Tóm lại, đường lối đổi mới kinh tế được khởi xướng từ Đại hội lần thứ VI của Đảng thực sự đã đưa lại những kết quả to lớn trong lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam.Tuy đất nước ta bị tàn phá vô cùng nặng nề trong nhiều năm chiến tranh và kém phát triển nhất trong số các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, lại bị cấm vận nhưng nhờ đường lối đổi mới kinh tế nên Việt Nam đã đạt được tốc độ phát triển cao, giảm được lạm phát và trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới, giữ vững ổn định xã hội. Những thành tựu đó đã góp phần quan trọng đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế. Nhưng trong quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta,mâu thuẫn không ngừng chuyển đổi và nảy sinh : giữa cái quá khứ còn lạc hậu còn tồn tại với cái mới đang nảy sinh bước đầu hình thành. Do đó theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin việc nhận thức và tìm hiểu, nghiên cứu nắm bắt tất cả các mâu thuẫn, biết phát hiện những mối liên hệ ảnh hưởng tác động qua lại lẫn nhau giữa các mâu thuẫn, biết phân tích và nhận ra những mâu thuẫn chủ yếu cơ bản quyết định xu hướng phát triển kinh tế ở nước ta và đồng thời đưa ra được các cách giải quyết tốt nhất, khách quan các mâu thuẫn đó.
15 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1691 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Sự phát triển của xã hội diễn ra trong mâu thuẫn và thông qua các mâu thuẫn. Lê Nin viết: “ Cuộc sống tiến lên thông qua những mâu thuẫn, và những mâu thuẫn sống thì lại phong phú hơn nhiều, nhiều vẻ hơn nhiều và có một nội dung dồi dào hơn nhiều so với điều mà trí tuệ con người cảm thấy lúc ban đầu ” V I Lê Nin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ 1981
Do vậy việc nhận thức đúng đắn và theo dõi quá trình phát triển của những mâu thuẫn là cơ sở để nhận thức tính giai đoạn của sự phát triển xã hội. Nhận thức sai mâu thuẫn là một nguồn gốc của bệnh chủ quan duy ý chí. Nhất là trong tình hình đất nước ta đang trong công cuộc đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đang ở trong giai đoạn chuyển tiếp từ nền kinh tế tập trung hành chính bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy việc nghiên cứu những qui luật càng trở nên hết quan trọng. Có thể nói qui luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập hay qui luật mâu thuẫn là qui luật quan trọng nhất trong phép biện chứng duy vật. Qui luật này “ là hạt nhân của phép biện chứng ”.
ở nước ta hiện nay cũng đang có nhiều mâu thuẫn tồn tại chẳng như mâu thuẫn giữa tính tự pháp của kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa, những mâu thuân đó không ngừng nảy sinh phát triển vì vậy chúng ta phải giải quyết những mâu thuẫn đó mới thực hiện thắng lợi đổi mới đất nước. Nếu không kịp thời nhận thức và giải quyết những mâu thuẫn đó thì xã hội rơi vào tình trạng hết khó khăn, có thể xảy ra xung đột hoặc có nguy cơ mất xã hội chủ nghĩa. Có thể nói mâu thuẫn với những nội dung phức tạp, sâu sắc đó cũng chính là một trong vấn đề nóng bỏng, cập nhập được giới trí thức, các nhà nghiên cứu, nhà khoa học đề cập tới và nghiên cưú. Do vậy để hiểu rõ thêm và nắm chắc được các qui luật mâu thuẫn đang tồn tại đan xen trong tình hình nước ta hiện nay và những cách giải quyết mâu thuẫn cho nên trong phạm vi bài này, em chỉ tập trung làm rõ quan điểm biện chứng về mâu thuẫn và bước đầu vận dụng lí luận đó để phân tích mâu thuẫn trong quá trình đổi mới ở Việt Nam.
Kết cấu phần nội dung có 2 phần :
Phần 1 : Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mâu thuẫn Phần 2 : Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay.
Bài viết của em được hoàn thành dưới sự giúp đỡ hết sức tận tình của các thầy cô giáo, trong đó có cô Trần Thảo Nguyên. Nhưng với trình độ của một sinh viên mới làm tiểu luận lần đầu do vậy bài viết của em còn nhiều hạn chế và thiếu sót. Vì vậy em rất mong nhận được sự chỉ dẫn nghiên cứu của các thầy cô.
Em xin trân thành cảm ơn
Hà Nội 12 - 2001
PHần 1. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mâu thuẫn
I. nội dung của qui luật
Qui luật mâu thuẫn của sự vật tức là qui luật về sự thống nhất của các mặt đối lập, là qui luật căn bản của phép biện chứng duy vật, Lê Nin nói: “ Theo ý nghĩa vốn có, phép biện chứng là: nghiên cứu mâu thuẫn ngay trong bản chất của đối tượng ” V I Lê Nin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ 1981
. Vũ trụ quan của phép biện chứng duy vật nghiên cứu sự phát triển của sự vật từ nội bộ của sự vật tức là coi sự phát triển của sự vật là sự động tất nhiên trong nội bộ sự vật, sự vận động của mỗi sự vật đều liên hệ ảnh hưởng lẫn Nhau với những sự vật khác xung quanh. Như Lê Nin nói: “ Muốn thật sự hiểu biết một đối tượng phải nắm giữ và nghiên cứu mọi mặt của nó, mọi mối liên hệ và “môi giới” của nó ” V I Lê Nin : Toàn tập, nxb Tiến bộ 1981
.
1. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến : Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng tất cả các sự vật hiện tượng tồn tại trong thực tại khách quan đều chứa đựng trong nó mâu thuẫn. Sự hình thành và phát triển của mâu thuẫn là do cấu trúc tự thân vốn có bên trong của sự vậ hiện tượng qui định. Mâu thuẫn tồn tại không phụ thuộc vào một lượng siêu tự nhiên nào, kể cả ý chí của con người. Mỗi sự vật hiện tượng đang tồn tại đều là thể thống nhất được cấu thành bởi các mặt, các khuynh hướng, các thuộc tính phat triển ngược chiều Nhau đối lập Nhau. Sự liên hệ tác động qua lại, đấu tranh chuyển hoá, bài trừ và phủ định lẫn Nhau, tạo thành động lực bên trong của mọi quá trình vận động và phát triển khách quan của chính bản thân các sự vật hiện tượng.Mâu thuẫn là một hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực : tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật xuất hiện cho đến khi sự vật kết thúc. Trong mỗi một sự vật, mâu thuẫn hình thành không phải chỉ có một mà có thể có nhiều mâu thuẫn.
2. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập :
- Theo quan điểm của phép biện chứng duy vật, mặt đối lập là sự khái quát những mặt những thuộc tính, những khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau tồn tại trong cùng một sự vật hiện tượng. Nhưng không phải bất kì hai mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn.
- Thống nhất của các mặt đối lập : Lê Nin: “ Sự thống nhất của các mặt đối lập là có điều kiện tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn Nhau là tuyệt đối cũng như sự phát triển sự vận động là tuyệt đối ” Triết học Mác Lê Nin, NXB Giáo dục
. Các mặt đối lập tác động qua lại lẫn Nhau, làm điều kiện tồn tại cho Nhau phát triển. Các mặt đối lập thâm nhập lẫn Nhau và có thể chuyển hoá lẫn Nhau trong điều kiện nhất định.
- Giữa thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập đấu tranh không tách rời nhau trong đó thống nhất là tương đối, tạm thời. Nó cũng giống như đứng im là tương đối. Còn đấu tranh là tuyệt đối vĩnh viễn cũng như vận động là tuyệt đối. 3. Sự chuyển hoá của các mặt đối lập :
Mọi người đều dễ dàng thừa nhận trong thực tế có sự chuyển hoá lẫn Nhau của các mặt đối lập. Theo quan niệm biện chứng : Hai mặt đối lập luôn tồn tại đồng thời ở một sự vật ( cùng tồn tại và cùng mất đi ) nhưng vị trí, vai trò, hình thức tồn tại của hai mặt đối lập là sự chuyển hoá lẫn Nhau về vị trí, vai trò của hai mặt đối lập lúc này mặt này là chủ yếu nhưng lúc khác lại là thứ yếu và ngược lại. Các mặt đối lập đấu tranh chuyển hoá và phủ định lẫn Nhau tạo thành sự vật mới. Lê Nin nói: “ Không phải chỉ là sự thống nhất của các mặt đối lập mà còn là những chuyển của mỗi qui định, chất đặc trưng, thuộc tính sang mỗi cái khác ( sang cái đối lập với nó)” Triêt học Mác Lê Nin, NXB Giáo dục
. Khi phân tích sự tiến hoá của giới tự nhiên FEnghen đã chỉ ra: “ Thông qua sự đấu tranh thường xuyên của chúng và sự chuyển hoá cuối cùng của chúng từ mặt đối lập này thành mặt đối lập kia hoặc lên hình thức cao hơn, đã qui định sự sống của giới tự nhiên ” Triết học Mác Lê Nin, NXB Giáo dục
.
4. Mâu thuẫn là nguyên nhân, động lực cho sự phát triển :- Mâu thuẫn có tính khách quan, hơn nữa mâu thuẫn không có gì đáng sợ, mâu thuẫn còn là nguồn và động của mọi sự vận động và phát triển. Đi tìm động lực của sự vận động và phát triển không phải ở lực lượng bên ngoài mà ở chính ngay trong sự vật. Chẳng hạn như mâu thuẫn bên trong là nhân tố quyết định sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng. Mâu thuẫn bên trong không tồn tại và phát triển tác dụng tách dời với mâu thuẫn bên ngoài. Mâu thuẫn bên ngoài có ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của sự vật. Ngoài ra còn có nhiều loại mâu thuẫn cũng tác động đến sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng.
- Muốn thúc đẩy cho sự vật phát triển không phải lẩn tránh mâu thuẫn mà phải tìm đúng mâu thuẫn và đề ra cách thức giải quyết đúng mâu thuẫn sẽ thúc đẩy sự vật phát triển Nhanh chóng và đúng hướng.
II. ý nghĩa, phương pháp luận của qui luận mâu thuẫn : - Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và phổ biến hình thành từ những cấu trúc và thuộc tính bên trong vốn có tự thân của tất cả các sự vật hiện tượng trong bản thân thế giới khách quan.
- Sự vật khác Nhau thì mâu thuẫn cũng khác Nhau, mỗi sự vật đều có nhiều mâu thuẫn, mỗi mâu thuẫn lại có đặc điểm riêng của nó, quá trình phát triển của một mâu thuẫn ở mỗi giai đoạn của nó lại có những đặc điểm riêng.
- Cần nắm vững nguyên tắc để giải quyết mâu thuẫn.
Phần 2. Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay :
I. thực chất công cuộc đổi mới kinh tế ở việt nam : 1. Quá trình đổi mới kinh tế ở việt nam :
Sự nghiệp đổi mới mà Đảng ta đã lựa chọn từ Đại hội VI đến nay đang trong từng bước đi vào cuộc sống. Thực tiễn trong những năm qua chứng minh rằng sự lựa chọn ấylà đúng đắn. Một trong những vấn đề cơ bản góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đó là sự chuyển đổi mô hình kinh tế ở nước ta từ một nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang một nền kinh tế thị trường vì nó phù hợp với qui luật phát triển khách quan của xã hội. Đại hội VI của Đảng ( 12/ 1986 ) đã khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện đất nước, lấy đổi mới kimh tế làm trọng tâm thực hiện những bước chuyển cơ bản có ý nghĩa chiến lược trên bốn mặt có quan hệ hữu cơ với Nhau từ mô hình kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp sang mô hình kinh tế thị trướng có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa với những hợp phần hợp lí của nó mang bản sắc Việt Nam. Trong nhiều thập kỉ trước năm 1986 ở nước ta sản xuất hàng hoá thường bị coi là tàn dư của chủ nghĩa tư bản cần được loại bỏ. Nhưng đến cuối 1986, Đại hội VI mới chính thức thừa nhận kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch, phát huy nó là giai đoạn tất yếu không thể bỏ qua và chính điều đó đã dẫn đến hàng loạt đổi mới táo bạo có tính hiệu quả trong thực tiễn. Ví dụ như năm 1986 có hơn 10 triệu hộ gia đình làn đơn vị sản xuất kinh doanh cơ bản ở nông thôn thay cho 50 vạn hợp tác xã và tập đoàn sản xuất, qua đó tách quyền sở hữu ra khỏi quyền kinh doanh ruộng đất thành các thực thể kinh tế độc lập đáp ứng yêu cầu của sản xuất hàng hoá. Điều đó đã tạo ra các chính sách thuế mới, khắc phục tình trạng “lời giả, lỗ thật”, vừa giúp cho ngân sách Nhà nước khỏi phụ thuộc một chiều vào nguồn thuế đơn nhất của các xí nghiẹp quốc doanh. Nhưng ở nước ta hiện nay thì : - Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất rất thấp và không đồng đều. Nông nghiệp coi là mặt trận hàng đầu còn mang tính tự cấp tự túc, các quan hệ hàng hoá kinh tế chưa phát triển.
- Nền kinh tế còn nhiều thành phần.
- Sự tồn tại kéo dài của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp với hệ thống thể chế quản lí cũ.
- Thực trạng kinh tế và thị trường đang rối loạn và ngày càng nghiêm trọng trên mặt trận phân phối lưu thông: lạm phát tăng, giá cả không ổn định, hệ thống quản lí kém v.v...
2. Nền kinh tế việt nam là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa :
a. sự cần thiết khách quan phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta :
Về phương diện kinh tế, có thể khái quát rằng lịch sử phát triển của sản xuất và đời sống xã hội của nhân loại đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Đó là thời đại kinh tế tự nhiên tự cung tự cấp và thời đại kinh tế hàng hóa mà giai đoạn cao của nó được gọi là kinh tế thị trường. Kinh tế tự nhiên tự cung tự cấp gắn liền với kém phát triển và lạc hậu còn kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Mặc dù sự hình thành và phát triển của kinh tế hàng hoá tự phát sẽ “ hằng ngày hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản ”. Quá trình phát triển của kinh tế thị trường là quá trình mở rộng phân công lao động xã hội, phát triển khoa học công nghệ mới và ứng dụng chúng vào thực tiễn sản xuất - kinh doanh. Cho đến cuối những năm 80, về cơ bản nền kinh tế nước ta là nền kinh tế sản xuất nhỏ trong đó nông nghiệp là ngành được ưu tiên hàng đầu. Việt Nam vẫn là nước nghèo nàn lạc hậu, kém phát triển. Vì vậy phát triển trở thành nhiệm vụ hàng đầu đối với toàn Đảng, toàn dân ta trong bước đường đi tới. Muốn vậy chúng ta phải chuyển nền kinh tế quốc dân sang nền kinh tế thị trường cùng với việc thực hiện công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá. Nhưng bên cạnh việc chúng ta phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa để đạt được mục tiêu dân giàu nước mạnh hạnh phúc cho mọi người mà còn phải thiết lập được một kiểu tổ chức xã hội với nội dung công bằng và văn minh.
B. Bản chất, đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta :
Chúng ta chuyển nền kinh tế từ hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nội dung của nền kinh tế nước ta trong hiện tại và tương lai :
- Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nước ta xây dựng là nền kinh tế thị trường hiện đại với tính chất xã hội hiện đại.
- Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần cho nên cần có sự tham gia bởi “ bàn tay hữu hình ” của Nhà nước trong việc điều tiết, quản lí nền kinh tế đó.
- Nhà nước quản lí nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là Nhà nước của dân do dân và vì dân khác biệt về bản chất với các mô hình kinh tế thị trường khác hiện có trên thế giới.
- Mở cửa hội nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh thế giới trên cở sở giữ vững độc lập tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia.
- Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời với việc bảo đảm công bằng xã hội và giải quyết mối quan hệ giữa lao động và tư bản thông qua phân phối thu nhập. II. Những mâu thuẫn nảy sinh mà phải giải quyết trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam :
Trong công cuộc đổi mới nền kinh tế ở Việt Nam thì những mâu thuẫn không ngừng nảy sinh và phát triển. Nhất là trong tình hình hiện nay, nó càng trở nên sâu sắc. Do vậy chúng ta phải thừa nhận mâu thuẫn, phát hiện kịp thời mâu thuẫn, nhận thức và giải quyết mâu thuẫn để thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và đổi mới chủ nghĩa xã hội.
1. Mâu thuẫn giữa cái yêu cầu đổi mới với cái chưa đổi mới của kiến trúc thượng tầng và các mặt khác của đời sống xã hội:
Nhìn lại 10 năm đổi mới vừa qua những thành tựu đã đạt trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội đều bắt nguồn từ sự đổi mới tư duy chính trị, tư duy kimh tế của Đảng ta. Chính trị và đổi mới chính trị có vị trí và vai trò hết sức quan trọng đối với đổi mới và phát triển kinh tế. Sự tác động của chính trị đối với kinh tế biểu hiện trước hết ở vai trò lãnh đạo của Đảng đối với kinh tế. Nét nổi bật trong tư duy chính trị đó là việc xác định chuyển nền kinh tế dựa trên chế độ công hữu thuần nhất với hai hình thức : quốc doanh và tập thể ; tự túc tự cấp kế hoạch hoá tập trung và bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Nhiệm vụ của chính trị là giải quyết thành công các quan hệ về lợi ích giữa người và người trong xã hội nhằm tạo động lực cho sự phát triển kinh tế. Đảng ta luôn quán triệt sâu sắc rằng kinh tế và chính trị những vấn đề cơ bản của xã hội có giai cấp và Nhà nước có mối quan hệ biện chứng lẫn Nhau. Trong mối quan hệ này, kinh tế giữ vai trò quyết định đối với chính trị. Theo quan điểm duy vật lịch sự thì nhân tố quyết định lịch sử xét đến cùng là sự sản xuất và tái sản xuất.
Từ nhiều năm nay, trong nhận thức của chúng ta đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế đã tồn tại nhiều quan niệm lạc hậu. Chúng ta đã có những nhận thức giáo điều máy móc, giản đơn về kế hoạch hoá,.... đặc biệt có định kiến sai lầm đối với quan hệ hàng hoá - tiền tệ và quan hệ thị trường. Tư duy kinh tế cũ bám rễ trong xã hội và trong đội ngũ cán bộ nhất là trong một số người có trách nhiệm trực tiếp quản lí đã hình thành nếp nghĩ bảo thủ, thói quen e ngại đổi mới coi đó như một dấu hiệu xa dời chủ nghĩa xã hội. Sự chậm đổi mới đã cản trở việc xây dựng chiến lược kinh tế xã hội gây nên tình trạng thiếu nhất trí trong việc đánh giá cũng như đưa ra các giải pháp xử lí và đây là một trong các nguyên nhân gây nên những sai lầm thiếu sót trong lãnh đạo, quản lú kinh tế. Cho đến nay, tuy đã khẳng định phải đổi mới cơ chế quản lí song chúng ta vẫn gặp những khó khăn lúng túng như cơ chế cũ vẫn còn đó trong khi cơ chế mới thì thiếu cơ sở pháp lí ; các nghị của Đảng thì chậm thể chế hoá ; kỉ cương pháp luật không nghiêm... Vì vậy cần phải giải quyết những vấn đề đó thì mới đẩy mạnh được công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta.
2. Giải quyết mâu thuẫn cơ chế thị trường với cơ chế kế hoạch hoá tập trung bằng việc đưa ra cơ chế mới :
Thực tiễn những năm gần đây cho thấy đất nước ta chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước là phù hợp với qui luật khách quan, hợp lòng dân đáp ứng yêu cầu của cuộc sống. Đây chính là nội dung của công cuộc đổi mới là con đường, phương thức xây dựng con người mới trong quá trình vận động biện chứng của xã hội. Do hậu quả nặng nề của nhiều năm chiến tranh, của nền kinh tế kém phát triển, của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp..., nền kinh tế nước ta đã tụt hậu nghiêm trọng so với khu vực và quốc tế. Trong bối cảnh đó, kinh tế trị trường là điều kiện quan trọng đưa nền kinh tế nước ta ra khỏi khủng hoảng, phục hồi sản xuất đẩy Nhanh tốc độ tăng trưởng, bắt kịp bước tiến của thời đại. Ta biết rằng từ năm 1986 trở về trước dù thực tế vẫn thừa nhận quan hệ hàng hoá tiền tệ nhưng thực chất đó là kinh tế hàng hoá xã hội chủ nghĩa và chính nó đã làm cho các phạm trù của kinh tế hàng hoá vốn sống động, mềm dẻo như giá trị, giá cả, lợi nhuận... bị hình thức hoá cao độ, không phản ánh được qui luật của thị trường. Trong tình lúc đó mục đích hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp không phải vì lợi nhuận mà là phải hoàn thành tốt chỉ tiêu nhiệm vụ của cấp trên giao. Chính những quan điểm “ ấu trĩ ” đó về xây dựng và phát triển kinh tế là biểu hiện sai lầm chủ quan, duy ý chí, vi phạm qui luật khác quan mà đặc biệt là qui luật Quan hệ xã hội phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất. Đó là một trong những nguyên nhân làm cho sự trì trệ kéo dài nhưng đồng thời làm xuất hiện yêu cầu cấp bách là phải “ chấn hưng ” nó cho phù hợp với qui luật khách quan, xu thế thời đại ngày nay là chuyển sang kinh tế thị trường.
Có thể nói cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần là do còn nhiều hình thức sở hữu khách Nhau về tư liệu sản xuất. Nền kinh tế nhiều thành phần trong sự vận động của cơ chế thị trường ở nước ta là nguồn lực tổng hợp to lớn để đưa nền kinh tế vượt khỏi thực trạng thấp kém, đưa nền kinh tế hàng hoá phát triển cả trong điều kiện ngân sách Nhà nước hạn hẹp. Nền kinh tế hàng hoá vừa phản ánh tính đa dạng phong phú trong việc đáp ứng nhu cầu xã hội, vừa phản ánh tính chất phức tạp trong việc quản lí theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải đi đôi với tăng cường quản lí của Nhà nước về kinh tế - xã hội.
3. Mâu thuẫn giữa cái tính tự phát của kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa :
Khác với cơ chế hành chính - bao cấp, cơ chế thị trường với các qui luật khác quan khó nắm bắt của nó thường biểu hiện ra như là một cơ chế tự phát hơn, tự nhiên hơn và nằm xa sự chi phối của con người hơn. Ta biết rằng bản thân cơ chế thị trường đã tự phát trong khi đó nó lại được hoạt động ở một điều kiện mà yếu tố tự phát có khả năng tác động mạnh hơn. Bao giờ cũng vậy trong các giai đoạn quá độ, chuyển tiếp thì yếu tố tự phát thể hiện vai trò của mình mạnh hơn yếu tố tự giác. Bởi vậy cần phải nắm được các yếu tố tự phát và tự giác, thực tế đã chứng minh chúng ta đã làm được ở một số chỗ trong cơ chế thị trường. Kinh tế thị trường có thể tự phát theo con đường phát triển tư bản chủ nghĩa trong đó người với người trở thành địch thủ, “ cá lớn nuốt cá bé ”. Một hành trang có ý nghĩa mà công cuộc đổi mới kinh tế trang bị cho chúng ta là sản xuất hàng hoá cùng với “ nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường ” hiện đã được chúng ta hiểu là không đối lập với chủ nghĩa xã hội. Cái được lớn nhất từ khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường là con người trở nên năng động hơn. Các chính sách kinh tế mới và kinh tế thị trường thực sự đã khơi dậy và nâng cao vai trò chủ đạo, kích thích sự sáng tạo của người sản xuất, tính hiệu quả của sản xuất - kinh doanh được chú ý hơn. Chính sự đổi mới một mặt làm cho kinh tế tăng trưởng và ổn định song mặt khác nó cũng làm cho nhiều lĩnh vực xã hội suy giảm đáng lo ngại. Như môi trường sống xấu đi, sự giảm xút về y tế,sự xuống cấp của giáo dục cùng sự gia tăng của các tệ nạn xã hội.Chính vì điều đó chúng ta không những đổi mới chính sách kinh tế mà còn đổi mới chính sách xã hội vì giữa chúng có sự thống nhất biện chứng. Sự tăng trưởng và phát triển kinh tế là cơ sở chủ yếu, là điều kiện vật chất để thực hiện các mục tiêu xã hội, do đó thúc đẩy sự tiến bộ xã hội. Nhưng không được coi nhẹ chính sách xã hội hoặc chẩm đổi mới các chính sách xã hội nếu không sẽ dẫn đến sự bất công, sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội. Bởi vì chính sách xã hội là một hệ thống, là một tổng thể các chính sách có tác động rất mạnh tới kinh tế, nó có thể thúc đẩy sự phát triển kinh tế hoặc là kìm hãm, cản trở sựu phát triển kinh tế.
Thực tế đã chứng minh trong nền kinh tế nước ta hiện nay, những vấn đề nóng bỏng của môi trường sinh thái ở Việt Nam không nằm ngoài vấn đề môi trường sinh thái toàn cầu của thế giới. Sự tăng trưởng kinh tế kéo theo sự khai thac quá đáng, có khi còn lạm dụng, lãng phí hoặc tàn phá thiên nhiên và các nguồn tài nguyên thiên nhiên dẫn đến cạn kiệt, làm cho môi trường bị ô nhiễm kết cục là mọi hậu quả sớm hay muộn cũng sẽ đè nặng lên con người buộc Nhà nước phải đề ra các chính sách xã hội để giải quyết. Ta biết rằng tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội luôn có mối quan hệ tác động qua lại, trong đó tăng trưởng kinh tế có vai trò to lớn không thể phủ nhận. Tăng trưởng kinh tế có thể là điều kiện để giải quyết công bằng xã hội nhưng có thể đảm bảo công bằng xã hội được hay không còn phụ thuộc vào chế độ xã hội, quan hệ sản xuất, trình độ phát triển v. v... Nói tóm lại, trong công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta không chỉ chú trọng vào việc phát triển kinh tế mà còn phải quan tam đến các chính sách xã hội. 4. Các mâu thuẫn nảy sinh trong bản thân cơ chế thị trường : Kể từ Đại hội VI, đã có một sự đột phá lớn trong tư duy kinh tế là nhận thức rõ ràng bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa chứ không thể bỏ qua sản xuất hàng hoá kinh tế thị trường với chính sách phát triển nền kinh tế hang hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lí của Nhà nước,những năm qua đã đem lại những đổi mới quan trọng trong nền kinh té quốc dân cả về cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lí.
Chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã khơi dậy tiềm năng và sức sáng tạo của nhân dân để phát triển sản xuất, dịch vụ, thúc đẩy sự hìmh thành và phát triển kinh tế hàng hoá, tạo ra sự cạnh tranh sống động trên thị trường. Cơ chế quản lí kinh tế từng bước được đổi mới đặc biệt là cuộc cải cách giá chuyển từ hệ thống định giá hành chính sang cơ chế giá thị trường, đã xoá bỏ tem phiếu, giảm được các nhu cầu giả tạo. Thị trường thống nhất trong cả nước được hình thành gắn với thị trường thế giới tạo điều kiện nền kinh tế nước ta từng bước hoà nhập với nền kinh tế khu vực. Tuy nhiên kinh tế thị trường là một vấn đề mới mẻ, bên cạnh cái được của mặt tích cực thì mặt trái của nó cũng dần xuất hiện mà ta chưa lường hết,chậm phát hiện và chưa xử lí tốt. Đã là kinh tế thị trường tất nhiên phải có cạnh tranh mà đã có tính cạnh tranh thì sẽ dẫn đến tình trạng phá sản và như vậy thì nạn thất nghiệp xảy ra là điều không thể tránh khỏi, lúc đó sẽ có sự phân hoá giàu nghèo giữa người với người. Trong sự sôi động của thị trường, đã xuất hiện lối làm ăn chạy theo lợi nhuận bất kể giá nào dẫn đến vi phạm pháp luật, lừa đảo, hối lộ, buôn lậu, làm hàng giả..., lừa đảo tài sản của Nhà nước và nhân dân trong khi lại không có khả năng thanh toán. Những mặt trái trên còn lan tràn,xâm nhập vào các cơ quan văn hoá, giáo dục, y tế làm cho kỉ cương pháp luật không nghiêm, đạo đức bị xói mòn, bất công xã hội tăng lên. Rõ ràng sản xuất hàng hoá đã làm sống động nền kinh tế quốc dân nhưng nếu không từng bước gắn liền với công nghiệp hoá thì nó cũng khó mà phát triển vì “ khoa học và công nghệ ” giữa vai trò then chốt trong sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đã phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì phải có sự quản lí chặt chẽ của Nhà nước nếu không thì sẽ rất nguy hiểm.Cần có một sự nhìn nhận nghiêm tuc sâu sắc cả mặt tích cực và mặt tiêu cực củ kinh tế thị trường để có những định hướng đúng đắn, kịp thời chủ động.Nhà nước phải quản lí bằng pháp luật với một hệ thống hoàn thiện và nghiêm minh nhưng điều quan trọng khiến cho sự quản lí có hiệu lực là Nhà nước phải nắm chắc các công cụ kinh tế và có thực lực kinh tế trong tay. Sự phát triển kinh tế xã hội của nước ta đặt con người vào vị trí trung tâm nên đi đôi với chính sách kinh tế phải có chính sách xã hội tức là tiến công chống mọi biểu hiện tư tưởng chạy theo đồng tiền, lối sống tư bản... vì kinh tế thị trường là mảnh đất nảy sinh ra các căn bệnh đó. Công tác cán bộ phải coi trọng việc phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo những nhà quản lí, kinh doanh giỏi.
Tóm lại, mấu chốt của mọi vấn đề là xây dựng trong mọi tế bào kinh tế - xã hội cơ sở Đảng, trong sạch vững mạnh toàn diện.
Kết luận
Tóm lại, đường lối đổi mới kinh tế được khởi xướng từ Đại hội lần thứ VI của Đảng thực sự đã đưa lại những kết quả to lớn trong lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam.Tuy đất nước ta bị tàn phá vô cùng nặng nề trong nhiều năm chiến tranh và kém phát triển nhất trong số các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, lại bị cấm vận nhưng nhờ đường lối đổi mới kinh tế nên Việt Nam đã đạt được tốc độ phát triển cao, giảm được lạm phát và trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới, giữ vững ổn định xã hội. Những thành tựu đó đã góp phần quan trọng đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế. Nhưng trong quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta,mâu thuẫn không ngừng chuyển đổi và nảy sinh : giữa cái quá khứ còn lạc hậu còn tồn tại với cái mới đang nảy sinh bước đầu hình thành. Do đó theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin việc nhận thức và tìm hiểu, nghiên cứu nắm bắt tất cả các mâu thuẫn, biết phát hiện những mối liên hệ ảnh hưởng tác động qua lại lẫn nhau giữa các mâu thuẫn, biết phân tích và nhận ra những mâu thuẫn chủ yếu cơ bản quyết định xu hướng phát triển kinh tế ở nước ta và đồng thời đưa ra được các cách giải quyết tốt nhất, khách quan các mâu thuẫn đó. Trong khi nghiên cứu nền kinh tế thị trường, chúng ta phải hạn chế được những nhược điểm, khắc phục được những mặt trái của cơ chế thị trường và qua đó khai thác những mặt tích cực của nó để thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lí của Nhà nước. Trong công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay, Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng, quản lí điều tiết vĩ mô nhằm khắc phục những hạn chế, những mặt tiêu cực, những mặt trái của nền kinh tế thị trường thúc đẩy sự nghiệp phát triển đất nước, thực hiện dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Hiện nay, việc nghiên cứu những vấn đề mâu thuẫn đang tồn tại và không ngừng nảy sinh trong kinh tế nước ta nói riêng,trong xã hội Việt Nam nói chung vẫn là vấn đề trọng điểm đòi hỏi nhiều thời gian và công lao nghiên cứu,làm rõ hơn nữa. Có thể nói, hiểu rõ và giải quyết đúng đắn những mâu thuẫn đang tồn tại trong hoàn cảnh có nhiều khó khăn phức tạp ở nước ta hiện nay là một nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Hà Nội tháng 12 / 2001
Tài liệu tham khảo
- Quyển V.I Lê Nin : Toàn tập Nxb Tiến bộ 1981 - Giáo trình Triết học Mác Lê Nin NXB Giáo dục - Tạp chí Triết học - Tạp chí Cộng sản - Tạp chí Nghiên cứu - Lí luận
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35214.doc