tư bản có thể huy động được nhiều vốn, kỹ thuật công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến của các nhà tư bản. Khái niệm liên doanh liên kết cần được mở rộng, không chỉ liên doanh liên kết với chủ nghĩa tư bản từ bên ngoài mà cả với chủ nghĩa tư bản trong nước. Qua hình thức này Nhà nước cơ thể thực hiện được chức năng kiểm kê, kiểm soát, hướng dẫn, chỉ đạo sự phát triển cơ cấu kinh tế cho phù hợp với đòi hỏi của thị trường. ở nước ta trong thời kỳ cải tạo đối với công nghiệp - tư doanh ở miền Nam trước đây, hình thức này được gọi là "Công ty hợp doanh", nhưng chúng ta chỉ mới áp dụng một cách hạn chế với chủ trương cốt để cải tạo xã hội chủ nghĩa nhằm sớm xoá bỏ kinh tế tư nhân. Do nằm trong mô hình "kinh tế chỉ huy tập trung" lúc đó nên đã biến hoạt động của Công ty hợp doanh thành tổ chức quốc doanh. Bắt đầu quá trình đổi mới xác định từ đại hội lần thứ VI của Đảng nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, là nền kinh tế "mở". Trong điều kiện đó, hình thức liên doanh liên kết giữa Nhà nước với các nhà tư bản tư nhân được thiên hơn về bên kinh tế tư nhân và tổ chức kinh tế nước ngoài qua đầu tư trực tiếp. Còn mối liên doanh liên kết với kinh tế tư nhân trong nước ít nhiều bị lãng quên chưa được sử dụng đúng mức. Hai hình thức này cần được chú ý đúng mức hơn. - Tiềm năng của lực lượng kinh tế tư nhân có những bước phát triển đáng kể. Năm 1991 cả nước có 123 doanh nghiệp tư nhân với số vốn điều lệ là 69 tỷ VND, đến đầu năm 1997 theo số lượng đăng ký kinh doanh có 8.903 Công ty TNHH với số vốn 7.296 tỷ VND, hơn 20.000 doanh nghiệp tư nhân, gần 2.000 Công ty cổ phần.... Số Công ty TNHH có vốn điều lệ 300 triệu đồng khi thành lập chiếm 32,2% đến năm 1998 chỉ còn 22,3%. Số Công ty có vốn điều lệ 1 đến 5 tỷ đồng khi mới thành lập chỉ 11,05% đã tăng lên 22,08% tiềm năng của kinh tế tư nhân còn được thể hiện ở nhu cầu, chương trình phát triển như nhu cầu tăng qui mô và ngành nghề, nhu cầu gọi thêm vốn trong nước và nước ngoài. Ngoài ra còn phải kể đến đội ngũ đông đảo của cá nhân, nhóm kinh doanh, hộ gia đình (lên đến con số hàng triệu) tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo nên động lực cho đời sống kinh tế xã hội. Để phát huy sức mạnh của thành phần kinh tế tư nhân, bên cạnh việc tạo điều kiện cho nó phát triển cần khuyến khích họ liên doanh liên kết với kinh tế Nhà nước qua đó mà tăng vốn, đổi mới công nghệ, mở rộng qui mô sản xuất, tăng sức cạnh tranh và sức hợp tác với nước ngoài. Muốn vậy Nhà nước cần có những biện pháp và chính sách hợp lý như có những luật pháp chính sách ưu đãi và thông thoáng, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho thành phần kinh tế này phát triển, đóng góp ngày càng nhiều cho nền kinh tế nước nhà. Bên cạnh việc Nhà nước liên doanh liên kết với kinh tế tư nhân trong nước thì trong những năm qua từ sau đổi mới ở nước ta đã có sự du nhập của kinh tế tư bản ngoài nước. Hai hình thức kinh tế tư bản Nhà nước thời gian qua đã có những đóng góp hết sức quan trọng cho nền kinh tế quốc dân là: hình thức liên doanh giữa Nhà nước với nước ngoài và hình thức tô nhượng. Ta lần lượt xem xét các hình thức này. 4.2. 2. Hình thức liên doanh với nước ngoài. Ngay từ năm 1946, khi vừa khai sinh ra nước Việt Nam , chủ tịch Hồ Chí Minh đã long trọng tuyên bố: "Nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực: a) nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật, nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình. b) nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường xá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế. c) nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc dân dưới sự lãnh đạo liên hợp quốc". Điều đó khẳng định tầm quan trọng của việc liên doanh liên kết với nước ngoài đối với kinh tế nước ta. Hình thức liên doanh với nước ngoài là hình thức kinh doanh theo tỷ lệ vốn có mức độ vốn khác nhau giữa Nhà nước và tư nhân Việt kiều và các tổ chức kinh tế nước ngoài, được tổ chức dưới tên gọi là xí nghiệp liên doanh. Nhiều năm qua chúng ta đã đạt được kết quả khả quan. Thể hiện ở số lượng dự án đầu tư được cấp giấy phép và đi vào hoạt động tăng lên với tốc độ nhanh chóng góp phần ổn định và tăng trưởng kinh tế. Theo niên giám thống kê năm 1994 một số dự án được cấp giấy phép đến cuối năm 1994 là 1.170 với tổng số đầu tư là 12.200.403,4 triệu USD và tổng vốn pháp định là 6.376.441,9 triệu USD. Tính đến tháng 7/1997 cả nước có 2.067 dự án đầu tư được cấp giấp phép với tổng số vốn đăng ký là 31,3 tỷ USD, trong đó vốn đầu tư trực tiếp lên đến 12,13 tỷ USD. Tuy nhiên cuộc khủng hoảng tiền tệ ở khu vực Châu á xảy ra giữa năm 1997 thì không những đã ảnh hưởng tàn phá nền kinh tế của các nước Đông Nam á, mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến kinh tế các nước láng giềng như Trung Quốc, Việt Nam, Mianma.. cho nên tốc độ thu hút và thực hiện vốn đầu tư tại Việt Nam bị chững lại từ giữa 1997 do nguồn vốn FDI cho Việt Nam chủ yếu là các nước Châu á. Như năm 1998, cả nước thu hút được 260 dự án mới (giảm 21,5% so với năm 1997) với số vốn đăng ký 4.058,6 triệu (giảm 11%). Ước tính tổng vốn đăng ký năm 1998 là 4.827,6 triệu USD (giảm 13,9%). Trong khi đó, đầu tư nước ngoài trên thế giới năm 1998 vẫn gia tăng và đạt mức cao kỷ lục 4.000 tỷ USD, tăng 10% so với năm 1997 và vốn đầu tư nước ngoài vào các nước Châu á vẫn chiếm khoảng 1/3 tổng vốn đầu tư nước ngoài toàn cầu. Vậy bên cạnh những yếu tố khách quan từ bên ngoài như tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ thì trong những nguyên nhân dẫn đến sự chững lại về tăng trưởng đầu tư nước ngoài còn do nhiều cản trở từ môi trường đầu tư trong nước, do cơ chế điều hành quản lý của chúng ta còn nhiều bất cập, mặc dù Đảng và Nhà nước đã có rất nhiều chủ trương chính sách khuyến khích tạo điều kiện cho hoạt động đầu tư ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên có một dấu hiệu đáng mừng là hiệu quả của đồng vốn đầu tư đã tăng lên mặc dù vốn thực hiện năm 1998 thấp bằng 58% năm 1997 và 86% năm 1996. Năm 1997 nộp ngân sách Nhà nước là 315 triệu USD hoạt động của đồng vốn đầu tư nước ngoài thì năm 1998 đã tăng lên 320 triệu, giải quyết được công ăn việc làm cho thêm gần 20.000 lao động. Nhìn chung, việc thực hiện hình thức này trong thời gian qua vẫn còn chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Để đẩy mạnh việc thu hút và thu hút có hiệu quả đầu tư nước ngoài, cần mở rộng các hình thức liên doanh, trong đó cho phép các nhà tư bản và Công ty nước ngoài tham gia mua cổ phiếu của các Công ty cổ phần kể cả một số doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hoá, phát hành trái phiếu của chính phủ, trái phiếu công trình ra nước ngoài để giảm bớt những hạn chế về quyền hạn phải tăng tỷ lệ vốn góp của Việt Nam trong các công ty liên doanh với nước ngoài. Bên cạnh đó phải giải quyết một vấn đề bức xúc còn tồn tại là thủ tục giấy tờ cấp duyệt vốn đầu tư còn rườm rà, nhiều giai đoạn qua nhiều cơ quan thẩm định, và năng lực điều hành quản trị còn nhiều yếu kém. Phải chủ động hơn nữa trong việc gọi vốn đầu tư và tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư để việc liên doanh liên kết với nước ngoài mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế nước nhà. 4.2.3. Hình thức tô nhượng. Đây là hình thức kinh tế tư bản Nhà nước mà Lênin đặc biệt chú trọng. Thực chất của hình thức này là hình thức xí nghiệp có 100% vốn nước ngoài được hình thành trong khu chế xuất. Nó là một sự giao kèo, một sự liên kết, một liên minh giữa chính quyền Nhà nước và nhà tư bản nước ngoài. Nhà tư bản nước ngoài nhận tô nhượng kèm theo một số điều khoản mà chính quyền Nhà nước đặt ra. Theo kinh nghiệm của các nước, việc thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài dưới hình thức liên doanh 100% vốn nước ngoài là hấp dẫn và có hiệu quả hơn so với vay vốn và tiếp nhận viện trợ của nước ngoài. ở nước Nga trước đây dưới thời Lênin hình thức này ít được các nhà tư bản nước ngoài hưởng ứng do điều kiện lịch sử lúc bấy giờ. ở nước ta loại hình xí nghiệp 100% vốn nước ngoài còn mới mẻ, vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Ngày 18/10/1991 Chính phủ đã ban hành qui chế khu chế xuất với nội dung bao gồm việc xác định mục tiêu, đối tượng đầu tư, ngành được khuyến khích đầu tư, những chính sách ưu đãi và việc quản lý của Nhà nước đối với khu chế xuất. Mục tiêu của việc hình thành khu chế xuất là: Thu hút vốn đầu tư nước ngoài Du nhập kỹ thuật hiện đại và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Giải quyết công ăn việc làm và đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân lành nghề. Tạo nguồn hàng xuất khẩu và sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, thúc đẩy sự hội nhập của kinh tế Việt Nam vào kinh tế thế giới và khu vực. Tăng nguồn thu ngoại tệ. Thúc đẩy nền kinh tế nội địa có mũi nhọn theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Đến cuối năm 1998 cả nước được Chính phủ cho phép hình thành 8 khu chế xuất. Thành phố Hồ Chí Minh có hai là khu chế xuất Tân Thuận và khu chế xuất Linh Trung. Hà Nội có khu chế xuất Nội Bài. Hải phòng có khu chế xuất Đồ Sơn. Đà Nẵng có khu chế xuất An Đồn. Hai tỉnh Cần Thơ và Đồng Nai cũng có khu chế xuất. Mặc dù việc triển khai khu chế xuất ở một số nơi có đưa lại một số kết quả nhất định nhưng nhìn chung vẫn còn chậm so với dự kiến. Có nhiều nguyên nhân: thủ tục xuất vào nội địa và thủ tục từ nội địa xuất vào khu chế xuất còn quá rườm rà, giá thuế đất còn cao, kinh nghiệm quản lý còn kém... Lợi dụng bên Việt Nam thiếu vốn, thiếu năng lực mà bên nước ngoài đã có nhiều vi phạm như chèn ép hà khắc công nhân Việt Nam, mua bán bất động sản trái phép, lừa đảo, trốn thuế, đầu tư chui... Theo kinh nghiệm của nước khác như Trung Quốc thì đối với nước ta vẫn nên tiếp tục phát triển rộng rãi hình thức này. Không nên vì những khó khăn trước mắt mà phủ nhận vai trò của nó. Vấn đề là phải sớm tìm được những giải pháp để khắc phục khó khăn sửa chữa những hạn chế, tiếp tục đưa hình thức này vào thực tiễn trong thời gian tới ở nước ta. 4.2.4. Hình thức cho thuê. Hình thức này được thực hiện thông qua hợp đồng ký kết giữa Nhà nước với lực lượng kinh tế tư nhân trong và ngoài nước thông qua đấu thầu một số cơ sở vật chất của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nước. So với tô nhượng hình thức cho thuê kinh doanh khác ở hai điểm là: a) thời gian hợp đồng thường ngắn hơn. b) đối tượng cho thuê không chỉ chủ yếu là quyền sử dụng đất mà còn là hầm mỏ, khu rừng, xí nghiệp, cửa hàng.... Mục đích của việc áp dụng hình thức này là thông qua nó mà mở rộng một số ngành, hình thức kinh tế vào những đối tượng mà Nhà nước không có khả năng nắm hoặc nếu để Nhà nước kinh doanh sẽ không có hiệu quả, đồng thời để Nhà nước có điều kiện tập trung vốn đầu tư vào các ngành, lĩnh vực trọng yếu, then chốt nhằm tăng cường vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần. 4.2.5. Hình thức gia công đặt hàng. Hình thức này áp dụng ở các ngành sản xuất vật chất, các ngành đòi hỏi nhiều lao động sống .Trong điều kiện hiện nay của nước ta, khi trình độ công nghệ của nước ta còn kém, chưa thể sản xuất hoàn chỉnh có hiệu quả một số loại sản phẩm, nhưng với lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công rẻ, vị trí địa lý thuận lợi, thị trường tiêu thụ lớn và hấp dẫn, ta có thể nhận gia công cho các công ty lớn ở nước ngoài về mặt hàng giày da, may mặc, sản xuất các mặt hàng tái xuất, lắp ráp ô tô, xe máy, và đồ điện tử... Hình thức này khá phù hợp với nước ta vì nước ta có tỷ lệ gia tăng dân số và gia tăng lao động cao nên có thể bằng hình thức này giải quyết công ăn việc làm cho một số lượng khá lớn những người trong độ tuổi lao động. Hình thức này ở nước ta đang được thực hiện theo hai chiều: các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam nhận gia công cho kinh tế tư nhân trong và ngoài nước, ngược lại kinh tế tư nhân trong và ngoài nước nhận gia công cho các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam. 4.2.6. Hình thức đại lý. Hình thức này áp dụng trong các ngành dịch vụ. Thông qua các đại lý mua bán và cơ sở dịch vụ, Nhà nước nhận hoặc cho các nhà tư bản trong và ngoài nước tiêu thụ, cung cấp các yếu tố cần thiết cho phát triển sản xuất và các sản phẩm tiêu dùng cho xã hội. Trên đây là những hình thức kinh tế tư bản Nhà nước chủ yếu đã và đang được áp dụng ở nước ta. Mặc dù trong các hình thức chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở nước ta vẫn còn hạn chế nhưng chủ nghĩa tư bản Nhà nước đã đóng góp lớn vào những thắng lợi trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ và nó còn giữ vai trò quan trọng trong chặng đường tiếp theo, chặng đường sẽ khó khăn và lâu dài hơn nhiều. 5.Tiếp tục mở rộng các hình thức kinh tế tư bản Nhà nước: 5.1. Những điều kiện đảm bảo thành công của việc mở rộng và phát triển các hình thức kinh tế tư bản Nhà nước: Điều kiện chính trị tiên quyết là phải đảm bảo giữ vững được vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam và sự lãnh đạo đó là duy nhất. Có điều kiện này mới có đảm bảo được tính định hướng xã hội chủ nghĩa . Vì Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, Đảng đại diện cho ý chí của giai cấp công nhân, chỉ có sự lãnh đạo của Đảng mới đảm bảo cho việc đạt được mục tiêu lớn nhất của dân tộc là tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Cũng chỉ có Đảng cộng sản Việt Nam mới có khả năng đảm bảo, tổ chức và giải quyết mọi vấn đề của thời kỳ quá độ. Muốn vậy phương thức lãnh đạo của Đảng phải được đổi mới và bộ máy lãnh đạo của Đảng cần phải được củng cố, kiện toàn trong sạch , vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Điều kiện có tính chất tổng quát và cơ bản nhất để thực hành kinh tế tư bản Nhà nước là Nhà nước phải có thực lực mạnh.Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa - nhân tố quyết định việc thực hành thành công Chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở nước ta. Chủ nghĩa tư bản Nhà nước trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước tiểu nông lên chủ nghĩa xã hội là chủ nghĩa tư bản phục tùng Nhà nước dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên sự thành công trong việc thực hành chủ nghĩa tư bản phụ thuộc vào sự vững mạnh của bộ máy Nhà nước. Sức mạnh của Nhà nước được thể hiện trên tất cả các mặt kinh tế ,chính trị, xã hội và luật pháp. Nhà nước phải nắm lấy các đỉnh cao kinh tế. Trong điều kiện kinh tế thị trường, sức mạnh kinh tế thể hiện tập trung ở sức mạnh tài chính, ai nắm được nguồn tài chính sẽ chi phối sự phát triển kinh tế xã hội theo hướng của mình. Sức mạnh của bộ máy nhà nước là sức mạnh kinh tế. Vì vậy Nhà nước ta cần vươn tới nắm chắc lấy quyền chi phối về tài chính. Thông qua công cụ tài chính ngân hàng, Nhà nước vừa điều khiển được toàn bộ sự vận động xã hội, vừa thoát khỏi sự can thiệp trực tiếp, vụn vặt vào các hoạt động sản xuất kinh doanh. Muốn vậy phải đảm bảo Nhà nước phải nắm giữ được những ngành, những lĩnh vực then chốt trọng yếu của nền kinh tế quốc dân. Lực lượng dự trữ quốc gia về vật tư hàng hoá phải đảm bảo có thể dập được những cơn sốt của thị trường. Tỷ lệ vốn của Nhà nước trong các hình thức kinh tế tư bản Nhà nước phải tăng lên về tỷ trọng. Hệ thống ngân sách, ngân hàng, các công cụ như thuế phải đủ sức vững mạnh. Có như vậy Nhà nước có thể chỉ đạo được nền kinh tế quốc dân cho phù hợp với từng giai đoạn của thời kỳ quá độ. Chủ nghĩa xã hội, theo như Lênin nói, không phảI là cáI gì khác hơn là chế độ độc quyền tư bản của nhà nước được áp dụng để phục vụ toàn bộ nhân đân, và do đó không còn là chế độ độc quyền tư bản chủ nghĩa. Trong điều kiện kinh tế thị trường, ai nắm được nguồn tài chính người đó sẽ chi phối sự phát triển kinh tế xã hội theo định hướng của mình. Vì vậy, nhà nước ta cần vươn tới là nhà nước độc quyền tài chính. Thông qua công cụ tài chính – ngân hàng, nhà nước vừa đIều khiển được toàn bộ sự vận động của xã hội, vừa thoát khỏi sự can thiệp trực tiếp, vụn vặt vào các hoạt động sản xuất kinh doanh. Pháp luật có vai trò làm công cụ để Nhà nước điều tiết đất nước nên cần quan tâm đến hệ thống luật pháp. Nhà nước cần có những qui định nghiêm ngặt về luật pháp và kiểm soát được hoạt động đầu tư của tất cả các chủ thể kinh tế. Phải có hệ thống pháp luật và hệ thống các cơ quan hành pháp đồng bộ, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các thành phần kinh tế nói chung và thành phần kinh tế tư bản Nhà nước nói riêng hoạt động mạnh mẽ vào những ngành, những lĩnh vực mà luật pháp không cấm và phải hướng sự phát triển của kinh tế tư nhân vào con đường kinh tế tư bản Nhà nước dưới những hình thức thích hợp và có hiệu quả . Phải đẩy mạnh cải cách Nhà nước về hành chính, xây dựng đồng bộ hệ thống luật pháp, đổi mới kế hoạch hoá, tăng cường năng lực của các cơ quan luật pháp, hành pháp và tính nghiêm minh của các cơ quan tư pháp. Một điều kiện nữa là phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập chủ quyền dân tộc và sự hợp tác kinh tế quốc tế. Đây là điều kiện đảm bảo thành công của công cuộc đổi mới nói chung và việc thực hành chủ nghĩa tư bản Nhà nước nói riêng. 5.2. Những biện pháp để tiếp tục mở rộng kinh tế tư bản Nhà nước - Đối với đầu tư nước ngoài: Cần thu hút đầu tư nước ngoài trên cơ sở cân đối các quy hoạch theo ngành và lãnh thổ, tuyệt đối tránh việc kêu gọi đầu tư tràn lan. Chính phủ cần xây dựng một quy hoạch chi tiết gọi vốn đầu tư nước ngoài trên đầu tư toàn quốc, xác định rõ những lĩch vực nào cần hay không cần đầu tư nước ngoài, nếu cần thì cần ở mức độ nào. Cần có những biện pháp cụ thể và hợp lý để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam nhiều hơn như phát triển môi trường đầu tư bằng nhiều hình thức. Trước mắt cần nhanh chóng thiết lập đầy đủ các cơ chế của kinh tế hàng hoá, xây dựng các diều kiện về kết cấu kinh tế hạ tầng, thông tin, dịch vụ; hoàn chỉnh các luật (như luật đầu tư, luật liên doanh liên kết…) để mọi hoạt động kinh tế đều có sự hướng dẫn và kiểm tra của nhà nước. … Vấn đề đào tạo cán bộ đối tác phải là một trong những mục tiêu hàng đầu. Họ phải là những người có năng lực, có phẩm chất đạo đức vì quản lý đầu tư nước ngoài cần có hiệu quả và đầu tư nước ngoài trong tương lai vẫn là rất quan trọng đối với kinh tế nước ta. Phải có những chỉ đạo hướng dẫn từ trên xuống dưới để phối hợp đồng bộ giữa các ngành trung ương và địa phương. Xây dựng một hệ thống các chính sách, luật pháp đảm bảo quản lý đầu tư nước ngoài có hiệu quả. - Đối với đầu tư trong nước: Đầu tư nước ngoài dù quan trọng đến đâu cũng không thể giữ vai trò quyết định trong nền kinh tế quốc dân. Theo dự đoán thì số tiền nhàn rỗi trong dân chưa được sử dụng lên đến hàng tỷ USD. Do vậy cần phải có những biện pháp kịch thích nhân dân vỏ vốn đầu tư. Những biện pháp thiết thực như sớm hoàn thiện luật đầu tư trong nước, kích cầu... Đi đôi với kích thích đầu tư là phải sử dụng nguồn vốn đầu tư có hiệu quả. Trong nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần, chúng ta cần phát triển hàI hoà, cần tận dụng tiềm lực của tất cả các thành phần kinh tế. Vì vậy cần có chính sách kích thích đầu tư, tận dụng hết nguyồn lực tiềm ẩn. Một điểm cần lưu ý là hiện nay nước ta không nên tiến hành cổ phần hoá hàng loạt mà nên làm từng bước vững chắc vì ở hình thức này ở nước ta chưa có nhiều kinh nghiệm. Tóm lại, tiếp tục mở rộng và phát triển các hình thức kinh tế tư bản Nhà nước ở nước ta là một vấn đề rất cần thiết. Để kinh tế tư bản Nhà nước ngày càng đóng góp lớn cho thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì toàn Đảng, toàn Nhà nước và toàn nhân dân ta phải thống nhất một lòng tìm ra những bước đi đúng đắn để hoàn thành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. phần kết luận Lênin đã để lại một trong những di sản quý báu nhất của Người là những lý luận về chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Đây không chỉ là tư tưởng đúng đắn đã được chứng minh từ thực tiễn nước Nga mà còn là một vũ khí sắc bén dẹp tan những tư tưởng sai lầm, phá hoại.Đây thực sự là kim chỉ nam cho những nước chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn khó khăn của những bước chuyển còn lạ lẫm.Tuy nhiên, không chỉ là vận dụng không thôi mà phải vận dụng lý luận đó cho phù hợp với điều kiện của đất nước trong thời đại ngày nay là nhiệm vụ vô cùng quan trọng của chúng ta. Tất nhiên khi sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước sẽ không tránh được những sai lầm, nhưng không được vì những khó khăn trước mắt mà bỏ cuộc, qua mỗi bước đi ta càng rút ra thêm được những kinh nghiệm quý báu cho công cuộc kiến thiết nước nhà vững mạnh. Nghiên cứu lý luận của Lênin về Chủ nghĩa tư bản Nhà nước trong hoàn cảnh nước Nga thời bấy giờ để hiểu sâu sắc về lý luận này không những giúp chúng ta vững vàng trên con đường đi tới mà còn có thể thấy nảy sinh những phát hiện mới, đúng đắn trong tư duy chính trị. Lý luận của Lênin về Chủ nghĩa tư bản Nhà nước ra đời là nhờ vào sự phân tích sâu sắc và thấu đáo những vấn đề cần giải quyết và những tiềm lực hiện có của lực lượng cách mạng. Lênin không những đã khắc phục được những yếu điểm để phát triển mà giá trị hơn là bước phát triển đó được bắt nguồn từ chính sự cải tạo những lực lượng được coi là phá hoại, những phần tử mà trước kia người ta cho rằng cần phải cắt bỏ bằng những biện pháp bạo lực, cưỡng chế. Việt Nam cũng đã vấp phải sai lầm này ngay sau giải phóng khi chúng ta chủ quan, nóng vội, duy ý chí, cho rằng có thể ngay tức khắc cắt bỏ những thành phần sai lầm, lạc hậu bằng những biện pháp mạnh nẽ và dứt khoát. Từ những sai lầm đó và từ sự nghiên cứu thấu đáo những luận điểm của Lênin về Chủ nghĩa Xã hội có thể thấy rằng nhiệm vụ tiến lên Chủ nghĩa Xã hội là một nhiệm vụ khó khăn, lâu dàI, nhiều thử thách. Nhưng không được nản lòng trước những thử thách này mà càng phải kiên định, sáng suốt phân tích chính bản thân những mối quan hệ và những nguồn lực hiện tại để phát triển. Đối với Việt Nam, mục tiêu của nước ta trong giai đoạn hiện nay là quá độ thành công lên chủ nghĩa xã hội. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta cùng gắng sức đưa nền kinh tế nước nhà phát triển tạo nên cái cốt vững chắc cho chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản Nhà nước là con đường, là biện pháp hữu ích nhất mà nếu thiếu nó thì mục tiêu đi lên của chủ nghĩa xã hội chỉ là viển vông. Cần phải nhận rõ tầm quan trọng của việc thực hành chủ nghĩa tư bản nhà nước để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì là chủ nghĩa tư bản nhà nước nên hiệu quả của việc thực hành nó phụ thuộc vào năng lực tổ chức của bộ máy nhà nước ta – nhà nước của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Việt Nam đang từng bước trưởng thành trên con đường xây dựng Chủ nghĩa Xã hội. Những năm gần đây chúng ta đã có nhiều những thay đổi chiến lược và những có những bước phát triển vượt bậc, từng bước tìm được vị trí của mình trong khu vực và trên thế giới. Thế giới đã bước vào một cuộc đua mới trên những lĩnh vực mới với tốc độ chóng mặt. Ngày nay, chúng ta phải không ngừng học tập những cái mới trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là về tư tưởng chính trị để đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của kinh tế tri thức, của tin học, viễn thông toàn cầu…Đó chính là nhiệm vụ và yêu cầu đối với thế hệ trẻ Việt Nam Đến đây em xin được kết thúc bài viết của mình, em mong được sự sửa chữa bổ sung của các Thầy Cô giáo để em hiểu rõ hơn về vấn đề./. Tài liệu tham khảo 1. V.I.Lênin: Bàn về thuế lương thực, toàn tập, NXB Tiến bộ, Matxcơva 1984, tập 43, trang. 244- 296. 2. V.I.Lênin: Chính sách kinh tế mới và những nhiệm vụ của các ban giáo dục chính trị. Toàn tập, NXB Tiến bộ, Matxcơva 1984, tập 43, trang 194-219. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị Quốc gia, hiện nay 1996, trang 91-96. 4. Vũ Hữu Ngoan: Mấy vấn đề về cg tư bản Nhà nước, NXB Chính trị Quốc gia, hiện nay 1995. 5. Vũ Ngọc Long: Về cuộc cải cách kinh tế của Lênin, NXB Thanh niên, hiện nay 1996. 6. Nghiên cứu lý luận số 226 - tháng 3/1997 7. Nghiên cứu lý luận số 3/1998 8. Tạp chí Cộng sản, số 8 tháng 7/1995. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28042.doc
Tài liệu liên quan