Gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, hội nhập kinh tế quốc tế vừa có cơ hội lớn, vừa phải đối đầu với những thách thức không nhỏ. Cơ hội tự nó không biến thành lực lượng vật chất trên thị trường mà phụ thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội của chúng ta.
Cơ hội và thách thức không phải là bất biến mà luôn vận động, chuyển hóa và thách thức đối với ngành này có thể là cơ hội cho ngành khác phát triển. Tận dụng được cơ hội hay không còn tùy thuộc vào nỗ lực vươn lên của chúng ta, tạo ra thế và lực mới để vượt qua và đẩy lùi thách thức, tạo ra cơ hội mới lớn hơn. Ngược lại không tận dụng được cơ hội, thách thức sẽ lấn át, cơ hội sẽ mất đi, thách thức sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn và khó khắc phục. Ở đây, nhân tố chủ quan, nội lực của đất nước, tinh thần tự lực tự cường của toàn dân tộc là quyết định nhất.
14 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2089 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Mâu thuẫn biện chứng giữa cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MôC LôC
Trang
Phần mở đầu
Mặc dù đã có những dự báo và chuẩn bị cho những thay dổi trong nền kinh tế khi Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, nhưng chỉ mới bước sang tháng thứ 5 sau ngày có hiệu lực chính thức(11/1/2007)hơi nóng của WTO đã lan tỏa khá nhanh trong nền kinh tế và tạo ra nhiều sự thay đổi lớn.
Một câu hỏi lớn được đặt ra cho toàn bộ thể chế kinh tế-chính trị của nước ta: Khi gia nhập WTO, chúng ta sẽ gặp phải những thuận lợi nào,khó khăn nào và làm thế nào để biến những khó khăn ấy trở thành điều kiện thuận lợi để ta có thể vững bước trên trường quốc tế?
Muốn trả lời được câu hỏi trên chúng ta cần phải nắm được mâu thuẫn biện chứng giữa những thuận lợi và khó khăn ấy, để từ đó đưa ra được phương hướng và giải pháp tối ưu.
Nội dung
I. Khái quát về tổ chức thương mại thế giới(WTO):
1.1. Khái quát chung:
Tổ chức thương mại thế giới WTO ra đời ngày 1/1/1995, tiền thân của WTO là hiệp định chung về thương mại và thuế quan.
Với 149 thành viên(10/2006), WTO là tổ chức quốc tế duy nhất đưa ra các quy tắc, luật lệ điều tiết quan hệ thương mại giữa các quốc gia. Khối lượng giao dịch giữa các thành viên của WTO hiện chiếm trên 98% giao dịch thương mại quốc tế.
1.2. Chức năng của WTO:
1.2.1/ Là diễn đàn thương lượng về mậu dịch theo hướng tự do hóa thương mại thông qua việc loại bỏ các rào cản trong thương mại.
1.2.2/ Đưa ra các nguyên tắc và cơ sở pháp lý cho thương mại quốc tế do các nước thành viên thương lượng và kí kết với mục đích đảm bảo thuận lợi hóa thương mại giữa các thành viên WTO.
1.2.3/ Giải quyết tranh chấp thương mại giữa các thành viên.
1.2.4/ Giám sát việc thực hiện các hiệp định trong khuân khổ WTO.
1.3. Các nguyên tắc chính của WTO:
1.3.1/ Không phân biệt đối xử.
1.3.2/ Thúc đẩy thương mại tự do hơn (thông qua thương lượng loại bỏ các rào cản thuế quan và phi thuế quan).
1.3.3/ Đảm bảo tính ổn định, tiên đoán được bằng các cam kết minh bạch hóa.
1.3.4/ Thúc đẩy cạnh tranh công bằng.
1.3.5/ Khuyến khích cải cách và phát triển kinh tế.
II. Khái quát về mâu thuẫn biện chứng:
2.1. Các khái niệm cơ bản:
2.1.1/ Các mặt đối lập:
Tất cả các sinh vật, hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau. Những mặt trái ngược đó, phép biện chứng gọi là mặt đối lập.
Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau.
Sự tồn tại các mặt đối lập là khách quan và phổ biến trong tất cả các sự vật.
2.1.2/ Mâu thuẫn biện chứng:
Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng.
Mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy.Đặc biệt, mâu thuẫn biện chứng trong tư duy là phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực và là nguồn gốc phát triển của nhận thức.
2.1.3/ Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập:
Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, không tách rời nhau gữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau.
2.2. Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và phát triển:
Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là 2 xu hướng tác động khác nhau của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Như vậy, mâu thuẫn biện chứng bao hàm cả sự thống nhất lẫn đấu tranh của các mặt đối lập.
Trong sự tác động qua lại của các mặt đối lập thì đấu tranh của các mặt đối lập quy định một cách tất yếu sự thay đổi của các mặt đang tác động và làm cho mâu thuẫn phát triển.
Lúc đầu mới xuất hiện, mâu thuẫn chỉ là sự khác nhau căn bản, nhưng theo khuynh hướng trái ngược nhau. Sự khác nhau đó ngày càng phát triển và đi đến đối lập. Khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt đã đủ điều kiện, chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ đó mà thể thống nhất cũ được thay thế bằng thể thống nhất mới, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời thay thế.
Tuy vậy, không có thống nhất của các mặt đối lập thì cững không có đấu tranh giữa chúng.thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là 2 mặt không tách rời nhau trong mâu thuẫn biện chứng. Sự vận động và phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính thay đổi. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập quy định tính ổn định và tính thay đổi của sự vật.
Do đó, mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển.
2.3. Phân loại mâu thuẫn:
2.3.1/ Căn cứ vào quan hệ đối với sự vật được xem xét, người ta phân biệt thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
- Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuyng hướng độc lập của cùng 1 sự vật.
- Mâu thuẫn bên ngoài đối với một sự vật nhất định là mâu thuẫn diễn ra trong mối quan hệ giữa sự vật đó với các sự vật khác.
Việc chia mâu thuẫn thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài chỉ là tương đối, tùy theo phạm vi xem xét. Cùng một mâu thuẫn nhưng xét trong mối quan hệ này là mâu thuẫn bên ngoài, nhưng xét trong mối quan hệ khác lại là mâu thuẫn bên trong.
Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định trực tiếp đối với quá trình vận động và phát triển của sự vật. Tuy nhiên, mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài không ngừng tác động qua lại lẫn nhau. Việc giải quyết mâu thuẫn bên trong không thể tách rời việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài, và việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài là điều kiện để giải quyết mâu thuẫn bên trong.
2.3.2/ Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, mâu thuẫn được chia thành: mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
- Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật, nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự vật. Mâu thuẫn cơ bản được giải quyết thì sự vật sẽ thay đổi căn bản về chất.
- Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn chỉ đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật, nó không quy định bản chất của sự vật, mâu thuẫn đó nảy sinh hay được giải quyết không làm cho sự vật thay đổi căn bản về chất.
2.3.3/ Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật trong một giai doạn nhất định, các mâu thuẫn được chia thành : mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu.
- Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở mỗi giai đoạn phát triển nhất định của sự vật, nó chi phối các mâu thuẫn khác trong giai đoạn đó. Giải quyết được mâu thuẫn chủ yếu trong từng giai đoạn là điều kiện cho sự vật chuyển sang giai đoạn phát triển mới.
Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu có quan hệ chặt chẽ với nhau. Mâu thuẫn chủ yếu có thể là một hình thức biểu hiện nổi bật của mâu thuẫn cơ bản, hay là kết quả vận động tổng hợp của các mâu thuẫn cơ bản ở một giai đoạn nhất định. Việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu tạo điều kiện giải quyết từng bước mâu thuẫn cơ bản.
- Mâu thuẫn thứ yếu là những mâu thuẫn ra đời và tồn tại trong một giai đoạn phát triển nào đó của sự vật, nhưng nó không đóng vai trò chi phối mà bị mâu thuẫn chủ yếu chi phối. Giải quyết mâu thuẫn thứ yếu là góp phần vào việc từng bước giải quyết mâu thuẫn chủ yếu.
2.3.4/ Căn cứ vào tính chất của quan hệ lợi ích, người ta chia các mâu thuẫn trong xã hội thành mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.
- Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người có lợi ích cơ bản đối lập nhau.
- Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng xã hội có lợi ích cơ bản thống nhất với nhau, chỉ đối lập về những lợi ích không cơ bản, cục bộ, tạm thời.
Việc phân biệt mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng có ý nghĩa trong việc xác định đúng phương pháp giải quyết mâu thuẫn. Giải quyết mâu thuẫn đối kháng phải bằng phương pháp đối kháng, giải quyết mâu thuẫn không đối kháng thì phải bằng phương pháp trong nội bộ nhân dân.
2.4. Ý nghĩa phương pháp luận:
Để nhận thức đúng bản chất sự vật và tìm ra phương hướng và giải pháp đúng cho hoạt động thực tiễn phải đí sâu nghiên cứu phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật. Muốn phát hiện ra mâu thuẫn phải tìm ra trong thể tống nhất những mặt, những khuynh hướng trái ngược nhau, tức tìm ra những mặt đối lập và tìm ra những mối liên hệ,tác động qua lại giữa các mặt đối lập đó.
Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu thuẫn, xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ lẫn nhau của các mâu thuẫn. Phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển và vị trí của từng mặt đối lập, mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng. Chỉ có như thế mới có thể hiểu đúng mâu thuẫn của sự vật, hiểu đúng xu hướng vận động, phát triển và điều kiện để giải quyết mâu thuẫn.
Để thúc đẩy sự vật phát triển phải tìm mọi cách để giải quyết mâu thuẫn, không được điều hòa mâu thuẫn.Việc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn phải phù hợp với trình độ phát triển của mâu thuẫn, phải tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng để giải quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn chỉ đựợc giải quyết khi điều kiện đã chín muồi. Mâu thuẫn khác nhau phải có phương pháp giải quyết khác nhau. Phải tìm ra các hình thức giải quyết mâu thuẫn một cách linh hoạt, vừa phù hợp với từng loại mâu thuẫn, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể.
III. Mâu thuẫn biện chứng giữa cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO:
Sau một thời gian đàm phán khá dài (từ năm 1996 đến năm 2006) với 15 phiên họp với nhóm cộng tác về Việt Nam gia nhập WTO, vào ngày 7/11/2006 tại phiên họp đặc biệt của đại hội WTO, Việt Nam đã chính thức được kết nạp vào tổ chức thương mại thế giới WTO.
Và vấn đề được đặt ra đó là những cơ hội, thách thức và các giải pháp của Việt Nam khi gia nhập WTO.
3.1. Cơ hội:
3.1.1/ Về chính trị-xã hội:
Việc gia nhập vào WTO, hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, đảm bảo cho tiến trình cải cách của Việt Nam đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn.
Đồng thời với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của Việt Nam ngày càng được cải thiện.
Cùng với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sau 20 năm đổi mới, việc gia nhập WTO, sẽ nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện cho VIỆT NAM triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại.
3.1.2/ Về kinh tế:
Khi gia nhập WTO, Việt Nam có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự thế giới mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước,của doanh nghiệp. Đồng thời, Việt Nam còn được tiếp cận thị trường hàng hóa dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ không bị phân biệt đối xử.Việc gia nhập WTO còn tạo điều kiện cho các công ty nước ngoài tràn vào nước ta, điều đó sẽ giúp cho người dân có được nhiều sự lựa chọn phù hợp và hoàn hảo hơn về mọi lĩnh vực như: y tế, giáo dục, du lịch,….
3.1.3/ Về dịch vụ:
Việc gia nhập WTO đã tạo gia bước ngoặt góp phần nâng tầm phát triển của đời sống văn hóa đất nước lên giai đoạn phát triển mới, cao hơn như: cải thiện ,thay đổi lối sống chậm chạp,…
3.2. Thách thức:
3.2.1/ Về chính trị-xã hội:
Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hóa, tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên. Trong điều kiện tiềm lực đất nước có hạn, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, kinh nghiệm vận hành nền kinh tế thị trường chưa nhiều thì đây là khó khăn không nhỏ. Nó đặt ra những vấn đề mới trong việc bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh quốc gia,…
3.2.2/ Về kinh tế:
Trên thế giới, sự phân phối lợi ích của toàn cầu là không đều, những nước có nền kinh tế phát triển thấp sẽ được hưởng lợi ít hơn. Ở mỗi quốc gia, sự phân phối lợi ích cũng không đều, một bộ phận dân cư được hưởng lợi ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hóa, nguy cơ phá sản của một bộ phận doanh nghiệp và nguy cơ thất nghiệp sẽ tăng lên, từ đó dẫn đến phân hóa giàu nghèo sẽ mạnh hơn. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách phúc lợi và an sinh xã hội đúng đắn.
Khi Việt Nam gia nhập WTO, các doanh nghiệp, tập đoàn lớn mạnh trên thế giới sẽ tràn vào, làm cho cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn với nhiều đối thủ hơn,trên bình diện rộng hơn, sâu hơn.
3.2.3/ Về văn hóa:
Hội nhập quốc tế đặt ra vấn đề lớn về giữ gìn bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền.
3.3. Mâu thuẫn biện chứng giữa cơ hội và thách thức:
Sự kiện Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO ngày 7/11/2006 đã tạo ra bước ngoặt góp phần nâng tầm phát triển của đời sống văn hóa đất nước lên giai đoạn phát triẻn mới cao hơn.
Theo quy luật vận động và phát triển xã hội thì tác động của việc gia nhập WTO đối với đời sống văn hóa không chỉ diễn ra một chiều thuận lợi mà còn cả chiều ngược lại
Một mặt : tham gia vào WTO thực chất là mở rộng thị trường kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo điều kiện tối đa cho các hoạt động kinh doanh thương mại, nâng cao đời sống vật chất của các tầng lớp nhân dân.Mặt khác, sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội tăng lên không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn trong cả lĩnh vực văn hóa với độ chênh lệch cao giữa các tầng lớp dân cư trong hưởng thụ văn hóa. Hai mặt này luôn tồn tại song song với nhau, khi nền kinh tế phát triển, sẽ có những người giàu lên nhanh chóng nhưng cũng có những người bị phá sản. Vì vậy, khoảng chách giàu nghèo cũng tăng lên, không những thế, những người có diều kiện về mặt kinh tế sẽ có điều kiện học tập và hưởng thụ cuộc sống tốt hơn. Nhà nước chúng ta cần phải có những chính sách phù hợp để đảm bảo công bằng xã hội, tạo điều kiện phát triển kinh tế ở vùng sâu vùng xa.
Nếu xét về tác động của WTO tới lối sống của người Việt Nam, chúng ta có thể thấy, nó góp phần tạo ra sự chuyển đổi từ lối sống chậm chạp bó hẹp, với độ liên kết xã hội thấp, dấu ấn của nền sản xuất nhỏ, sang lối công nghiệp hiện đại, đề cao tính năng đông, trách nhiệm gắn với lợi ích cá nhân. Nhưng đi kèm với những tác động tốt đó, tất yếu sẽ có những tác động không tốt như: chúng ta phải đối mặt với các yếu tố tiêu cực trong lối sống thực dụng, cá nhân, và các tệ nạn xã hội khác. Hai mặt này vừa thống nhất nhưng cũng vừa đối lập nhau, lối sống mới bao hàm trong nó sự thực dụng, cá nhân, và các tệ nạn. Và chính những tác động xấu này sẽ làm cho lối sống mới bị ảnh hưởng và dẫn dến phải có một lối sống phù hợp hơn. Còn nếu xét về khía cạnh của ngành dịch vụ, ví dụ như trong ngành y tế, khi gia nhập WTO, các doanh nghiệp nước ngoài sẽ đầu tư vào Việt Nam trên mọi lĩnh vực,không ngoại trừ y tế. Các bệnh viện tư,phòng khám tư nhân sẽ mọc lên ngày càng nhiều, việc này sẽ tạo ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các cơ sở của nhà nước và tư nhân,vì thế các cơ sở này sẽ ngày càng phải đầu tư trang thiết bị máy móc và các kĩ thuật hiện đại. Điều đó sẽ làm cho chất lượng khám chữa bệnh ngày càng cao, bên cạnh đó không thể không nói đến những tiêu cực trong ngành này biểu hiện qua các hình thức như đưa tiền trực tiếp cho cán bộ để dược làm nhanh hơn, chu đáo hơn hay như việc giới thiệu bệnh nhân ra hiệu thốc ngoài mà có thể những hiệu thuốc này không đạt tiêu chuẩn an toàn, hiện tượng mua bán, thuê bằng dược sỹ để mở hiệu thuốc,… những việc làm này sẽ gây nguy hiểm cho người bệnh và làm cho những người có nhu cầu khám chữa bệnh cảm thấy bối rối khi lựa chọn bệnh viện, phòng khám phù hợp với mình.
Không chỉ trong ngành y tế mà ngay cả ngành giáo dục cũng có những biểu hiện tương tự, hay như trên thị trường, việc hàng hóa nhiều, đa dạng về mẫu mã và chất lượng là một điều kiện thuận lợi cho người tiêu dùng có thể lựa chọn sản phẩm phù hợp với mình nhưng lại tạo ra điều kiện cạnh tranh gay gắt đối với các doanh nghiệp trong nước.
Đó là về kinh tế, còn về chính trị cũng xuất hiện rất nhiều thách thức mới về chính sách và quốc phòng, luôn phải đề cao cảnh giác đối với các thế lực phản động luôn rình mò để gây khó khăn cho viẹc quản lý xã hội của ta.
3.4. Một số giải pháp trước mắt:
3.4.1/ Rà soát và hoàn thiện hệ thống văn bản luật,dưới luật tương ứng và phù hợp các quy định của WTO, bổ sung các văn bản điều chỉnh những vấn đề nảy sinh khi nước ta gia nhập tổ chức này. Khắc phục các vấn đề tồn tại về tiến độ chậm, tính dự báo đón đầu còn thấp và tình trạng văn bản vừa ban hành đã bất cập với thực tiễn.
3.4.2/ Tập trung bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tiêu biểu của dân tộc.
3.4.3/ Tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế về đào tạo cán bộ quản lý, văn nghệ sỹ, nhà khoa học, nhằm đi tắt, đón đầu và tiến kịp với trình độ nghệ thuật của các nước tiên tiến trên thế giới.
3.4.4/ Cần đẩy nhanh công tác thông tin tuyên truyền, khắc phục một số tiêu cực phát sinh thời gian gần đây.
KHÁI QUÁT
Gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, hội nhập kinh tế quốc tế vừa có cơ hội lớn, vừa phải đối đầu với những thách thức không nhỏ. Cơ hội tự nó không biến thành lực lượng vật chất trên thị trường mà phụ thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội của chúng ta.
Cơ hội và thách thức không phải là bất biến mà luôn vận động, chuyển hóa và thách thức đối với ngành này có thể là cơ hội cho ngành khác phát triển. Tận dụng được cơ hội hay không còn tùy thuộc vào nỗ lực vươn lên của chúng ta, tạo ra thế và lực mới để vượt qua và đẩy lùi thách thức, tạo ra cơ hội mới lớn hơn. Ngược lại không tận dụng được cơ hội, thách thức sẽ lấn át, cơ hội sẽ mất đi, thách thức sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn và khó khắc phục. Ở đây, nhân tố chủ quan, nội lực của đất nước, tinh thần tự lực tự cường của toàn dân tộc là quyết định nhất.
Tài liệu tham khảo
1/ www.mofa.gov.vn (bộ ngoại giao)
Tin từ vụ KTĐP-BNG. (10/2006)
Trích bài viết trên website chính phủ của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (7/11/2006).
2/ Bài viết của Nguyễn Văn Bình, báo thương mại điện tử (11/1/2007)
3/ Báo Sài Gòn Giải Phóng điện tử.
4/ Giáo trình triết học Mac-lênin, NXB chính trị Quốc Gia.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35971.doc