Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan phổ biến hình thành từ những cấu trúc và thuộc tính bên trong vốn có tự thân của tất cả các sự vật, hiện tượng trong bản thân thế giới khách quan Do đó trong hoạt động thực tiễn phân tích từng mặt độc lập tạo thành mâu thuẫn cụ thể để nhận thức được bản chất khuynh hướng vận động phát triển của sự vật hiện tượng.
Cần nắm vững nguyên tắc để giải quyết mâu thuẫn. Đó là sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập diến ra theo quy luật phá vỡ cái cũ để thiết lập cái mới tiến bộ hơn. Vì vậy trong đời sống xã hội, mọi hành vi đấu tranh cần được coi là chân chính khi nó thúc đẩy sự phát triển.
Trong thời kỳ chuyển nền kinh tế ở Việt Nam từ kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng XHCN. Chủ trương lãnh đạo của Đảng là rất đúng đắn tuy nhiên trong thực hiện còn nhiều thiếu sót, mâu thuẫn giữa các vấn đề nảy sinh. Nhưng những mâu thuẫn đó đòi hỏi chúng ta giải quyết có như thế nền kinh tế mới phát triển theo đúng nghĩa đổi mới của nó.
38 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1498 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h, thì kinh tế thị trường nhất thiết phải có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Quan hệ kinh tế là chính trị trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Quan hệ giữa kinh tế và chính trị là một trong những vấn đề cơ bản của công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Đây là vấn đề luôn được đặt ra và được giải quyết trong suốt quá trình đổi mới. Những thanh tựu đạt được trong 10 năm đổi mới vừa qua không thể tách rời việc giải quyết một cách đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Việc nhận thức về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị cũng không ngừng phát triển, gắn liền với thực tiễn công cuộc đổi mới. Bài viết này tập trung phân tích sự phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị cũng không ngừng phát triển, gắn liền với thực tiễn công cuộc đổi mới.
Những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
+Mấy vấn đề lý luận chung của chủ nghĩa Mac Lê nin về quan hệ giữa kinh tế và chính trị.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lêni thì kinh tế quyết định chính trị, “ chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế” trong lịch sử phát triển xã hội loài người không phải bao giờ cũng có vấn đề chính trị. Xã hội nguyên thuỷ chưa có giai cấp, chưa có vấn đề chính trị. Từ khi xã hội có giai cấp và nhà nước xuất hiện chính trị thì vấn đề chính trị mới xuất hiện. Vấn đề chính trị là vấn đề thuộc về quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp. Trung tâm của vấn đề chính trị là vấn đề đấu tranh giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội nhằm dành, giữ chính quyền nhà nước và sử dụng chính quyền đó làm công cụ để sử dụng và bảo vệ chế độ xã hội phù hợp với lợi ích giai cấp cầm quyền. Bản thân vấn đề chính trị ra đời hoàn toàn là do kinh tế quyết định. Chính trị không phải là mục đích, mà chỉ là phương tiện để sử dụng mục đích kinh tế. Khi phê phán quan niệm của Đuyrinh cho rằng bạo lực chính trị quyết định kinh tế, F.Engen đã khảng định: “bạo lực chỉ là phương tiện, còn lợi ích kinh tế, trái lại, là mục đích”. Và trong tác phẩm “ Lutvich Pronhắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức” F. Engen đã chỉ rõ “ để thoả mãn những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng làm một phương tiện đơn thuần.
Quyền lực chính trị là công cụ mạnh mẽ nhất để bảo vệ chế độ xã hội. Sự thống trị về chính trị của một giai cấp nhất định là điều kiện đảm bảo cho giai cấp đó thực hiện được sự thống trị về kinh tế. Đấu tranh giai cấp, về thực chất là đấu tranh vì lợi ích kinh tế, được thực hiện thông qua đấu tranh chính trị. Theo E.Engen “bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào cũn đều là đấu tranh chính trị xét đến cùng đều xoay quanh vấn đề giải phóng về kinh tế”. Để nhấn mạnh vai trò của chính trị V.I. Lê nin đã khẳng định: “chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế”. Khẳng định đó V.I. Lê nin không có nghĩa là phủ định vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị mà muốn nhấn mạnh tác động tích cực của chính trị đối với kinh tế. Vấn đề kinh tế không thể tách rời vấn đề chính trị nhất định. Giai cấp nào cầm quyền cũng hướng kinh tế phát triển theo lập trường chính trị của giai cấp đó nhằm phục vụ cho mục tiêu kinh tế – xã hội nhất định. Và lập trường chính trị đúng (hay sai) sẽ thúc đẩy (hoặc kìm hãm) sự phát triển của nền kinh tế V.I. Lê nin còn khẳng định: “không có một lập trường chính trị đúng như một giai cấp nhất định nào đó, không thể nào giữ vững được sự thống nhất của chính mình và do đó cũng không thể nào hoàn thành được nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất”. Khi thể chế chính trị không phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế thì tất yếu kinh tế sẽ mở đường đi. Khi đó, việc thay đổi thể chế chính trị cho phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế là điều kiện kiên quyết để thúc đẩy kinh tế phát triển. Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng kinh tế và chính trị thống nhất biện chứng với nhau trên nền tảng quyết định của kinh tế. Đây là cơ sở phương pháp luận quan trọng trong việc nhận thức xã hội nói chung, nhận thức công cuộc đổi mới ở Việt Nam nói riêng.
Sự phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Có thể nói, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986) của Đảng cộng sản Việt Nam, đất nước ta chuyển sang một giai đoạn mới-giai đoạn thực hiện công cuộc đổi mới. Cho đến nay, công cuộc đổi mới đã tiến hành được 10 năm. Trong 10 năm qua, việc nhận thức về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị cũng ngày càng chính xác hơn.
Khi bước vào công cuộc đổi mới, Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh đổi mới tư duy nhất là đối với cán bộ lãnh đạo, coi đó là tiền đề đổi mới trong hiện thực. Nhất là đối với cán bộ lãnh đạo, coi đó là tiền đề để đổi mới trong hiện thực. Nhấn mạnh như vậy là hết sức cần thiết đối với thực tiễn nước ta để vượt ra khỏi thói quen tư duy cũ đang trói buộc chúng ta từ khi đó. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là đổi mới tư duy có thể tách khỏi đối mới trong thực tiễn. Bản thân đổi mới tư duy là phản ánh yêu cầu mới trong thực tiễn mà gắn liền với thực tiễn của công cuộc đổi mới. Chính vì vậy tổng kết thực tiễn công cuộc đổi mới ở nước ta là cơ sở chủ yếu nhất đê không ngừng đổi mới và phát triển tư duy.
Vào những năm đầu của công cuộc đổi mới ở nước ta, khi mà Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vấp phải những thất bại nặng nề, khi mà chúng ta giành được những thắng lợi bước đầu, ở nước ta đã có quan điểm cho rằng nguyên nhân thất bại của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là do các nước đó đổi mới chính trị trước đổi mới kinh tế sau: còn nguyên nhân thất bại của công cuộc đổi mới ở nước ta là đổi mới kinh tế trước đổi mới chính chính trị sau. Quan điểm này mới xem qua tưởng là chính xác, nhưng đi vào phân tích sẽ thấy rằng nó không phù hợp với lý luận và thực tiễn.
Theo quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác Lênin mà chúng ta đã trình bày ở phần trên, mỗi khi chính trị không phù hợp với kinh tế thì thay đổi về chính trị là điều kiện kiên quyết để thay đổi kinh tế thúc đẩy kinh tế phát triển cho nên không thê quy nguyên nhân thất bại trong đổi mới ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là đổi mới chính trị trước đổi mới kinh tế sau. Nguyên nhân thực sự dẫn đến sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là do mâu thuẫn giữa kinh tế và chính trị không được phát hiện và khắc phục sớm đã dẫn đến khủng hoảng nghiêm trọng về chính trị làm mất vai trò của Đảng Cộng sản.
Khẳng định rằng ở nước ta đổi mới kinh tế trước, đổi mới chính trị sau cũng không phù hợp với thực tiễn. Sự thật là phải có đường lối đổi mới do Đảng ta đề ra, trên cơ sở đó hình thành chính sách mới, luật pháp mới… thì có thể đổi mới kinh tế. Bản thân đường lối đổi mới của Đảng cùng với chính sách luật pháp của nhà nước đều thuộc về chính trị. Vấn đề là ở chỗ: lĩnh vực chính trị là lĩnh vực hết sức phức tạp, liên quan đến quyền thống trị của giai cấp, nó có ý nghĩa quyết định thành bại của công cuộc đổi mới nên phải tiến hành đổi mới từng bước và hết sức thận trọng. Đổi mới chính trị phải trên cơ sở đổi kinh tế, gắn liền với đổi mới kinh tế và đáp ứng yêu cầu của đổi mới kinh tế.
Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6/1991), Đảng ta đã khẳng định:
“Về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, phải tập trung sức làm tốt để đổi mới kinh tế , đáp ứng những đòi hỏi cấp bạch của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới cơ chế kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội . Vì chính trị đụng chạm đến các mối quan hệ đặc biệt phức tạp và nhạy cảm trong xã hội, nên việc đổi mới trong hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị dẫn đến sự rối loạn.
Nhưng không vì vậy mà tiến hành chậm trễ đổi mới chính trị nhất là về tổ chức bộ máy và các bộ, mối quan hệ giữa Đảng, nhà nước và các đoàn thể nhân dân, bởi đó là điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và thực hiện dân chủ. Điều đó cho thấy Đảng ta đã không tách rời đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, mà gắn đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Đảng ta đã khẳng định rằng phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế và đồng thời với đổi mới kinh tế phải tiến từng bước đổi mới chính trị, nhưng phải thận trọng không gây mất ổn định về chính trị.
Tư tưởng trên đã được tiếp phát triển một cách rõ ràng hơn ở Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (tháng 6/1999) của Đảng ta khi tổng kết các bài học của 10 năm đổi mới. Đảng ta đã khẳng định phải “kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị”. Đây là một cách khái quát mới, hoàn toàn khoa học nó vừa phù hợp với lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin vừa phù hợp với công cuộc đổi mới ở nước ta.
Trong khi đề ra đổi mới chính trị, Đảng ta luôn nhấn mạnh phải ổn định chính trị giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Điều này tưởng như là một nghịch lý nhưng lại hoàn toàn có lý và khoa học.
ổn định về chính trị, nói một cách khái quát, là giai cấp cầm quyền phải tăng cường quyền lực chính trị của mình: nhà nước của giai cấp đó phải mạnh và có hiệu lực luật pháp phải nghiêm minh; chế độ xã hội đã xác lập phải được giữ vững. Đối với nước ta hiện nay, ổn định về chính trị thực chất là giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường vai trò của nhà nước XHCN, bảo vệ và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn trên thế giới cho thấy ổn định chính trị là điều kiện hết sức cơ bản để phát triển kinh tế. Nó tạo ta môi trường để thu hút nguồn vốn đầu tư trong nước và trên thế giới, tạo điều kiện phát triển sản xuất kinh doanh. Những thành tựu 10 năm đổi mới vừa qua ở nước ta cũng đã khẳng định điều đó. Những thành tựu đó không thể tách rời việc chúng ta giữ được việc ổn định về chính trị.
ổn định về chính trị lại không tách rời đổi mới về chính trị. Nhưng đổi mới chính trị không phải là đổi mới vô nguyên tắc, mà đổi mới là để giữ vững ổn định về chính trị , giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò tổ chức quản lí nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đổi mới chính trị lại phải gắn liền với đổi mới kinh tế, phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế thì mới có thể tăng cường được vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò tổ chức quản lí của nhà nước xã hội chủ nghĩa, và nhờ đó mới giữ vững được sự ổn định về chính trị. Song, đổi mới kinh tế cũng không phải là đổi mới một cách tuỳ tiện, mà theo một định hướng chính trị nhất định. Đó chính là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường (hay nói một cách ngắn gọn đó là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa). Chuyển sang nền kinh tế t11 theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh”. Và đó cũng là cơ sở kinh tế cho sự ổn định về chính trị.
Tóm lại: ổn định và đổi mới về chính trị là hai mặt đối lập nhưng thống nhất biện chứng với nhau. Có ổn định thì mới có đổi mới và đổi mới là điều kiện để ổn định. Hai mặt đó tác động qua lại với nhau và gắn bó chặt chẽ với đổi mới kinh tế, trên nền tảng của đổi mới kinh tế.
Như vậy, chúng ta thấy trong quá trình đổi mới ở nước ta, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, thống nhất với nhau, trong đó đổi mới kinh tế là trọng tâm, đổi mới chính trị phải tiến hành từng bước phù hợp với đổi mới kinh tế, đáp ứng yêu cầu đổi mới kinh tế.
Điều khẳng định đó là sự khái quát kinh nghiệm 10 năm đổi mới vừa qua và kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lcnmmn vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam. Khái quát đó là hoàn toàn khoa học và nó có giá trị định hướng cho giai đoạn phát triển tiếp theo – giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
+Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất – quan hệ sản xuất.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, vấn đề lực lượng sản xuất –quan hệ sản xuất là một vấn đề hết sức phức tạp mâu thuẫn giữa hai lực lượng này là những biểu hiện của nó xét trên phương diện triết học và chủ nghĩa Mác Lênin, theo đó lực lượng sản xuất là nội dung của sự vật còn quan hệ sản xuất là ý thức của sự vận động luôn luôn thay đổi. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất cũng không còn phù hợp nữa, trở thành yếu tố kìm hãm lực lượng sản xuất để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển cần phải thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng một quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chính quan hệ sản xuất tự phát triển để phù hợp với lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của đó là quy luật kinh tế chung cho sự phát triển xã hội.
Trong quá trình mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu kìm hãm nó diễn ra gay gắt và quyết liệt và cần được giải quyết. Nhưng nền kinh tế mà cuộc chuyển sang nkt thị trường ở nước ta là một ví dụ. Khi một mục tiêu, một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng thể hiện rõ tính chất, cách mạng của công cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam là phấn đấu xây dựng nước ta trở thành quốc gia công nghiệp hoá, hiện đại hoá “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh”.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là chủ trương biện pháp vừa mang tính cách mạng vừa mang tính khoa học để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nói đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước chính là nói đến nền sản xuất tiên tiến và đó chính là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, nói đến khoa học đến sự anh minh trí tuệ, là nói đến một phương thức tối ưu để thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, nhằm tạo điều kiện và cơ sở vật chất cho CNXH được xây dựng và phát triển. Không thể ăn đói, mặc rách với cái cuốc trên vai cộng thêm tấm lòng cộng sản để kiến thiết CNXH, chuyển sang nền kinh tế thị trường. Khẳng định cải mới đúng đắn từ bản thân nó đã bao gồm ý nghĩa phủ định, gạt bỏ quan niệm cũ sai lầm về điều kiện và cách thức xã hội chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trước đây chúng ta đã tỏ ra thiếu quan tâm đúng mức đến vai trò của trí tuệ: khoa học, đến việc tạo lập cơ sở kinh tế, vật chất của xã CNXH. Bằng chứng là một thời chúng ta đã coi trọng không đúng mức tầng lớp trí thức và khoa học trong môi trường tương quan với đội ngũ những người lao động khác. Do thế hậu quả và càng không thể nói đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
+Mâu thuẫn giữa các hình thái sở hữu trước đây và trong nền kinh tế thị trường.
Trước đây người ta quan niệm những hình sở hữu trong chủ nghĩa xã hội là: sở hữu CNXH tồn tại dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Sự tồn tại hai hình thức sở hữu đó là tất yếu khách quan bởi những điều kiện lịch sử khi tiến hành cách mạng CNXH và XDCNXH quyết định. Sau khi giành được chính quyền, giai cấp công nhân đứng trước hai hình thức sở hữu tư nhân khác nhau. Sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và sở hữu tư nhân của những người sản xuất hàng hoá nhỏ. Thực tế đòi hỏi giai cấp công nhân phải có thái độ phát triển giải quyết khác nhau. Đối với hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa không thể dùng những biện pháp như trên mà phải kiên trì giáo dục, thuyết phục, tổ chức họ trên cơ sở tự nguyện chuyển lên sở hữu tập thể bằng con đường hợp tác hoá hai hình thức. Sở hữu đó là hai con đường đặc thù tiến lên CNCS của giai cấp công nhân và nông dân tập thể.
Các hình thức sở hữu trước đây và trong thời kỳ quá độ sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Hơn 10 năm đổi mới đất nước theo định hướng XHCN ở nước ta đã chứng tỏ tính đúng đắn của đường lối đổi mới, của chính sách đa dạng hoá các hình thức sở hữu do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo toàn dân thực hiện. Thực tiễn đã cho thấy, một nền kinh tế nhiều thành phần đương nhiên phải bao gồm nhiều hình thức sở hữu, chứ không phải chỉ có hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể như quan niệm trước đây…
Trong giai đoạn hiện nay nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN mà chúng ta đang xây dựng và phát triển bao gồm các hình thức sở hữu như sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu cá thể, sở hữu tư bản và các hình thức sở hữu hỗn hợp. Trong các hình thức sở hữu này, khái quát lại chỉ có hai hình thức sở hữu cơ bản là công hữu và tư hữu, còn các hình thức khác chi là hình thức trung gian, quá độ hoặc hỗn hợp. ở đây, mỗi hình thức sở hữu lại có nhiều phương thức biểu hiện về trình độ khác nhau. Chúng ta được hình thành trên cơ sở có cùng bản chất kinh tế và tuỳ theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và năng lực quản lí.
-Về sở hữu toàn dân trước đây người ta quan niệm sở hữu toàn dân trùng với sở hữu nhà nước.
Nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần thì đương nhiên là nó bao gồm nhiều hình thức sở hữu, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vị trí then chốt, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển theo hướng có lợi cho quốc tế dân sinh. Nhà nước quản lí kinh tế với tư cách là cơ quan quyền lực đại diện cho lợi ích của nhân dân và là đại diện đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân.
ở nước ta hiện nay, như hiến pháp và luật đất đai đã dqd rõ : “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân”. Xét về mặt kinh tế đất đai là phương tiện tồn tại cơ bản của cả một cộng đồng xã hội. Xét về mặt xã hội, đất đai là lãnh thổ, là nơi cư trú của cả cộng đồng. Thế nhưng khi xét trên cả hai phương diện có thể nói rằng đất đai không thể là đối tượng sở hữu của riêng ai. Tuy nhiên, suy cho cùng, đất đai không thể là đối tượng sở hữu của riêng ai . Tuy nhiên, suy cho cùng đất đai cũng là tư liệu sản xuất, hay nói chính xác hơn, nó là một bộ phận quan trọng của tư liệu sản xuất. Bởi thế, dù là đặc biệt thì trong nền kinh tế hàng hoá, nó vẫn phải vận động theo những quy luật của thị trường và chịu sự điều tiết của những quy luật đó. Việc đất đai thuộc sở hữu của toàn dân nhà nước là người đại diện sở hữu và quản lí không hề mâu thuẫn với việc trao quyền cho các hộ nông dân, kể cả quyền được chuyển nhượng, quyền sử dụng đất đai nếu biết giải quyết cụ thể các vấn đề sở hữu, biết tách quyền sở hữu với quyền sử dụng, chẳng hạn như ruộng đất vẫn thuộc sở hữu của toàn dân song nông dân được quyền sử dụng ổn định lâu dài có thể đem lại một sức bật cho sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự tăng trưởng kinh tế nói chung. Văn kiện Đại hội VII của Đảng đã chỉ rõ : “Trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân về đất đai ruộng đất được giao cho nông dân sử dụng lâu dài, nhà nước quy định bằng luật pháp và các vấn đề thừa kế, chuyển quyền sử dụng đất…” Đảng cộng sản Việt Nam văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần VII NXB sự thật Hà Nội năm 1991. Như vậy hình thức sở hữu toàn dân ở nước ta đã được xác định theo nội dung mới có nhiều khả năng để thực sự trở thành nguồn lực phát triển kinh tế.
-Về sở hữu nhà nước
Trong thời kỳ bao cấp trước đây không chỉ ở nước ta mà còn ở một số nước khác trong hệ thốõngh chủ nghĩa, thường đồng nhất sở hữu nhà nước với sở hữu toàn dân. Do nhầm lẫn như vậy mà có một thời gian khá dài, người ta thường bỏ quên hình thức sở hữu nhà nước, chỉ quan tâm đặc biệt tới sở hữu toàn dân với chế độ công hữu tồn tại dưới hai hình hình thức sở hữu toàn dân và tập thể và cũng bởi sở hữu toàn dân được gắn kết với sự phát triển của khu vực kinh tế quốc doanh, vì vậy mà chúng ta đã ra sức quốc doanh hoá nền kinh tế với niềm tin cho rằng chỉ như vậy mới có CNXH. Thực ra với quan niệm đó, sở hữu toàn dân đã trở thành thứ sở hữu không phải của một chủ sở hữu cụ thể nào cả.
Trong xã hội mà nhà nước còn tồn tại thì sở hữu chưa có điều kiện vận động trên bề mặt của đời sống kinh tế nói chung. Hình thức sở hữu nhà nước, xét về tổng thể mới chỉ là kết cấu bên ngoài của sở hữu. Còn kết cấu bên trong của sở hữu nhà nước ở nước ta, có lẽ chủ yếu thể hiện quyền sơr hữu đó ở khu vực kinh tế quốc doanh, khu vực các doanh nghiệp nhà nước.
-Về sở tập thể.
ở nước ta trước đây hình thức sở hữu tập thể chủ yếu tồn tại dưới hình thức HTX, với nội dung là cả giá trị lẫn giá trị sử dụng của đối tượng sở hữu đều là của chung, mà các xã viên là chủ cơ sở chính vì vậy mà với hình thức sở hữu này quyền hạn mua bán hoặc chuyển nhượng TLSX, trong sản xuất và lưu thôn ở nước ta đã diễn ra hết sức phức tạp. Quyền hạn của các tập thể sản xuất thường rất hạn chế, song đôi khi lại có tình trạng lạm quyền. Sự không xác định sự “nhập nhằng” với quyền sở hữu nhà nước và với sở hữu tư nhân trá hình cũng là hiện tượng phổ biến. Để thoát ra khỏi tình trạng đó, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường hiện nay cần phải xác định rõ quyền mua bán và chuyển nhượng tư liệu sản xuất đối với các tập thể sản xuất kinh doan. Chỉ có như vậy thì sở hữu tập thể mới có thể trở thành một hình thức sở hữu có hiệu quả.
Chúng ta đều đã biết, HTX không phải là hình thức riêng có, đặc trưng cho CNXH, nhưng nó là một hình thức sở hữu kinh tế tiến bộ trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Vì vậy chúng ta cần phải duy trì và phát triển hơn nữa hình thức sở hữu này khi xây dựng CNXH như V.I Lê nin đã khẳng định: “Chế độ của người xã vien HTX văn minh là chế độ xã hội chủ nghĩa”.
HTX là nhu cầu thiết thực của kinh tế hộ gia đình, của nền sản xuất hàng hoá. Khi lực lượng sản xuất trong nông nghiệp nhỏ phát triển tới một trình độ nhất định, nó sẽ thúc đẩy quá trình hợp tác, điều kiện của nền kinh tế hàng hoá, các nhu cầu kinh tế về vốn, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm … đòi hỏi các hộ sản xuất phải hợp tác với nhau mới có khả năng canh tranh và phát triển. Chính nhu cầu đó đã liên kết người lao động lại với nhau và làm nảy sinh quan hệ sở hữu tập thể. Thực tiễn cho thấy ở nước ta hiện nay đã có những hình thức HTX kiểu mới ra đời do nhu cầu tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường.” hợp tác xã đã được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên, phân phối theo kết quả lao động và theo cổ phần, mỗi xã viên có quyền như nhau đối với công việc chung (Đảng cộng sản Việt Nam, văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần VIII, Nhà xuất bản Chính trị quốcc gia Hà Nội –1996) điều này cho thấy, kết cấu bên trong của sở hữu tập thể đã thay đổi phù hợp với thực tiễn ở nước ta hiện nay.
+ Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người CNXH
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người CNXH. Yếu tố con người giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp cách mạng, bởi vì con người là chủ thể của mọi sáng tạo, của mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, là mục tiêu của CNXH chúng ta phải bắt đầu từ con người làm điểm xuất phát.
Kinh tế thị trường là một loại hình kinh tế mà tron đó có các mối quan hệ kinh tế giữa con người với con người được biểu hiện thông qua thị trường, tức là thông qua việc mua – bán trao đổi hàng hoá - tiền tệ trong kinh tế thị trường các quan hệ hàng hoá - tiền phát triển, mở rộng, bao quát trên mọi lĩnh vực, có nghĩa phổ biến đối với người sản xuất và người tiêu dùng. Do hoạt động của các khách quan trong những điều kiện lịch sử nhất định, kinh tế thị trường phản ánh trình độ văn minh và sự phát triển của xã hội là nhân tố phát triển sức sản xuất, tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xã hội tiến lên. Tuy nhiên, kinh tế thị trường cũng có những khuyết tật tư nhân, đặc biệt là tính tự phát mù quáng, sự cạnh tranh lạnh lùng dẫn đến sự phá sản thất nghiệp, khủng hoảng chu kỳ.
Xuất phát từ sự phân tích trên đây, chúng ta thấy rằng đổi mới ở nước ta hiện nay, không thể xây dựng và phát triển con người nếu thiếu yếu tố kinh tế thị trường. Do hậu quả của nhiều năm chiến tranh của nền kinh tế kém phát triển của cơ chế tập trung quan liêu bac cấp.. nền kinh tế nước ta đã tụt hậu nghiêm trọng so với khu vực và quốc tế . Trong bối cảnh đó, kinh tế thị trường là điều kiện rất quan trọng đưa nền kinh tế nước ta ra khỏi khủng hoảng và phát triển , phục hồi sản xuất, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng, bắt kịp bước tiến của thời đại. Trên cơ sở đó, đời sống của con người ngày càng được cải thiện nâng cao những nhu cầu sinh hoạt vật chất cơ bản ngày càng đáp ứng một cách đầy đủ và nhanh chóng hơn. Con ngươi không thể có cơ thể khoẻ mạnh nếu thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu các điều kiện y tế hiện đại để chăm sóc giữa gìm sức khoẻ. Con người không thể có trị tuệ minh mẫn, phát triển nếu các điều kiện vật chất tiến hành các hoạt động học tập nghiên cứu khoa học không được đáp ứng. Việc xây dựng, củng cố, hoàn thiện cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa cũng đồng nghĩa với việc tạo ra các điều kiện vật chất cơ bản để hiện chiến lược xây dựng phát triển con người cho thế kỷ XXI.
Trong những năm qua, kinh tế ở nước ta đã được nhân dân hưởng ứng rộng rãi và đi vào cuộc sống rât nhanh chóng, góp phần khơi dậy tiềm năng sáng tạo, làm cho nền kinh tế sống động hơn, bộ mặt thị trường được thay đổi và sôi động hơn. Đây là những kết quả đáng mừng, đáng được phát huy, nó thể hiện sự phát hiện và vận dụng đúng đắn các quy luật xã hội. Quá trình biện chứng đi lên CNXH từ khách quan đang trở thành nhận thức chủ quan trên quy mô toàn xã hội.
Bên cạnh đó, có một khía cạnh khác cũng cần được đề cập, kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay không chỉ tạo ra điều kiện vật chất để xây dựng, phát huy nguồn lực con người mà còn tạo ra môi trường thích hợp cho con người phát triển hoàn toàn, toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần. Kinh tế thị trường tạo ra sự cạnh tranh, chạy đua quyết liệt. Điều đó buộc con người phải năng động, sáng tạo linh hoạt, có tác phong nhanh nhạy, có đầu óc quan sát, phân tích để thích nghi và hành động có hiệu quả, từ đó nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn của con người trong nền kinh tế lạc hậu từ ngàn đời ở con người Việt Nam. Kinh tế thị trường tạo ra những điều kiện thích hợp để con người mở rộng các mối quan hệ xã hội, giao lưu buôn bán, từ đó hinh thành các chuẩn mực văn hoá đạo đức mới theo tiêu trí thị trường như chữ tín trong chất lượng, chữ tín trong giao dịch… Đây cũng là một hướng tốt đẹp bù đắp những thiếu hụt trong hệ giải trí của con người Việt Nam.
Tuy nhiên, cần phải thấy rằng không phải cứ xây dựng được kinh tế thị trường là những phẩm chất tốt đẹp tự nó hình thành cho con người. Có những lức, những nơi, kinh tế thị trường không những không làm cho con người ta năng động hơn, tốt đẹp hơn mà ngược lại, comfn làm tha hoá bản chất con người, biến con người thành gã nô lệ sùng bái đồng tiền hoặc kẻ đạo đức giả chỉ biết tôn trọng sức mạnh và lợi ích cá nhân sẵn sàng trà đạp lên nhân phẩm, văn hoá, đạo đức, lý luận … bên cạnh những tác động tích cực kinh tế thị trường cũng có nhiều khuyết tật, hạn chế gây ra những tác động xấu. Đơn giản ví dụ như: tệ nạn thương mại hoá trường học, xem nhẹ truyền thống tôn sư trọng đạo. Quan hệ hàng hoá -tiền tệ làm sôi động thị trường nhưng cũng sói mòn nhân cách làm hàng loạt tệ nạn xã hội dễ đưa đến những rối loạn, khủng hoảng cho gia đình- hạt nhân, tế bào của xã hội. Nạn cờ bạc, rượu chè, mại dâm, ma tuý buôn lậu, tham nhũng… là những căn bệnh không dễ khắc phục trong kinh tế thị trường.
Những phân tích trên đây cho thấy kinh tế thị trường là mục tiêu xây dựng con người CNXH là mâu thuẫn biện chứng trong thực tiễn nước ta hiện nay. Đây chính là hai mặt đối lập của một mâu thuẫn xã hội. Giữa kinh tế thị trường và quá trình xây dựng con người vừa có sự thống nhất vừa có sự đấu tranh. Kinh tế thị trường vừa tạo ra những điều kiện để xây dựng, phát huy nguồn lực con người, vừa tạo được độc tố huỷ hoại con người. Việc giải quyết mâu thuẫn trên đây là việc làm không đơn giản. Đối với nước ta mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và quá trình xây dựng con người được giải quyết bằng vai trò lãnh đạo của Đảng, bằng sự quản lí của nhà nước theo định hướng XHCN . Đảng ta đã xác định :”sản xuất hàng hoá không đối lập với CNXH mà là thành tựu phát triển nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng”. Như vậy Đảng ta đã vạch rõ sự thống nhất giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng CNXH . Việc áp dụng cơ chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lí tầm vĩ mô của nhà nước, đồng thời xác nhận đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Thực hiện tốt vấn đề này sẽ phát huy được tác động tích cực to lớn cũng như ngăn ngừa, hạn chế khắc phục những tiêu cực, khiếm khuyết của kinh tế thị trường. Các hoạt động sản xuất kinh doanh phải hướng vào phục vụ công cuộc xây dựng nguồn lực con người. Cần phải tiến hành các hoạt động văn hoá giáo dục nhằm khôi phục tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lý coi trọng các giá trị nhân văn, phải ra sức phát huy các giá trị nhân đạo, thẩm mỹ, các duy sản văn hoá, nghệ thuật của dân tộc như nội dung của nghị quyết TW 5 đã nêu. Đây chính là công cụ, phương tiện quan trọng để tác động, góp phần giải quyết mâu thuẫn đã nêu.
iii. những nhiệm vụ, biện pháp kinh tế chủ yếu của nước ta trong thời kỳ này
Nước ta quá độ lên CNXH từ điểm xuất phát thấp: nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, tự cấp, tự túc, còn ở tình trạng phổ biến của tái sản xuất giản đơn, lực lượng sản xuất lạc hậu, năng suất lao động thấp, quan hệ sản xuất yếu kém, gây khó khăn, cản trở cho sự phát triển và tăng trưởng, kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đang trong quá trình hình thành, thu nhập quốc dân bình quân đầu người thấp, là một trong số các quốc gia thu nhập bình quân đầu người thấp , là một trong số các quốc gia nghèo và chậm phát triển.
Vì cvaayjm những nhiệm vụ kinh tế chủ yếu trong thời kỳ quá độ cần phải thực hiện là:
3.1. Phát triển lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất gồm người lao động (lực lượng sản xuất cơ bản), tư liệu sản xuất và khoa học. Muốn phát huy nhân tố người của nền sản xuất xã hội, không thể Không đầu tư để phát triển, trước hết là giáo dục, đào tạo, sau đến là hàng loạt những vấn đề đối với người lao động như tuyển dụng, sử dụng, quản lý, chính sách đãi ngộ... nghĩa là theo phương châm từ con người, do con người và vì con người.
Trong thời kỳ quá độ, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân là nhiệm vụ trung tâm, nhằm phát triển kỹ thuật, công nghệ, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của CNXH, đồng thời từng bước hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả.
3.2 Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất theo định hướng XHCN
Xây dựng và hoàn thiện QHSX trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta suy cho cùng là tạo mọi điều kiện cho tất cả các thành phần kinh tế đều phát triển, từ đó phát huy tốt nhất vị trí vai trò của mỗi thành phần kinh tế đối với đất nước và xử lý hài hoà mối quan hệ hợp tác và cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế, từng bước phát huy vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước. Phương hướn cơ bản đó đòi hỏi việc xây dựng và hoàn thiện QHSX phải theo các quan điểm chỉ đạo sau đây:
Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất theo định hướng XHCN phải làm cho quan hệ sản xuất phù hợp hơn với sức sản xuất trong các thành phần kinh tế, đồng thời đẩy mạnh cải cách môi trường thể chế nhằm thực hiện các mục tiêu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thực chất đổi mới kinh tế ở nước ta trong hơn 10 năm qua là sự điều chỉnh một cách toàn diện về các quan hệ sản xuất bao gồm cả về mặt quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối. Đó là bước khởi đầu của cách mạng về các quan hệ sản xuất, xuất phát từ yêu cầu khách quan của quá trình xã hội hoá sản xuất, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phát triển kinh tế thị trường ở nước ta. Nhờ bước đầu “cởi trói” cho một loạt các quan hệ sản xuất, các thành phần kinh tế đang phát huy tác dụng, chứng tỏ sức sống và vị trí quan trọng của nó trong công cuộc xây dựng nền kinh tế mới.
Tuy nhiên, cho đến nay kinh tế thị trường của ta còn sơ khai. ở các vùng nông thôn, miền núi, còn mang nặng dấu ấn kinh tế tự nhiên. với đặc trưng là tự cung tự cấp. ở đây kinh tế hàng hoá chưa phát triển, công nghệ sản xuất còn lạc hậu, đơn sơ. kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ của nông dân, thợ thủ công còn chiếm tỷ trọng lớn và phát triển một cách manh mún, lại chưa được tổ chức và quản lý tốt. Kinh tế tư bản tư nhân chưa được chú ý phát triển đúng mức, phần lớn còn là quy mô nhỏ và kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực lưu thông. Kinh tế tư bản Nhà nước được từng bước hình thành và phát triển nhưng chưa được huy động hết tiềm năng vốn có của nó. Kinh tế Nhà nước đang trong quá trình đổi mới, tổ chức sắp xếp lại cho phù hợp với lực lượng sản xuất và thích nghi với việc quản lý theo kinh tế thị trường. Nền sản xuất mặc dù đan xen những yếu tố hiện đại, song kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc còn chiếm tỷ lệ lớn.
Trong điều kiện đó, những lệch lạc về nhận thưc, tình trạng yếu kém về mặt tổ chức, quản lý và phân phối, sự lạc hậu của môi trường thể chế.. sẽ là những vướng mắc đối với sự phát triển của sức sản xuất, cản trở việc huy động tối đa mọi nguồn lực, làm chậm quá trình đa dạng hoá sở hữu và phát triển nềnkt hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta, vi phạm yêu cầu quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Vì vậy, để chiến lược phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần thực sự đi vào cuộc sống cần phải giải quyết những vấn đề sau đây:
Trước hết cần nhận thức rõ bản chất, nội dung, phạm vi và các hình thức biểu hiện của từng thành phần kinh tế. Cần thấy rằng đặc trưng kết cấu thành phần kinh tế nước ta trong thời kỳ chuyển đổi là một cơ cấu động. Do vậy, trong quá trình phát triển phải thừa nhận sự chuyển đổi giữa các thành phần cũng như chấp nhận những “ bước tiến” hoặc “ bước lùi” trong việc hoàn thiện quan hệ sản xuất ở mỗi một thành phần kinh tế là một tất yếu khách quan. Theo hướng đó việc phát triển các thành phần kinh tế cần chú ý tới các vấn đề sau đây:
Đối với kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc ở các vùng (trong đó vùng núi) phải chuyển nhanh sang kinh tế hàng hoá. Đối với sản xuất hàng hoá nhỏ, cần đẩy mạnh các hình thức liên kết, tổ chức quản lý và định hướng sự phát triển nhằm phục vụ các mục tiêu chung. Đối với kinh tế tiểu chủ và tư bản tư nhân cần tạo điều kiện để phát huy hết tiềm lực của họ. Trong điều kiện mới của quan hệ kinh tế quốc tế, một mặt phải phát huy tối đa những nguồn lực bên trong, mặt khác phải hết sứ tranh thủ các nguồn lực bên ngoài thông qua viẹc phát triển mạnh thành phần kinh tế tư bản Nhà nước để nhanh chóng tạo ra lực lượng sản xuất mới, trên cơ sở đó cho phép việc hoàn thiện quan hệ sản xuất rút ngắn được thới gian trong tiến trình thực hiện. Đối với kinh tế Nhà nước cần sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước cho phù hợp vơíi lực lượng sản xuất hiện có và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Đồng thời với việc đổi mới sở hữu, để hoàn thện đồng bộ các mặt của quan hệ sản xuất, phả chú ý nâng dần trình độ tổ chức quản lý và hoàn thiện các quan hệ phân phối một cách thích ứng trong các thành phần phù hợp với điều kiện của nền kinh tế vận hành theo cơ chế mới.
Trong quá trình vận động, chuyển hoá giữa các thành phần kinh tế có khăn năng xảy ra tình trạng tự phát theo sự điều tiết của thị trường. ì vậy, phải tăng cường vai trồ định hướng của Nhà nước. Để làm điều đó điều quan trọng là phải tiến hành cải cách bộ máy Nhà nước, cải cách môi trường thể chế tạo thuận lơịi cho iệc phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế, huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước ào phát triển kinh tế theo định hướng XHCN ở nước ta.
Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất đòi hỏi phải nâng cao hiệu lực điều tiết của ngân hàng, thực hiện phân phối theo nguyên tắc kinh tế thị trường, đẩy mạnh phúc lợi xã hội.
Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đa hình thức sở hữu đang làm nảy sinh những quan điểm mới về quan hệ phân phối.
Quan hệ phân phối trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải kết hợpp phân phối thep lao động và hưởng lợi theo tài sản. phấn đấu và tạo điều kiện để mỗi người lao động đều có một phần tài sản, vốn liếng đóng góp cổ pphần của mình vào các cơ sở sản xuất, dịch vụ để tạo điều kiện phát huy vai trò của họ trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Mục tiêu là phải đảm bảo đời sống của người lao động từng bước được nâng cao góp phần xóa đói giảm nghèo trong các tầng lớp dân cơ và giữa các vùng nhưng có giới hạn. khuyến khích động viên mọi người từ quần chúng đến Đảng viên tạo nhiều việc làm à làm giàu chính đáng. Nghiêm cấm những hành vi làm giàu bất chính, bòn rút của công, hà hiếp quần chúng lao động làm giảm sút lòng tin của nhân dân và triệt tiêu động lực của người lao động.
Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu độc lập và đan xen sẽ tạo ra rất nhiều hình thức phân phối tỷ lệ phân phối khác nhau về nguồn lực và sản phẩm.
Quan hệ đốii với tài sản bao gồm nhiều quyền khác nhau. Do vậy, cần phân biệt rõ các quyền này và gắn chúng với việc hưởng lợi trong phân phối kế quả sản xuất kinh doanh.
Phân phối vật phẩm tiêu dùng phải căn cứ vào lao động giản đơn và lao động phức tạp, khuyến khích nâng cao tay nghề của lao động giảm đơn, chú ý tới lao động của những nhà khoa học và quản lý.
Phân phối dựa trên nguyên tắc thị trường không tránh khói sự bất bình đẳng trong thu nhập, mà hậu quả của nó là sự mất ổn định về kinh tế, chính trị, xã hội như nhiều nước phát triển theo con đường kinh tế thị trường đã trải qua. Vì vậy phải có sự điều tiết trong tái phân phối. ở đây sự điều tiết của Nhà nước là hết sức quan trọng thông qua thuế thu nhập và phúc lợi sản xuất. Vì vậy đi liền với cải cáh chế độ phân phối, cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách tài chính theo hướng tăng cường khả năng điều tiết vĩ mô của Nhà nước nhằm điều hoà thu nhập, đảm bảo phúc lợi giữa các tầng lớp dân cư.
Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất, một mặt phải tạo điều kiện để thành phần kinh tế ngân hàng vươn lên nắm vai trò chủ đạo, mặt khác phải đảm bảo tính bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Trong bất cứ hình thái kinh tế sản xuất nào cũng có phát triển sản xuất tiêu biểu cho chế độ kinh tế xã hội đương thời, giữ vị trí thống trị chi phối, còn các phát triển sản xuất tàn dư, phát triển sản xuất mầm mống của hình thái xã hội tương lai, ở vào địa vị lệ thuộc, bị chi phối. Các phươg thức sản xuất trong moọt hình thái kinh tế xã hội được biểu hiện thành các thành phần kinh tế. Trong giai đoạn quá độ, chưa có thành phần kinh tế nào đủ sức giữ vai trò thống trị và chi phối các thành phần kinh tế khác. V.I Lênin đã chỉ ra, các thành phần kinh tế chỉ là những mảnh, những bộ phận hợp thành kết cấu kinh tế xã hội, vừa có tính độc lập tương đối, vừa tác động lẫn nhau.
Kinh nghiệm của tiến trình lịch sử cho thấy, vai trò chủ đạo của một thàn phần kinh tế nào đó không phải ở chỗ quy mô của nó to hay nhỏ, lực lượng của nó nhiều hay ít, mà là ở chỗ nó có ảnh hưởng chi phối được các thành phần kinh tế khác hay không, có làm cho các mối quan hệ kinh tế diễn ra theo tính chất của phương thức sản xuất thống trị hay không.
Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế nhiều thành phần, đang trong quá trình chuyển đổi. Các thành phần kinh tế này đan xen lẫn nhau, vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau, luôn vận động và có sự chuyển hoá trog quá trình phát triển. Định hướng XHCN là phải tạo điều kiện cho thành phần kinh tế Nhà nước vươn lên nắm vai trò chủ đạo. Thực tế hiện nay, các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta chưa đáp ứng được vai trò này kể cả về hiệu quả sản xuất kinh doanh, về trình độ tổ chức quản lý và phương thức phân phối. Vì vậy, muốn thực hiện được vai trò chủ đạo, các doanh nghiệp Nhà nước cần phải được tiếp tục sắp xếp lại, phát triển doanh nghiệp Nhà nước một mặt phải đặt trong mối tương quan với nguồn lực của Nhà nước, mặt khác phải đặt trong mối quan hệ với các thành phần kinh tế. Về tổ chức quản lý phả chặt chế hơn, phải có chế độ phân phối hợp lý để vvừa nâng cao mức sống của người lao động, vừa đảm bảo tái sản xuất của các doanh nghiệp, phả củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước cũng có nghĩa là phải nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước đối với các doanh nghiệp khác ở trong và ngoài nước. Chính điều đó có nghĩa là củng cố tính chất xã hội chủ nghĩa trong thành phần kinh tế này trên tấ cả các mặt của quan hệ sản xuất để tạo điều kiện cho nó nhanh chóng giữ vị trí chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta.
Đồng thời với việc thiết lập vai trò chủ đạo cho thành phần kinh tế Nhà nước, hoàn thiện quan hệ sản xuất phải đảm bảo tính dân chủ và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Dân chủ giữa các thành phần kinh tế được biểu hiện ở mối quan hệ giữa lợi ích và nghĩa vụ của các thành phần với nhau và với Nhà nước. ở đây không đề cập tới vấn đề dân chủ về mặt chính trị, mà chỉ giới hạn trong kinh tế. Dân chủ trong kinh tế đó là quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản, quyền hưởng thụ kết quả kinh doanh và nghĩa vụ đóng góp đối với Nhà nước. Dân chủ không thể thực hiện được bằng mệnh lệnh mà phải được thể chế hoá bằng luật pháp, cơ chế dân chủ phải đảm bảo tính tập trung. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, việc ưu tiên, ưu đãi không áp dụng theo ngành. Nhà nước cần có chính sách tài trợ cho một số lĩnh vực, mặt hàng sản phẩm khuyến khích hoặc tài trợ này không phân biệt thành phần kinh tế, thành phần nào làm được thì hưởng ưu đãi.
Đồng thời viêc đảm bảo tính dân chủ, phải đảm bảo tính bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, tạo điều kiện phát huy đầy đủ mọi năng lực và vị trí cảu mối thành phần kinh tế, hình thành môt hệ thống kinh tế quốc dân thống nhất. Trong kinh doanh nước ta hiện nay, nền kinh tế chỉ có thể phát triển bền vững nếu các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động một cáh bình đẳng có hiệu quả, có sức phát triển và cạnh tranh cao. Điều nầy cần được thể hiện trong việc hoạch định các chính sách của Nhà nước phải đảm bảo nguyên tắc hai mặt: đối xử giống nhau đối với mọi thành phần để đảm bảo công bằng theo chiều ngang và đối xử khác nhau đối với các thành phần để thực hiện công bằng theo chiều dọc.
Cần nhấn mạnh, trong nền kinh tế thị trường khi chính quyền trong tay nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo, thì vai trò của Nhà nước, bộ phận của kiến trúc thượng tầng, có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tác động chi phối tới các thành phần kinh tế khác. Thông qua luật pháp và các công cụ chính sách mang tính điều tiết của Nhà nước, có thể hướng hoạt động của các thành phần kinh tế khác đi theo quỹ đạo của mình. Do đó, ngoài việc sắp xếp, củng cố lại các doanh nghiệp thì việc cải cách bộ máy Nhà nước, hoàn thiện môi trường luật pháp cho kinh doanh, tạo những điều kiện cần thiết cho đầu tư phát triển của các doanh nghiệp.. là những công việc có ý nghĩa quyết định.
Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất phải tính đến yếu tố thời đại mà đặc trưng cơ bản của nó là quá trình mở cửa và hội nhập với quốc tế và khu vực
Trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế, hiện nay khôngmột quốc gia nào đóng cửa mà có thể phát triển bình thường được. Trong điều kiện mới, thông qua việc mở rộng các quan hệ kinh tế quốc tê, các nước có thể tranh thủ nguồn lực của nước ngoài tạo ra những bước nhảy vọt, đột biến tron sự phát triển rút ngắn của mình.
Đối với những nước ngèo như nước ta, việc mở cửa để thu hút nguồn lực về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý từ nước ngoài lại càng có ý nghĩa quan trọng. Những nguồn lực huy động từ bên ngoài sẽ góp phần tạo ra lực lượng sản xuất mới, năng suất lao động can hơn đảm bảo cho sự phát triển thắng lợi của đất nước. Về mặt quan hệ sản xuất, điều đó có nghĩa là rút ngắn sự phát triển có tính chất tuần tự theo tiến trình lịch sử, đẩy nhanh quá trình xây dựng nền kinh tế theo định howngs XHCN. Do vậy, cần phải có chính sách thông thoáng đề thu hút các nguồn lực đó và biến chúng thành nhân tố tích cực góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước.
Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất ở nước ta theo hướng phù hợp với điều kiện hội nhập phải tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế đều ddươc bình đẳng tham gia vào các quan hệ kinh tế đối ngoại. Muốn vậy, cần xoá bỏ những nhận thức không đúng đang ngăn cản sự tham gia của các thành phần kinh tế trong quan hệ kinh tế đối ngoại, tạo ra sự thông thoáng cho các quan hệ kinh tế phát triển. Cần phải điều chỉnh lại các chính sách về ngoại thương, xuất nhập khẩu, đầu tư theo hướng tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy sự tham gia và các hoạt động kinh tế đối ngoại của mọi thành phần kinh tế. Sắp xếp, bố trí, tổ chức lại nền kinh tế, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những hàng hoá có khả năng và lợi thế sản xuất trong nước.
Quan niệm về kinh tế mở để hội nhập không có nghĩa chỉ là mở cửa với bên ngoài, mà còn mở cửa với bên trong. Sự mở cửa bên trong nà có nghĩa là phát triển sản xuất kinh doanh phải theo tiêu chuẩn của thị trường thế giới. Hàng hoá của các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất ra phải đủ sức cạnh tranh với hàng hoá của các nước bán trên thị trường Việt Nam. Sự mở cửa bên trong như vậy cũng đòi hỏi sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong các quan hệ sở hữu, phân phối và điều hành quản lý ở tầm vĩ mô của Nhà nước. Đó là điều kiện cần thiết để rạo ra sự cạnh tranh trong nền kinh tế để các chủ thể kinh tế có điều kiện phát huy những tiềm năng và lợi thế của mình trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế.
Việc mở cửa hội nhập với bên ngoài theo phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá các hình thức và quan hệ kinh tế đối ngoại đòi hỏi phải đáp ứng các nhu cầu lợi ích của các bên đối tác, phù hợp với thông lệ quốc tế, mặt khác đòi hỏi phải đảm bảo phục vụ cho nhu cầu lợi ích quốc gia, dân tộc, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bền vững.
Trong quá trình mở cửa hội nhập, phải tăng cường và nâng cao năng lực quản lý công tác kiểm tra, giám sát của Nhà nước nhằm khắc phục những mặt tiêu cực do mở cửa gây ra, cũng như hoàn thiện hệ thống luật pháp để khai thác tối ưu các nguồn lực bên ngoài và phát huy có hiệu quả nguồn lực bên trong, đáp ứng kẹp thời các nhu cầu phát triển của nền kinh tế quốc dân.
2.3. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
Lịch sử đã khẳng định không một nước nào (dù mức độ khác nhau) khép kínn nền kinh tế nước mình. Trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế và phát triển của khoa học-kỹ thuật, “mở cửa” nền kinh tế nhằm thu hút nguồn lực phát triển từ bên ngoài và phát huy lợi thế kinh tế trong nước làm thay đổi mạnh mẽ về trình độ công nghệ, cơ cấu ngành và sản phẩm, mở rộng phân công lao động quốc tế, tăng cường liên doanh, liên kết, hợp tác, là cơ sở để kích thích sản xuất trong nước vươn lên kịp trình độ thế giới, đảm bảo hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, tăng cường tính độc lập và phụ thuộc lẫn nhau, trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi.
Trong quan hệ đối ngoại phải đa dang hóa các lĩnh vực, các ngành, các bên và các hình thức. Yêu cầu đó đòi hỏi bức thiết hìh thành luật pháp. sự ổn đinh và nhất quán luật pháp, sự ổn định kinh tế, chính trị, xã hội đặc biệt nâng cao vai trò của tài chính ngân hàng, cơ sở hạ tầng và dịch vụ, cũng như kiến thức cho cán bộ về quan hệ kinh tế quốc tế.
2.4.Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của nhân dân.
Đây là nhiệm vụ phản ánh mục đích cuối cùng của sự phát triển kinh tế. Phát triển và tăng trưởng kinh tế gắn hữu cơ ngay từ đầu với tiến bộ và công bằng xã hội nhằm làm cho mỗi thành viên trong xã hội thoả mãn ngày càng tăng làm cho các nhu cầu vật chất và văn hoá, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển tự do và toàn diện của mỗi người.
Kết luận
Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan phổ biến hình thành từ những cấu trúc và thuộc tính bên trong vốn có tự thân của tất cả các sự vật, hiện tượng trong bản thân thế giới khách quan… Do đó trong hoạt động thực tiễn phân tích từng mặt độc lập tạo thành mâu thuẫn cụ thể để nhận thức được bản chất khuynh hướng vận động phát triển của sự vật hiện tượng.
Cần nắm vững nguyên tắc để giải quyết mâu thuẫn. Đó là sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập diến ra theo quy luật phá vỡ cái cũ để thiết lập cái mới tiến bộ hơn. Vì vậy trong đời sống xã hội, mọi hành vi đấu tranh cần được coi là chân chính khi nó thúc đẩy sự phát triển.
Trong thời kỳ chuyển nền kinh tế ở Việt Nam từ kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng XHCN. Chủ trương lãnh đạo của Đảng là rất đúng đắn tuy nhiên trong thực hiện còn nhiều thiếu sót, mâu thuẫn giữa các vấn đề nảy sinh. Nhưng những mâu thuẫn đó đòi hỏi chúng ta giải quyết có như thế nền kinh tế mới phát triển theo đúng nghĩa đổi mới của nó.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình triết học Mác Lê nin tập II
(NXB chính trị quốc gia)
Tạp chí triết học số 1 (101) tháng 12 năm 1998
Tạp chí triết học số 2 (96) tháng 4 năm 1997
Tạp chí triết học số 1 (107) tháng 2 năm 1998
Tạp chí triết học số 3 (103) tháng 6 năm 1997
Việt Nam chuyển sang giai đoạn kinh tế thị trường
(Học viện chính trị quốc gia)
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần VIII
(Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội 1996)
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần VII
(Nhà xuất bản sự thật Hà Nội 1991)
Hồ Chí Minh toàn tập
(nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội )
Bài phát biểu của Tổng bí thư Đỗ Mười nhân dịp về giỗ tổ Hùng Vương ngày 1 tháng 4 năm 1995
(Báo nhân dân ngày 8 tháng 4 năm 1995)
11. Kinh tế chính trị học (tập II)
Mục lục
Phần A: Lời nói đầu
Phần B: Nội dùng
I. Lý luận chung
1. Sự đấu tranh của các mặt đối trong một thể thống nhất
2. Chuyển hoá của các mặt đối lập
II. Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường
1. Thực chất kinh tế thị trường Việt Nam
2. Những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình xây dựng nền KTTT ở Việt Nam
III. Nhiệm vụ hay biện pháp kinh tế chủ yếu của nước ta thời kỳ này.
IV. Kết luật
V. Các tài liệu tham khải
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29935.doc