Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan phổ biến hình thành từ những cấu trúc và thuộc tính bên trong vốn có tự thân của tất cả các sự vật, hiện tượng trong bản thân thế giới khách quan Do đó trong hoạt động thực tiễn phân tích từng mặt độc lập tạo thành mâu thuẫn cụ thể để nhận thức được bản chất khuynh hướng vận động, phát triển của sự vật hiện tượng.
Cần nắm vững nguyên tắc để giải quyết mâu thuẫn. Đó là sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập diễn ra theo quy luật phá vỡ cái cũ để thiết lập cái mới tiến bộ hơn. Vì vậy, trong đời sống xã hội,mọi hành vi đấu tranh cần được coi là chân chính khi nó thúc đẩy sự phát triển.
Trong thời kỳ chuyển nền kinh tế ở Việt Nam từ kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo hướng XHCN.Chủ chương lãnh đạo của Đảng là rất đúng đắn. Tuy nhiên trong thực hiện còn nhiều thiếu sót,mâu thuẫn giữa các vấn đề nảy sinh. Nhưng những mâu thuẫn đòi hỏi chúng ta giải quết, coa như thế nền kinh tế mới phát triển theo đúng nghĩa đổi mới của nó.
27 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1711 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mâu thuẫn biện chứng và quá trình xây dựng kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đặt vấn đề
Mâu thuẫn là hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực : Tự nhiên, xã hội, và tư duy của con người. Trong hoạt động kinh tế mặt trận cũng mang tính phổ biến, chẳng hạn cung -cầu, tích lũy tiêu dùng, tính kế hoạch hoá của từng xí nghiệp, công ty với tính tự phát về chính phủ của nền sản xuất hàng hoá...
Mâu thuẫn chẳng những hiện tượng khách quan, mà còn là hiện tượng phổ biến. Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong mọi sự vật hiên tượng của giới tự nhiên, đời sống xã hội và tư duy của con người. Chẳng những mâu thuẫn tồn tại phổ biến ở mọi sự vật hiện tượng mà còn tồn tại phổ biến trong suốt quá trình phát triển của chúng. Không có một sự vật, hiện tượng nào không có mâu thuẫn và không có một giai đoạn nào trong sự phát triển của mỗi sự vật, hiện tượng lại không có mâu thuẫn. Mâu thuẫn này mất đi, thì mâu thuẫn khác lại được hình thành...
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước do đảng khởi sướng và lãnh đạo đã dành độc lập những thắng lợi bước đầu mang tính quyết định, quan trọng trong việc chuyển nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong những chuyển biến đó đã đạt được nhiều thành công to lớn nhưng trong những thành công đó luôn luôn tồn tại những vấn đề mâu thuẫn làm kìm hãm sự phát triển của công cuộc đổi mới. Đòi hỏi phải được giải quyết và những vấn đề ấy nếu được giải quyết sẽ được thúc đẩy cho sự phát triển của nền kinh tế
Với mong muốn tìm hiểu thêm về những vấn đề của kinh tế, quan điểm lý luận cũng như vướng mắc trong của giải pháp, quy trình sử lý các vấn đề chính trị - xã hội có liên quan đến quá trình tiến hành cải cách trong việc xây dựng nền kinh tế nên em đã chọn " Mâu thuẫn biện chứng và quỏ trỡnh xây dựng kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở việt nam" Làm đề tài cho tiểu luận môn triết học Mác - Lê nin.
Vì trong thời gian có hạn nên trong tiểu luận này chỉ xem xét đánh giá một vài mâu thuẫn tiêu biểu. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo đã giúp đỡ em hoàn thành bản tiểu luận này.
B. Nội dung
I. Lý luận chung
Mỗi một sự vật hiện tượng đang tồn tại đều là một thể thống được cấu thành bởi các mặt,các khuynh hướng,các thuộc tính phát triển ngược chiều nhau,đối lập nhau.. . ở đây chúng ta chia làm hai phần.
1.Sự đấu tranh của các mặt đối lập trong một thể thống nhất.Trong phép biện chứng duy vật,khái niệm mặt đối lập là sự khái quát những thuộc tính ,những khuynh hướng trái ngược nhau hoặc ngược chiều nhau để tồn tại trong cùng một sự vật hiện tượng,tạo nên sự vật hiện tượng đó.Do đó cần phải phân biệt rằng bất kỳ hai mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn.Bởi vì trong các sự vật hiện tượng của thế giới khách quan không phải chỉ tồn tại trong đó hai mặt đối lập.Trong cùng một thời điểm ở mỗi sự vật có thể cùng tồn tại nhiều mặt đối lập.Chỉ có những mặt đối lập là tồn tại thống nhất trong cùng một sự vật như một chỉnh thể,nhưng có khuynh hướng phát triển ngược nhau bãi xích,gạt bỏ,phủ định nhau và chuyển hoá lẫn nhau.(Sự vật chuyển hoá này tạo thành nguồn gốc động lực,đồng thời quy định các bản chất các khuynh hướng phát triển của sự vật) thì hai mặt đối lập như vậy mới tạo thành mâu thuẫn."Thống nhất "của các mặt đối lập được hiểu không phải chúng đứng bên cạnh nhau mà là nương tựa vào nhau,tạo ra sự phù hợp cân bằng như liên hệ phụ thuộc,quy định mà ràng buộc lẫn nhau.Mặt đối lập này lấy mặt đối lập kia làm tiền đề cho sự tồn tại của chính mình và ngược lại.Nếu thiếu một trong hai mặt đối lập chính tạo thành sự vật thì nhất định không có sự tồn tại của sự vật.Bởi vậy sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện không thể thiếu cho sự tồn tại của bất kỳ sự vật hiện tượng nào.
1.1.Sự thống nhất này do những đặc điểm riêng có của bản thân sự vật tạo nên
Ví dụ 1:
Nền kinh tế tập chung quan liêu bao cấp và nền kinh tế thị trường là điều kiện cho sự vật hiện tương tồn tại và phát triển của công cuộc đổi mới của nền kinh tế ở Việt nam hai nền kinh tế khác nhau hoàn toàn về bản chất và những biểu hiện của nó nhưng nó lại hết sức quan trọng.Vì nó có sự thống nhất,sự thống nhất đó tạo nên qua trình đổi mới kinh tế ở việt nam.Thiếu sự thống nhất này nền kinh tế thi trường ở Việt nam không thể tồn tại với ý nghĩa là chính nó.
Ví dụ 2:
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong phương thức sản xuất (Mọi cách thức sản xuất).Khi lực lượng sản xuất phát triển thì cùng với nó thì quan hệ sản xuất cũng phát triển hai hình thức này chính là điều kiện tiền đề cho sự phát triển của phương thức sản xuất.Nhưng quan hệ của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất phải thoả mãn một số yêu cầu sau:
-Thứ nhất :đó là khái niệm chung nhất được khái quát từ các mặt khác nhau phản ánh được bản chất của sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất.
Thứ hai : đó phải là một khái niệm " rộng " phản ánh được trạng thái biến đổi thường xuyên của sự vận động, phát triển trong quan hệ sản xuất của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất.
Thứ ba : đó là khái niệm có ý nghĩa thực tiễn. Ngoài ý nghĩa nhận thức, khái niệm về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất được coi là thoả đáng phải có tác dụng định hướng, chỉ dẫn cho việc xây dựng quan hệ sản xuất, sao cho những quan hệ sản xuất có khả năng phù hợp cao nhất với lực lượng sản xuất.
Sự vật hiện tượng là thể thống nhất của các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh với nhau. Trong đó thống nhất các mặt đối lập là tiền đề địa bàn cho đấu tranh các mặt đối lập và đấu tranh các mặt đối lập cũng diễn ra trong thể thống nhất, nhất định của các mặt đối lập.
Tuy nhiên khái niệm thống nhất này cũng chỉ là tương đối tạm thời. Bản thân nội dung khái niệm cũng đã nói lên tính chất tương đối tạm thời của nó: thống nhất của cái đối lập, trong thống nhất đã bao hàm sự đấu tranh của các mặt đối lập, lúc ngấm ngầm, lúc công khai, dưới nhiều hình thức khác nhau, cho đến khi thể thống nhất cũ bị phá vỡ (Sự vật cũ bị mất đi ) thể thống nhất mới xuất hiện và chứa đựng trong đó sự đối lập
1.2. Đấu tranh các mặt đối lập
Sự thống nhất của các mặt đối lập trong cùng một sự vật không tách rời sự chuyển hoá giữa chúng.Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn tại trong một sự vật thống nhất như một chính thể trọn vẹn nhưng không nằm yên bên nhau mà điều chỉnh chuyển hoá lẫn nhau tạo thành động lựcphát triển cuẩ bản thân sự vật. Sự đấu tranh chuyển hoá, bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt trong thế giới khách quan dưới nhiều dạng khác nhau.
Ví dụ 3: lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong giai cấp đối kháng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu kìm hãm nó diễn ra rất gay gắtvà quyết liệt.Chỉ thông qua các cuộc cách mạng xã hội bằng rất nhiều hình thức kể cả bạo lực mới có thể giải quyết được mâu thuẫn một cách căn bản.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập là quá trình phức tạp.Quá trình ấy được chia làm nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn lại có những đặc điển riêng của nó.Khi mới xuất hiện mâu thuẫn thường được biểu hiện ở sự khác nhau của hai mặt và hai mặtt đối lập chưa thể hiện rõ sự xung khắc gay gắt.Tất nhiên không phải bất kì sự khác nhau nào cũng được gọi là mâu thuẫn chỉ có những mặt khác nhau tồn tại trong một sự vật nhưng liên hệ hữa cơ với nhau phát triển ngược chiều nhau tạo thành động lực bên trong của sự phát triển thì hai mặt đối lập ấy mới hình thành bước đầu của mâu thuẫn.Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn phát triển đến giai đoạn xung đột gay gắt nó biến thành độc lập.Nếu hội đủ các mặt cần thiết hai mặt đối lập sẽ chuyển hoá lẫn nhau, sự vật cũ mất đi sự vật mới được hình thành.Sau khi mâu thuẫn được giải quyết sự thống nhất của hai mặt đối lập cũ được thay thế bằng sự thống nhất của hai mặt đối lập mới lại đấu tranh chuyển hoá tạo thành mâu thuẫn.Mâu thuẫn được giải quyết sự vật mới hơn xuất hiện.Cứ như thế đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vật biến đổi không ngừng từ thấp lên cao,chính vì vậy Lênin khẳng định :"Sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập"
Khi bàn về mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập Lênin chỉ ra rằng :Mặc dù thống nhất chỉ là điều kiện để sự vật tồn tại với ý nghĩa nó chính là nó nhờ có sự thống nhất của các mặt đối lập mà chúng ta nhận biết được sự vật hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan. Song bản thân của sự thống nhất chỉ là sự tương đối và tạm thời đấu tranh giữa các mặt đổi mới là tuyệt đối vĩnh viễn.Nó diễn ra thường xuyên liên tục trong xuốt quá trình tồn tại của sự vật kể cả trạng thái sự vật ổn định, cũng như sự chuyển hoá nhảy vọt về chất.Lênin viết :"Sự thống nhất (Phù hợp đồng nhất tác dụng ngang nhau) của mặt đối lập là có điều kiện tạm thời thoáng qua tương đối.Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối cũng như sự phát triển sự vận động là tuyệt đối".
2.Chuyển hoá của các mặt đối lập
Không phải bất cứ sự đấu tranh nào của các mặt đều dẫn đến sự chuyển hoá giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một trình độ nhất định, hội đủ các điều kiện cần thiết mới dẫn đến chuyển hoá bài trừ và phụ thuộc lẫn nhau. Trong giới tự nhiên chuyển hoá của các mặt đối lập thường diễn ra một cách tự phát, còn trong xã hội chuyển hoá mặt đối lập nhất thiết phẩi diễn ra thông qua hoạt động có ý thức cuả con người. Chuyển hoá của các mặt đối lập chính là lúc mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời đó là quá trình diễn biến rất phức tạp với nhiều hình thức phong phú khác nhau. Do đó không nên hiểu sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt đối lập chỉ là sự hoàn đổi vị trí một cách đơn giản, máy móc. Thông thường thì mâu thuẫn chuyển hoá theo hai phương thức
+ Phương thức thứ nhất: mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia nhưng ở trình độ cao hơn xét về phương diện chất của sự vật
Ví dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội phong kiến đấu tranh chuyển hoá lẫn nhau để hình thành xem quan hệ sản xuất mới là quan hệ sản xuất TBCN và lực lượng sản xuất mới ở trình độ cao hơn
+ Phương thức thứ hai: Cả hai mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau để hình thành hai mặt đối lập mới hoàn toàn
Ví dụ: Nền kinh tế Việt Nam chuyển từ kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nướctheo định hướng XHCN.
Từ những mâu thuẫn trên cho ta thấy trong thế giới hiện thực, bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng chứa đựng trong bản thân nó những mặt đối lập những thuộc tính có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau. Sự đấu tranh chuyển hoá của các mặt đối lập trong những điều kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn, mâu thuẫn là hiện tượng khách quan phổ biến của cả thế giới.Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi sự vật mới được hình thành.Sự vật mới lại nảy sinh các mặt đối lập và mâu thuẫn mới.
Các mặt đối lập này lại đấu tranh chuyển hoá và phủ định lẫn nhau tạo thành sự vật mới hơn. cứ như vậy mà các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan thường xuyên phát triển và biến đôỉ không ngừng. Vì vậy mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực của mọi quá trình phát triển.
II. Mâu thuẫn biện chứng trong quy trình xây dựng nền kinh tế tư tưởng định hướng xã hội chủ nghĩa.
1. Thực chất kinh tế thị trường ở Việt Nam
1.1_Một số đặc điểm chung của kink tế thị trường ở nước ta
Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam theo định hướng XHCN là một tất yếu lịch sử nó nhằm tới mục tiêu cụ thể và mang tính cách mạng.Nó thay cũ đổi mới hàng loạt vấn đề về lý luận và thực tiễn cả kinh tế và chính trị xã hội nó bảo vệ phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoàn cảnh mới và điều kiện mới
Như chúng ta đã biết, từ khi CNXH được xây dựng tất cả các nước XHCN đều thực hiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, cơ chế vận hành và quản lý kinh tế này được duy trì trong một thời gian khá dài và xem như là đặc trưng riêng biệt của XHCN là cái đối lập với cơ chế thị trường của TBCN. Sự thật thì không phải hoàn toàn như vậy, nền kinh tế tập trung không chỉ là sản phẩm riêng biệt của XHCN cũng như nền kinh tế thị trường không phải duy nhất được thiết lập trong TBCN... Nền kinh tế tập trung đã được các nước TB từ trước khi nhiều nước xác lập chế độ XHCN. Nhưng các nước TBCN đã xoá bỏ cơ chế thị trường sau khi chiến tranh kết thúc và đã đạt được những thành tựu rất lớn về kinh tế xã hội. Nhưng công bằng mà nói nền kinh tế thị trường cũng chưa phải là cái duy nhất đảm bảo cho sự tăng trưởng và phát triển của xã hội
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH thì sự tồn tại của nền sản xuất hàng hoá, nền kinh tế thị trường - bước phát triển cao của nền sản xuất hàng hoá là lẽ đương nhiên. Như vậy có thể nói rằng nền kinh tế thị trường cũng như nền kinh tế tập trung là thuộc tính đặc thù cố hữu của riêng một chế độ XH nào, vấn đè áp dụng mỗi nền kinh tế dó vào thời điểm hoàn cảnh lịch sử nào cho phù hợp dành hiệu quả cao nhất,chúng ta đang trong giai đoạn quá độ lên CNXH bởi thế việc phát triển nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan. Mới chỉ có hơn chục năm đổi mới với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường Việt Nam đã cho nhân dân thế giới ngỡ ngàng, từ chỗ chúng ta còn xa lạ nay đã hội nhập được với nền kinh tế tiến hiện đại. Tất cả những thành tựu kinh tế mà chúng ta đạt được khi chuyển sang nền kinh tế thị trường đã nói lên công cuộc đổi mớỉ nước ta là một cuộc cách mạng thực sự
ở Việt Namcó đặc điểm là bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh đồng thời lấy chủ nghĩa Mac-lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nâm cho mọi hành động
1.2. Một số đặc điểm của kinh tế thị trường ở Việt Nam nhìn từ góc độ triết học
Thực tiễn vận động của nền kinh tế thế giới trong những năm gần đây cho thấy mô hình phát triển kinhtế theo xu hướng thị trường có sự điều tiết vĩ mô từ trung tâm trong bối cảnh củathời đại ngày nay là mô hình hợp lý hơn cả. Mô hình này rõ đại thể đáp ứng được những thách thức của sự phát triển.
ở nước ta việc thực hiện mô hình này trong thực tế chẳng những là nội dung của công cuộc đổi mới và hơn thế nữa còn là công cụ là phương thức để nước ta đi tới mục tiêu xây dựng XHCN.
Nền kinh tế nước ta hiện nay có thể nói đang ở giai đoạn quá độ chuyển tiếp từ nền kinh tế tập trung hành chính, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Do vậy những đặc điểm của giai đoạn quá độ trong nền kinh tế đương nhiên là một vấn đề có ý nghĩa cần được nghiên cứu xem xét. Nhận thức được đặc điểm phức tạp của giai đoạn quá độ chi phối được những đặc diểm đó, chúng ta sẽ tránh được những sai lầm chủ quan nóng vội duy ý chí hoặc những khuynh hướng cực đoan máy móc sao chép nhận nguyên bản kinh tế thị trường từ bên ngoài vào.
Vậy từ phương diện triết học thì những đặc điểm của nền kinh tế quá độ của nước ta hiện nay là gì? Như chúng ta đã biết trong nền kinh tế tập trung - bao cấp mọi chức năng kinh tế xã hội của nền kinh tế đều được triển khai trong quá trình kế hoạch hoá ở cấp độ quốc gia.Tính bao cấp của nhà nước đối với các hoạt động sản xuất lưu thông phân phối khá nặng nề.Trước đâychế độ hạch toán trên thực tế còn nặng về hình thức. Lợi ích kinh tế đặc biệt là lợi ích cá nhân của người lao động một động lực trực tiếp của hoạt động xã hội quan dung đúng mức vì thế sự vận động của nền kinh tế nhìn chung là chậm chạp kém năng động.
Kể từ đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986) đến nay theo đường lối đổi mới đất nước đã từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường với định hướng XHCN. Như vậy chúng ta đã đạt được thành tựu hết sức quan trọng những thành tựu cho phép chúng ta "điều chỉnh và bổ xung nhận thức, làm cho quan niệm về CNXH ngày càng cụ thể, đường lối chủ chương chính sách ngày càng đồng bộ có căn cứ khoa học và thực tiễn ".Những thành tựu đó trong một chừng mực nhất định cũng gián tiếp khả năng của kinh tế thị trường trong việc năng động hoá nền kinh tế đất nước
Kinh tế thị trường như chúng ta đã biết là một kiểu quan hệ kinh tế xã hội mà trong đó sản xuất và tái sản xuất xã hội gắn chặt với thị trường, tức là gắn chặt với quan hệ hàng hoá- tiền tệ, với quan hệ cung cầu.. trong nền kinh tế thị trường, nét biểu hiện có tính chất bề mặt của đời sống xã hội quan hệ hàng hoá: Mọi hoạt động xã hội đều phải tính đến quan hệ hàng hoá, hay ít nhất thì phải sử dụng các quan hệ hàng hoá như là mặt khâu trung gian.
Thành tựu của những năm đổi mới vừa qua ở nước ta đã có tác dụng làm cho chúng
quen dần với các quan hệ hàng hoá.Bước chuyển sang cơ chế thị trường này đương nhiên không tránh khỏi nhứng mặt tiêu cực của nó, nhưng dẫu sao nó cũng nói lên sức sống và khả năng tác động của các quan hệ thị trường. Thực chất của bước chuyển biến này, một số cho rằng " ở Việt Nam, dù nền kinh tế thị trường mới hình thành, còn đang trong bước chập chững ban đầu và được điều tiết một cách có ý thức theo dịnh hướng XHCN, song nó cũng có tác động khá rõ về mặt đời sống tinh thần, văn hoá xã hội và nó đã tạo ra ở Việt Nam những quan niệm thị trường không thuần khiết - những quan hệ đó vừa có màu sắc thị trường vừa chưa phải quan hệ thị trường. Sự đan xen,chi phối mãnh liệt của các nhân tố khác của đời sống xã hội trong bối cảnh của một xã hội vừa ra khỏi cơ chế hành chính bao cấp đã làm cho cơ chế thị trường bị "khúc xạ" theo nhiều chiều hướng khác
nhau.Một trong những nguyên nhân của tình hình nói trên đúng như một ý kién đã chỉ ra, trước hết thuộc về sửa đổi mới các quan hệ sở hữu. Nếu như trước đây nền kinh tế nước ta chỉ có một kiểu sở hữu tương đối thuần nhất với hai thành phần là tập thể và quốc doanh thì hiện nay cùng với thành phần chủ đạo là sở hữu nhà nước còn tồn tại nhiều thành phần sở hữu khác.Những hình thức sở hữu đó trong thực tế vận hành của nền kinh tế không hẳn đồng bộ với nhau song về tổng thể chúng là bộ phận khách quan của nền kinh tế có khả năng đáp ưng những đòi hỏi đa dạng và năng động của nền kinh tế thị trường.
Thực ra trong quan niệm hiện nay của chúng ta về CNXH đã chứa đựng những tư tưởng mới về qui luật của sự phù hợp khách quan giữa lực lượng sản xuất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Cái có ý nghĩa quyết định trong quy luật này là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Do vậy trong sự phù hợp với trình độ phát triển của lượng sản xuất, sự tồn tạicủa các thành phần sở hữu đa dạng ở một nền kinh tế để phát triển theo định hướng XHCN là hoàn toàn có cơ sở của nó.
Hơn thế nữa vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước trên thực tế không chỉ là chủ đạo thuần tuý về tỷ trọng GDP. Theo quan điểm lịch sử hiện đại về xử lý kinh tế vĩ mô thì khả năng chỉ đạo điều tiết của nền kinh tế nhà nước có thể là lực lượng nắm bắt yết hầu kinh tế. Cũng có thể là lực lượng chi phối các vị trí đặc biệt nhưng kém sinh lời
trong nền kinh tế Cùng với việc nắm giữ các nghành kinh tế quốc phòng, thông tin, cơ sở hạ tầng.. vai trò của nhà nước và của nền kinh tế nhà nước trong nền kinh tế hướng tới thị trường theo định hướng XHCN là điều không thể bàn cãi. Nhà nước ngoài việc trực tiếp quyết định những vấn đề của bản thân nền kinh tế còn phải đóng vai trò là trung gian giữa các vấn đề kinh tế và các vấn đề xã hội. Nhà nước với các chính sách, luật lệ của mình có khả năng làm cho nền kinh té đặt tới sự tăng trưởng có hiệu quả nhưng mặt đối lập khác nó chính là người phải lo giải quyết các vấn đề do chính sự tăng trưởng tạo ra.
Về đại thể chìa khoá để đáp ứng những nhu cầu phức tạp và trái ngược nhau của xã hội nằm trong tay bộ máy quản lý vĩ mô của xã hội, Tuy nhiên ở nước ta hiện nay nhà nước và kinh tế nhà nước còn có nhiều vấn đề cần phải được tháo gỡ để có thể đảm đương trọng trách to lớn của mình. Trên thực tế bộ máy vĩ mô của nhà nước còn khá cồng kềnh và kém hiệu quả. Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước đều hoạt động thiếu năng động và ỷ lại vào nhà nước. Trong một số trường hợp kinh tế nhà nước vô tình hoặc cố ý bỏ rơi trận địa mà mình đã chiếm lĩnh tiếp tay cho phần tử tham nhũng.
Tiếp tục đổi mới vào hoạt động có hiệu quả của nền kinh tế nhà nước để kinh tế nhà nước thực sự gĩ vai trò chủ đạo làm đòn bẩy thúc đẩy và điều chỉnh các hoạt động của toàn bộ nền kinh tế. Trên cơ sở đó giải quyết ngay các vấn đề xã hội ở tầm vĩ mô sao cho tăng trưởng kinh tế không trở nên gay gawts với trật tự bình thường của đời sống xã hội.
Thực ra các vấn đề XH của nền kinh tế thị trường nhất là nền kinh tế thị trường còn quá sơ khai, quá độ lại co mức độ tăng trưởng nhanh là điều rát khó thành. Như vậy chúng ta buộc phải chấp nhận mặt trái của nền kinh tế thị trường,nhất là nền kinh tế thị trường còn sơ khai,quá độ lại có mức tăng trưởng nhanh là điều rất khó tránh.Như vậy chúng ta buộc phải chấp nhận mặt trái của nền kinh tế thị trường ở mức nào đó,để từng bước nâng cao chất lượng và hiệu quả của nền sản xuất xã hội,chúng ta có những chính sách và biện pháp nhất định với một số lĩnh vực kinh tế -xã hội như lĩnh vực giáo dục và đào tạo,bảo vệ môi trường...Cũng phải thừa nhận rằng các vấn đề nói trên dù ít dù nhiều cũng là vấn đề của bản thân cơ chế quản lý.Trong nền kinh tế hiện nay cơ chế quản lý đang ở giai đoạn hình thành nên thường là không đồng bộ.Chúng ta chưa thật sự tạo ra môi trường an toàn và ổn định cho sản xuất và kinh doanh.Cơ sở hoạt động pháp lý.Tính chất không rõ ràng,thiếu xác định cả trên phương diện kinh tế xã hội dường như đang là một cái gì đó rất phổ biến rất đặc trưng cho quan hệ trong nền kinh tế nước ta.Cần thiết phải lưu ý rằng khác với cơ chế hành chính bao cấp cơ chế thị trường là quy luật khách quan khó nắm bắt của mình thường biểu hiện ra như là một cơ chế tự phát hơn,tự nhiên hơn và nằm xa sự chi phối của con người Những điều này không nói lên những giới hạn có thể có của sức mạnh con người,mà nó chỉ cho biết một đặc trưng của cơ chế thị trường.Đặc trưng này đòi hỏi thể quản lý phải hiểu biết sâu sắc hơn về tính khách quan của các quy luật thị trường.Đương nhiên đòi hỏi này không hề giản đơn,nhất fà trong giai đoạn quá độ có sự tồn tại đan xen giữa các cơ chế ở nước ta hiện nay.Vấn đề là ở chỗ bản thân cơ chế thị trường dường như tự phát hơn,trong khi đó nó lại được hoạt động ở một điều kiện mà các yéu tố tự phát có khả năng tác động mạnh mẽ hơn.Trong các giai đoạn quá độ chuyển tiếp yếu tố tự phát thể hiện vai trò của mình mạnh hơn yếu tố tự giác.Bởi vậy nền kinh tế của nước ta hiện nay việc nắm các yếu tố tự phát và tự giác của nền kinh tế,hiểu được phương thức hoặc tìm ra được phương pháp kiểm soát thích hợp đối với chúng ta hết sức có ý nghĩa.Thực tế trong một số trình kinh tế-xã hội nhất định, chúng ta thật sự làm chủ được những tác động tự giác cũng như tác động tự phát của cơ chế thị truường. Tuy nhiên bên cạnh đó chúng ta còn buông lỏng kiểm soát hoặc chưa thực sự có khả năng kiểm soát sự vận động của chúng ta.
Trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, việc chúng ta sử dụng thị trường như một côngh cụ, một phương thức trên thực tế đã đem lại những kết quả tích cực cả về phương diện thực tiễn và phương diện lý thuyết.
Mỗi hành trang có ý nghĩa mà công cuộc đổi mới trang bịu cho chúng ta, sản xuất hàng hoá cùng với “nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường”, hiện đã được chúng ta hiểu là không đối lập với CNXH. Với tính cách là sản phẩm của văn minh nhân loại “Cơ hội để các cộng đồng mở cửa, tiếp xúc với bên ngoài”, kinh tế thị trường rõ ràng là cái khkhách quan và tất yếu đối với công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta.
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta hiện, việc điều tiết vĩ mô với thị trường một mặt làm nền kinh tế nước ta thực sự trở thành một thị trường thống nhất- thống nhất trong cả nước và thống nhất với thị trường thế giới, mặt khác làm cho mỗi đơn vị tự khẳng định mình-khẳng định khả năng và vai trò của mình trong thị trường.
Tuy nhiên nhận ra sức mạnh của cơ chế thị trườn bao nhiêu chúng ta lạI càng hiểu rõ hơn bấy nhiêu mặt trái của nó đối với sự vân động của đời sống xã hội. Sự tăng trưởng kinh tế đương nhiên là một mục tiêuphát triển xã hội, nó có khả năng tạo ra điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội. Nhưng tăng trưởng kinh tế không nhất thiết đi liền với tiến bộ xã hội. Do vậy, trong quan niệm của Đảng ta, để thực hiện sự nghiệp xây dựng CNXH với mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, thì kinh tếthị trường nhất thiết phải có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Quan hệ kinh tế chính trị trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam:
Quan hệ kinh tế chính trị là một trong những vấn đề cơ bản trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Đây là vấn đề luôn được đặt ra và giải quyết trong suốt quá trình đổi mới.
Những thành tựu đạt được trong 10 năm đổi mới vừa qua không thể tách rời việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Việc nhận thức mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị cũng không ngừng phát triển, gắn liền với thực tiễn công cuộc đổi mới. Bài viết này tập trung phân tích sự phát triển nhận thức về mối quan hệkinh tế và chính trị cũng không ngừng phát triển, gắn liền với thực tiễn công cuộc đổi mới.
2.Những mâu thuẫn phát sinh trong quy trình xây dựng nền kinh tế, tư tưởng, định hướng XHCN.
2.1.Mấy vấn đề lý luận chung của chủ nghĩa Mác-Lê Nin về quan hệ giữa kinh tế và chính trị.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lê Nin thì kinh tế quyết định chính trị, “chính trị là sự biểu hiện tập trung kinh tế ”.
Từ khi xã hội có giai cấp và nhà nước xuất hiện thì vấn đề chính trị mới xuất hiện. Vấn đề chính trị là vấn đề thuộc về quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp. Trung tâm của vấn đề chính trị là đấu tranh giữa giai cấp, các lực lượng xã hội nhằm giành, giữ chính quyềnNhà nước và sử dụng chính quyền để làm công cụ để xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội phù hợp với lơị ích giai cấp. Chính trị ra đời hoàn toàn là do kinh tế quyết định, chính trị không phải là mục đích, mà chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích kinh tế.
Quyền lực chính trị là công cụ mạnh mẽ nhất để bảo vệ chế độ xã hội. Sự thống trị về chính trị của một giai cấp nhất định là điều kiện đảm bảo cho giai cấp đó được thống trị về kinh tế.
Đấu tranh giai cấp thực chất là đấu tranh vì lợi ích kinh tế thực hiện thông qua đấu tranh chính trị. Theo F.Enghen ” Bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào cũng đều là đấu tranh chính trị, xét đến cùng đều xoay quanh vấn đề giải phóng về kinh tế”. Để nhấn mạnh vai trò của chính trị, V.I Lê- -Nin đã khẳng định :” Chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế”. Khẳng định đó không có nghĩa là phủ nhận vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị, mà muốn nhấn mạnh tác động tích cực của chính trị đối với kinh tế. Vấn đề kinh tế không thể tách rời vấn đề chính trị, mà nó được xem xét giải quyết theo một lập trường chính trị nhất định. Giai cấp nào cầm quyền cũng hướng kinh tế phát triển theo lập trường của giai cấp đó nhằm phục vụ mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định. Và lập trường chính trị đúng (hay sai) sẽ thúc đẩy, (hoặc kìm hãm) sự phát triển của kinh tế. V.I Lênin còn khẳng định “Không có một lập trường chính trị đúng thì một giai cấp nhất định nào đó, không thể giữ vững được sự thống trị của mình và do đó cũng không thể hoàn thành nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất”. Khi thể chế chính trị không phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thì tất yếu kinh tế sẽ mở đường đi. Khi đó, việc thay đổi thể chế chính trị cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy kinh tế phát triển.
Như vậy chúng ta có thể khẳng định rằng kinh tế và chính trị thốn nhất biện chứng với nhau trên nền tảng quyết định của kinh tế. Đây là cơ sở phương pháp luân quan trọng trong việc nhận thức xã hội nói chung, nhận thức công cuộc đổi mới ở Việt Nam nói riêng.
2.2.Sự phát triển nhận thức về mối quan hẹ giữa kinh tế và chính trị trong công cuộc đổi mơí ở Việt Nam.
Có thể nói từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) của Đảng Cộng Sản Việt Nam, đất nước ta chuyển sang một giai đoạn mới –giai đoạn thực hiện công cuộc đổi mới, đến nay công cuộc đổi mới đã được 10 năm.
Trong 10 năm qua việc nhận thức về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị càng ngày càng chính xác hơn. Khi bước vào công cuộc đổi mới Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh đổi mới tư duy nhất là đối với cán bộ lãnh đạo, coi đó là tiền đề đổi mới hiện thực, nó hết sức cần thiết đối với thực tiễn nước ta để vượt ra khỏi thói quen tư duy cũ. Nói như vậy không có nghĩa là đổi mới tư duy có thể tách rời đổi mới trong thực tiễn. Đổi mới tư duy là phản ánh yêu cầu đổi mới trong thực tiễn mà gắn liền với thực tiễn của công cuoọc đổi mới. Vì vậy tổng kết thực tiễn công cuộc đổi mới ở nước ta là cơ sở chủ yếu nhất để không ngừng đổi mới và phát triển tư duy.
Vào những năm đầu của công cuộc đổi mới ở nước ta, khi mà Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu vấp phải những thất bại nặng nền, khi mà chúng ta giành được những thắng lợi bước đầu, ở nước ta đã có quan điểm cho rằng nguyên nhân thất bại của Liên Xô và Đông ÂU là do các nước này đổi mới chính trị trước,đổi mới kinh tế sau. Còn nguyên nhân thành công của công cuộc đổi mới ở nước ta là đổi mới kinh tế trước, đổi mới chính trị sau. Quan điểm này mới xem tưởng như chính xác, nhưng đI vào phân tích sẽ thấy rằng nó không phù hợp với lý luận và thực tiễn. Theo quan điểm đã trình bày ở trên, mỗi khi chính trị không phù hợp với kinh tế thì thay đổi về chính trị là điều kiện tiên quyết để thay đổi về kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển. Cho nên không thể quy nguyên nhân thất bại trong đổi mới ở Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu là đổi mới chính trị trước, đổi mới kinh tế sau. Nguyên nhân dẫn đến sự xụp đổ của Liên Xô và Đông Âu là do mâu thuẫn giữa kinh tế và chính trị không được phát hiện và khắc phục. Do đó đã dẫn đến khủng hoảng nghiêm trọng về chính trị làm mất vai trò của Đảng Cộng sản.
Khẳng định rằng ở nước ta đổi mới kinh tế trứoc, đổi mới chính trị sau cũng không được phù hợp với thực tiễn. Sự thực là phải có đường lối mới do Đảng ta đề ra, trên cơ sở đó hình thành chính sách mới, luật pháp mới …thì mới có thể đổi mới kinh tế. Vấn đề ở chỗ : Lĩnh vực chính trị là lĩnh vực hết sức phức tạp, liên quan đến quyền thống trị của giai cấp, nó quyết định thành bại của công cuộc đổi mới nên phải tiến hành từng bước vàg hết sức thận trọng. Đổi mới chính trị trên cơ sở đổi mới kinh tế và đáp ứng yêu cầu của đổi mới kinh tế.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII(6/1991) Đảng ta đã khẳng định :
“ Về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, và các nhu cầu xã hội khác. Xây dựng cơ sở vật chất-Kỹ thuật, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, văn hoá- xã hội. Nên việc đổi mới trong hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị dẫn đến rối loạn.
Nhưng không vì vậy mà tiến hành chậm trễ đổi mới chính trị nhất là về tổ chức bộ máy và cán bộ, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân. Bởi đó là điều kiện phát triển kinh tế, xã hội và thực hiện dân chủ”.
Điều đó cho thấy Đảng đã không tách rời đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, mà gắn liền đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Nhưng phải thận trọng không gây mất ổn định về chính trị.
Tư tưởng trên đã được tiếp tục phát triển rõ ràng hơn ở Đại hội địa biểu toàn quốc lần thứ VIII (6/1999) của Đảng ta.
Khi tổng kết 10 năm đổi mới, Đảng ta đã khẳng định phải: “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chinh trị “. Đây là một cách khái quát mới, hoàn toàn khoa học, nó vừa phù hợp với lí luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lê Nin vừa phù hợp với công cuộc đổi mới ở nước ta. ặn định chính trị, nói một cách khái quát là giai cấp cầm quyền phải tăng cường quyền lực chính trị của mình, Nhà nước giai cấp đó phải mạnh, luật pháp phải nghiêm minh. Chế độ xã hội đã xác lập phải được giữ vững. Đối với nước ta hiện nay, ổn định loà thực chất giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường vai trò của nhà nước XHCN, bảo vệ và xây dựng thành công XHCN.
Thực tiễn trên thế giới cho thấy ổn định xã hội là điều hết sức cơ bản để phát triển kinh tế. Nó tạo ra môi trường để thu hút nguồn đầu tư trong nước và ngoài nước, tạo điều kiện cho phát triển kinh doanh. Những thành tựu đó không thể tách rời việc chúng ta giữ được ổn định về chính trị. ổn định chính trị không thể tách rời đổi mới chính trị, không phải là đổi mới về nguyên tắc, mà đổi mới để giữ vững ổn định chính trị, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, tổ chức quản lý nhà nước CNXH. Đổi mới chính trị phải gắn bó với đổi mới kinh tế, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, và nhờ đó giữ vững được ổn định về chính trị. Song, đổi mới kinh tế không phải là đổi mới tuỳ tiện, mà theo nguyên tắc, theo một định hướng chính trị nhất định. Đó chính là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang “ Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lí của nhà nước theo định hướng XHCN”. Chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là nhằm mục tiêu “ Dân giàu, Nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”. Đó cũng là cơ sở kinh tế cho sự ổn định chính trị.
Tóm lại: ổn định và đổi mới về chính trị là hai mặt đói lập nhưng thống nhất biện chứng với nhau. Có ổn định thì mới có đổi mới và đổi mới là điều kiện để ổn định. Hai mặt đó tác động qua lại với nhau và gắn bó cặt chẽ với đổi mới kinh tế, trên nền tảng đổi mới kinh tế.
Như vậy trong quá trình đổi mới ở nước ta, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, thống nhất với nhau. Trong đóđổi mới kinh tế là trọng tâm, đổi mới chính trị phải tiến hành từng bước phù hợp với đổi mới kinh tế, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế.
Điều khẳng định đó là sự khái quát kinh nghiệm 10 đổi mới, là kết quả vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lê Nin vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam. Khái quát đó hoàn toàn khoa học và nó có giá trị định hướng cho giai đoạn phát triển tiếp theo-giai đoạn đẩy mạnh Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất nước.
2.3. Mâu thuẫn giữa lực lượng SX và quan hệ SX.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước, theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, vấn đề lực lượng SX-quan hệ SX là một vấn đề hết sức phức tạp. Mâu thuẫn giữa hai lực lượng này và những biểu hiện của nó xét trên phương diện triết học và chủ nghĩa Mac-Lê Nin, lực lượng SX là nội dung của sự vật, quan hệ SX là ý thức của sự vật,lực lượng SX quyết định quan hệ SX, lực lượng SX là yếu tố động lực luôn thay đổi khi lực lượng SX phát triển đến trình độ nhất định thì quan hệ SX không còn phù hợp nữa trở thành yếu tố kìm hãm lực lượng SX. Để mở đường cho lực lượng SX phát triển cần phải thay đổi quan hệ SX cũ bằng quan hệ SX mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng SX. Chính quan hệ SX tự phát triển để phù hợp với lực lượng SX, quan hệ SX phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng SX, đó là quy luật kinh tế chung của sự phát triển.
Quá trình mâu thuẫn giữa lực lượng SX tiên tiến với quan hệ SX đã lạc hậu diễn ra gay gắt và quyết liệt cần được giải quyết. Nhưng giải quyết nó bằng cách nào? Đó chính là các cuộc cách mạng xã hội, chuyển đổi nền kinh tế, mà cuộc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường là một ví dụ. Công cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam là phấn đấu xây dựng nước ta trở thành quốc gia “Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”.
Công nghiệp hoá,hiện đại hoá là chủ trương, biện pháp vừa mang tính cách mạng vừa mang tính khoa học để xây dựng CNXH. Nói đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là nói đến nền SX tiên tiến, đó chính là lực lượng SX và quan hệ SX, nói đến khoa học,trí tuệ, là nói đến phương thức tối ưu để thoát khỏi tình trạng SX nhỏ, Nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu. Tạo điều kiện và cơ sở vật chất cho CNXH được xây dựng và phát triển.
Không thể ăn đói, mặc rách với cái cuốc trên vai cộng thêm tấm lòng cộng sản để kiến thiết XHCN. Chuyển sang kinh tế thị trường, khẳng định cái mới, đúng đắn, gạt bỏ những quan niệm cũ sai lầmvề điều kiện và cách thức xây dựng CNXH. Trước đây chúng ta thiếu quan tâm đến vai trò của trí tuệ,khoa học, đến việc lập cơ sở kinh tế, vật chất của XHCN.Có một thời chúng ta không coi trọng tầng lớp trí thức và đội ngũ những người lao động khác. Do đó hậu quả tất yếu xảy ra là nền khoa học cụ thể nước ta chậm phát triển,dẫn đến đất nước không thoát khỏi nền SX nhỏ, Nông nghiệp lạc hậu và càng không thể nói đến công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
2.4. Mâu thuẫn giữa các hình thái sở hữu trước đây và trong kinh tế thị trường.
Trước đây người ta quan niệm những hình thức sở hữu trong CNXH là: Sở hữu xã hội tồn tại dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Sự tồn tại của hai hình thức đó là tất yếu khách quan bởi điều kiện lịch sử khi tiến hành cách mạng XHCN và xây dựng CNXH quyết định. Sau khi giành được chính quyền, giai cấp công nhân đứng giữa hai hình thức sở hữu tư nhân khác nhau. Sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và sở hữu tư nhân của những người SX hàng hoá nhỏ. Thực tế đòi hỏi giai cấp công nhân phải có thái độ và phát triển giải quyết khác nhau.
Đối với hình thứ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa của những người SX hàng hoá nhỏ thì không thể dùng những biện pháp như trên, mà phải kiên trì giáo dục, thuyết phục họ trên cơ sở tự nguyện chuyển lên sở hữu tập thể bằng con đường hợp tác hoá hai hình thức. Sở hữu đó là hai con đường đặc thù tiến lên chủ nghĩa Cộng sản của giai cấp Công nhân và Nông dân tập thể.
Các hình thức sở hữu trước đây và trong thời kỳ quá độ sang kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Hơn 10 năm đổi mới đất nước theo định hướng XHCN ở nước ta đã chứng tỏ tính đúng đắn của đường lối đổi mới, của chính sách đa dạng hoá các hình thức sở hữu do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo toàn dân thực hiện. Thực tiễn đã cho thấy, một nền kinh tế đương nhiên phải bao gồm nhiều hình thức sở hữu, chứ không phải chỉ có hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể như quan niệm trước đây.
Trong giai đoạn hiện nay nền kinh tế hàng hoá nhiêù thành phần theo định hướng XHCN mà chúng ta đã xây dựng và phát triển bao gồm nhiều hình thức sở hữu như sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu cá thể, sở hữu tư bản về các hình thức sở hữu hỗn hợp. Trong các hình thức sở hữu này khái quát lại chỉ có hai hình thức cơ bản là công hữu và tư hữu, còn các hình thức khác chỉ là hình thức trung gian, quá độ hoặc hỗn hợp.
ở đây, mỗi hình thức sở hữu lại có nhiều phương thức biểu hiện về nhiều trình độ khác nhau. Chúng được hình thành trên cơ sở có cùng bản chất kinh tế và tuỳ theo trình độ phát triển của lưc lượng SX và năng lực quản lí.
_ Về sở hữu toàn dân : Trước đây người ta quan niệm sở hữu toàn dân trùng với sở hữu Nhà nước.
Nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần thì đương nhiên là bao gồm nhiều hình thức sở hữu, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò then chốt, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển theo hướng có lợi cho quốc tế dân sinh. Nhà nứoc quản lý kinh tế với tư cách là cơ quan quyền lực đại diện cho nhân dân và là đại diện đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân.
ở nước ta ta hiện nay, như hiến pháp và luật đất đai đã quy định rõ: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân”. Xét về mặt kinh tế đất đai là phương tiện tồn tại cơ bản của cả một cộng đồng xã hội. Xét về mặt xã hội, đất là lãnh thổ, là nơi. cư trú của cả một cộng đồng. Thế nhưng khi xét trên cả hai phương diện có thể nói rằng, đất đai không thể là đối tượng sở hữu của riêng ai. Tuy nhiên suy cho cùng, đất đai là tư liệu SX, hay nói chính xác hơn, nó là bộ phận quan trọng của tư liệu SX. Bởi thế,dù là đặc biệt thì trong nền kinh tế hàng hoá,nó vẫn phải vận động theo những quy luật của thi trường và chịu sự điều tiết của những quy luật đó. Việc đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà nhà nước là người đại diện, sở hữu và quản lí không hề mâu thuẫn với việc trao quyền cho các hộ nông dân, kể cả quyền được chuyển nhượng, quyền sử dụng đất đai. Nếu biết giải quyết cụ thể các vấn đề sở hữu, biết tách quyền sở hữu với quyền sử dụng, chẳng hạn như ruộng đất vẫn thuộc quyền sở hữu toàn dân, người nông dân được quyền sử dụng ổn định lâu dài thì có thể đem lại một sức bật cho sự phát triển của lực lượng SX và tăng trưởng kinh tế nói chung. Văn kiện đại hội VII của Đảng ta đã chỉ rõ : “ Trên cơ sở sở hữu toàn dân đất dai, ruộng đất được được giao cho nông dân sử dụng lâu dài. Nhà nước quy định bằng luật pháp các vấn đề thừa kế, chuyển quyền sở hữu ruộng đất…”.( Đảng CS Việt Nam, văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nhà xuất bản Sự thật Hà Nội năm 1991). Như vậy hình thức sở hữu toàn dân ở nước ta hiện nay đã được xác định theo nội dung mới, có nhiều khả năng để thực sự trở thành nguồn lực phát triển kinh tế.
Về sở hữu nhà nước: Trong thời kỳ bao cấp trước đây không chỉ ở
nước ta mà còn ở một số nước khác trong hệ thống XHCN, thường đồng nhất sở hữu Nhà nước với sở hữu toàn dân. Do nhầm lẫn như vậy mà đã có một thời gian khá dài, người ta thường bỏ quên hình thức sở hữu nhà nước, chỉ quan tâm đặc biệt tới sở hữu toàn dân với chế độ công hữu tồn tạI dưới hai hình thức sở hữu toàn vsà tập thể và cũng bởi sở hữu toàn dân gắn kết với sự phát triển của khu vực kinh tế quốc doanh, vì vậy mà chúng ta đã ra sức quốc doanh hoá nền kinh tế với niềm tin cho rằng chỉ như vậy mới có CNXHnhiều hơn. Thực ra, với quan niệm đó, sở hữu toàn dân đã trở thành thứ sở hữu không phải của một chủ sở hữu cụ thể nào cả.
Trong xã hội mà Nhà nước còn tồn tại, thì sở hữu toàn dân chưa có điều kiện vận động trên bề mặt của đời sống kinh tế nói chung. Hình thức sở hữu Nhà nước xét về tổng thể mới chỉ là kết cấu bên ngoài của sở hữu, còn kết cấu bên trong của sở hữu Nhà nước ở nước ta không chủ yếu thể hiện quyền sở hữu đó ở khu cực kinh tế quốc doanh, khu vực doanh nghiệp Nhà nước.
-Về sở hữu tập thể: Nước ta trước đây hình thức sở hữu tập thể chủ yếu tồn taị dưới hình thức hợp tác xã ( Gồm cả hơp tác xã nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp), với nội dung là cả giá trị lẫn giá trị sử dụng của đối tượng sở hữu đều là của chung, mà các xã viên là chủ sở hữu chính. Vì vậy mà với hình thức sở hữu này, quyền mua bán hoặc chuyển nhượng tư liệu SX trong thực tế và lưu thông ở nước ta diễn ra hết sức phức tạp. Quyền của các tập thể SX thường rất hạn chế, song đôi khi lại có tình trạng lạm quyền. Sự không xác định, sự “nhập nhằng” với quyền sở hữu Nhà nước và với quyền sở hữu tư nhân trá hình cũng là hiện tượng phổ biến. Để thoát ra khỏi tình trạng đó, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường hiện nay, cần phải xác định rõ quyền mua bán và quyền chuyển nhượng tư liệu SX đối với các tập thể SX kinh doanh. Chỉ có như vậy thì sở hữu tập thể mới có thể trở thành một hình thức sở hữu có hiệu quả.
Chúng ta đã biết, hợp tác xã SX không phải là các hình thức riêng có, đặc trưng cho CNXH, nhưng nó là một hình thức sở hữu kinh tế tiến bộ trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Vì vậy chúng ta cần phải duy trì và phát triển hơn nữa hình thức sở hữu này khi xây dựng CNXH như V.I Lê Nin đã khẳng định ” Chế độ của người xã viên hợp tác văn minh là chế độ XHCN”.
Hợp tác xã là nhu cầu thiết thực của kinh tế hộ gia đình, của nền SX hàng hoá, khi lực lượng SX trong Nông nghiệp và trong Công nghiệp nhỏ phát triển tới một trình độ nhất định, nó sẽ thúc đẩy quá trình hợp tác. Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hoá, các nhu cầu cung ứng về vốn, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm…đòi hỏi các hộ SX phải hợp tác với nhau mới có khả năng cạnh tranh phát triển. Chính nhu cầu đó đã liên kết người lao động lại với nhau và làm nảy sinh quan hệ sở hữu tập thể. Thực tiễn cho thấy, ở nước ta hiện nay đã có những hình thức hợp tác xã kiểu mới ra đời do nhu cầu tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường. Hợp tác xã đã được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên, phân phối theo kết quả lao động và theo cổ phần, mỗi xã viên có quyền như nhau đối với công việc chung. ((Đảng Cộng Sản Việt Nam, văn kiện ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội-1996)) điều này cho thấy, kết cấu bên trông của sở hữu tập thể đã thay đổi phù hợp với thực tiễn ở nước ta hiện nay.
C. Kết luận
Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan phổ biến hình thành từ những cấu trúc và thuộc tính bên trong vốn có tự thân của tất cả các sự vật, hiện tượng trong bản thân thế giới khách quan… Do đó trong hoạt động thực tiễn phân tích từng mặt độc lập tạo thành mâu thuẫn cụ thể để nhận thức được bản chất khuynh hướng vận động, phát triển của sự vật hiện tượng.
Cần nắm vững nguyên tắc để giải quyết mâu thuẫn. Đó là sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập diễn ra theo quy luật phá vỡ cái cũ để thiết lập cái mới tiến bộ hơn. Vì vậy, trong đời sống xã hội,mọi hành vi đấu tranh cần được coi là chân chính khi nó thúc đẩy sự phát triển.
Trong thời kỳ chuyển nền kinh tế ở Việt Nam từ kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo hướng XHCN.Chủ chương lãnh đạo của Đảng là rất đúng đắn. Tuy nhiên trong thực hiện còn nhiều thiếu sót,mâu thuẫn giữa các vấn đề nảy sinh. Nhưng những mâu thuẫn đòi hỏi chúng ta giải quết, coa như thế nền kinh tế mới phát triển theo đúng nghĩa đổi mới của nó.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10879.doc