Những phân tích trên đây cho thấy, kinh tế thị trường là mục tiêu xây dựng con người XHCN là một mâu thuẫn biện chứng trong thực tiễn XHCN Việt Nam hiện nay. Đây là hai mặt đối lập của một mâu thuẫn xã hội. Giữa kinh tế thị trường và quá trình xây dựng con người vừa có sự thống nhất, vừa có sự đấu tranh. Kinh tế thị trường vừa tạo ra những điều kiện để xây dựng, phát huy những nguồn lực con người, vừa tạo ra những độc tố huỷ hoại đầu độc con người. Việc giải quyết những mâu thuẫn trên đây là việc làm không hề đơn giản. Đối với XHCN Việt Nam mâu thuẫn giưa kinh tế thị trường và quá trình xây dựng con người được giải quyết bằng vai trò lãnh đạo của Đảng, bằng sự quản lý của Nhà nước theo định hướng CNXH. Đảng ta đã xác định “ sản xuất hàng hoá không đối lập với CNXH mà là thành phần cần thiết cho công cuộc xây dựng XHCN và cả khi CNXH đã được xây dựng “ Như vậy, Đảng ta vạch rõ sự thống nhất giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa. Việc áp dụng cơ chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý tầm vĩ mô của nhà nước, đồng thời xác nhận đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị sản xuất kinh doanh.
30 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1110 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mẫu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước chủ nghĩa xã hội Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n và phổ biến của mâu thuẫn.
2. Sự đấu tranh của các mặt đối lập trong một thể thống nhất:
Trong phép biện chứng duy vật, khái niệm mặt đối lập là sự khái quát những thuộc tính, những khuynh hướng ngược chiều nhau cùng tồn tại trong cùng một sự vật hiện tượng, tạo nên sự vật, hiện tượng đó. Do đó cần phân biệt rằng không phải bất kỳ hai mặt đối lập nào cũng thành mâu thuẫn. Bởi vì trong cùng một sự vật hiện tượng khách quan không chỉ tồn tại hai mặt đối lập. Trong cùng một thời điểm cùng tồn tại nhiều mặt đỗi lập. Chỉ có mặt đối lập là cùng tồn tại thống nhất trong cùng một sự vật như một chỉnh thể, nhưng có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau, phủ định và chuyển hoá lẫn nhau(sự chuỷen hoá này trở thành nguồn gốc động lực, đồng thời quy định bản chất khuynh hướng phát triển của sự vật) thì có hai mặt đối lập như vậy mới gọi là hai mặt đối lập mâu thuẫn. “ Thống nhất” của hai mặt đối lập được hiểu không phải chúng đứng cạnh nhau mà nương tựa vào nhau, tạo ra sự phù hợp cân bằng như liên hệ phụ thuộc, quy định và ràng buộc lẫn nhau. Mặt đối lập này lấy mặt đối lập kia làm tiền đề cho sự tồn tại của mình và ngược lại. Nếu thiếu một trong hai mặt đối lập chính tạo thành sự vật thị nhất định không có sự tồn tại của sự vật. Bởi vậy sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện không thể thiếu được cho sự tồn tại của bất kỳ sự vật hiện tượng nào.
Sự thống nhất này là do những đặc điểm riêng có của bản thân sự vật tạo nên.
Ví dụ: Lực lượng sản xuất- quan hệ sản xuất trong phương thức sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất cũng phát triển. Hai điểu kiện này chính là điểu kiện tiền đề cho sự phát triển của phương thức sản xuất. Nhưng trong quan hệ của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất phải thoả mãn một số yêu cầu sau.
- Thứ nhất: Đó phải là một khái niệm chung nhất được khái quát từ các mặt phù hợp khác nhau phản ánh được bản chất của sự phù hợp của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
- Thứ hai: Đó phải là một khái niệm “ động” phản ánh được trạng thái biến đổi thường xuyên của sự vận động, phát triển trong quan hệ của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
- Thứ ba: Đó phải là một khái niệm có ý nghĩa thực tiễn. Ngoài ý nghĩa nhận thực, khái niệm về sự phù hợp của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất được coi là thoả đáng phải có tác dụng định hướng, chỉ đạo cho việc xây dựng quan hệ sản xuất, sao cho những quan hệ sản xuất có khả năng phù hợp cao nhất với lực lượng sản xuất.
Tuy nhiên, khái niệm thống nhất này chỉ mang tính tượng đối. Bản thân nội dung khái niệm đã nói lên tính chất tương đối của nó: thống nhất của các đối lập, trong thống nhất đã bao hàm và chứa đựng trong nó sự đối lập.
Đấu tranh các mặt đối lập:
Sự thống nhất của các mặt đối lập trong cùng một sự vật hiện tượng không tách rời đấu tranh chuyển hoá giữa chúng. Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn tại trong một sự vật thống nhất như một chỉnh thể trọn vẹn nhưng không nằm yên bên nhau mà điểu chỉnh chuyển hoá, bài trừ, phủ định lẫn nhau tạo thành động lực phát triển của bản thân sự vật. Sự đấu tranh chuyển hoá, bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa các mặt trong thế giới khách quan thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau.
Ví dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong giai cấp có đối kháng mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu kìm hãm nó diễn ra quyết liệt và gay gắt. Chỉ thông qua các cuộc cách mạng xã hội bằng rất nhiều hình thức, kể cả bạo lực mới giải quyết nó một cách căn bản.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập được chia thành nhiểu giai đoạn. Thông thường, khi nó mới xuất hiện, hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ xung khắc gay gắt người ta gọi đó là giai đoạn khác nhau. Tất nhiên không phải bất kỳ sự khác nhau nào cũng được coi là mâu thuẫn, chỉ có những khác nhau cùng tồn tại trong cùng một sự vật nhưng liên hệ hữu cơ với nhau, phát triển ngược chiều nhau, tạo thành động lực bên trong của sự phát triển thì hai mặt đối lập ấy mới hình thành bước đầu của mâu thuẫn. Khi hai mặt đối lập của một mâu thuẫn phát triển đến giai đoạn xung đột gay gắt, nó biến thành độc lập, sự vật cũ mất đi sự vật mới hình thành. Sau khi giải quyết được mâu thuẫn sự thống nhất của hai mặt đối lập mới, hai mặt đối lập mới đấu tranh chuyển hoá thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật mới xuất hiện. Cứ như thế, đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vật biến đổi không ngừng từ thấp lên cao. Chính vì vậy, Lênin khẳng định “sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”.
Khi bàn về mối quan hệ giữa sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, Lênin chỉ ra rằng: “ mặc dù thống nhất chỉ là điều kiện để sự vật tồn tại với ý nghĩa là chính nó- nhờ có sự thống nhất của các mặt đối lập mà chúng ta nhận biết được sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan. Song bản thân của sự thống nhất chỉ là tương đối và tạm thời. Đấu tranh giữa các mặt đối lập mới là tuyệt đối. Nó diễn ra thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình tồn tại của sự vật. Kể cả trong trạng thái sự vật ổn định , cũng như chuyển hoá nhảy vọt về chất. Lênin viết “ sự thống nhất ( phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau) của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua trong tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối cũng như sự phát triển, sự vận động tuyệt đối”.
3. Chuyển hoá của các mặt đối lập:
Không phải bất kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đối lập đều dẫn đến sự chuyển hoá giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một trình độ nhất định, hội đủ các điểu kiện cần thiết mới dẫn đến chuyển hoá giữa chúng, bài trừ và phủ định lẫn nhau. Trong giới tự nhiên, chuyển hoá của các mặt đối lập thường diễn ra một cách tự phát, còn trong xã hội, chuyển hoá của các mặt đối lập nhất thiết phải thông qua hoạt động có ý thức của con người.
Do đó, không nên hiểu sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt đối lập chỉ là sự hoán đổi vị trí một cách dơn giản máy móc. Thông thường thì mâu thuẫn chuyển hoá theo hai phương thức:
+ Phương thức thứ nhất: Mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia nhưng ở trình độ cao hơn xét về phương diện chất của sự vật.
Ví dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội phong kiến đấu tranh chuyển hoá lẫn nhau để hình thành quan hệ sản xuất mới là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và lực lượng sản xuất mới ở trình độ cao hơn.
+ Phương thức thứ hai: Cả hai mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau để thành hai mặt đối lập mới hoàn toàn.
Ví dụ: Nền kinh tế Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ những mâu thuẫn trên cho ta thấy trong thế giới hiện thực, bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng chứa đựng trong bản thân nó những mặt, những thuộc tính có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau. Sự đấu tranh chuyển hoá của các mặt đối lập trong điều kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan, phổ biến trên thế giới. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũng mất đi sự vật mới hình thành. Sự vật mới lại nảy sinh các mặt đối lập và mâu thuẫn mới.
Các mặt đối lập này lại đấu tranh chuyển hoá và phủ định lẫn nhau để tạo thành sự vật mới hơn. cứ như vậy mà các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan thường xuyên và biến đổi không ngừng. Vì vậy, mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực của mọi quá trình phát triển.
II. Tính tất yếu của quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở việt nam 1.Kinh tế thị trường và những đặc điểm :
*Khái niệm “kinh tế thị trường” Có hai ý kiến khác nhau về kinh tế thị trường :
Một là xem “kinh tế thị trường “ là phương thức vận hành kinh tế lấy thị trường hình thành do trao đổi và lưu thông hàng hoá làm người phân phối các nguồn lực chủ yếu ;lấy lợi ích ,cung cầu thị trường và mua bán giữa hai bên làm cơ chế khuyến khích hoạt động kinh tế. nó là phương thức tổ chức vận hành kinh tế –xã hội .kinh tế thị trường là phương thức ,phương tiện ,công cụ vận hành nền kinh tế có hiệu quả .tự nó không mang tính giai cấp –xã hội , không tốt mà cũng không xấu .tốt hay xấu là do người sử dụng nó. Quan niệm này kinh tế thị trường là vật “trung tính “;là công nghệ sản xuất ai sử dụng cũ được .
Hai là xem “kinh tế thị trường “là một quan hệ kinh tế- xã hội-chính trị ,nó in đậm dấu ấn của lực lượng xã hội làm chủ trị trường .kinh tế thị trường là một phạm trù kinh tế hoạt động ,có chủ thể của quá trình hoạt động đó ,có sự tác động lẫn nhau của các chủ thể hoạt động .trong xã hội có giai cấp ,chủ thể hoạt động trong kinh tế thị trường không phải là cái nhân riêng lẻ ,đó còn là những tập đoàn xã hội, những giai cấp. Sự tác động qua lại của các chủ thể hoạt động đó có thể có lợi cho người này, tầng lớp hay giai cấp này; có hại cho tầng lớp hay giai cấp khác. Cho nên, kinh tế thị trường có mặt tích cực, có mặt tiêu cực nhất định. Không thể nhấn mạnh chỉ một mặt trong hai mặt đó.
Kinh tế thị trường có sự phát triển từ thấp lên cao, đỉnh cao nhất trong sự phát triển của nó ở giai đoạn đã qua đạt được trong chủ nghĩa tư bản, được xã hội đó sử dụng triệt để. Đó là cơ sở để trước đây nhiều người đồng nhất nền kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản. Quan điểm đó được củng cố thêm còn do quáư trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây, hầu hết các nước Xã hội chủ nghĩa đều kỳ thị với kinh tế thị trường, tuyệt đối hoá nền kinh tế kế hoạch mang tính tập trung quan liêu. Do vậy có sự đối lập giữa kinh tế thị trường với chủ nghĩa xã hội. Kết quả nghiên cứu lý luận và hoạt động thực tiễn trong những năm gần đây đã cho phép khẳng định rằng, nền kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải là nền kinh tế thị trường. Sự ra đời và tồn tại của nền kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ trước hết và chủ yếu do trong thời kỳ này còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế, do có sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền kinh doanh ngay trong một thành phần kinh tế, do còn có sự phân công lao động làm cho các đơn vị kinh tế trở thành những người sản xuất hàng hoá và những người kinh doanh hàng hoá độc lập( hoặc tương đối độc lập). Vì th, trong nền kinh tế nhất định sẽ hình thành quan hệ hàng hoá và trao đổi hàng hoá, làm cho nền kinh tế đó vận hành trong môi trường kinh tế thị trường.
2. Chuyển sang nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan trong quá trình phát triển của nền kinh tế đất nước.
Thực tiễn vận động của nền kinh tế thế giới những năm gần đây cho thấy, mô hình phát triển nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô từ trung tâm, trong bối cảnh ngày nay, là mô hình hợp lý hơn cả. Mô hình này, về đại thể có thể đáp ứng những thách thức của sự phát triển.
XHCN Việt Nam, việc thực hiện mô hình này, trong thực tế, chẳng những là nội dụng của công cuộc đổi mới mà hơn thế nưa còn là công cụ, là phương thức để XHCN Việt Nam đi tới mục tiêu xây dựng CNXH.
Nền kinh tế XHCN Việt Nam hiện nay chỉ có thể nó đang trong giai đoạn quá đô, chuyển tiếp từ nền kinh tế tập trung, hành chính, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng XHCN. Do vậy, những đặc điểm của giai đoạn quá độ trong nền kinh tế XHCN Việt Nam, đương nhiên là một vấn đề rất có ý nghĩa, rất cần được nghiên cứu, xem xét. Nhận thức được những đặc điểm phức tạp của giai đoạn quá độ, chi phối những đặc điểm đó, chúng ta sẽ tránh được những sai lầm chủ quan nóng vội, duy ý chí hoặc những khuynh hướng cực đoan, máy móc,sao chép, chấp nhận nguyên bản kinh tế thị trường từ bên ngoài vào.
Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế tập trung , bao cấp, mọi chức năng kinh tế- xã hội của nền kinh tế đều được triển khai trong quá trình kế hoạch hoá ở cấp độ quốc gia. Tính bao cấp của nhà nước đối với các hoạt động của sản xuất lưu thông, phân phối khá nặng nề, ở XHCN Việt Nam trước đây, chế độ hạch toán, trên thực tế còn nặng về hình thức. Lợi ích kinh tế, đặc biệt là lợi ích cá nhân người lao động, một động lực trực tiếp của hoạt động xã hội chưa được quan tâm đúng mức. Vì thế, sự vận động của nền kinh tế nhìn chung là chậm chạp, kém năng động.
Kể từ đại hội Đảng lần thú VI (12/1986) đến nay, theo đường lối đổi mới, đất XHCN Việt Nam đã từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường với định hướng Xã hội chủ nghĩa. Và điều đó có ý nghĩa là chúng ta đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng, những thành tựu cho phép chúng ta “ điều chỉnh và bổ sung nhận thức, làm cho quan nịêm về chủ nghĩa xã hội ngày càng cụ thể: đường lối chủ trương, chính sách ngày càng đồng bộ, có căn cứ khoa học và thực tiễn”. Những thành tựu đó, trong một chừng mực nhất định cũng gián tiếp khả năng của nền kinh tế thị trường trong việc năng động hoá nền kinh tế đất nước.
Kinh tế thị trường, như chúng ta đã biết là một quan hệ kinh tế – xã hội mà trong đó sản xuất và tái sản xuất gắn liền với thị trường, tức là gắn chặt với quan hệ hàng hoá- tiền tệ, với quan hệ cung- cầu Trong nền kinh tế thị trường, nét biểu hiện có tính chất bề mặt của đời sống xã hội quan hệ hàng hoá.
Nếu như trước đây, nền kinh tế XHCN Việt Nam chỉ có một kiểu sở hữu tương đối thuần nhất với hai thành phần tập thể và quốc doanh, thì nay, cùng với thành phần sở hữu chủ đạo là sở hữu Nhà nước, còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác. Những hình thức sở hữu đó, trong thực tế vận hành của nền kinh tế, không hẳn đã đồng bộ với nhau, đôi khi chúng còn có mâu thuẫn với nhau. Song về tổng thể, chúng là những bộ phận khách quan của nền kinh tế, có khả năng đáp ứng những đòi hỏi đa dạng và năng động của nền kinh tế thị trường.
Trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, việc chúng ta bước đầu sử dụng thị trường như là một công cụ, phương thức, trên thực tế đã đem lại những kết quả tích cực cả về phượng thức, trên thực tế đã đem lại những kết quả tích cực cả về phương diện thực tiễn và phương diện nhận thức.
Mỗi hành trang có ý nghĩa mà công cuộc đổi mới trang bị cho chúng ta sản xuất hàng hoá cùng với nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, hiện đã được chúng ta hiểu là không đối lập với CNXH. Với tính cách là sản phẩm của văn minh nhân loại, một cơ hội để các cộng đồng mở cửa, tiếp xúc với bên ngoài, kinh tế thị trường rõ ràng là cái khách quan và tất yếu đối với công cuộc xây dựng CNXH ở nước XHCN Việt Nam
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở XHCN Việt Nam, thị trường là căn cứ, vừa là đối tượng của công tác kế hoạch hoá. Việc điều tiết vĩ mô đối với thị thường, một mặt làm cho nền kinh tế XHCN Việt Nam thực sự trở thành một thị trường thống nhất- thống nhất trong cả nước và thống nhất với thị trường thế giới- mặt khác còn có tác dụng làm cho mỗi đơn vị kinh tế phải tự khẳng định khả năng và vai trò của mình trong thị trường.
Tuy nhiên, nhận ra sức mạnh của cơ chế thị trường bao nhiêu, chúng ta lại cũng hiểu rõ hơn bấy nhiêu mặt trái của nó đối với sự vận động của đởi sống xã hội. Sự tăng trưởng kinh tế đương nhiên là một mục tiêu của phát triển xã hội; nó có khả năng tạo ra điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội. Nhưng tăng trưởng kinh tế không nhất thiết đi liền với xã hội. Do vây, những quan niệm của Đảng ta, để thực hiện sự nghiệp xây dựng CNXH với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, nền kinh tế thị trường nhất thiết phải có sự quản lý của nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa.
3. Định hướng xây dựng nền kinh tế thị trường ở XHCN Việt Nam hiện nay.
Chúng ta đang phấn đấu xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đạt trình độ kinh tế thị trường phát triển với đặc trưng:
- Hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ :thị trường hàng hoá và dịch vụ ;thị trường công nghệ , các dịch vụ thông tin ,tư vấn ,tiếp thị , pháp lý, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm, bảo lãnh; thị trường sức lao động; thị trường lao động, thị trường khoa học, kỹ thuật, công nghệ, thị trường bất động sản, thị trường vốn, thị trường chứng khoán . Tất cả các loại thị trường đó liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành một chỉnh thể hữu cơ. Hệ thống này trở thành đầu mối mọi tác động qua lại của hoạt động kinh tế-xã hội.
- Mỗi thực thể kinh tế có lợi ích riêng (bao gồm xí nghiệp, tập đoàn xã hội và cá nhân) và là chủ thể của thị trường, tham gia hoạt động của thị trường và cạnh tranh với nhau.
- Việc vận hành kinh tế-xã hội được thực hiên trong sự kết hợp giữa đường lối chủ trương, chính sách, kế hoạch . Với việc sử dụng các loại tín hiệu kinh tế mà thị trường cung cấp, việc lưu thông tài nguyên được điều tiết bởi thông tin thị trường và kế hoạch cân đối sản xuất.
- Dựa trên quy luật thị trường thống nhất mà hình thành một trật tự thị trường, sản xuất xã hội lưu thông, phân phối và tiêu dùng với sự liên hệ và điều tiết của đầu mối thị trường, hình thành mạng lưới sản xuất xã hội có trật tự.
- Dựa vào đường lối, hiến pháp, pháp luật và quy luật vận hành của kinh tế thị trường, chính phủ thực hiện việc điều chỉnh và khống chế vĩ mô cần thiết, hữu hiệu; vận hành chính sách kinh tế, pháp luật kinh tế,chỉ đạo kế hoạch và phương pháp hành chính cần thiết để hướng dẫn sự phát triển của kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường có vai trò to lớn trong sự phát triển kinh tế –xã hội ,không vì thế mà “kinh tế thị trường” là tất cả. thực tế đổi mới 12 năm qua cho thấy ,bên cạnh tác động tích cực là cơ bản,những tác động tiêu cực do mặt trái của kinh tế thị trường gây ra cũng hết sức nghiêm trọng, đặc biệt trên phương diện tư tưởng, đạo đức, lối sống. Không xem trọng cuộc đấu tranh nhằm hạn chế; khắc phục những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, không làm rõ giới hạn cần có của lĩnh vực có thể “thị trường hoá” cũng là chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
*Về nội dung dữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực kinh tế và nội dung khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở XHCN Việt Nam hiện nay,có thể suy ra đặc điểm của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở XHCN Việt Nam là: mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật; nền kinh tế ấy lấy các thành phần kinh tế dựa trên sở hữu xã hội và sở hữu tập thể làm nền tảng, lấy kinh tế nhà nước làm chủ đạo; lấy việc thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh làm mục tiêu. Muốn vậy nền kinh tế
ấy phải đảm bảo:
- Có tăng trưởng kinh tế cao, bền vững, ổn định
Giải quyết vấn đề công bằng xã hội phù hợp từng bước với sự tăng trưởng kinh tế;.
- Đặt giơi sự lãnh đạo của đảng cộng sản giơi sự quản lý của một nhà nước thực sự của dân;
- Lấy việc giải phóng sức sản xuất làm căn cứ chủ yếu để hoạch định cơ cấu thành phần kinh tế, hình thức sở hữu;
- Làm cho kinh tế nhà nước phát triển trước hết là về chất để đóng vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế hợp tác dần dần trở thành nền tảng;
- Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền kinh tế thị trường, thực hiện công bằng xã hội ngày càng tốt hơn. trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, điều chủ yếu là tạo điều kiện công bằng trong phát triển con người; vừa không bình quân, vừa phải chú trọng đến tầng lớp dễ tổn thương, những vùng khó khăn;
-Thực hiện nhiều hình thức phân phối,lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế làm chủ yếu.
Hơn nữa nền kinh tế đó phải góp phần phát huy mọi tiềm năng, mọi sức lực xã hội; tạo điều kiện cho mỗi cá nhân làm giàu cho mình và cho toàn xã hội; chấp hành mọi pháp luật,kinh doanh có văn hoá; cạnh tranh và hợp tác một cách văn minh
Qua nội dung trên cho thấy,tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự phát triển kinh tế ở XHCN Việt Nam liên quan tới cả kiến trúc thượng tầng lẫn cơ sở hạ tầng,liên qua tới cả quan hệ sản xuất lẫn lực lượng sản xuất ..
Để dữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển kinh tế thị trường ở XHCN Việt Nam, nhân tố nào có ý nghĩa quyết định ? trả lời vấn đề này có người cho rằng nhà nước là yếu tố chủ đạo trong sự phát triển của kinh tế thị trường. Bởi vì không thể lấy cái bộ phận (kinh tế nhà nước) của cái toàn thể (nền kinh tế thị trường nhiều thành phần) để định hướng sự phát triển của cái toàn thể đó. Bằng hệ thống pháp luật, chính sách, hệ thống động lực kích thích mà nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo đối với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Trong hệ thống công cụ để nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo đối với sự vận động của kinh tế, kinh tế nhà nước chỉ là một công cụ, dù có thể được xem là công cụ qua trọng nhất. Do vậy không nên xem kinh tế nhà nước là chủ đạo.
Trong giai đoạn ngày nay của thời đại, mọi nhà nước đều tham gia quản lý kinh tế, định hướng phát triển kinh tế,cho nên nói vai trò chủ đạo của nhà nước là xoá nhoà ranh giới giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Thiết nghĩ, phải tìm yếu tố chủ đạo trong sự phát triển chung của nền kinh tế (có vai trò dẫn dắt sự phát triển của các thành phần kinh tế, định hướng sự phát triển của chúng) ngay trên lĩnh vực kinh tế. Bởi vì, trong khi không phủ nhận vai trò tác động mạnh mẽ của nhà nước tơi kinh tế, nhưng suy cho cùng sức mạnh nhà nước cũng do sức mạnh của kinh tế quyết định. Trong điều kiện cụ thể ở XHCN Việt Nam, bộ phận chủ đạo đó là kinh tế nhà nước, Vấn đề căn bản nhất, chủ chốt nhất và khó khăn nhất là làm sao kinh tế nhà nước vươn lên năm được vai trò chủ đạo ? điều đó được đặt ra trong khi kinh tế nhà nước hiện nay vẫn còn yếu kém ngay cả trên những phương diện chủ yếu nhất cuả nó: năng suất, chất lượng, hiệu quả. Để góp phần khắc phục tình hình đó, kinh tế nhà nước phải làm sao kết hợp được trong bản thân mình cái mạnh của tập thể, của cộng đồng và cái mạnh của cá nhân xét cả với tư cách động lực lợi ích kinh tế, cả với tư cách thực thể-con người kinh tế. then chốt của vấn đề này là tìm một cơ chế thích hợp vơi nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và có một đội ngũ cán bộ có đủ đức đủ tài.
“vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước” được hiểu là : làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội ;mở đường, hướng dẫn,hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển; làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quả lý vĩ mô;tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới.
Thực trạng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở XHCN Việt Nam hiện nay
Chúng ta đã chuyển một bước quan trọng sang kinh tế thị trường, nhưng chưa kết thúc bước chuyển đó. Do vậy còn đan xen những yếu tố của nền kinh tế chuyển đổi. Những yếu tố của nền kinh tế thị trường văn minh còn ít hơn là yếu tố sơ khai. Mặt khác trong xã hội chủ đã xuất hiện một số yếu tố đi quá xa(vượt khỏi giới hạn )khuôn khổ của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Những nhân tố của nền kinh tế maphia, tính trạng thương mại hoá giáo dục, nhân phẩm là những thí dụ cho sự quá đà như vậy.
Trình độ thấp kém, chưa đạt tới trình độ hoàn chỉnh của kinh tế thị trường ở XHCN Việt Nam hiện nay biểu hiện ở chỗ : giá cả hàng hoá dịch vụ bị bóp méo, độc quyền còn quá lớn, tỷ giá chưa phải do trị thường quy định; tiền lương chưa có tính thị trường quyền kinh doanh trên thị trường còn hạn chế nhiều nên mất khả năng cạnh tranh. Các loại thị trường còn thiếu và chưa đồng bộ, trước hết là thiếu thị trường lao động, thị trường tiền tệ theo đúng nghĩa của nó. Các thể chế cho thị trường quá thiếu ; không it những thể chế đã có chưa phù hợp, thậm chí trái với yêu cầu của thị trường, sự can thiệp của nhà nước vào thị trường chưa thật phù hợp thậm chí trái với yêu cầu của thị trường, có tình trạng liên kết giữa bộ phận thoái hoá trong bộ máy nhà nước với những yếu tố tiêu cực của thị trường gây ra tham nhũng, nợ nần chồng chất.
III. những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở XHCN Việt Nam :
1. một số vấn đề lý luận chung của chủ nghĩa Mác- Lênin về quan hệ giữa kinh tế với chính trị:
Theo các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác- Lênin thì kinh tế quyết định chính trị: “ chínhtrị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế”. Trong lịch sử phát triển xã hội loài người không phải bao giờ cũng có vấn đề về chính trị. Xã hội nguyên thuỷ chưa có giai cấp, chưa có vấn đề chính trị. Từ khi xã hội xuất hiện giai cấp và đấu tranh giai cấp và Nhà nước thì vấn đề chính trị mới hình thành. Vấn đề chính trị là vấn đề thuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh giai cấp. Trung tâm của chính trị là đấu tranh giai cấp giữa các giai cấp, các lức lượng xã hội nhằm giành và giữ chính quyền nhà nước và sử dụng công cụ đó làm công cụ để xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền. Bản thân vấn đề chính trị ra đời hoàn toàn là do kinh tế quyết định. Chính trị không phải là mục đích, mà chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích kinh tế, F.Engen
Đã khẳng định “bạo lực chỉ là phương tiện, còn lợi ích kinh tế là mục đích”. Trong tác phẩm “Lútvích Phoibăc và báo cáo chung của triết học cổ điển Đức”, F.Engen đã chỉ rõ “để thoả thuận lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng là một phương tiện đơn thuần.
Quyền lực chính trị là công cụ mạnh mẽ nhất để bảo vệ chế độ xã hội. Sự thốngtrị về chính trị của một giai cấp nhất định là điều kiện đảm bảo cho giai cấp đó thực hiện được sự thống trị về kinh tế. Đấu tranh giai cấp, về thực chất là đấu tranh vì lợi ích kinh tế, được thông qua đấu tranh chính trị. Theo F.Engen, “ bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào cũng đều là đấu tranh chính trị, xét đến cùng, đều xoay quanh vấn đề giải phóng về kinh tế”. Để nhấn mạnh vai trò của chính trị V.I.Lênin đã khẳng định “ chính trị không thể chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế”. Khẳng định đó của Lênin không có nghĩa là phủ nhân hoàn toàn vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị, mà muốn nhấn mạnh tác động tích cực của chính trị đối với kinh tế. Vấn đề kinh tế không thể tách rời với chính trị mà nó được xem xét giải quyết theo một lập trường chính trị nhất định. Giai cấp nào cầm quyền cũng hướng kinh tế phát triển theo lập trường chính trị riêng của giai cấp đó nhằm phục vụ cho mục tiêu kinh tế xã hội nhất định. Và lập trường chính trị đúng hay sai sẽ thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế, V.I.Lênin còn khẳng định “ không có một lập trường chính trị đúng thì một giai cấp nhất định nào đó không thể nào giữ vững được sự thống trị của mình và do đó cũng không thể nào giữ vững được sự thống trị của mình và do đó cũng không thể hoàn thành được nhiệm vụ cuả mình trong lĩnh vực sản xuất”. Khi thể chế chính trị không phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thì kinh tế tất yếu sẽ mở đường đi. Khi đó việc thay đổi thể chế chính trị cho phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế là điều kiện quyết định để thúc đẩy kinh tế phát triển. Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng kinh tế và chính trị là thống nhất và biện chứng với nhau trên nền tảng quyết định là kinh tế. Đây là cơ sở phương pháp luận quan trọng trong việc nhận thức xã hội nói chung, nhận thức công cuộc đổi mới ở Việt Nam nói riêng.
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII( tháng 6 năm 1991). Đảng ta đã khẳng định: “ về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuận của CNXH, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành đổi mới tổ chứcvà phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị kinh tế, văn hoá, xã hội. Vì chính trị đụng chạm đến tất cả các mối quan hệ đặc biệt nhạy cảm và phức tạp trong xã hội, nên việc đổi mới hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị dẫn đến rối loạn. Nhưng không vì thế mà tiến hành chậm trễ đổi mới chính trị, nhất là về tổ chức bộ máy và các bộ, các mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, bởi đó là điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và thực hiện dân chủ”. Điều đó cho thấy Đảng ta đã không tách rời đổi mới kinh tế và đồng thời đổi mới chính trị. Đảng ra khẳng định rằng phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế và đồng thời với đổi kinh tế phải tiến hành từng bứơc đổi mới chính trị, những phải thận trọng không gây mất ổn định về chính trị.
Tư tưởng đã được tiếp tục phát triển một cách rõ ràng hơn ở Đại hội đại biểu của toàn quốc lần thứ VIII( tháng 7 năm 1996) của Đảng ta. Khi tổng kết các bài học của 10 năm đổi mới, Đảng ta khẳng định phải kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Đây là một bải học khái quát mới, hoàn toàn khoa học. Nó vừa phù hợp với lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin vừa phù hợp với thực tiễn công cuộc đổi mới ở XHCN Việt Nam.
Trong khi đề ra đổi mới chính trị, Đảng ta luôn nhấn mạnh phải ổn định chính trị, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Điều này tưởng như một nghịch lý nhưng hoàn toàn có lý và khoa học.
ôn định về chính trị, nói cách khái quát là giai cấp cầm quyền phải tăng cường quyền lực chính trị của mình; Nhà nước của giai cấp đó phải mạnh và có hiệu lực, luật pháp phải nghiêm minh; chế độ xã hội đã xác lập phải được giữ vững. Đối với XHCN Việt Nam hiện nay, ổn định về chính trị thực chất là giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng , tăng cường vai trò củ Nhà nước XHCN, bảo vệ và xây dựng thành công CNXH.
Thực tiễn thế giới cho thấy, ổn định chính trị là điều kiện hết sức cơ bản để phát triển kinh tế. Nó tạo ra môi trường để thu hút nguồn đầu tư trong nước và trên thế giới, tạo điều kiện phát triển sản xuất kinh doanh. Những thành tựu trong 10 năm đổi mới vừa qua ở XHCN Việt Nam cũng khẳng định điều đó. Những thành tựu đó không thể tách rời việc chúng ta giữ được ổn định về chính trị.
ổn định về chính trị lại không thể tách rời đổi mới về chính trị. Nhưng đổi mới chính trị không phải đổi mới vô nguyên tác, mà đổi mới là để giữ vững ổn định về chính trị, giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò tổ chức quản lý của Nhà nước XHCN. Đổi mới chính trị phải gắn liền với đổi mới về kinh tế, phù hợp với yêu cầu về phát triển kinh tế thì mới có thể tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò tổ chức quản lý của Nhà nước XHCN, và nhờ đó mới giữ vững ổn định về chính trị. Song đổi mới về kinh tế cũng không phải là đổi mới một cách tuỳ tiện mà phải theo một định hướng nhất định. Đó là chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang “ nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN” hay là nói ngắn gọn là kinh tế thị trường theo định hướng CNXH. Chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là nhằm thực hiện mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”, và đó cũng là cơ sở để giữ vững ổn định về chính trị.
Tóm lại: ổn định và đổi mới về chính trị là hai mặt đối lập nhưng thống nhất biện chứng với nhau. Có ổn định thì mới đổi mới và đổi mới là điều kiện để ổn định. Hai mặt đó tác động qua lại với nhau và gắn bó chặt chẽ với đổi mới kinh tế, trên nền tảng của đổi mới kinh tế.
Như vậy, chúng ta thấy trong quá trình đổi mới ở XHCN Việt Nam, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, thống nhất với nhau, trong đó đổi mới kinh tế là trọng tâm, đổi mới chính trị phải tiến hành từng bước phù hợp với đổi mới kinh tế, đáp ứng yêu cầu của đổi mơi kinh tế.
Điều khẳng định đó là sự khái quát kinh nghiệm của 10 năm đổi mới vừa qua là kết quả của việc vận động sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam. Khái quát đó hoàn toàn khoa học và có giá trị định hướng cho giai đoạn phát triển tiếp theo- giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN ở XHCN Việt Nam hiện nay, vấn đề lực lượng sản xuất- quan hệ sản xuất là một vấn đề hết sức phức tạp, mâu thuẫn giữa hai lực lượng này và những biểu hiện của nó xét trên phương diện triết học Mác-Lênin, theo đó lực lượng sản xuất là yếu tố động, luôn luôn thay đổi. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định thị quan hệ sản xuất sẽ không còn phù hợp nữa và trở thành yếu tố kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Để mở đường cho lực lượng sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Chính quan hệ sản xuất tự phát triển để phù hợp với lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, đó là quy luật chung cho sự phát triển xã hội.
Quá trình mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiến tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu kìm nó diễn ra gay gắt, quyết liệt và cần được giải quyết. Nhưng giải quyết nó bằng cách nào? đó chính là các cuộc cách mạng xã hội, chuyển đổi nền kinh tế mà cuộc chuyển đổi nền kinh tế ở XHCN Việt Nam là một ví dụ. Khi một mục tiêu, một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, thể hiện tính chất cách mạng của công cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam là phấn đấu xây dựng XHCN Việt Nam trở thành quốc gia công nghiệp hoá, hiện đại hoá, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Công nghiệp hiện đại đất nước là chủ trương, biện pháp vừa mang tính cách mạng tính khoa học để xây dựng xã hội. Nói đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước chính là nói đến nền sản xuất tiến tiến và đó chính là lực lượng sản xuất tiên tiến và đó chính là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, nói đến khoa học, đến sự anh minh, trí tuệ là nói đến một phương thức tối ưu để thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, nhằm tạo điều kiện và cơ sở vật chất cho CNXH được xây dựng và phát triển. Không thể ăn đói mặc rách với cái cuốc trên vai cộng thêm tấm lòng cộng sản để kiến thiết CNXH, chuyển sang nền kinh tế thị trường. Khẳng định cái mới, đúng đắn tự bản thân nó đã bao gồm cả ý nghĩa phủ định gạt bỏ cả quan niệm cũ sai lầm về điều kiện và cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội ở XHCN Việt Nam. Trước đây chúng ta thiếu quan tâm đúng mức tầng lớp trí thức và khoa học trong môi trường tương quan với đội ngũ những người lao động khác. Do thế, hậu quả tất yếu đã xảy ra là khoa học ở XHCN Việt Nam chậm hoặc ít có điều kiện môi trường phát triển, đất nước không thoát khỏi nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu và cũng không thể nói đến công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
3. Mâu thuẫn giữa hình thái sở hữu trước đây và trong kinh tế thị trường:
Trước đây người ta quan niệm những hình thức sở hữu trong chủ nghĩa xã hội là: sở hữu XHCN tồn tại dới hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Sự tồn tại hai hình thức đó là tất yếu khách quan bởi những điều kiện lịch sử khi tiến hành cách mạng CNXH và xây dựng CNXH quyết định. Sau khi giành được chính quyền giai cấp công nhân đứng trước hai hình thức sở hữu tư nhân khác nhau. Sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và sở hữu tư nhân của những người sản xuất nhỏ. Thực tế đòi hỏi giai cấp công nhân phải có thái độ và phát triển giải quyết khác nhau. Đối với hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa bằng cách tước đoạt hoặc chuộc lại để chuyển thẳng lên sỏ hữu hàng hoá nhỏ thì không thể dùng những biện pháp như trên, mà phải kiên trì giáo dục, thuyết phục tổ chức họ trên cơ sở tự nguyện chuyển lên sở hữu tập thể bằng con đường hợp tác hoá hai hình thức. Sở hữu đó là hai con đường đặc thù tiến lên CNCS của giai cấp công nhân và nông dân tập thể.
Các hình thức sở hữu trước đây thời kỳ quá độ chuyển sang kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Hơn mười đổi mới đất nước theo định hướng XHCN ở XHCN Việt Nam đã chứng minh tính đúng đắn của đường lối đổi mới của chính sách đa dạng hoá các hình thức sở hữu do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo toàn dân thực hiện. Thực tiễn đã cho thấy một nền kinh tế nhiều thành phần đương nhiên phải bao gồm nhiều hình thức sở hữu, chứ không phải chỉ có hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể như quan niệm trước đây
Trong giai đoạn hiện nay nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN mà chúng ta đang xây dựng và phát triển bao gồm nhiều hình thức sở cá thể và sở hữu hỗn hợp. Trong các hình thức sở hữu này khái quát lại chỉ có hai hình thức sở hữu cơ bản là công hữu và tư hữu, còn các hình thức khác chỉ là hình thức trung gian, quá độ hoặc hỗn hợp, ở đây, mỗi hình thức lại có nhiều phương thức biểu hiện về trình độ thể hiện khác nhau. Chúng được hình thành trên cơ sở có cùng bản chất kinh tế theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và năng lực quản lý.
Về sở hữu toàn dân: trước đây người ta quan niệm sở hữu toàn dân trùng với sở hữu Nhà nước.
Nền kinh tế có cấu nhiều thành phần thì đương nhiên là nó bao gồm nhiều hình thức sở hữu, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vị trí then chốt, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng có lợi cho quốc kế dân sinh. Nhà nước quản lý kinh tế với tư cách là cơ quan có quyền lực đại diện cho lợi ích của nhân dân và là đại diện đối với tài sản sở hữu toàn dân. XHCN Việt Nam hiện nay, như hiến pháp và luật đất đai đã quy định rõ: “ đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân”. Xét về mặt kinh tế đất đai là phương tiện tồn tại cơ bản của cả một cộng đồng xã hội. Xét về mặt xã hội đất đai là lãnh thổ nơi cư trú của cả một cộng đồng. Thế nhưng khi xét trên cả hai phương diện có thể nói rằng đất đai không thể là đối tượng sở hữu của riêng ai. Tuy nhiên, suy cho cùng, đất đai cũng là tư liệu sản xuất, hay nói chính xác hơn, đó là một bộ phận quan trọng của tư liệu sản xuất. Bởi thế, dù là đặc biệt thì trong nền kinh tế hàng hoá, nó vẫn phải vận động theo quy luật của thị trường và chịu sự điều tiết của quy luật đó. Việc đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân mà Nhà nước là người đại diện sở hữu và quản lý không hề mâu thuẫn với việc trao quyền cho các hộ nông dân, kể cả quyền chuyển nhượng, quyền sử dụng đất đai nếu biết giải quyết cụ thể cụ thể các vấn đề thuộc quyền sở hữu, biết tách quyền sở hữu toàn dân song người nông dân có thể đem lại một sức bật cho sự phát triển của lựclượng sản xuất và tăng trưởng của nền kinh tế nói chung. Văn kiện Đại hội VII của Đảng ta đã chỉ rõ: “trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, ruộng đất được giao cho người nông dân sử dụng lâu dài. Nhà nước quy đinh bằng luật pháp các vấn đề về thừa kế chuyển nhượng sử dụng đất” (Đảng cộng sản Việt Nam văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII- nhà xuất bản sự thật- Hà Nội năm 1991). Như vậy, hình thức sở hữu toàn dân ở XHCN Việt Nam hiện nay đã được xác định theo nội dung mới, có nhiểu khả năng để thực sự trở thành nguồn lực phát triển kinh tế.
Về sở hữu Nhà nước :
Trong thời kỳ bao cấp trước đây không chỉ có XHCN Việt Nam mà còn có những nước khác trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thường đồng nhất sở hữu Nhà nước với sở hữu toàn dân. Do nhầm lẫn như vậy mà trong một thời gian khá lâu, người ta thường bỏ quên hình thức sở hữu nhà nước chỉ quan tâm đặc biệt đến sở hữu toàn dân và tập thể. Và cũng bởi sở hữu toàn dân gắn kết với sự phát triển của khu vực kinh tế quốc doanh mà chúng ta ra sức quốc doanh nó nền kinh tế với niềm tin cho rằng chỉ như vậy mới có chủ nghĩa xã hội nhiều hơn. Thực ra, với quan niệm đó, sở hữu toàn dân đã trở thành sở hữu không phải của một chủ thể cụ thể nào cả.
Trong xã hội mà nhà nước còn tồn tại thì sở hữu toàn dân chưa có điểu kiện vận động trên bề mặt của đời sống kinh tế noí chung. Hình thức sở hữu nhà nước xét về tổng thể, mới chỉ là kết cấu bên ngoài của sở hữu. Còn kết cấu bên trong của sở hữu nhà nước ở XHCN Việt Nam có lẽ chủ yếu thể hiện ở quyền sở hữu đó ở khu vực kinh tế quốc doanh, khu vực các doanh nghiệp Nhà nước.
Về sở hữu tập thể:
XHCN Việt Nam trước đây sở hữu tập thể chủ yếu tồn tại dưới hình thức HTX( gồm cả HTX nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp) với nội dung là cả giá trị và giá trị sử dụng đều là của chung mà cac xã viên là chủ sở hữu chính. Vì vậy với hình thức sở hữu này, quyền mua và bán hoặc chuyển nhượng tư liệu sản xuất, trong thực tế sản xuất và lưu thông hàng hoá ở XHCN Việt Nam diễn ra hết sức phức tạp. Quyến của các tập thể sản xuất thường rất hạn chế, song đôi khi lại có tình trạng lạm quyền. Sự không xác định, sự nhập nhằng với quyền sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhan trá hình cũng là hiện tượng phổ biến. Để thoát khỏi tình trạng đó, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường hiện nay cần phải xác định rõ quyền mua bán và chuyển nhượng tư liệu sản xuất đối với các tập thể sản xuất kinh doanh. Chỉ có như vậy thì sở hữu tập thể mới có thể trở thành hình thức sở hữu có hiệu quả.
Chúng ta đã biết, HTX không phải là hình thức riêng có, đặc trưng cho CNXH, nhưng nó là một hình thức sở hữu kinh tế tiến bộ trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, chúng ta duy trì và phát triển hơn nữa hình thức sở hữu này khi xây dựng chủ nghĩa xã hội như V.I.Lênin đã khẳng định”. Chế độ của người xã viên hợp tác xã văn minh là chế độ xã hội chủ nghĩa”.
HTX là nhu cầu thiết thực của nền kinh tế hộ gia đình của nền sản xuất hàng hoá. Khi lực lượng sản xuất trong nông nghiệp và công nghiệp nhỏ phát triển tới một trình độ nhất định, nõ sẽ thúc đầy quá trình hợp tác. Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hoá, các nhu cầu về vốn, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm đòi hỏi các hộ sản xuất phải hợp tác với nhau mới có khả năng cạnh tranh và phát triển. Chính nhu cầu đó đã liên kết những người lao động lại với nhau làm nảy sinh quan hệ sở hữu tập thể. Thực tiễn cho thấy, ở XHCN Việt Nam hiện nay đã có những hình thức HTX kiểu mới ra đời do nhu cầu tồn tại và phát triển của cơ chế thị trường” HTX được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên, phân phối theo kết quả lao động và theo cổ phần, mỗi xã viên có quyền như nhau đối với công việc chung”( Đảng cộng sản Việt Nam, văn kiện Đại hội đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII- Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội-1996). Điều này cho thấy kết cấu bên trong của sở hữu tập thể đã thay đổi phù hợp với hình thức thực tiễn ở đất XHCN Việt Nam hiện nay.
4. Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người XHCN
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người XHCN. Yếu tố con người giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp cách mạng, bởi con người là chủ thể của mọi sáng tạo, của mọi nguồn lực của cải vật chất văn hoá. Con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, là mục tiêu của CNXH. Chúng ta phải bắt đầu từ con người làm điểm xuất phát.
Kinh tế thị trường là một loại hình kinh tế mà trong đó các mối quan hệ kinh tế giữa con người với con người được biểu hiện thông qua thị trường, tức là thông qua việc mua bán, trao đổi hàng hoá tiền tệ trên thị trường. Trong kinh tế thị trường, các quan hệ hàng hoá tiền tệ phát triển, mở rộng, bao quát trên mọi lĩnh vực, có ý nghĩa phổ biến đối với người sản xuất và người tiêu dùng. Do nẩy sinh và hoạt động một cách khách quan trong điều kiện lịch sử nhất định. Kinh tế thị trường phản ánh đầy đủ văn minh và phát triển xã hội là nhân tố phát triển sức sản xuất, tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xã hội tiến lên. tuy nhiên, kinh tế thị trường cũng có những khuyết tật như sự cạnh tranh lạnh lùng, tính tự phát mù quáng dẫn đến sự phá sản, thất nghiệp, khủng hoảng chu kỳ.
Xuất phát từ sự phân tích trên đây, chúng ta đã thấy rằng đổi mới ở XHCN Việt Nam hiện nay không thể xây dựng và phát triển con người nếu thiếu yếu tố kinh tế thị trường. Do hậu quả của nhiều năm chiến tranh, của nền kinh tế kém phát triển, của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp nền kinh tế XHCN Việt Nam đã tụt hậu nghiêm trọng so với khu vực và quốc tế. Trong bối cảnh đó, kinh tế thị trường là điều kiện rất quan trọng đưa nền kinh tế XHCN Việt Nam ra khỏi khủng hoảng và phát triển, phục hồi sản xuất, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng bắt kịp bước tiến của thời đại. Trên cơ sở đó, đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao, những nhu cầu sinh hoạt vật chất cơ bản nhanh chóng. Con người không thể có cơ thể khoẻ mạnh nếu thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu các điều kiện y tế hiện đại để chăm sóc giữ gìn sức khoẻ. Con người không thể có trí tuệ minh mẫn, phát triển nếu các điều kiện vật chất tiến hành các hoạt động học tập nghiên cứu khoa học không được đáp ứng. Việc xây dựng, củng cố, hoàn thiện có chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN cũng đồng nghĩa với việc tạo ra các điều kiện cơ bản để thực hiện chiến lược xây dựng và phát triển con người cho thế kỷ XXI.
Trong những năm qua, kinh tế thị trường ở XHCN Việt Nam đã được nhân dân hưởng ứng rộng rãi và đi vào cuộc sống rất nhanh chóng, góp phần khơi dậy nhiều tiềm năng sáng tạo, làm cho nền kinh tế sống đồng hơn, bộ mặt thị trường được thay đổi và sôi động hơn. Đây là những kết quả đúng đắn các quy luật khách quan của xã hội. Quá trình biện chững đi lên CNXH từ khách quan đang trở thành nhận thức chủ quan quy mô toàn xã hội.
Bên cạnh đó, có một khía cạnh khác cũng cần được đề cập đến: kinh tế thị trường ở XHCN Việt Nam hiện nay không chỉ tạo điều kiện vật chất để xây dựng, phát huy nguồn lực con người mà còn tạo ra môi trường thích hợp cho con người phát triền hoàn toàn, toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần. Kinh tế thị trường tạo ra sự cạnh tranh, chạy đua quyết liệt. Điều đó buộc con người phải năng động sáng tạo, linh hoạt, có tác phong nhanh nhạy, có đầu óc quan sát, phân tích để thực tiễn của con người góp phần làm giảm đi sự chậm chạp và trì trệ vốn có của con người Việt Nam. Kinh tế thị trường tạo ra những điểu kiện thích hợp cho con người mở rộng các quan hệ buôn bán giao lưu, từ đó hình thành các chuẩn mực văn hoá đạo đức theo tiêu trí thị trường như chữ tín trong chất lượng và giao dịch.Đây cũng là một hướng tốt đẹp bù đắp những thiếu hụt trong giải trí của con người Việt Nam.
Tuy nhiên, cần phải thấy rằng không phải cứ xây dựng được kinh tế thị trường là những phẩm chất tốt đẹp tự nó hình thành cho con người. Có những lúc, những nơi, kinh tế thị trường không những làm cho người ta năng động hơn, tốt đẹp hơn mà ngược lại, còn làm tha hoá bản chất con người, biến con người thành gã nô lệ sùng bái đồng tiền hoặc kẻ đạo đức giả chỉ biết tôn trọng sức mạnh và lợi ích cá nhân, sẵn sàng chà đạp lên nhân phẩm, văn hoá, đạo đức, luân lýBên cạnh những tác động tích cực, kinh tế thị trường cũng có nhiều khuyết tật, hạn chế gây ra những tác động xấu. Đơn giản ví dụ như: tệ nạn thương mại hoá trường học, xem nhẹ truyền thống tôn sư trọng đạo. Quan hệ hàng hoá- tiền tệ làm sôi động thị trường nhưng cũng làm sói mòn nhân cách và phẩm chất con người. Ngoài ra, đi kèm với kinh tế thị trường là hàng loạt các tệ nạn xã hội dễ đưa đến sự rối loạn, khủng hoảng cho gia đình, hạt nhân- tế bào của xã hội. Nạn cờ bạc, rượu chè, mại dâmlà những căn bệnh trầm kha không dễ bề khắc phục trong kinh tế thị trường. Thật không sai khi hình dung kinh tế thị trường là con dao hai lưỡi, nếu dùng không cần thận sẽ bị đứt tay.
Những phân tích trên đây cho thấy, kinh tế thị trường là mục tiêu xây dựng con người XHCN là một mâu thuẫn biện chứng trong thực tiễn XHCN Việt Nam hiện nay. Đây là hai mặt đối lập của một mâu thuẫn xã hội. Giữa kinh tế thị trường và quá trình xây dựng con người vừa có sự thống nhất, vừa có sự đấu tranh. Kinh tế thị trường vừa tạo ra những điều kiện để xây dựng, phát huy những nguồn lực con người, vừa tạo ra những độc tố huỷ hoại đầu độc con người. Việc giải quyết những mâu thuẫn trên đây là việc làm không hề đơn giản. Đối với XHCN Việt Nam mâu thuẫn giưa kinh tế thị trường và quá trình xây dựng con người được giải quyết bằng vai trò lãnh đạo của Đảng, bằng sự quản lý của Nhà nước theo định hướng CNXH. Đảng ta đã xác định “ sản xuất hàng hoá không đối lập với CNXH mà là thành phần cần thiết cho công cuộc xây dựng XHCN và cả khi CNXH đã được xây dựng “ Như vậy, Đảng ta vạch rõ sự thống nhất giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa. Việc áp dụng cơ chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý tầm vĩ mô của nhà nước, đồng thời xác nhận đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Thực hiện tốt các vấn đề này sẽ phát huy được những tác động tích cực to lớn cũng như ngăn ngừa hạn chế khắc phục những tiêu cực của kinh tế thị trường. Các hoạt động sản xuất kinh doanh phải hướng vào phục vụ công cuộc xây dựng nguồn lực con người. Cần phải tíên hành các hoạt động văn hoá giáo dục nhằm loại bỏ tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lý coi thường các giá trị nhân văn, phải ra sức phát huy những giá trị tinh thần nhân đạo, thẩm mỹ, các di sản văn hoá nghệ thuật của dân tộc như nội dung của nghị quyết TW 5 đã nêu. Đây chính là công cụ là phương tiện quan trọng để tác động, góp phần giải quyết mâu thuẫn đã nêu trên.
IV. kết luận
Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan phổ biến hình thành từ những cấu trúc và thuộc tính bên trong vốn có tự thân của tất cả các sự vật, hiện tượng trong bản thân thế giới khách quan.do đó trong hoạt động thực tiễn phân tích từng mặt độc lập tạo thành mâu thuẫn cụ thể để nhận thức được bản thân khuynh hướng vận động, phát triển của sự vật hiện tượng .
Cần nắm vững nguyên tắc để giải quyết mâu thuẫn. đó là sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập diễn ra theo quy luật phá vỡ những cái cũ để thiết lập cái mới tiến bộ hơn. Vì vậy, trong đời sống xã hội, mọi hành vi đấu tranh cần được coi là chân chính khi nó thúc đẩy sự phát triển.
Trong thời kỳ chuyển nền kinh tế ở việt nam tư kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ trương lãnh đạo của đảng là rất đúng đắn tuy nhiên trong thực hiện còn nhiều thiếu sót, mâu thuẫn giữa các vấn đề nẩy sinh, nhưng những mâu thuẫn đó lại đòi hỏi chúng ta phải giải quyết có như thế kinh tế mới phát triển theo đúng nghĩa đổi mơí của nó.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình triết học Mác – Lênin tập 2 (nhà xuất bản chính trị quốc gia)
2. Tạp chí triết học số 1(101) tháng 2 năm 1998
3. Tạp chí triết học số1(107) tháng 2 năm 1999
4. Tạp chí triết học số 3(103) tháng 6 năm1998
5. Việt nam chuyển sang kinh tế thị trường (học viện chính trị quốc gia)
6. Văn kiện đại hội đảng lần thứ VII
7. Văn kiện đại hội đảng lần thứ VIII
8. Báo nhân dân ngày 8 tháng 1999
mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 9009.doc