Đề tài Lý luận tiền tệ của Mác và sự vận dụng chính sách tiền tệ ở Việt Nam

Chính sách tiền tệ có vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế của Việt Nam nói riêng. Nó được chính phủ (trước hết là NHTW) các nước sử dụng làm công cụ tác động vào các biến số kinh tế vĩ mô, để nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Sự phát triển các công cụ chính sách tiền tệ là một quá trình phức tạp thường đòi hỏi một thời gian khá dài để hoàn thành. Nhưng các vấn đề liên quan đến chính sách tiền tệ hiếm khi được giải quyết triệt để, đặc biệt đối với nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi như Việt Nam. Cùng với những khó khăn hiện nay, chính sách tiền tệ ở Việt Nam còn đứng trước thửu thách ngày càng gia tăng với nguy cơ tụt hậu trước một thế giới đang bước vào thời kỳ tăng trưởng nhanh. Do đó, chính sách tiền tệ phải đảm bảo đạt được những ưu việt nhất định để giải quyết mối tương quan giuữa mục tiêu ổn định và tăng trưởng, xây dựng một nền kinh tế phát triển cao, lâu bền. Tuy nhiên, trong những năm qua, Việt Nam đã học được nhiều bài học kinh nghiệm quí báu và bổ ích rút ra những kinh nghiệm, xác định đúng mục tiêu và định hướng của nó trong thời gian trước mắt cũng như lâu dài, để từ đó có những quyết sách phù hợp và đúng đắn hơn đối với nền TCTT trong tổng thể nền kinh tế đất nước. Làm được như vậy chắc chắn trong thời gian tới, chính sách tiền tệ sẽ thực sự trở thành công cụ điều tiết hữu hiệu kinh tế thị trường ở Việt Nam, nhưng vẫn đảm bảo cho nền kinh tế đó vận hành theo định hướng XHCN, theo đúng đường lối mà Đảng và Chính phủ đã đề ra.

doc41 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1709 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lý luận tiền tệ của Mác và sự vận dụng chính sách tiền tệ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uộc đặc điểm kinh doanh của từng ngân hàng. Công cụ này thường được sử dụng trong trường hợp lạm phát cao nhằm khống chế ngay lập tức khối lượng tín dụng cung ứng. Trong trường hợp khi các công cụ gián tiếp không phát huy hiệu quả do thị trường tài chính tiền tệ chưa phát triển hoặc mức cầu tiền tệ không nhạy cảm với sự biến động của lãi suất hay ngân hàng trung ương không có khả năng khống chế và kiểm soát được sự biến động của lượng vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng thương mại thì công cụ hạn mức tín dụng là cứu cánh của ngân hàng trung ương trong việc điều tiết tiền cung ứng. Tuy nhiên hiệu quả của công cụ này không cao bởi nó thiếu tính linh hoạt và đôi khi đi ngược lại chiều hướng biến động của thị trường tín dụng do đó đẩy lãi xuất lên cao hoặc làm giảm cạnh tranh của các ngân hàng thương mại. 2.2. Công cụ gián tiếp: Công cụ gián tiếp là nhóm công cụ tác động trước hết vào mục tiêu hoạt động của chính sách tiền tệ thông qua cơ chế thị trường mà các tác động này được truyền đến các mục tiêu trung gian là khối lượng tiền cung ứng và lãi suất. Thuộc về nhóm công cụ này gồm: - Dự trữ bắt buộc: Dự trữ bắt buộclà số tiền mà các ngân hàng thương mại phải duy trì trên môt tài khoản tiền gửi không hưởng lãi tại ngân hàng trung ương, được xác định bằng một tỉ lệ phần trăm nhất định. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc được quản lý theo nguyên tắc bình quân. Khi ngân hàng trung ương nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc khả năng cho vay và khả năng thanh toán của ngân hàng bị thu hẹp khối lượng tín dụng trong nền kinh tế sẽ giảm. Ngược lại nếu ngân hàng trung ương hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì cung về tín dụng của các ngân hàng thương mại cũng tăng lên, khối lượng tín dụng và khối lượng thanh toán có xu hướng tăng lên đồng thời tăng xu hướng mở rộng tiền khối lượng tiền. Do tính chất và tác dụng như vậy nên tại các ngân hàng trung ương có quy định phân biệt tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho từng loại tiền gửi theo nguyên tắc: Tiền gửi tiết kiệm có tỷ lệ dự trữ bắt buộc thấp nhất sau đó đến tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi không kỳ hạn tỷ lệ cao nhất. - Chính sách tái chiết khấu: Chính sách tái chiết khấu bao gồm các quy định về điều khoản cho vay của ngân hàng trung ương đối với các ngân hàng thương mại trên cơ sở chiết khấu các giấy tờ có giá ngắn hạn thông qua lãi suất tái chiết khấu. Lãi suất có 2 tác dụng đó là trực tiếp và tác dụng gián tiếp. Tác dụng trực tiếp là nó làm tăng giảm lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại do đó tác động đến cung ứng tiền và tín dụng. Tác động gián tiếp nó làm tăng hoặc giảm dự trữ của ngân hàng. Do vậy tác động đến lượng cho vay tiêu dùng và đầu tư trong nền kinh tế. - Nghiệp vụ thị trường mở: Nghiệp vụ thị trường mở là các hoạt động của ngân hàng trung ương trên thị trường mở rộng thông qua việc mua bán các giấy tờ có giá. Các hoạt động này làm ảnh hưởng trực tiếp đến dự trữ của các ngân hàng thương mại và ảnh hưởng trực tiếp đến các mức lãi suất. Khi ngân hàng thương mại mua (bán) các giấy tờ có giá nó sẽ làm giảm (tăng) ngay lập tức dự trữ của các ngân hàng thương mại vì thế khả năng tạo tiền thông qua cung ứng tín dụng của hệ thống ngân hàng giảm xuống ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng. Đây là công cụ điều tiết các mục tiêu trung gian rất có hiệu quả vì nó rất linh hoạt và chủ động. Tuy nhiên để sử dụng nó có hiệu quả cần phải có một thị trường vốn thứ cấp và thị trường tiền tệ phát triển. Chương 2: Chính sách tiền tệ ở Việt Nam thời gian qua I. Mục tiêu và nội dung chính sách tiền tệ ở Việt Nam 1. Mục tiêu Chính sách tiền tệ nhằm bảo đảm giá cả được ổn định, đồng tiền cần được giữ giá, là một trong những mục tiêu quan trọng về quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường. ổn định tiền tệ là tiền đề cho việc phát triển kinh tế. Trong nền kinh tế đang bị lạm phát cao, giữa ổn định tiền tệ và phát triển kinh tế nếu có sự mâu thuẫn thì phải giữ nguyên tắc dùng các giải pháp kiềm chế khối lượng tiền cung ứng tăng thêm để ổn định tiền tệ là điều cần làm trước tiên. Chính sách tiền tệ theo đuổi các mục tiêu quán xuyến là: - ổn định tiền tệ, bảo vệ giá trị đối nội và đối ngoại của đồng tiền trên cơ sở kiểm soát được giá cả, cân bằng được cán cân thanh toán quốc tế, ổn định tỷ giá hối đoái. - ổn định và tăng trưởng kinh tế. - Tạo công ăn việc làm, làm sao đạt đến mức toàn dụng mà không gây lạm phát. Cụ thể: 1.1. Về kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đối nội và đối ngoại của đồng tiền. Trong điều kiện lưu thông các dấu hiệu giá trị thì lạm phát luôn luôn là khả năng tiềm tàng. Khi hệ thống tiền tệ tín dụng chuyển đổi và vàng không còn nữa thì ngân hàng trung ương luôn coi việc kiểm soát lạm phát, ổn định tiền tệ là mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ. Kiểm soát lạm phát nhằm ổn định giá cả hàng hoá là tiền đề cho nền kinh tế phát triển bình thường. Giá trị đối nội của đồng tiền là sức mua của nó đối với hàng hoá và dịch vụ trong nước. Giá trị đối ngoại của đồng tiền được đo bằng tỷ giá hối đoái thả nổi. Giá trị đối nội và giá trị đối ngoại của đồng tiền có liên quan tác động qua lại với nhau. Vì vậy muốn ổn định tiền tệ và kinh tế trong nước phải có biện pháp ổn định giá cả hàng hoá và tỷ giá hối đoái. ở Việt Nam ngân hàng nhà nước công bố điều chỉnh tỷ giá hối đoái linh hoạt theo thị trường. Hiện nay tỷ giá hối đoái 12.998 VND/1 USD. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng +/-7% (13.908 VND/1 USD). Điều chỉnh tỷ giá hối đoái hiện nay có lợi cho xuất khẩu. Nhà nước kiểm soát được nhập khẩu. Thực tế hiện nay tỷ giá hối đoái giảm hơn so với khi quyết định. Về giá cả, do sản xuất hàng hoá tăng giá trị đồng tiền ổn định nên sức mua tăng. Đó là hai biện pháp để ổn định giá trị đồng tiền. 1.2. Tăng trưởng kinh tế Khi tỷ lệ gia tăng tổng sản phẩm quốc dân (GDP) lớn hơn nhịp độ tăng dân số sẽ có tăng trưởng kinh tế. Khi khối lượng tiền tăng lên, lãi suất tín dụng thường giảm xuống, đồng tiền "rẻ" đi sẽ kích thích đầu tư, tăng tổng sản phẩm quốc dân (GDP). Ngược lại khi khối lượng tiền tệ giảm, lãi suất sẽ tăng, làm cho đầu tư giảm, tổng sản phẩm quốc dân giảm. Như vậy, muốn tăng trưởng kinh tế phải gia tăng đầu tư bên cạnh việc sử dụng công cụ tài trợ của ngân hàng nhà nước, người ta phải chủ yếu trông vào sự gia tăng đầu tư tín dụng của hệ thống Ngân hàng dưới tác động của Ngân hàng trung ương. Đối với Việt Nam, từ nay đến năm 2000 tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm phải đạt từ 9-10%, tốc độ tăng trưởng cao này đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cân bằng mọi phương thức để có thể huy động được hầu hết các nguồn vốn nhàn rỗi trong nước và vay của nước ngoài để phục vụ mục tiêu này. 1.3. Tạo công ăn việc làm Cùng với mục tiêu tăng trưởng kinh tế, chính sách tiền tệ cũng ảnh hưởng vào mục tiêu tạo công ăn việc làm cho mỗi người nhất là đối vơí các quốc gia chưa phát triển. Việc làm nhiều hay ít, tăng hay giảm chủ yếu tuỳ thuộc vào tình hình tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, khi tăng trưởng kinh tế đạt được do kết quả của cải tiến kỹ thuật thì việc làm có thể không tăng mà có thể giảm dẫn đến thất nghiệp tăng. Nơi nào sức lao động là hàng hoá thì nơi đó thất nghiệp xảy ra là tự nhiên. Chính sách tiền tệ chỉ có thể hướng vào việc tạo ra công ăn việc làm nhiều hơn thông qua các tác động để mở rộng đầu tư, mở rộng các hoạt động kinh tế. Để đạt mục tiêu này Ngân hàng nhà nước Việt Nam trách nhiệmlà phải vận dụng các công cụ của mình góp phần tăng cường đầu tư mở rộng sản xuất - kinh doanh. Đồng thời phải tham gia tích cực vào việc tăng trưởng liên tục và ổn định, khống chế tỷ lệ thất nghiệp không vượt quá mức thất nghiệp tự nhiên. 2. Nội dung của chính sách tiền tệ ở Việt Nam Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có nhiệm vụ soạn thảo phối hợp với uỷ ban kế hoạch Nhà nước, Bộ Tài chính… tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ, tín dụng, Ngân hàng trong cả nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền. 2.1. Cung ứng và điều hoà khối tiền tệ Ngân hàng trung ương phải có giải pháp để duy trì được tương quan giữa tổng cung và tổng cầu, giữa tiền và hàng bằng cách giữ nguyên hoặc tăng hay giảm khối tiền tệ. - Nếu nền kinh tế hàng năm tăng trưởng thì khối tiền tệ phải tăng bằng cách tăng trưởng kinh tế. - Nếu có lạm phát mà chưa kiềm chế được thì khối tiền tệ cung ứng còn phải được tăng thêm bằng tỷ lệ lạm phát được kiềm chế. - Trong điều kiện nhất định như nước ta có số lượng ngoại tệ nằm trong tay những người cư trú (Thể nhân và pháp nhân tương đối lớn nen cần được tính vào khối tiền tệ có sẵn và sẽ tăng thêm). - Khi kiểm soát khối tiền tệ còn phải tính đén tốc độ luân chuyển của nó. tức là phải kiểm soát tổng số thanh toán bằng tiền (M x V). Có khi gọi (M x V) là "Trao lượng tiền tệ", tức là tỏng số lượng tiền tệ để chi trả trong một khoảng thời gian nhất định. Tốc độ lưu thông tiền tệ phụ thuộc nhiều yếu tố. Tốc độ chu chuyển vật tư hàng hoá, lòng tin của dân cư vào giá trị đồng tiền, khuynh hướng chi tiêu của dân chúng, chính sách kinh tế của Nhà nước trình độ klỹ thuật và khả năng tổ chức thanh toán của Ngân hàng. Về định hướng, tốc độ lưu thông tiền tệ (V) có thể do bằng tỷ số giữa GNP danh nghĩa và M (GNPIM), hoặc PQ (Tổng số giá cả hàng hoá) chia cho M (PQIM). Từ đó các nhà kinh tế "Trọng tiền" hiện đại theo học thuyết số lượng tiền tệ đến đẳng thức M x V = P x Q = GNP. Điều này có ý nghĩa là khi V và Q không đổi mà M tăng lên thì giá cả (P) sẽ tăng theo và GNP danh nghĩa tăng tương ứng. Tất nhiên cuộc sống phức tạp hơn. Việc điều chỉnh khối lượng tiền cung ứng phải thực hiện từ gốc, qua các nhu cầu đối ứng đặt ra trong các lĩnh vực tạo tiền (Mua ngoại tệ, tạm ứng ngân sách, tín dụng cho nền kinh tế) bằng các chính sách tín dụng và ngoại hối. Để thực hiện toàn diện chính sách tiền tệ Ngân hàng trung ương sẽ cụ thể hoá từng mặt chính sách theo các kênh tiền của khối tiền tệ và sử dụng các công cụ điều tiết Vĩ mô. 2.2. Chính sách tín dụng cho nền kinh tế Như chúng ta đã biết, khối lượng tài sản các Ngân hàng thương mại và Tổ chức tín dụng cung ứng cho các doanh nghiệp và các hộ gia đình là từ hai nguồn: Thứ nhất là: Nguồn huy động tiền đã có sẵn trong lưu thông từ các tài khoảng gửi không kỳ hạn và các loại tiền gửi có kỳ hạn. Thứ hai là: Sử dụng tiền Trung ương trong quá trình tái cấp vốn từ Ngân hàng Trung ương. Sau khi Ngân hàn thương mại cho vay ra, sẽ diễn ra chu trình tạo tiền gửi và đẻ ra bội số tín dụng rất phức tạp. Theo lý thuyết, bội số này có thể tăng lên gấp nhiều lần so với số dư tiền gửi ban đầu. ở các nước công nghiệp phát triển công nghệ Ngân hàng phát triển cao, thị trường nhạy cảm thì người ta nặng về sử dụng các công cụ gián tiếp chủ yếu (Như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tái chiết khấu, ngiệp vụ thị trường mở lãi xuất) để điều tiết tổng khối lượng tín dụng, từ đó tác động đến tăng, giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Việc khống chế bằng hạn mức tín dụng chỉ là biện pháp hỗ trợ. Khối lượng tiền tệ tăng thêm được rót qua kênh tín dụng hình thành trước hết từ nhu cầu thực sự của thị trường tiền tệ, quan hệ vay vốn giữa các nhà doanh nghiệp với Ngân hàng thương mại và các Tổ chức tín dụng. Khi các Ngân hàng thương mại và các Tổ chức tín dụng thiếu khả năng thanh toán thì họ đến Ngân hàng Trung ương xin tái cấp vốn (tái chiết khấu). ở đây Ngân hàng Trung ương luôn luôn là người cho vay cuối cùng, việc này nhằm thúc đẩy các Ngân hàng thương mại và các Tổ chức tín dụng phải huy động được tối đa nguồn tiền nhàn rỗi tỏng dân chúng để đầu tư và phát triển kinh tế, qua kênh gửi tiền vào Ngân hàng. Để tăng vai trò kiểm soát của Ngân hàng Trung ương, kiềm chế lạm phát, tăng nguồn vốn người ta thực hiện chính sách đa dạng hoá cơ cấu tiền gửi: Ngân hàng Trung ương khuyến khích và thúc đẩy việc các doanh nghiệp, cá nhân mở tài khoản tiền gửi, thanh toán và gửi tiền có kỳ hạn vào Ngân hàng thương mại và Tổ chức tín dụng, sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt (Séc, chuyển tiền điện tử, các loại thẻ điện tử…) phục vụ nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp với giá cả (Lãi suất) sử dụng vốn hạ nhất vì muốn kích thích taưng đầu tư cho nền kinh tế, để thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế thì lãi suất tiền vay là một vấn đề hết sức quan trọng. Ngân hàng là các nhà buôn tiền nên không thể chấp nhận lãi suất âm (Lãi suất tiền gửi lớn hơn lãi suất cho vay). Nhưng Ngân hàng cũng không thể áp dụng mức lãi suất cho vay quá cao so với tỷ suất lợi nhuận bình quân thực tế của thị trường, mà phải đưa ra mức lãi suất hợp lý để các nhà sản xuất cho người gửi và chi phí cho hoạt động của mình không để mức chênh lệch tiền gửi và lãi suất cho vay quá lớn sẽ dẫn đến khuyến khích dân chúng chuyển từ dạng tiền gửi Ngân hàng sang dự trữ tài chính bằng vàng và ngoại tệ. Khuyến khích các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng huy động vốn trung và dài hạn để mở rộng nguồn vốn đầu tư vào các dự án cải tiến kỹ thuật, thay đổi trang thiết bị, tăng năng xuất lao động và chất lượng sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường, thực hiện triệt để nguyên tắc: "Vay để cho vay" Ngân hàng Trung ương chỉ là người cho vay cuối cùng đối với các Ngân hàn thương mại và Tổ chức tín dụng. Mở rộng mạng lưới hoạt động và dịch vụ Ngân hàng đến mọi vùng, mọi thành phần kinh tế: Trên thị trường teìen tệ khác hàng hoàn toàn có quyền lựa chọn Ngân hàng, đến lượt mình Ngân hàng cũng có quyền chủ động lựa chọn khách hàng làm ăn nghiêm chỉnh, có hiệu quả để đầu tư, không phân biệt thành phần kinh tế, nghĩa là phải chuyển từ một chính sách tiền tệ chủ động, trong đó Ngân hàng Trung ương giữ vai trò chi phối, điều tiết. 2.3. Chính sách quản lý ngoại hối Để ổn định gía trị đối ngoại của đồng tiền quốc gia Ngân hàng Trung ương thực hiện các nhiệm vụ: Quản lý ngoại hối, lập theo dõi diễn biến củâ cán thanh toán quốc tế, thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, tổ chức và điều tiết thị trường hối đoái, xây dựng và thống nhất quản lý quĩ dự trữ ngoại hối của quốc gia, tiến hành kinh doanh ngoại hối trên thị trường quốc tế, phấn đấu ổn định tỷ giá hối đoái để kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả trong nước. Quan hệ với Ngân hàng Trung ương các nước, với các Tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế nhằm timf kiếm nguồn tài trợ nước ngoài có điều kiện ưu đãi, khuyến khích đầu tư nước ngoài và thu hút kiều hối vào nước mình, tổ chức quản lý nợ nước ngoài. Trong các vấn đề nêu trên thì chính sách hối đoái và dự trữ ngoại tệ, thị trường ngoại tệ và tỷ giá hối đoái là những yếu tố tác động mạnh tới khối lượng tiền tệ và giá trị đồng tiền trong nước cụ thể như sau. Chính sách quản lý ngoại hối hướng vào ngăn chặn việc tích tữ ngoại tệ trong các doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân, nếu có ngoại tệ phải bán cho Nhà nước, khi cần thi mua lại trên thị trường hối đoái, thu hút các nguồn ngoại tệ vào Ngân hàng Trung ương - Đây là chính sách mua bán đứt đoạn, có tác dụng làm tăng giá trị trên thị trường chỉ tiêu tiền nước mình, Nhà nước dễ kiểm soát khối lượng tiền trong lưu thông. Dự trữ ngoại tệ: Phục vụ cho nhu cầu thanh toán quốc tế và điều chỉnh khối lượng tiền tệ trong nước. Ngân hàng Trung ương mua ngoại tệ vào làm cho quĩ dự trữ ngoại tệ tăng, đồng thời cũng làm giảm lượng tiền trong lưu thông. Qua việc mua bán ngoại tệ Ngân hàng Trung ương thực hiện can thiệp thị trường. Chủ động tác động đến tỷ giá hối đoái theo chiều hướng tích cực. Trong điều kiện thực hiện nền kinh tế mở, thì chính sách tỷ giá hối đoái do Ngân hàng Trung ương thực thi là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh mẽ đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Nếu tỷ giá quá thấp sẽ khuyến khích nhậph khẩu, gây khó khăn chô xuất khẩu vì hàng xuất khẩu sẽ đắt hơn, khó bán ra nước ngoài, gây trở ngại cho các ngành sản xuất những mặt hàng xuất khẩu đó, việc chuyển ngoại tệ từ nước ngoài vào gây bất lợi, dự trữ ngoại tệ bị xói mòn. nếu tỷ lệ hối đoái cao sẽ không có lợi cho nhập khẩu nhưng lại khuyến khích cho xuất khẩu, làm cho hàng xuất khẩu rẻ hơn dễ cạnh tranh trên thịi trường quốc tế, kích thích chuyển ngoại tệ vào trong nước, dự trữ ngoại tệ có cơ hội gia tăng. Như vậy có hai phương pháp để ổn định tỷ giá. Một là tỷ giá cao hay thấp là do Ngân hàng Trung ương can thiệp. Hai là tỷ giá thả nổi do cung cầu ngoại hối trên thị trường chi phối Ngân hàng Trung ương hoàn toàn không can thiệp. 2.4. Chính sách tạm ứng cho Ngân hàng Nhà nước. Chính sách tiền tệ của Ngân hàng muốn đạt được mục tiêu như mong muốn, cần xử lý tốt mối tương quan của nó đối với chính sách tài chính, trước hết là chính sách thu chi ngân sách Nhà nước. Tuỳ theo tình trạng ngân sách có cân bằng hay không sẽ ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực với mức độ khác nhau trong các trường hợp sau: - Trường hợp Ngân sách cân bằng: Khi Chính phủ thu thuế vào ngân sách tức là lấy ra từ thu nhập của các doanh nghiệp và cá nhân mộ lượng tiền, khi ngân sách chi ra cho bộ máy quản lý Nhà nước và nền kinh tế thì số tiền ấy lại được giải toả nhưng vẫn nằm trong lưu thông: - Trường hợp ngân sách thiếu hụt: Chênh lệch chi lớn hơn thu, sẽ có tác động khác nhau đến nền kinh tế tuỳ theo cách tài trợ cho số thâm hụt ấy. Có 4 cách giải quyết: Một là vay dân, hai là vay của hệ thống Ngân hàng thương mại, Tổ chức tín dụng, ba là vay Ngân hàng Nhà nước, bốn là vay nợ nước ngoài. Vay của Ngân hàng Nhà nước, vay nợ nước ngoài (bằng ngoại tệ) sẽ làm tăng khối lượng tiền trong lưu thông, gây áp lực lạm phát. Vay của dân cư, của Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng trong nước thì nguy cơ làm tăng khối lượng tiền tệ trên thị trường nhẹ hơn. Không có sự lựa chọn nào hơn là phải phấn đấu thực hiẹn một ngân sách Nhà nước còn cân bằng nguồn thu thuế và chi tiêu. Không nên để bội chi ngân sách do phải bù đắp thiếu hụt chi phí hành chính mà tối thiểu ngân sachs phải phấn đấu thu đủ trang trải các nhu cầu chi thường xuyên. - Trường hợp ngân sách thặng dư: (Số thu lớn hơn số chi) là trường hợp rất quí, vì nó rút bớt khối lượng tiền tệ dư thừa trên thị trường, tác động có lợi cho mối tương quan giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ. II. Chính sách tiền tệ và việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ những năm qua ở VN. 1. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM). NVTTM bắt đầu vận hành vào 12/7/2000 đã có tác động nhất định tới vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng (TCTD) tham gia thị trường, đa dạng hoá kênh huy động và luân chuyển vốn, tạo ra khả năng phối kết hợp giữa thị trường liên ngân hàng - thị trường mở - thị trường chứng khoán (TTCK) trong các thị trường tài chính ở Việt Nam hiện nay. Hoạt động của NVTTM được ban hành theo quyết định số 85/2000/QD - NHNN 14 ngày 09/3/2000.Qua nửa năm hoạt động, NVTTM đã góp phần khắc phục khó khăn bước đầu trong thời vận hành. Thành viên tham gia NVTTM là các TCTD và NHNN, bao gồm 15 thành viên là Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam , Ngân hàng công thương Việt Nam, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương, Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, NHTM cổ phần Đông á, Ngân hàng CHINFON, NHTM cổ phần Sài Gòn Thương Tín, NHTM cổ phần Quốc tế, NHTM cổ phần Phương Nam, NHTM cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, NHTM cổ phần Quân đội, NHTM cổ phần Tân Việt, ABN AMRO Bank, Công ty tài chính bưu điện.Tuy chưa phải là nhiều song số lượng các TCTD này đã đại diện cho các TCTD hiện có ở Việt Nam. Qua các phiên giao dịch, số thành viên tham gia dự thầu là nhỏ, phiên giao dịch đông nhất có 5 thành viên dự thầu, thấp nhất là một thành viên, trong đó các NHTM quốc doanh tham gia dự thầu và trúng thầu là chủ yếu, còn các TCTD khác hầu như chưa tham gia dự thầu. Khối lượng giao dịch qua NVTTM từ 12/07/2000 đến ngày 15/11/2000 của Ngân hàng công thương Việt Nam là 810,420 tỷ đồng, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là 228,020 tỷ đồng, Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam là 393,390 tỷ đồng. Về hàng hoá giao dịch, theo quy chế hiện hành thì chỉ có các giấy tờ có giá ngắn hạn mới được mua bán ở thị trường mở, song cho đến nay, chỉ có tín phiếu kho bạc và tín phiếu NHNN được mua bán. Tín phiếu NHNN được mua bán nhiều nhất với số lượng 1.070 tỷ/1.448.500 tỷ đồng. Tín phiếu kho bạc Nhà nước chỉ có 378,500 tỷ đồng nếu tính theo giá trị khi đến hạn thanh toán. Như vậy hàng hoá ở thị trướng mở là khá đơn diệu và chỉ tập trung ở các NHTM quốc doanh. Về phương thức giao dịch, các phiên giao dịch vừa qua chỉ áp dụng phương thức mua bán hẳn với tín phiếu NHNN, phương thức mua có kỳ hạn đối với tín phiếu kho bạc nhà nước, còn phương thức bán hẳn ít được thực hiện và đặc biệt phương thức bán có kỳ hạn chưa được thực thi . Tính đến ngày 15/11/2000, doanh số trúng thầu ở hình thức mua hẳn ở 13 phiên giao dịch là 480 tỷ đồng, doanh số mua có kỳ hạn là 418,50 tỷ đồng, doanh số bán hẳn là 550 tỷ đồng. Phương thức đấu thầu thường là đấu thầu lãi suất . 2. Công cụ lãi suất cho vay triết khấu. Lãi suất tái triết khấu là một công cụ quan trọng giúp NHTƯ thực hiện CSTT. Nhưng việc áp dụng công cụ này ở Việt Nam những năm vừa qua còn đang ở trạng thái giản đơn do các phương tiện làm căn cứ để NHNN thực hiện cho vay triết khấu còn chưa hoàn thiện (đó là các thương phiếu, hối phiếu). Trong quá trình cho vay triết khấu, NHNN luôn luôn điều chỉnh lãi suất cho vay lãi suất phù hợp với mục tiêu của CSTT trong từng thời kỳ. Có thể nói trong thời gian qua, đặc biệt là những năm gần đây cho vay triết khấu thực sự trở thành công cụ đắc lực trong điều hành CSTT của NHNN Việt Nam. Việc điều chỉnh lãi suất cho vay triết khấu của NHNN những năm vừa qua đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các NHTM và khả năng huy động vốn trong nền kinh tế đã tăng lên nhiều. Cụ thể: Trong năm 1997, lãi suất triết khấu được điều chỉnh nhiều lần cho phù hợp với diễn biến của nền kinh tế. Từ tháng 03 đến tháng 07/1997: mức lãi suất triết khấu là 1,1%/tháng. Từ tháng 8 trở đi, lãi suất triết khấu quy định là 0,9%/tháng. Năm 1998, NHNH quyết định tăng lãi suất cho vay triết khấu lên mức 1,1%/tháng. Đến năm 1999, NHNN giảm lãi suất cho vay chiết khấu đối với các NHTM lần1 (vào tháng 01/1999) là 1%/tháng, lần 2 còn 0,85%/tháng (31/05/1999). Sau nhiều năm chuẩn bị dự án, ngày 02/08/2000, quyết định về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất sang cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản đã được ban hành và trên cơ sở đó các NHTM được chủ động quy định mức lãi cho vay cụ thể và lãi suất tiền gửi xoay quanh mức lãi suất cơ bản. Trong những tháng 08,09,10,11,12/2000, lãi suất cơ bản đối với nội tệ (đồng VN) vẫn giữ nguyên ở mức 0,75 %/tháng nhưng lãi suất tái triết khấu tăng từ 0,40% lên 0,45%tháng, lãi suất cho vay tái cấp vốn của NHNN được điều chỉnh từ 0,4% lên 0,5%. 3. Công cụ dự trữ bắt buộc. Từ năm 1990, dự trữ bắt buộc( DTBB) đã trở thành công cụ chủ yếu để điều hành CSTT ở Việt Nam. Theo pháp lệnh Ngân hàng (ban hành năm1990) tỷ lệ DTBB có thể ở mức từ 10% đến 30% tổng nguồn vốn huy động của các NHTM. Xong xét hoàn cảnh thực tế bấy giờ: tiềm lực của các NHTM Việt Nam còn nhỏ bé và lạm phát đã được kiềm chế ở mức đáng kể, nên NHNN đã quy định tỷ lệ DTBB đối với các NHTM ở nước ta là mức 10%. Song trong thời gian gần đây NHNN cũng liên tục giảm tỷ lệ DTBB đối với các TCTD với mong muốn khuyến khích đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng. 4. Công cụ hạn mức tín dụng. Công cụ hạn mức tín dụng được NHNN áp dụng để điều hành CSTT trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, do các công cụ gián tiếp để điều hành CSTT chưa phát huy đầy đủ hiệu quả.Việc đưa ra và áp dụng công cụ này trong những năm qua đã có những kết quả nhất định, chứng tỏ công cụ này phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam những năm đầu chuyển sang kinh tế thị trường. Chẳng hạn, do lạm phát những năm 1990-1991 còn ở tỷ lệ cao, để khống chế lạm phát, NHNN chủ trương giảm bớt lượng tiền cung ứng hạn mức tín dụng đối với tất cả NHTM là 34,5% (năm1992) và đã đạt được kết quả thực tế rất khả quan là mức tăng trưởng kinh tế tăng gấp 2 lần so với dự kiến, mức lạm phát thấp hơn dự kiến rất nhiều tiền tệ dần đi vào ổn định. Những năm sau đó, để kiểm soát lạm phát, NHNN cũng đưa ra tỷ lệ hạn mức tín dụng ở mức vừa phải cho các NHTM. Nhưng tình hình thực tế có khác đó là hầu hết các NHTM đều có xu hướng vượt quá chỉ tiêu hạn mức tín dụng theo kế hoạch đã được giao. Tuy nhiên, từ năm 1998 đến nay, công cụ hạn mức tín dụng đã mất dần vai trò của nó trong việc hạn chế sự gia tăng của tổng phương tiện thanh toán. Hơn nữa việc mở rộng tín dụng trong giai đoạn này là cần thiết để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nếu tiếp tục thực hiện hạn mức tín dụng sẽ tạo thêm những nhân tố khó khăn cho các NHTM trong việc mở rộng tín dụng. Vì vậy, từ quý II năm 1998, NHNN đã không áp dụng công cụ này như một công cụ thường xuyên để điều hành CSTT. 5. Công cụ lãi suất. ở Việt Nam lãi suất được sử dụng như công cụ của CSTT. Đặc biệt những năm gần đây, việc điều chỉnh lãi suất theo hướng từng bước nới lỏng của NHNN được coi như một đối sách nhạy bén trước những thay đổi của cung - cầu về tiền tệ. Trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ, năm 1989, NHNN thực hiện một cơ cấu kiểm soát lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi phức tạp, ấn định các mức lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay cụ thể theo đối tượng, nghành nghề kinh tế và kỳ hạn vay mượn. Năm 1990, cơ chế lãi suất trần tín dụng và sàn tiền gửi đã được áp dụng, nhưng vẫn được phân biệt theo kỳ hạn và loại hình khách hàng. Kể từ năm 1993, NHNN đã bỏ hẳn hình thức lãi suất theo nghành, chỉ quy định các mức trần, sàn lãi suất theo kỳ hạn giao dịch. Cũng vào thời gian này, cơ chế lãi suất thoả thuận đã được thí điểm áp dụng đối với nguồn vốn hình thành do phát hành kỳ phiếu, trái phiếu. Trên thị trường, vì cầu tín dụng cao hơn cung nên lãi suất cho vay đã được đẩy lên rất cao và cơ chế lãi suất thoả thuận đã bị loại bỏ. Bắt đầu 01/01/1996, NHNN thực thi chính sách trần lãi suất, tín dụng và quản lý chênh lệch giữa lãi suất đầu vào và lãi suất đầu ra (bỏ việc điều tiết trực tiếp lãi suất tiền gửi). Cũng vào thời gian này, chế độ thuế doanh thu đánh vào hoạt động tín dụng bị xoá bỏ, chi phí trung gian tài chính được điều chỉnh giảm mạnh, nên trần lãi suất tín dụng cũng đã được điều chỉnh giảm mạnh. Lãi suất tín dụng trung và dài hạn lần đầu tiên đã đuợc điều chỉnh cao hơn lãi tín dụng ngắn hạn. Năm 1998 là năm tự do hoá hoàn toàn lãi suất tiền gửi thông qua xoá bỏ chênh lệch lãi suất đầu vào và lãi suất đầu ra, NHNN chỉ quản lý duy nhất trần lãi suất tín dụng. Cuối năm 1998, lãi suất cho vay ngắn hạn giảm xuống còn 1,1%/tháng; cho vay trung hạn, dài hạn còn 1,15%/tháng. Sau mấy tháng đầu năm 1999, thống đốc NHNN đã ban hành quyết định số 198/1999/QD-NHNN 1 điều chỉnh giảm trần lãi suất cho vay ngắn, trung và dài hạn được thống nhất ở mức chung là 1,15%/tháng, được áp dụng chung cho các NHTM ở cả thành thị và nông thôn. Đến tháng 10/1999, trần lãi suất cho vay bằng VND của các NHTM được quy định ở mức chung là 1,05%/tháng. Vào năm 2000, việc kiểm soát lãi suất tiết kiệm ngoại tệ cũng đã được xoá bỏ. Ngày 05/08/2000, NHNN đã chính thức chuyển sang cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản, các NHTM được chủ động quy định các mức lãi suất cho vay cụ thể của mình theo biên độ xoay quanh mức lãi suất cơ bản, trên cơ sơ đó chủ động quy định các mức lãi suất tiền gửi. Theo cơ chế mới hàng tháng, NHNN công bố mức lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái triết khấu. Trong tất cả các tháng 08,09,10,11 và 12/2000, lãi suất cơ bản đối với tiền VNĐ vẫn liên tục giữ nguyên ở mức 0,75 %/tháng với biên độ 0,3% đôí với cho vay ngắn hạn, 0,5% đối với cho vay trung và dài hạn. Lãi suất cho vay ngoại tệ (USD) được xác định trên cơ sở lãi suất SiBor kỳ hạn 3 tháng cộng với biên độ 1,0% đối với cho vay ngắn hạn; 2,5% đối với cho vay trung và dài hạn. Trong các tháng cuối năm 2000, nhu cầu vốn tăng lên, sức ép tăng lãi suất rất lớn, các NHTM cạnh tranh nhau đồng loạt tăng lãi suất huy động vốn lên một giới hạn nhất định, còn lãi suất cho vay thì hầu như không tăng, mức lãi suất tiền gửi VNĐ cao nhất của kỳ hạn 12 tháng ở các NHTM cổ phần lên tới 0,6-0,65%/tháng; kỳ hạn 6 tháng: 0,4 - 0,55%/tháng. Tiền gửi USD kỳ hạn 12 tháng phổ biến ở các Ngân hàng là 5,5% - 6,0%/năm. Như vậy, hiện tại lãi suất cho vay nội tệ (VNĐ) hiện nay ở Việt Nam 7,5% - 10%/năm thấp nhất trong hơn 10 năm qua và lãi suất cơ bản là 0,75%/tháng (bắt đầu từ tháng 3/2001). Chương 3 các giải pháp tạo điều kiện nhất định cho việc tự do hoá lãi suất I. Khái niệm về tự do hoá lãi suất Tự do hoá lãi suất xuất phát từ những cơ chế điều hành chính sách lãi suất và sử dụng công cụ lãi suất trong chính sách tiền tệ. Như phần đầu của chuyên đề ra nêu ra ,NHTW có thể tác động vào lãi suất theo trong hai cách sau: * Dùng qui định hành chính. * Dùng tác động kinh tế . ở nhiều nước, NHTW đã không còn quản lý lãi suất bằng các công cụ hành chính mà chủ yếu sử dụng công cụ kinh tế là lãi suất cho vay của NHTW đối với ngân hàng thương mại. Cùng với sự phát triển cao của hệ thống tài chính ngân hàng quốc tế, quan điểm về điều hành chính sách lãi suất theo cơ chế tự do hoá lãi suất tác động bằng công cụ thị trường tới lãi suất như của:Anh, Mỹ là mục tiêu mà các quốc gia đều hướng tới. Tự do hoá lãi suất - hạt nhân của tự do hoá tài chính -là để cho lãi suất tự hình thành thị trườngtrên cơ sở: cung cầu về vốn; mức tiết kiệm; thu nhập và chi tiêu của cá nhân và những nhân tố khác; loại bỏ những áp đặt mang tính hành chính nên quá trình hình thành lãi suất; cho phép các tổ chức tín dụng tự chủ trong việc ấn định các mức lãi suất. NHTW chỉ gián tiếp tác động lên lãi suất thông qua các công cụ có tính định hướng, dấu hiệu cho thị trường là các công cụ công cụ tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở, hợp đồng mua lại và dự trữ bắt buộc. Nó ngược với những quan điểm về điều hành chính sách lãi suất một cách cứng nhắc thông qua các biện pháp ấn định lãi suất chủ quan, làm mất đi những tính năng ưu việt của lãi suất. Cơ chế này được gọi là cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp. II. Những cản trở đối với việc tự do hoá lãi suất ở Việt Nam Quá trình cải cánh hệ thống tài chính ở Việt Nam đã đưa chính sách lãi suất tiệm cận với thị trường hơn, sự cần thiết và xu hướng quốc tế hoá buộc Việt Nam phải chuyển sang cơ chế tự do hoá lãi suất. Nhưng ở thời điểm này, đề án tự do hoá lãi suất chưa khả thi ở Việt Nam vì những yếu tố sau: Thứ nhất, cũng như các nước đang phát triển bước đầu chuyển sang cơ chế thi trường, Việt Nam sẽ gặp những hạn chế chung như các kinh nghiệm của các nước đã được đề cập ở chương I của chuyên đề này. Đó là những khó khăn cơ bản nên ngay bây giờ khi các điều kiện tiền đề chưa cho phép nếu chúng ta thực hiện tự do hoá lãi suất thì tổn hại cho nền kinh tế sẽ rất nghiêm trọng. Ngoài ra, Việt Nam còn có những khó khăn đặc thù riêng. Thứ hai, phân tích thực trạng Việt Nam cho thấy khả năng chống đỡ của khu vực sản xuất hiện nay đối với việc tăng lãi xuất thực rất thấp, tính thụ động của hệ thống Ngân hàng đối với môi trường kinh tế còn ở mức cao trong một cơ chế lãi suất mở - chỉ có trần lãi suất tín dụng - nhưng hầu như các tổ chức tín dụng vẫn không tự điều chỉnh lãi suất kinh doanh theo diễn biến giảm phát liên tục của nền kinh tế năm 1999, mà thường chỉ điều chỉnh khi Ngân hàng nhà nước can thiệp và hầu như cho vay ở mức kịch trần, thậm chí còn vượt trần bằng cách tăng các chi phí lãi suất. Trong khi đó, việc nới lỏng dần hoạt động quản lí lãi suất hướng tới tự do hoá có khuynh hướng làm tăng lãi suất thực trong nước, khiến luồng vốn quốc tế đổ vào. Đồng nội tệ bị lên giá cộng với gánh nặng lãi suất sẽ gây khó khăn cho khu vực doanh nghiệp và khu vực Ngân hàng và sự chạy trốn của các luồng tư bản là kết quả cuối cùng của quá trình này nếu sự tự do hoá tài khoản vốn được thực hiện. Thứ ba, thị trường tài chính của nước ta - nơi mà từ đó lãi suất thị trường được hình thành và là nơi điều tiết vốn - còn kém phát triển. Thị trường tiền tệ vẫn trong giai đoạn quá độ với trình độ hết sức sơ khai. Tham khảo một số tài liệu của IMF, thuộc chương trình ESAF dành cho Việt Nam ( giai đoạn 2) qua mấy năm đổi mới, chỉ số phát triển chiều sâu tài chính ( Financial deeping ) của Việt Nam vẫn ở xu hướng giảm và còn thấp. Chỉ số M2/GDP chỉ là 12,5% so với mức bình quân trên 60% của nhiều nước đang phát triển; chỉ số Mo/tiền gửi Ngân hàng còn cao là 61,2%, trong khi khối các nước ASEAN phổ biến chỉ khoảng 12% - có nghĩa là trong lúc mức độ tiền tệ hoá nền kinh tế (Monetization) ( điều quyết định kích cỡ thị trường tiền tệ ) còn rất thấp thì chủng loại "hàng hoá" cho mọi giao dịch vốn, tiền tệ ( liên quan đến kết cấu tiền tệ, bán tiền tệ, các công cụ tiền tệ ngắn hạn ... ) còn hết sức nghèo nàn, phương thức giao dịch còn thô sơ và mức độ rủi ro tiền tệ còn lớn. Đặc trưng của thị trường tiền tệ Việt Nam là các quan hệ cung cầu vốn, tiền tệ hình thành một cách hết sức khó khăn diễn ra không bình thường. Thị trường vốn, mới hình thành một trung t(c)m giao dịch chứng khoán ở thành phố Hồ Chí Minh tháng 8 năm 2000. lưu lượng vốn giao dịch theo thống kê đến tháng 1 năm 2001 mới có 40 tỷ đồng Việt Nam. Tình trạng đóng băng của trung tâm này thời gian gần đây cùng với sự nghèo nàn hàng hoá niêm yết chưa cho phép nó trở thành một cửa ngõ quan trọng để các doanh nghiệp có thể huy động được vốn. Chúng ta đã có thị trường Liên Ngân hàng, tuy nhiên hoạt động của thị trường này hiện nay đang ở trình độ thấp, quy mô nhỏ. Và một số tồn tại sau đang cản trở những bước hội nhập trong tiến trình tự do hoá: - Nền tảng kinh tế vĩ mô vẫn chưa ổn định: nguy cơ lạm phát vẫn còn tiềm ẩn ( lạm phát tăng từ 3,6% năm 1991 lên 9,2% năm 1999 ); ngân sách vẫn còn căng thẳng: tích luỹ nội địa thấp, vốn đầu tư còn thiếu và phụ thuộc khá lớn vào vốn đầu tư nước ngoài ( đến 50%). - Xuất phát điểm của nền kinh tế ở mức quá thấp. - Khu vực sản xuất ( nhất là khu vực nhà nước) hoạt động kém hiệu quả, đang trong giai đoạn chấn chỉnh, sắp xếp, cổ phần hoá ... - Hiện nay, các công cụ tài chính như thương phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn khác để thực hiện nghiệp vụ tái chiết khấu, chiết khấu chưa được phổ biến. Luật thương mại đã có những điều khoản quy định về thương phiếu song lại thiếu những văn bản hướng dẫn thực hiện cho nên từ đó đến nay chưa có sự sử dụng thương phiếu để thanh toán. Nghiệp vụ tái cấp vốn của ngân hàngnhà nước chưa thực hiện đúng nội dung kinh tế của nó, chủ yếu còn mang tính chất cho vay trực tiếp, chưa thể thực hiện được tinh thần "người cho vay cuối cùng". Do đó công cụ lãi suất tái chiết khấu chưa đủ sức mạnh chi phối lãi suất thị trường. - Nghiệp vụ thị trường mới chưa ra đời cũng gây khó khăn cho việc điều tiết cung ứng tiền và lãi suất. - Hệ thống Ngân hàng thương mại, nhất là các Ngân hàng thương mại cổ phần vẫn còn yếu kém: vốn nhỏ, trình độ quản lý, đội ngũ cán bộ còn bất cập so với đòi hỏi khách quan. - Tình hình kinh tế, tài chính các nước trong khu vực và trên thế giới, sau cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế năm 1997 đang phải đối đầu với nhiều khó khăn thách thức. - Trình độ quản lý nền kinh tế của các cơ quan vĩ mô trong những năm qua đã có nhiều bước tiến khá dài, nhưng so với yêu cầu đặt ra vẫn chưa thể đáp ứng ngay được. Tóm lại, để tự do hoá lãi suất ở Việt Nam hiện nay là chưa có đủ điều kiện. Đó là một quá trình cần có một sự chuẩn bị cân nhắc cẩn thận trình tự từng bước đi, sao cho có thể tự do hoá được dần dần đạt tới và hạn chế những tác động ngược mà nó có thể gây ra. III. Giải pháp chuyển sang tự do hoá lãi suất 1. Thiết kế và đưa vào sử dụng các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ 1.1 Dự trữ bắt buộc: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần phải áp dụng thống nhất đối với tất cả các tổ chức và mọi loại tài sản nợ. Việc không tuân thủ cần bị xử phạt nghiêm khắc thông qua việc áp dụng mức lãi suất phạt cao trên số thiếu hụt bình quân cả kỳ. Ngân hàng Trung ương phải có quyền quy định cách thức tính toán và loại tài sản nợ cũng như loại hình tổ chức áp dụng dự trữ bắt buộc. Cùng với xu thế chung của thế giới, tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần được giảm thấp hơn, nên xem xét việc trả lãi toàn phần hay một phần do dự trữ bắt buộc vượt quá mức nhất định. 1.2 Lãi suất tái chiết khấu và tái cấp vốn: Cần hợp nhất các thể thức tái cấp vốn thành một thể thức với một lãi suất cho vay tái cấp vốn duy nhất. Thường cần có một thể thức chiết khấu chung để cung cấp vốn khả dụng cho thị trường và ngăn chặn biến động quá mức của lãi suất ngắn hạn, đặc biệt là lãi suất liên ngân hàng. Thể thức này cần áp dụng thống nhất với mọi ngân hàng và cho phép được vay tự động với các quy tắc và hạn mức quy định trước. Đối với thể thức tái chiết khấu, biến số chủ chốt là lãi suất chiết khấu. Nếu không có thị trường tiền tệ phát triển thì có thể quy định lãi suất này theo cách hành chính. Một số Ngân hàng Trung ương tổ chức đấu giá tín dụng của Ngân hàng Trung ương để xác định lãi suất chiết khấu. Quy tắc căn bản là phải luôn giữ lãi suất chiết khấu cao hơn lãi suất tiền gửi để buộc các Ngân hàng phải huy động tiền gửi trước khi vay vốn của Ngân hàng Trung ương. Ngay khi có thể, cần (r)ặt lãi suất chiết khấu cao hơn lãi suất tham chiếu tiêu chuẩn của thị trường tiền tệ. 1.3 Nghiệp vụ thị trường mở: Hoạt động thị trường mở đòi hỏi phải có thị trường thứ cấp với khối lượng giao dịch lớn. Để thực hiện nghiệp vụ này, cả Ngân hàng Trung ương và Ngân hàng thương mại cần phải nắm giữ và sẵn sàng nắm giữ trái phiếu. Nếu không có thị trường chứng khoán thứ cấp sôi động, thì trên thực tế, các Ngân hàng Trung ương sẽ bị hạn chế và khả năng sử dụng thị trường mở một cách có hiệu quả trên thị trường sơ cấp. Điển hình là các nghiệp vụ đó bao gồm đấu thầu chứng khoán được phát hành mới để thu hút tiền dự trữ hoặc đấu thầu tín dụng của Ngân hàng Trung ương để cung ứng tiền dự trữ. Để thu hút lượng vốn thanh khoản dư thừa, thì thị trường mở được sử dụng phổ biến là phát hành chứng khoán mới của Ngân hàng Trung ương hoặc của Kho bạc. 2. Xây dựng thị trường tiền tệ và thị trường vốn Điều hành chính sách tiền tệ bằng các công cụ gián tiếp, tự do hoá lãi suất đòi hỏi phải có thị trường tiền tệ hoặc thị trường liên ngân hàng tốt để truyền tải những biến số chính sách và lãi suất. Do vậy, cần phải thiết lập những thị trường này có khả năng hình thành nên lãi suất thị trường, cho phép Ngân hàng Trung ương can thiệp để thực hiện chính sách tiền tệ và Ngân hàng thương mại có cơ chế quản lý vốn khả dụng dôi dư một cách tích cực. Phát triển thị trường Liên ngân hàng theo hướng để các Ngân hàng thương mại đủ tiêu chuẩn tham gia thị trường tự do giao dịch, trao đổi tiền Trung ương với nhau. Ngân hàng Nhà nước chỉ can thiệp với tư cách người cho vay cuối cùng và lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước phải căn cứ vào điều kiện thị trường, dần dần hình thành cặp lãi suất chỉ đạo gồm lãi suất chiết khấu và lãi suất cho vay lưu phiếu ( thế chấp tín phiếu, hối phiếu ... ). Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cần nhanh chóng thoả thuận với kho bạc Nhà nước tổ chức ngay việc đấu giá tín phiếu kho bạc theo hình thức ghi sổ, để các Ngân hàng thương mại có công cụ trao đổi, thế chấp nhằm phát triển các hoạt động thị trường của họ và từ đó Ngân hàng Nhà nước có thể xây dựng thị trường tiền tệ và sử dụng tín phiếu kho bạc trong nghiệp vụ thị trường mở để điều tiết thị trường. Mặt khác, chúng ta cần củng cố các Ngân hàng thương mại, nhất là các Ngân hàng thương mại quốc doanh để chúng trở thành những đối tác tin cậy trên thị trường tiền tệ, trên cơ sở đó các chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu Ngân hàng do các Ngân hàng phát hành mới có tính chuyển nhượng cao và trở thành công cụ được giao dịch trên thị trường. Muốn mở rộng quy mô và tính sôi động của thị trường tiền tệ cần phải có mức độ tiền tệ hoá ( Monetization) cao. Chúng ta chỉ thực hiện được điều này khi kiểm soát được lạm phát, nâng cao chỉ số phát triển chiều sâu về tài chính (Financial deeping) bằng cách tăng chỉ số M2/GDP và giảm chỉ số Mo/Tiền gửi Ngân hàng. Đa dạng hoá chủng loại "hàng hoá" cho mọi giao dịch vốn, tiền tệ trên thị trường tiền tệ. Ban hành những văn bản hướng dẫn thanh toán qua thương phiếu (r)ược quy (r)ịnh trong luật thương mại. X(c)y dựng và hoàn thiện cơ chế tái chiết khấu các giấy tờ thương mại có giá ng3/4n hạn theo thông lệ quốc tế. Sự có mặt của thị trường tiền tệ sẽ đóng góp hữu ích vào việc xây dựng và củng cố bầu không khí lành mạnh và an toàn hoạt động của các Ngân hàng. Mối lo âu thường xuyên của các Ngân hàng, tổ chức tín dụng về khả năng thanh khoản của mình sẽ được giải toả, các nguồn tiền sẽ được sử dụng đúng mức và hiệu quả hơn. Kết quả là các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng được cung cấp nhiều vốn với "giá" phải chăng hơn trước đây. Công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi một nguồn vốn trung hạn và dài hạn lớn. Với phương châm dựa vào nguồn vốn nội lực là chính, thị trường chứng khoán ra đời tạo thêm một kênh huy động vốn quan trọng cho nền kinh tế. Để thị trường này hoạt động có hiệu quả cần thiết ban hành những văn bản pháp quy phù hợp, triển khai hệ thống thông tin điện tử hiện đại bảo đảm các giao dịch được kịp thời. Vấn đề tạo hàng hoá và chủ thể tham gia thị trường này gắn liền với tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp. Trong những năm tới, số lượng các doanh nghiệp cần cổ phần hoá lên tới 2000 - 3000 doanh nghiệp. Song càng về sau quá trình này diễn ra chậm chạp hơn do quy mô các doanh nghiệp lớn hơn. Nhà nước nên có những ưu đãi ban đầu đối với những doanh nghiệp vừa tiến hành cổ phần. 3. Cải cách hơn nữa hệ thống ngân hàng Ngân hàng Trung ương phải tiếp tục củng cố và phát huy vai trò điều hành chính sách tiền tệ của mình. Với việc sử dụng các công cụ và cơ chế thị trường để can thiệp, Ngân hàng Trung ương cần phải có được thông tin cập nhật và tiếp xúc thường xuyên với thị trường. Điều này đòi hỏi phải có sự thay đổi trong phương thức hoạt động của Ngân hàng Trung ương, chuyển từ theo dõi thụ động và định kì việc tuân thủ các quy định bắt buộc sang tham gia một cách tích cực và thường xuyên. Việc theo dõi hàng ngày các diễn biến và tỉ giá, lãi suất và vốn khả dụng trên thị trường tiền tệ sẽ cho biết thời điểm có sự căng thẳng trên thị trường và mức độ can thiệp. Ngân hàng Trung ương có thể can thiệp khi cần thiết trên thị trường tiền tệ hoặc ngoại hối một cách công khai hoặc gián tiếp thông qua các đại lý. Cần có sự phân chia quyền lực hợp lý giữa các bộ phận ra quyết định, cơ cấu lại tổ chức của Ngân hàng Trung ương - đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa các vụ chuyên môn. Hệ thống kế toán cũng cần được hợp lý hoá và hiện đại hoá để cung cấp các thông tin cập nhật cần thiết để quản lý ngắn hạn các hạng mục chủ yếu trên bảng cân đối của Ngân hàng Trung ương. Ngoài Ngân hàng Trung ương, cũng cần phải có những thay đổi trong hệ thống Ngân hàng nói chung. Điểm xuất phát để cải tổ hệ thống Ngân hàng là phải đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao năng lực quản trị của các ngân hàng và việc gia tăng các yếu tố vật chất chỉ được thực hiện trên cơ sở chất lượng quản trị. Đồng thời, việc quản lý hệ thống ngân hàng phải theo hướng hỗ trợ các ngành kinh doanh có hiệu quả, không phải theo hướng nuôi dưỡng các ngân hàng yếu kém. Trước hết của việc cải tổ là phải bắt đầu từ nhân sự, tức là các nhà quản trị ngân hàng. Để có những nhà quản trị giỏi, trước hết phải có cơ chế lựa chọn và đào thải. Tiêu chuẩn trước hết để lựa chọn một nhà quản trị ngân hàng là chất lượng công việc và tính sáng tạo, đương nhiên phải trên cơ sở đạo đức nghề nghiệp. Mặt khác, cần có cơ chế sàng lọc bao gồm: thay thế người có năng lực hơn, thay đổi vị trí đánh giá lại. Một nhà quản trị có thể bị thay thế trong các trường hợp sau: năng lực quản trị yếu, phạm những sai lầm nghiêm trọng trong quản trị và cạn kiệt các ý tưởng mới trong quản trị làm ảnh hưởng đến sự phát triển ngân hàng. Mở rộng quyền tự chủ của ngân hàng trong kinh doanh phải gắn liền với hệ thống kiểm soát chặt chẽ. Chính sách của Ngân hàng Trung ương đối với các Ngân hàng thương mại cần tập trung vào các lĩnh vực có ảnh hưởng đến kinh tế vĩ mô và hệ thống Ngân hàng, không can thiệp quá sâu vào kỹ thuật nghiệp vụ - lĩnh vực cần phải tự chủ trong cạnh tranh. Tập trung thanh tra và kiểm soát chặt chẽ các khâu trọng yếu và các địa bàn trọng điểm, đặc biệt là các trung tâm tài chính. Thành lập Ngân hàng chính sách hoặc có biện pháp tách rời hoạt động có tính chính sách trong các Ngân hàng thương mại để tạo ranh giới rõ ràng hơn giữa chức năng kinh doanh của Ngân hàng thương mại với chức năng cơ quan thực hiện các chính sách của Nhà nước. Tiến hành cổ phần hoá hệ thống Ngân hàng thương mại quốc doanh nhằm tạo điều kiện tiến hành cải tổ hệ thống ngân hàng theo hướng cắt giảm chi phí hoạt động, nâng cao hiệu quả kinh doanh cũng như chuẩn bị cho tiến trình hội nhập với khu vực và trên thế giới. Do tầm quan trọng của hệ thống ngân hàng nên Nhà nước chỉ cần giữ quyền kiểm soát với trên 50% vốn là đủ. 4. Chuyển lãi suất cơ bản từ lãi suất cho vay sang lãi suất tiền gửi Bước sang trung gian để chuyển sang tự do hoá lãi suất là cần phải điều hành lãi suất qua việc điều hành lãi suất cơ bản của Ngân hàng Trung ương. Hiện nay lãi suất cơ bản đưa ra cho các tổ chức tín dụng là lãi suất cho vay. Tuy nhiên vì một sự cạnh tranh lành mạnh và an toàn hệ thống, chúng ta cần chuyển dần sang cơ chế khống chế lãi suất tiền gửi tối đa làm lãi suất cơ bản theo thông lệ quốc tế. Cụ thể: Lãi suất tiền gửi tối đa = Lạm phát dự kiến + Lãi thực của người gửi tiền Các tổ chức tín dụng ấn định các mức lãi suất tiền gửi trong phạm vi mức khống chế lãi suất tiền gửi tối đa và ấn định các mức lãi suất cho vay cụ thể phù hợp với cung cầu vốn. Thực chất của lãi suất cơ bản theo loại này là Ngân hàng Trung ương chỉ công bố và kiểm soát lãi suất tiền gửi tối đa và tự do hoá lãi suất cho vay, việc điều hành và kiểm soát lãi suất cho vay thông qua điều hành lãi suất tiền gửi tối đa và các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ. Lãi suất cơ bản theo cách này có ưu điểm là tạo ra một bước tiến mới trong chính sách lãi suất tiến sát tới tự do hoá lãi suất hoàn toàn ( là tự do hoá lãi suất cho vay và tự do hoá lãi suất tiền gửi dưới mức tối đa ), là cơ chế lãi suất linh hoạt theo quan hệ cung cầu vốn, phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế, tạo ra khả năng cạnh tranh lớn giữa các tổ chức tín dụng, giảm thiểu sự quản lí của nhà nước bằng mệnh lệnh hành chính. Khống chế lãi suất tiền gửi tối đa sẽ không cho phép các tổ chức tín dụng huy động vốn với bất kì lãi suất nào chạy đua về lãi suất tiền gửi để huy động mới bù đắp nợ cũ. Đảm bảo an toàn hệ thống và bảo vệ được lợi ích của người gửi tiền. Đồng thời, lãi suất cơ bản loại này thì hình thành nhiều khu vực lãi suất theo quan hệ cung cầu vốn và chi phí ngân hàng khác nhau. - Điều chỉnh lãi suất cho vay bằng việc trực tiếp quyết định nâng cao hoặc hạ lãi suất tiền gửi tối đa tương ứng. - Điều hành gián tiếp bằng việc dùng các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ tác động vào khối lương vốn trên thị trường như : ngân hàng mua bán các loại giấy tờ có giá ngắn hạn của các tổ chức tín dụng ... Vì vậy, khi ngân hàng trung ương xây dựng và củng cố thị trường tiền tệ, chuyển từ điều hành chính sách tiền tệ bằng công cụ trực tiếp sang kết hợp điều chỉnh bằng công cụ trực tiếp với công cụ gián tiếp, đưa nghiệp vụ thị trường mở vào hoạt động để mua bán các chứng khoán ngắn hạn của các tổ chức tín dụng, thực hiện tái chiết khấu các chứng từ của các tổ chức tín dụng; Củng cố kiểm soát thị trường liên ngân hàng, tiếp tục củng cố và mở rộng việc mở và sử dụng tài khoản cá nhân, để trên cơ sở đó một chính sách lãi suất cơ bản linh hoạt hơn trần lãi suất như công bố lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa có sự kiểm soát của nhà nước bằng cả trực tiếp lẫn gián tiếp. Và sau quá trình thực hiện thành công lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa thì ta sẽ tiến hành thêm một bước nữa để tự do hoá lãi suất hoàn toàn khi đã có và chủ động về các công cụ điều hành chính sách tiền tệ và các điều kiện khác về kinh tế và tiền tệ ổn định. Kết luận Chính sách tiền tệ có vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế của Việt Nam nói riêng. Nó được chính phủ (trước hết là NHTW) các nước sử dụng làm công cụ tác động vào các biến số kinh tế vĩ mô, để nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Sự phát triển các công cụ chính sách tiền tệ là một quá trình phức tạp thường đòi hỏi một thời gian khá dài để hoàn thành. Nhưng các vấn đề liên quan đến chính sách tiền tệ hiếm khi được giải quyết triệt để, đặc biệt đối với nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi như Việt Nam. Cùng với những khó khăn hiện nay, chính sách tiền tệ ở Việt Nam còn đứng trước thửu thách ngày càng gia tăng với nguy cơ tụt hậu trước một thế giới đang bước vào thời kỳ tăng trưởng nhanh. Do đó, chính sách tiền tệ phải đảm bảo đạt được những ưu việt nhất định để giải quyết mối tương quan giuữa mục tiêu ổn định và tăng trưởng, xây dựng một nền kinh tế phát triển cao, lâu bền. Tuy nhiên, trong những năm qua, Việt Nam đã học được nhiều bài học kinh nghiệm quí báu và bổ ích rút ra những kinh nghiệm, xác định đúng mục tiêu và định hướng của nó trong thời gian trước mắt cũng như lâu dài, để từ đó có những quyết sách phù hợp và đúng đắn hơn đối với nền TCTT trong tổng thể nền kinh tế đất nước. Làm được như vậy chắc chắn trong thời gian tới, chính sách tiền tệ sẽ thực sự trở thành công cụ điều tiết hữu hiệu kinh tế thị trường ở Việt Nam, nhưng vẫn đảm bảo cho nền kinh tế đó vận hành theo định hướng XHCN, theo đúng đường lối mà Đảng và Chính phủ đã đề ra. Tài liệu tham khảo 1. Chính sách tiền tệ. NXB Chính trị quốc gia 2. Các công cụ tài chính trong nền kinh tế thị trường NXB Thống kê - 1993 - Nguyễn Thế Thọ. 3. Sự điều tiết kinh tế vĩ mô của NHTW - Lê Vinh Danh. 4. Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản của NHNN - TCNH 8/2000 5. Lý thuyết tiền tệ - Ngân hàng - Học viện Ngân hàng 8/2000. 6. Những nét đổi mới trong điều hành chính sách tiền tệ - Thông tin tài chính tiền tệ 2-2001. 7. Kinh tế Việt Nam 15 năm đổi mới: động lực tiến vào thế kỷ XXI. Tài chính. TCDN 2001. 8. Kinh tế học - David Begg - NXB Giáo dục. 9. Mười sự kiện nổi bật trong năm 2000. TCDN số 1/2001. 10. Những nét mới trong điều hành CSTT - TS Đào Minh Phúc. Thông tin tài chính tiền tệ 2-2001. 11. Một số tạp chí ngân hàng, tài chính, phát triển kinh tế, thời áo kinh tế. 12. Một số luận văn, chuyên đề đã bảo vệ tốt nghiệp.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28165.doc
Tài liệu liên quan