MỞĐẦU
Ngày nay ngành công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ, nhờđó các mô
hình dự báo thời tiết số trị cũng phát triển. Cùng với sự phát triển của mô hình
số, dự báo tổ hợp đã và đang trở nên rất phổ biến trên thế giới. Bản chất của
dự báo tổ hợp là sử dụng kết quả từ nhiều dự báo thành phần khác nhau để
đưa ra một kết quả dự báo tối ưu nhất. Tuy nhiên, phương pháp cụ thểđể tạo
ra các thành phần dự báo và cách tổng hợp kết quả của chúng lại có thể rất
khác nhau. Dự báo tổ hợp đã có một quá trình phát triển tương đối lâu dài kể
từ những công trình đầu tiên của Lorenz (1963, 1965) đề cập đến tầm quan
trọng của của điều kiện ban đầu đối với kết quả tích phân của các mô hình.
Cho đến nay, dự báo tổ hợp đã được phát triển và ứng dụng rất đa dạng tại
nhiều nơi và cho các mục đích khác nhau.
Phần lớn các hệ thống dự báo tổ hợp nghiệp vụ trên thế giới đều dựa trên
phương pháp tạo nhiễu động ban đầu và tích phân mô hình số trị với các
trường ban đầu đó để tạo nên tổ hợp dự báo. Chính vì những lý do trên, việc
nghiên cứu ứng dụng dự báo tổ hợp dựa trên phương pháp tạo nhiễu ban đầu
với mô hình sốđể dự báo đường đi của bão được đặt ra trong luận văn là phù
hợp và khả thi với điều kiện hiện nay. Cụ thể, nội dung luận văn là nghiên
cứu dự báo tổ hợp bằng phương pháp nuôi những dao động phát triển nhanh
của mô hình RAMS để tạo ra trường khí tượng ban đầu, các trường ban đầu
này sẽđược đưa vào mô hình RAMS dự báo hạn 72 giờ, các kết quả dự báo
được tổ hợp bằng cách lấy trung bình đơn giản và sử dụng để dự báo bão.
Dựa trên những mục tiêu và nội dung của luận văn sẽđược bố cục thành
các phần sau:
MỞĐẦU
CHƯƠNG I:
TỔNG QUAN PHƯƠNG PHÁP DỰ BÁO TỔ HỢP
CHƯƠNG 2:
MÔ HÌNH DỰ BÁO THỜI TIẾT QUY MÔ VỪA RAMS VÀ
ÁP DỤNG DỰ BÁO QUỸĐẠO BÃO TRÊN BIỂN ĐÔNG
CHƯƠNG 3:
THỬ NGHIỆM DỰ BÁO QUỸĐẠO BÃO BẰNG PHƯƠNG
PHÁP NUÔI NHƯNG DAO ĐỘNG PHÁT TRIỂN NHANH
CỦA MÔ HÌNH RAMS
KẾT LUẬN
MÔ HÌNH DỰ BÁO THỜI TIẾT QUY MÔ VỪA RAMS VÀ ÁP DỤNG DỰ BÁO QUỸĐẠO BÃO TRÊN BIỂN ĐÔNG
83 trang |
Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 1922 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mô hình dự báo thời tiết quy mô vừa rams và áp dụng dự báo quỹ đạo bão trên biển đông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ai số dự báo cho toàn bộ tập
mẫu khoảng 800 trường hợp bão trong các năm 2004, 2005, 2006, 2007, 2008
đã được mô phỏng theo hai phương án (bảng 2.1).
+ Chạy mô hình RAMS có cập nhật số liệu địa phương (Rams)
+ Chạy mô hình RAMS vừa cài xoáy giả, vừa cập nhật số liệu địa
phương (RamsBog).
Bảng 2.1. Kết quả sai số vị trí dự bão theo 2 phương án Rams và RamsBog
HanDB RAMS (km) RAMSBOG (km)
6 113 135
12 145 199
18 182 279
24 220 344
30 250 394
36 280 428
42 306 457
48 339 469
54 363 480
60 393 486
66 419 499
72 441 521
42
Kết quả từ bảng 2.1 cho thấy dự báo của mô hình RAMS đối với các
cơn bão hoạt động trên Biển Đông có sai số tương đối lớn, cụ thể đối với hạn
dự báo 24, 48 và 72 giờ lần lượt là 220, 339 và 441 km. Còn đối với trường
hợp có sử dụng phương pháp tạo xoáy giả, kết quả của phương pháp này cho
sai số khoảng cách lớn hơn so với trường hợp không cài xoáy lần lượt là 344,
469 và 521 km với hạn dự báo là 24, 48 và 72 giờ.
2.3 PHƯƠNG PHÁP TẠO NHÂN BAN ĐẦU VÀ NUÔI NHIỄU TRÊN MÔ
HÌNH RAMS.
Trong luận văn này tác giả chọn phương pháp tổ hợp 1 chiều sử dụng
phương pháp nuôi những dao động phát triển nhanh. Mô hình dự báo số được
giả thiết là hoàn hảo và sai số dự báo chỉ do điều kiện ban đầu gây nên. Do
đó, điểm mấu chốt trong phương pháp này là tìm phương pháp tạo ra tập hợp
các trường ban đầu khác nhau từ một trường phân tích ban đầu cho mô hình
dự báo số. Theo lý thuyết (trình bày ở phần 1.2.1), nhân ban đầu tạo ra bằng
phương pháp dự báo trễ có cấu trúc động lực phát triển của độ tán tổ hợp lớn
hơn so với nhân ngẫu nhiên. Vì vậy, trong luận văn này tác giả sử dụng
phương pháp dự báo trễ để tạo ra nhân ban đầu.
2.3.1 Tạo nhân ban đầu
Trong luận văn này, tác giả tạo nhân ban đầu bằng phương pháp dự báo
trễ, nội dung của phương pháp này như sau:
o Sử dụng số liệu phân tích của những obs 48,42,36,30 giờ trước
thời điểm dự báo.
o Tích phân dự báo tới 24 giờ trước khi dự báo
o Tìm hiệu của các tích phân này từng đôi một
o Chuẩn hóa lại các nhiễu ban đầu này (D1, D2,…,D6)
D* = S.D
43
Ở đây
PCS /
N
np
P
N
TT 1
2
850850
Với: N là số điểm lưới, T p850 , T n850 : là giá trị dương và âm của
1 cặp dự báo của trường nhiệt độ tại các mực 850mb, C là hệ
số điều chỉnh (chọn theo kinh nghiệm) tác giả chọn C=1.2
}D5
}D6
(T-48) (T-42) (T-36) (T-30) (T-24)
Hình 2.3: Cách tạo nhân ban đầu trước khi nuôi nhiễu
}D3
}D4
}D1
}D2
Kết quả của phương pháp tạo nhân ban đầu này là tác giả đã tạo được 6
nhân ban đầu (hình 2.3) cho mỗi trường hợp dự báo bão. Như vậy, trong thử
nghiệm này, mỗi cơn bão tác giả cần phải tạo ra 6 nhân với mỗi nhân tương
ứng với hiệu của 2 dự báo trễ sau khi đã chuẩn hóa. Ví dụ: để có nhân ban đầu
D1, cần chuẩn bị số liệu tại các obs trước thời điểm làm dự báo 48 (T-48) giờ
và 42 giờ (T-42). Sau đó đưa các số liệu này vào tích phân đến cùng thời điểm
trước khi làm dự báo 24 giờ (T-24). Tiếp theo, sử dụng công thức chuẩn hóa
để tạo ra nhân ban đầu D1. Làm tương tự như vậy, sẽ tạo ra 6 nhân ban đầu là
D1, D2, D3, D4, D5 và D6. Những nhân ban đầu này sẽ được dùng cho
44
phương pháp nuôi để tìm ra những dao động phát triển nhanh của mô hình dự
báo.
2.3.2 Nuôi những dao động phát triển nhanh
Sử dụng phương pháp nuôi những dao động ban đầu để tìm ra nhiễu
phát triển nhất cho trường ban đầu của các cơn bão thử nghiệm. Phương pháp
này dựa trên ý tưởng của 2 tác giả Toth and Kanay (Breeding of Growing
Model viết tắt BGM). Nội dung của phương pháp này như sau:
a/ Tạo một nhân ban đầu bất kỳ và chuẩn hóa như đã trình bày ở trên
b/ Cộng và trừ nhiễu đã chuẩn hóa với trường phân tích, sử dụng điều kiện
biên cập nhật của NCEP và tích phân mô hình 6 giờ với hai trường ban
đầu này.
c/ Lấy hiệu của 2 trường trường dự báo để được nhiễu mới D ở thời điểm t+6
d/ Chuẩn hóa nhiễu này theo công thức
D* = S.D
Ở đây
PCS /
N
np
P
N
TT 1
2
850850
Với: N là số điểm lưới, , T p850 T n850 : là giá trị dương và âm của 1
cặp dự báo của trường nhiệt độ tại các mực 850mb, C là hệ số
điều chỉnh (chọn theo kinh nghiệm) tác giả chọn C=1.2
e/ Lặp lại từ bước b/ cho tới thời điểm T00 (hình 2.4) ta tìm được nhiễu phát
triển nhanh đối với mô hình dự báo (hình 2.5).
45
Hình 2.4: Phương pháp nuôi mode phát triển
Hình 2.5: Các cặp nhiễu dùng trong dự báo tổ hợp
Sau 24 giờ nuôi, 6 giờ chuẩn hóa 1 lần ta tìm được những dao động phát triển
nhanh cho mô hình dự báo. Mỗi nhân ban đầu ở trên sau khi nuôi sẽ tạo ra 1
nhiễu mới. Đây là một mode phát triển nhanh của mô hình RAMS. Nhiễu này
sẽ được cộng và trừ với trường phân tích kiểm tra để tạo ra 2 trường ban đầu.
Trong luận văn này, do tác giả chọn số nhân ban đầu là 6 vì vậy các trường
ban đầu được tạo ra sẽ là 12. Kết hợp với trường phân tích kiểm tra, ta thu
được sẽ là 13 trường ban đầu. 13 trường ban đầu này được đưa vào mô hình
46
RAMS để tích phân dự báo hạn 72 giờ, kết quả ta sẽ thu được 13 trường dự
báo (các dự báo thành phần) tương ứng với 13 trường đầu vào. Tìm tâm bão
của 13 trường này và tổ hợp bằng cách lấy trung bình, cho ta dự báo tổ hợp vị
trí tâm bão. Như vậy, để dự báo 72 giờ cho 7 cơn bão, không kể trường hợp
tạo nhân ban đầu cho mỗi cơn bão, khối lượng tích phân mô hình để ra được
sản phẩm tổ hợp là khá lớn 7x13=91 lần tích phân mô hình hạn dự báo 72 giờ.
47
CHƯƠNG 3
THỬ NGHIỆM DỰ BÁO QUỸ ĐẠO BÃO BẰNG PHƯƠNG PHÁP
NUÔI NHƯNG DAO ĐỘNG PHÁT TRIỂN NHANH CỦA MÔ HÌNH
RAMS
3.1 MÔ TẢ TẬP SỐ LIỆU NGHIÊN CỨU
Trong nghiên cứu này, các trường phân tích và dự báo 6 giờ một của
mô hình toàn cầu GFS với độ phân giải ngang 1x1 độ kinh vĩ sẽ được sử dụng
làm điều kiện ban đầu và điều kiện biên cho mô hình RAMS. Với miền tính
toán như hình 2.1, tác giả đã thử nghiệm với 7 cơn bão và áp thấp nhiệt đới
(xoáy thuận nhiệt đới, XTNĐ) hoạt động trên biển Đông trong mùa bão năm
2006. Danh sách các cơn bão được liệt kê trong bảng 3.1
B¶ng 3.1. Danh sách các trường hợp bão và áp thấp nhiệt đới được lựa chọn
thực hiện thử nghiệm.
Tên bão và
ATNĐ
Thời điểm tiến
hành dự báo
Vĩ
độ
Kinh
độ STT
Vmax
(kt)
CHANCHU 1 00Z - 13/05/2006 13.3 120.6 50
PRAPIROON 2 00Z - 31/07/2006 15.4 122.8 25
XANGSAGE 3 00Z - 27/09/2006 12.5 125.5 90
CHEBI 4 00Z - 10/11/2006 16.1 127.2 55
DURIAN 5 00Z - 01/12/2006 13.6 120.3 75
UTOR 6 00Z – 11/12/2006 13.3 118.4 75
CIMARON 7 00Z - 28/10/2006 14.3 128.2 65
48
3.2 NUÔI NHIỄU PHÁT TRIỂN NHANH CỦA MÔ HÌNH RAMS
Theo nghiên cứu của Zhou và Chen, 2005 [96] về dự báo tổ hợp xoáy thuận
nhiệt đới dùng mô hình chính áp cho khu vục tây bắc Thái Bình Dương là chỉ
cần sử dụng nhân ban đầu của trường gió (u,v) và trường nhiệt (t) là đủ. Nên
các nhân ban đầu này được đưa vào chu trình nuôi để tìm ra các dao động
phát triển nhanh của mô hình RAMS. Dưới đây, tác giả trình bày kết quả tạo
nhân ban đầu và nuôi những dao động phát triển nhanh của mô hình RAMS.
Nhân ban đầu cho trường gió và nhiệt.
Nhân ban đầu được tạo ra bằng phương pháp dự báo trễ đã được trình
bày trong phần 2.4.1.
Hình 3.1: Trường t (độ C), u (m/s), v (m/s) của nhân D1
a
c
c
a
b
b
Hình 3.2: Trường t (độ C), u (m/s), v (m/s) của nhân D3
Để tạo nhân ban đầu cho cơn bão Chan chu tại thời điểm 7h ngày
13/05/2006, tác giả đã sử dụng số liệu GFS tại thời điểm (T-48), (T-42), (T-
36), (T-30), sau đó tích phân các số liệu tại các thời điểm này đến (T-24), tìm
hiệu các trường nhiệt, gió ở các mực tại thời điểm (T-24) từng đôi một và
49
chuẩn hóa. Kết quả sẽ nhân được 6 nhân ban đầu là D1, D2, …, D6. Trường
gió, nhiệt của nhân D1, D3 được thể hiện trên hình (hình 3.1).
Đối với trường nhiệt độ của nhân D1 (hình 3.1a) ta thấy các tâm cao
xảy ra mạnh chủ yếu nằm ở phía bắc của Việt Nam, trong khi đó ta quan sát
trường nhiệt độ của nhân D3 (hình 3.2a) thì những tâm cao này diễn ra ở một
phần phía tây bắc Mianma và những tâm thấp nằm ở miền trung Việt Nam,
quần đảo Philippin và một phần của nước Úc.
Trường gió u của nhân D1 (hình 3.1b) có tâm cao ở phía tây và tây bắc,
nhưng đối với nhân D3 (hình 3.2b) thì trường gió lại có tâm thấp ở phía Nam
của bản đồ. Trường gió v của nhân D1 (hình 3.1c) có các tâm cao chủ yếu ở
khu vực Việt Nam, Trung Quốc và một phần của nước Úc, trong khi đó
trường gió v của nhân D3 (hình 3.2c) lại có tâm cao ở tại Indonexia, Malayxia
và nước Úc.
Qua phân tích các trường gió và nhiệt tại mực 850mb của 2 nhân D1 và
D3 ta thấy: Nhiễu của mỗi trường khí tượng ở mỗi mực, đều có các biến động
khác nhau, các biến động này được sinh ra bởi sai số của các dự báo tại các
thời điểm trước đó.
50
Nuôi những dao động phát triển nhanh của mô hình RAMS
Hình 3.3. Chu trình nuôi 24 giờ của phương pháp BGM cho cơn bão Chan
chu 7h ngày 13/5/2006
Đưa lần lượt các nhân ban đầu D1, D2, …, D6 vào chu trình nuôi
những dao động phát triển nhanh của RAMS (hình 3.3) có thời hạn nuôi 24
giờ với khoảng cách của mỗi lần nuôi là 6 giờ.
Quá trình nuôi dao động phát triển nhanh của mô hình RAMS với
trường nhiệt, gió của nhân D1 của cơn bão Chan chu như sau: cộng, trừ
trường nhiệt, gió ở các mực của nhân D1 với trường nhiệt, gió của các mực
của trường GFS 00h ngày 12/05/2006 (T-24), kết quả tạo ra 1 cặp trường dự
báo mới. Tích phân cặp trường dự báo này tới thời điểm 06h ngày 12/05/2006
(T-18), tìm hiệu của cặp dự báo tại (T-18) và chuẩn hóa theo công thức trình
bày ở phương pháp BGM. Trường nhiệt, gió đã được chuẩn hóa này được
cộng và trừ với trường nhiệt, gió của trường GFS tại 12 h ngày 12/05/2006
(T-12), tích phân cặp này tới 18h ngày 12/05/2006 (T-06), đưa kết quả dự báo
tại (T-12) hạn 6 giờ của trường nhiệt, gió đã tìm hiệu và chuẩn hóa cộng với
trường nhiệt, gió của trường GFS tại (T-6). Tiếp tục tích phân cặp nhiễu tại
(T-6), tìm hiệu và chuẩn hóa trường nhiệt, gió ở các mực ta có được trường
nhiệt, gió của nhân D1 (hình 3.5) và cộng trừ nhân D1 với trường nhiệt, gió
51
của trường GFS tại 00 h ngày 13/05/2006 (T00), 2 trường mới được tạo ra
này được xem như là 2 thành phần dự báo.
Hình 3.4: Trường t (độ C), u (m/s), v (m/s) của nhân D1 tại thời điểm T-12 giờ
a
a
b
b
c
c
Hình 3.5: Trường t (độ C), u (m/s), v (m/s) của nhân D1 tại thời điểm T00 giờ
Phân tích trường nhiệt và gió của nhân D1 tại T-12 giờ trước thời điểm
dự báo, trên hình 3.4 các tâm cao ở phía bắc vẫn được duy trì tuy nhiên các
tâm này mở rộng hơn, trong khi đó trên Biển Đông lại hình thành những tâm
thấp mới. Tiếp tục nuôi nhân D1 tới thời điểm T00 (hình 3.5), các tâm cao ở
phía bắc Việt Nam vẫn được duy trì, tâm thấp mới sinh ra trong quá trình nuôi
dao động so với thời điểm T=-12 giờ trên Biển Đông đã bị giảm. Sau một chu
trình nuôi ta tìm được dao động phát triển nhanh của mô hình RAMS đối với
nhân D1.
52
c b a
Hình 3.6: Trường t (độ C) ,u (m/s) ,v (m/s) của nhân D3 tại thời điểm T=-12 giờ
b a c
Hình 3.7: Trường t (độ C) ,u (m/s) ,v (m/s) của nhân D3 tại thời điểm T=00 giờ
Tương tự như trường nhiệt độ và gió của nhân D1, trường nhiệt độ
(hình 3.6a) của nhân D3 sau một chu trình nuôi 24 giờ, các tâm cao ở phía bắc
và tây bắc Việt Nam, tâm thấp ở phía Đông Trung Quốc và ở quần đảo
Philippin đã thu hẹp so với trường nhiệt độ tại thời điểm T=-12 (hình 3.7 a).
Các thành phần u, v của trường gió (hình 3.7 b,c) nhân D3 lại cho thấy các
tâm cao ở khu vực phía Đông bắc Việt Nam có xu hướng lùi về phía nam và
yếu đi.
Để thấy vai trò của quá trình trước và sau khi nuôi nhiễu, ta tìm hiệu
của trường gió và nhiệt độ của nhân D1 và nhân D3 tại T=00 trừ đi trường
gió, nhiệt được tạo bởi phương pháp dự báo trễ (nhân ban đầu), kết quả được
biễu diễn ở hình 3.8 và hình 3.9:
53
b a c
Hình 3.8: Biến động của Trường t (độ C) ,u (m/s) ,v (m/s) của nhân D1
a b c
Hình 3.9: Biến động của Trường t (độ C) ,u (m/s) ,v (m/s) của nhân D3
Đối với trường nhiệt, và trường gió v của 2 nhân D1 và D3 đều cho
vùng biến động mạnh tại khu vực phía bắc Việt Nam (hình 3.8a, hình 3.9a,
hình 3.8c, hình 3.9c).
Trong khi biến động của trường nhiệt, và trường gió v của 2 nhân D1
và D3 có vùng biến động mạnh ở khu vực Thái Lan và Mianma (hình 3.8b,
hình 3.9b).
Từ phân tích trên cho thấy, các nhân ban đầu đã thay đổi trong quá
trình nuôi và nó trở thành các mode phát triển của mô hình RAMS.
54
3.3 DỰ BÁO TỔ HỢP QUỸ ĐẠO BÃO BẰNG PHƯƠNG PHÁP NUÔI
NHỮNG DAO ĐỘNG PHÁT TRIỂN NHANH CỦA MÔ HÌNH RAMS.
Kết quả dự báo tổ hợp quỹ đạo của 7 cơn bão (bảng 3.1) được sử dụng
để đánh giá sai số của phương pháp và so sánh với các dự báo khác. Để thấy
rõ hiệu quả của phương pháp tổ hợp dưới đây sẽ trình bày kết quả dự báo quỹ
đạo của 2 cơn bão điển hình Chan chu 13/05/2006 và Prapiroon ngày
31/07/2006.
3.3.1 Cơn bão Chan chu (12-17/5/2006)
Diễn biến của cơn bão Chan chu
Đây là cơn bão rất mạnh, hình thành từ phía Đông Philipin, trưa ngày
12/5 vượt qua Philipin vào Biển Đông. Bão di chuyển nhanh theo hướng Tây
Tây Bắc. Sáng 15/5, khi đến khoảng kinh tuyến 115 độ kinh đông bão đổi
hướng di chuyển nhanh về phía Bắc (hình 3.10). Chiều tối ngày 17/5 bão đổ
bộ vào đất liền tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc).
Hình 3.10. Quỹ đạo thực của bão Chan chu (Nhật bản)
55
Phân tích hình thế synop cơn bão Chan chu
Ngày 14 tháng 5 năm 2006 bão Chan chu đã mạnh tới 2 cấp so với
ngày 13, từ cấp 10, lên cấp 12, lúc 00z ngày 14/5/2006 vị trí tâm bão ở vào
khoảng 14.0 độ vĩ bắc; 117.6 độ kinh đông.
Hình 3.11: Bản đồ phân tích mặt đất 00z ngày 14/5/2006
Trên bản đồ phân tích mặt đất 00z ngày 14 tháng 5 năm 2006 (Hình
3.11) ta thấy một áp cao lạnh lục địa đang bao trùm toàn bộ Trung Quốc với
đường đẳng áp khép kín ở trung tâm áp cao lạnh này lên tới 1030mb. Lưỡi áp
cao lạnh này đã ảnh hưởng đến Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ và một số nơi thuộc
Trung Trung Bộ và phía bắc Biển Đông.
Hình 3.12: Bản đồ phân tích mực 850mb 00z ngày 14/5/2006
56
Trên bản đồ phân tích AT-850 (Hình 3.12) thể hiện rất rõ sự khống chế
của lưỡi áp cao lạnh lục địa với các nơi trên đất liền nước ta và khu vực bắc
Biển Đông. Với đường khép kín 156 (dam) ở trung tâm trong tháng 5, chứng
tỏ đây là đợt hoạt động mạnh của áp cao lạnh lục địa trong giai đoạn này.
Qua phân tích các bản đồ phân tích mặt đất và AT-850 lúc 00z ngày
14/5/2006 (hình 3.12) ta thấy bão Chan chu đang nằm ở phía Đông Nam của
lưỡi áp cao lạnh lục địa với trường gió Đông Bắc thịnh hành trên toàn bộ khu
vực phía Đông Nam Trung Quốc đến hết khu vực bắc biển Đông.
Hình 3.13: Bản đồ phân tích mực 500mb 00z ngày 14/5/2006
Bản đồ phân tích AT-500 (Hình 3.13) phân tích được một lưỡi áp cao
cận nhiệt đới với đường bao quanh là 584 (dam), tuy nhiên trong lưỡi áp cao
này lại phân thành hai trung tâm, một vùng có trung tâm ở vào khoảng 150N -
1050E, một ở khu vực phía đông Philippin với trục của áp cao cận nhiệt đi qua
bắc Trung Bộ, trong khi đó bão Chan chu lại nằm ở phía dưới trường yên của
áp cao này.
Cùng với đó trên khu vực 108 – 1120E; 30 – 350N cũng thể hiện khá rõ
một trục rãnh.
57
Hình 3.14: Ảnh mây vệ tinh 00z ngày 14/5/2006
Ảnh mây vệ tinh 00z ngày 14/5/2006 (Hình 3.14) thể hiện rất rõ sự hoạt
động của áp cao cận nhiệt đới với trường yên nằm ở phía bắc Philippin, sự lấn
xuống của áp cao lục địa đã bao trùm toàn bộ khu vực Bắc Bộ và bắc Biển
Đông, đồng thời cũng cho ta thấy phạm vi và cường độ của bão Chan chu
trong thời điểm này là rất mạnh.
Với phân bố các trường khí tượng từ mặt đất lên 5km như đã phân tích
ở trên ta thấy có 2 khả năng cho sự di chuyển của bão Chan chu trong thời
gian tương lai: Khả năng 1: bão sẽ phá vỡ trường yên của áp cao cận nhiệt ở
mực 500mb và di chuyển lên phía bắc, với trường hợp này bão sẽ xâm nhập
và cuốn hút mạnh khối không khí lạnh tầng thấp dẫn đến khả năng bão sẽ suy
yếu cường độ trong thời gian tương lai; Khả năng 2: bão không phá vỡ trường
yên trên mực 500mb mà sẽ đi theo dòng dẫn của rìa đông nam của bộ phận áp
cao cận nhiệt phía Tây kết hợp với trường gió Đông bắc của áp cao lạnh do đó
bão sẽ di chuyển chủ yếu về phía Tây, với trường hợp này do hoạt động ở
trong vùng biển sâu, đang trong giai đoạn trẻ nên khả năng bão sẽ giữ cường
độ hoặc tiếp tục mạnh lên.
58
Hình 3.15: Ảnh mây vệ tinh 00z ngày 15/5/2006
Thực tế 00z ngày 15/5/2006 ta thấy: bão Chan chu tiếp tục mạnh thêm
và cường độ của nó cũng đã vượt cấp 12, bão dịch chuyển chủ yếu theo
hướng Tây Tây Bắc, ảnh mây vệ tinh (Hình 3.15) cho thấy tâm bão rất nhỏ và
sắc nét, chứng tỏ cường độ bão rất mạnh, vị trí lúc 7h sáng ở vào khoảng 14,1
độ vĩ bắc; 115,3 độ kinh đông, và lúc này nó chỉ còn cách bờ biển các tỉnh
Quảng Ngãi - Phú Yên khoảng 680 km về phía đông, như vậy bão đã di
chuyển trong 24 giờ trước theo khả năng thứ 2 là nhiều hơn.
Hình 3.16: Bản đồ phân tích mặt đất 00z ngày 15/5/2006
59
Trên bản đồ phân tích mặt đất (hình 3.16) Áp cao lục địa dịch chuyển
ra phía đông, cường độ suy yếu chậm với vùng trung tâm ở phía Tây Bắc đến
Bắc so với vị trí của bão. Nói chung, hình thế tầng thấp ít biến đổi so với 24
giờ trước.
Hình 3.17: Bản đồ phân tích mực 500mb 00z ngày 15/5/2006
Trên mực 500mb (hình 3.17) ta thấy áp cao cận nhiệt nhánh phía Tây
đã suy yếu hoàn toàn; phía nam Trung Quốc trục rãnh gió tây hoạt động
nhưng không mạnh với điểm nam nhất của rãnh ở khoảng 27 độ vĩ bắc, 100
độ kinh đông, nằm khá xa so với vị trí của bão, đồng thời ảnh mây vệ tinh 00z
ngày 15/5/2006 cho ta thấy áp cao cận nhiệt đới hầu như lùi hẳn ra phía đông
của quần đảo Philippin, toàn bộ hoàn lưu bão thể hiện rộng trên cả biển
Đông. Với các hình thế synop ở tầng thấp và cao như phân tích lúc 00z ngày
15/5/2006 chúng ta thấy có 2 khả năng có thể xảy ra đối với quỹ đạo của bão
trong thời gian tới. Khả năng thứ nhất: bão sẽ di chuyển theo nội lực của nó
lên phía Bắc hoặc tây bắc, trường hợp này bão sẽ tương tác với khối cao áp
lục địa do đó cường độ bão có khả năng suy yếu. Trường hợp 2, bão sẽ chịu
tác động của trường gió Đông Bắc ở tầng thấp, bão sẽ di chuyển theo hướng
Tây. Với hình thế phân tích trên bão có khả năng sẽ di chuyển theo trường
hợp 2 (gần giống như di chuyển của bão ở 24 giờ trước đây). Thực tế di
60
chuyển của bão Chan chu trong ngày 15/5/2006 đã có sự thay đổi không như
kết quả phân tích bản đồ synop thời điểm 00z ngày 15/5/2006. Bão đã dừng
lại không di chuyển tiếp theo hướng tây tây bắc mà đổi hướng di chuyển lên
phía bắc với tốc độ khoảng 10-15km một giờ và tiếp tục giữ cường độ mạnh
(cấp TYPHOON-4) tới 06z ngày 16/5/2006 mới giảm đi một cấp còn
TYPHOON-3.
61
Kết quả dự báo tổ hợp và đánh giá sai số
Hình 3.18. Dự báo tổ hợp 72 giờ quỹ đạo bão bằng mô hình RAMS từ
7h ngày 13/05/2006
Quỹ đạo dự báo kiểm tra: đường nét đứt có chấm tròn; Quỹ đạo dự báo có đưa
những dao động phát triển nhanh vào trường ban đầu: đường nét liền mỏng (12
đường); Quỹ đạo dự báo tổ hợp: đường nét liền có chấm tròn; Quỹ đạo thực (Nhật
bản): đường nét liền có hình tam giác.
Đã tiến hành thử nghiệm phương pháp nuôi những dao động phát triển
nhanh và dự báo quỹ đạo bão Chan chu 3 ngày từ 7h (giờ Việt Nam) ngày
13/05/2006 tới 7h ngày 16/05/2006.
Dự báo bằng phương pháp tổ hợp đối với cơn bão Chan chu được trình
bày ở hình 3.18, cặp dự báo thành phần tổ hợp có xu hướng tán về 2 phía của
quỹ đạo thực và chúng đã bao trùm được quỹ đạo thực và quỹ đạo dự báo
kiểm tra. Tổ hợp 12 thành phần và quỹ đạo dự báo kiểm tra bằng phương
pháp lấy trung bình kết quả thu được: Đối với trường hợp dự báo kiểm tra,
mô hình RAMS cho kết quả dự báo tốc độ di chuyển trong 42 giờ đầu chậm
(SSDOC<0) và hướng di chuyển lệch về phía phải so với quỹ đạo thực của
62
bão (SSNGANG>0), 30 giờ sau tốc độ di chuyển nhanh (SSDOC>0), hướng
di chuyển lệch về phía trái so với thực tế (SSNGANG<0).
Bảng 3.2: Bảng sai số khoảng cách (SSKC), sai số dọc (SSDOC) và sai số
ngang (SSNGANG) của dự báo tâm bão bằng mô hình RAMS khi không nuôi
những dao động phát triển nhanh (dự báo kiểm tra viết tắt CF) và khi nuôi
những dao động phát triển nhanh(BGM).
(Thời điểm dự báo 7h ngày 13/05/2006)
SS KC
(km)
SS DOC
(km)
SS NGANG
(km) Hạn dự
báo CF BGM CF BGM CF BGM
6 114 63 -113 -62 15 13
12 160 67 -160 -60 15 29
18 198 70 -176 -67 90 -20
24 168 36 -92 -25 140 27
30 183 86 -75 -43 167 74
36 176 107 -74 -52 159 94
42 150 123 -74 -56 130 110
48 168 147 165 125 27 76
54 186 133 181 127 -43 40
60 219 128 215 124 -44 35
66 250 133 246 118 -42 61
72 167 93 154 78 -66 50
Phương pháp nuôi những dao động phát triển nhanh cho kết quả dự báo
quỹ đạo bão tốt hơn so với trường hợp dự báo kiểm tra về cả tốc độ di
chuyển, hướng di chuyển và sai số khoảng cách. Cụ thể trường hợp nuôi
những dao động phát triển nhanh cải thiện được sai số khoảng cách là 132, 21
và 74 km với hạn dự báo 24, 48 và 72 h. Trong khi đó tốc độ di chuyển của
bão được dự báo chính xác hơn, giảm sai số 70, 40 và 76 km hạn 24, 48, 72
giờ với dự báo kiểm tra.
Đặc biệt sau khi dự báo được sự đổi hướng của quỹ đạo bão trước 48
tiếng, hướng di chuyển cho hạn dự báo tiếp theo hướng di chuyển dự báo ổn
định (song song với đường quỹ đạo thực thực) so với đường dự báo kiểm tra.
63
3.5.2 Cơn bão Prapiroon (31/07/2006-3/8/2006)
Diễn biến của cơn bão Prapiroon
Đêm ngày 31/7 rạng sáng ngày 1/8 một áp thấp nhiệt đới vượt qua
Philipin vào Biển Đông, hồi 1h sáng ngày 1/8 vị trí trung tâm ở vào khoảng
16-17 độ vĩ Bắc, 119-120 độ kinh Đông, sức gió mạnh nhất vùng gần trung
tâm cấp 7, giật trên cấp 7, di chuyển ổn định theo hướng Tây Tây Bắc 15-
20km/h, trưa ngày 1/8 áp thấp nhiệt đới mạnh lên thành bão. Bão tiếp tục di
chuyển theo hướng Tây Tây Bắc 10-15km/h và mạnh thêm, đến chiều tối
ngày 2/8 đạt đến cấp 12, giật trên cấp 12, tối ngày 3/8 đổ bộ vào phía Tây
tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc), suy yếu dần và tiếp tục di chuyển theo hướng
giữa Tây Tây Bắc. Bão đã gây gió mạnh cấp 6, cấp 7, giật trên cấp 7 ở phía
Bắc vịnh Bắc Bộ; cấp 5, giật cấp 7 ở vùng ven biển tỉnh Quảng Ninh- Hải
Phòng (hình 3.19). Các nơi thuộc phía Đông Bắc Bộ và Thanh Hóa có mưa
vừa, có nơi mưa to.
Hình 3.19. Quỹ đạo thực của bão Chan chu (Nhật bản)
Phân tích Synop tổng quát trong các ngày thử nghiệm dự báo:
Bão Prapiroon hình thành từ một áp thấp nhiệt đới ở phía đông
Philippin. Ở các tầng từ mặt đất tới 500 mb hình thế chủ đạo ảnh hưởng, chi
phối tới hoạt động của bão trong những ngày này là áp cao cận nhiệt đới và
dải hội tụ.
64
Hình 3.20: Bản đồ phân tích mặt đất 00z ngày 01/08/2006
Hình 3.21: Bản đồ phân tích mực 500mb 00z ngày 01/08/2006
Hình 3.22: Bản đồ phân tích mặt đất 00z ngày 02/08/2006
Hình 3.23: Bản đồ phân tích mực 500mb 00z ngày 02/08/2006
Ngày 01/8/2006 áp cao cận nhiệt đang trong quá trình suy yếu chậm
(trước ó áp cao cận nhiệt đới rất mạnh với đường 592dam khống chế, có 01
trung
đ
tâm trên khu vực Thượng Hải) (hình 3.21), ngày 02 và 03/8 áp cao cận
nhiệt phát triển trở lại với lưỡi cao di chuyển dần sang phía tây, trục của áp
cao này ít thay đổi (hình 3.23). Dải hội tụ nhiệt đới tồn tại trong suốt quá trình
hoạt động của bão Prapiroon và có trục tương đối ổn định (hình 3.20, hình
3.22). Đó là nguyên nhân chính làm cho bão hoạt động và có hướng di chuyển
ổn định.
65
Kết quả dự báo tổ hợp và đánh giá sai số
Hình 3.24. Dự báo 72 giờ quỹ đạo bão bằng mô hình RAMS 7 giờ ngày
31/07/2006
Quỹ đạo dự báo kiểm tra: đường nét đứt có chấm tròn; Quỹ đạo dự báo nuôi
những dao động phát triển nhanh: đường nét liền mỏng (12 đường); Quỹ đạo dự
báo tổ hợp: đường nét liền có chấm tròn; Quỹ đạo thực ( Nhật bản): đường nét liền
có hình tam giác
Phân tích bản đồ synop cho thấy bão di chuyển ổn định như trên, nhưng
khi sử dụng mô hình RAMS để dự báo cho cơn bão Prapiroon ngày 31/7/2006
với hạn dự báo 72 giờ, Ở bảng 3.3, dự báo kiểm tra cho sai số khoảng cách rất
lớn khoảng từ 200 đến 300 km cho dự báo hạn 72h. Tốc độ của bão di chuyển
nhanh (trên 200 km) với hạn dự báo từ 12 đến 54 giờ, hướng di chuyển tại các
thời đoạn dự báo rất lớn ví dụ hạn dự báo từ 48 đến 54 giờ sai số ngang của
thời điểm nay lên tới 287 km.
Trong khi đó sai số của trường hợp nuôi những dao động phát triển
nhanh cho kết quả sai số khoảng cách nhỏ chỉ trong khoảng 150 đến 250 km
66
hạn 72 giờ, tốc độ di chuyển chậm, sát với quỹ đạo thực hơn so với quỹ đạo
kiểm tra và có hướng di chuyển ổn định trong suốt quá trình dự báo.
Bảng 3.3: Bảng sai số khoảng cách (SSKC), sai số dọc (SSDOC) và sai số
ngang (SSNGANG) của dự báo tâm bão bằng mô hình RAMS khi không nuôi
những dao động phát triển nhanh (dự báo kiểm tra viết tắt CF) và khi nuôi
những dao động phát triển nhanh(BGM).
(Thời điểm dự báo 7h ngày 31/07/2006)
SS KC
(km)
SS DỌC
(km)
SS
NGANG
(km)
H
báo
ạn dự
CF
BG
M CF
BG
M CF
BG
M
6 245 147 -47 -44 -241 -141
12 191 149 191 136 10 -63
18 328 169 280 150 170 77
24 268 134 235 71 128 113
30 306 149 271 119 142 90
36 290 153 284 125 56 87
42 373 232 288 147 238 180
48 316 237 304 227 87 66
54 352 212 290 144 -200 -155
60 235 145 183 127 -148 -71
66 293 192 120 30 -267 -190
72 320 143 136 -106 -289 -96
phương pháp nuôi những
dao độ
cứu (hình 3.25) và
tiến hành đánh giá sai số khoảng cách dựa trên 7 cơn bão.
3.5.3. Đánh giá khả năng dự báo bão bằng
ng phát triển nhanh trên toàn bộ tập mẫu.
Dựa trên bộ tập mẫu của các cơn bão nghiên cứu, tác giả đưa ra dự báo
quỹ đạo bão bằng mô hình RAMS của 7 cơn bão nghiên
67
a: Dự báo tổ hợp 72 giờ quỹ đạo bão Durian
7 giờ ngày 01/12/2006
b: Dự báo tổ hợp 72 giờ quỹ đạo bão Prapiroon
7h ngày 31/07/2006
c: Dự báo tổ hợp 72 giờ quỹ đạo bão Utor
7h ngày 11/12/2006
d: Dự báo tổ hợp 72 giờ quỹ đạo bão Chan chu
7h ngày 13/05/2006
e: Dự báo tổ hợp 72 giờ quỹ đạo bão Xangsane
7h ngày 27/09/2006
f: Dự báo tổ hợp 72 giờ quỹ đạo bão Cimaron
7h ngày 28/10/2006
68
g: Dự báo tổ hợp 72 giờ quỹ đạo bão Chebi
7h ngày 11/11/2006
Hình 3.25. Dự báo 72 giờ quỹ đạo bão bằng mô hình RAMS của 7
cơn bão nghiên cứu
Quỹ đạo dự báo kiểm tra: đường nét đứt có chấm tròn; Quỹ đạo dự báo nuôi những dao động phát triển
nhanh: đường nét liền mỏng (12 đường); Quỹ đạo dự báo tổ hợp: đường nét liền có chấm tròn; Quỹ đạo thực
( Nhật bản): đường nét liền có hình tam giác
Nhận xét: Từ hình 3.26 cho thấy kết quả dự báo bão bằng phương pháp
tổ hợp được cho là tốt với những cơn bão Durian (hình 3.25a), Prapiroon
(hình 3.25b), Utor (hình 3.25c), Chan chu (hình 3.25d), Cimaron (hình 3.25f)
và Chebi (hình 3.25g). Trong khi đó kết quả dự báo thành phần của cơn
Xangsane (hình 3.25e) chưa bao được quỹ đạo thực của cơn bão, nguyên nhân
có thể là do số thành phần tham gia tổ hợp chưa đủ lớn (các trung tâm lớn
thường sử dụng 50 thành phần).
B¶ng 3.4 tr×nh bµy kÕt qu¶ sai sè kho¶ng c¸ch trung b×nh toµn bé dung
l−îng mÉu đối với 7 cơn bão năm 2006. H×nh 3.25 lµ ®å thÞ biÓu diÔn gi¸ trÞ
sai sè t−¬ng øng cña b¶ng 3.4
69
B¶ng 3.4. Sai sè kho¶ng c¸ch trung b×nh (MPE) cña toµn bé tËp mÉu øng víi
tõng ph−¬ng ¸n thö nghiÖm.
MPE
H¹n
Dự báo bằng
phương pháp BGM
Dự báo kiểm tra
6 72 0 7
12 5 5 7 7
18 3 5 10 10
24 1 4 10 13
30 0 4 12 16
36 9 5 13 16
42 1 8 15 17
48 7 3 13 20
54 8 3 14 23
60 5 6 14 26
66 4 2 17 30
72 3 4 15 32
0
50
100
150
200
250
300
350
0 6 12 18 24 30 36 42 48 54 60 66 72
Sử dụng phương pháp BGM Dự báo kiểm tra
H×nh 3.26. Sai sè kho¶ng c¸ch trung b×nh (MPE) cña dự báo bằng phương
pháp BGM và dự báo kiểm tra .
70
Từ kết quả ở bảng 3.4 và hình 3.26 về sai số khoảng cách trung bình của toàn
bộ tập mẫu ứng với các phương án thử nghiệm cho thấy:
Ở những thời điểm ban đầu của dự báo, vị trí tâm bão trong các phương
án gần như nhau và tương đối sát với vị trí của vị trí tâm bão quan trắc. Sai số
khoảng cách trung bình tại từng thời điểm dự báo 12, 24 và 36 giờ của
phương án tổ hợp lần lượt là 75, 101 và 139 km. Trong khi đó ở các phương
án dự báo kiểm tra có giá trị sai số là 75, 134 và 165 km, sai số lệch nhau
không đáng kể.
Hạn dự báo tăng, sai số vị trí của các phương án dự báo kiểm tra tăng
nhanh hơn nhiều so với các phương án dự báo sử dụng phương pháp BGM.
Cụ thể ở các hạn dự báo 48, 60 và 72h phương án dự báo sử dụng phương
pháp BGM có sai số 137, 145 và 153 km trong khi đó sai số đối với phương
án dự báo kiểm tra là 203, 266 và 324 km. Như vậy ta thấy trong các trường
hợp đã xét phương án dự báo sử dụng phương pháp BGM cho sai số vị trí tâm
bão giảm gần 100 km trong các thời hạn dự báo 48, 60 và 72 giờ. Như vậy
phương pháp BGM làm tăng độ chính xác dự báo với các hạn dự báo từ 2 đến
3 ngày.
B¶ng 3.5. Sai sè dọc trung b×nh (MATE) cña toµn bé tËp mÉu øng víi tõng
ph−¬ng ¸n thö nghiÖm.
MATE
H¹n
Dự báo bằng
phương pháp BGM
Dự báo kiểm tra
6 -43 -3
12 7 2 -2 -2
18 7 4 -2
24 0 6 -2
30 1 8 -1
36 9 3 -1 1
42 0 5 -3
71
48 2 7 5 8
54 9 3 2 5
60 2 5 4 6
66 5 2 -4
72 1 -1 -6
-60
-40
-20
0
20
40
60
80
100
0 6 12 18 24 30 36 42 48 54 60 66 72
Sử dụng phương pháp BGM Dự báo kiểm tra
H×nh 3.27. Sai sè dọc trung b×nh (MATE) cña dự báo bằng phương pháp
BGM và dự báo kiểm tra .
Xét sai số dọc trung bình của 7 cơn bão, dự báo kiểm tra cho sai số dọc
thấp hơn so với phương án tổ hợp trong 42 giờ đầu, trong 24 giờ tiếp theo dự
báo kiểm tra lại cho kết quả sai số dọc lớn hơn so với dự báo tổ hợp thể hiện ở
bảng 5 và hình 27. Với sai số ngang trung bình, dự báo bằng phương pháp
BGM cho kết quả lệch về phía phải của cơn bão, trong khi dự báo kiểm tra
cho kết quả lệch phải trong 42 giờ đầu và lệch về phía trái của cơn bão trong
các giờ tiếp theo (bảng 3.6) và hình (3.28).
72
B¶ng 3.6. Sai sè ngang trung b×nh (MCTE) cña toµn bé tËp mÉu øng víi tõng
ph−¬ng ¸n thö nghiÖm.
MCTE
H¹n
Dự báo bằng
phương pháp BGM
Dự báo kiểm tra
6 -18 7 -1
12 5 7
18 7 9 3 4
24 1 6 6 7
30 9 4 6 7
36 6 6 4 1
42 7 4 7 3
48 4 0 3 -3
54 3 5 -1 -7
60 4 2 -6
66 3 7 2 -4
72 2 7 2 -6
-100
-80
-60
-40
-20
0
20
40
60
80
100
0 6 12 18 24 30 36 42 48 54 60 66 72
Sử dụng phương pháp BGM Dự báo kiểm tra
H×nh 3.28. Sai sè ngang trung b×nh (MCTE) cña dự báo bằng phương pháp
BGM và dự báo kiểm tra .
73
KẾT LUẬN
Qua kết quả nghiên cứu về phương pháp nuôi những dao động phát
triển nhanh của mô hình RAMS, luận văn đã thực hiện được một số kết quả:
(1). Đã đưa ra tổng quan về hệ thống dự báo tổ hợp trên thế giới.
(2). Xây dựng được chương trình tạo ra nhân nhiễu động ban đầu bằng
phương pháp dự báo trễ và chương trình nuôi những dao động phát triển
nhanh của mô hình RAMS. Sử dụng các chương trình này để dự báo quỹ đạo
cho 7 cơn bão bằng phương pháp nuôi những dao động phát triển nhanh.
(3). Áp dụng thành công phương pháp BGM vào dự báo quỹ đạo bão
vì các dự báo thành phần của tổ hợp có độ tán rộng, tán về 2 phía của đường
quỹ đạo thực (best track) và đường dự báo kiểm tra (control forecast), nó
hoàn toàn phù hợp với lý thuyết tổ hợp của Kalnay. Phương pháp BGM cho
dự báo hạn 2,3 ngày tốt hơn hẳn so với dự báo kiểm tra (cả về hướng di
chuyển và sai số khoảng cách tâm bão).
4) Kết quả đánh giá sai số khoảng cách cho 7 cơn bão cho thấy:
Dự báo quỹ đạo bão trong 42 giờ đầu:
Sai số khoảng cách giữa quỹ đạo dự báo bằng phương
pháp BGM với quỹ đạo thực trong khoảng từ 72 đến 151 km.
Sai số khoảng cách giữa dự báo quỹ đạo bằng phương
pháp BGM với quỹ đạo dự báo kiểm tra là gần như nhau, tốc độ
di chuyển của quỹ đạo bão bằng phương pháp BGM chậm hơn
so với quỹ đạo thực, trong khi đó quỹ đạo dự báo kiểm tra nhanh
hơn so với quỹ đạo thực. Hướng di chuyển của cả 2 dự báo đều
lệch phải so với quỹ đạo thực.
74
Dự báo quỹ đạo hạn 48 giờ:
Sai số khoảng cách của quỹ đạo dự báo bằng phương pháp
BGM là 137 km so với quỹ đạo bão thực.
Sử dụng phương pháp BGM để dự báo quỹ đạo bão cho
sai số khoảng cách giảm 66 km so với dự báo kiểm tra. Hướng di
chuyển của dự báo bão quỹ đạo bằng phương pháp BGM lệch phải
so với quỹ đạo thực trong khi đó quỹ đạo của dự báo kiểm tra lại
lệch trái so với quỹ đạo thực. Tốc độ di chuyển của quỹ đạo bão
bằng phương pháp BGM giảm 35 km so với dự báo kiểm tra.
Dự báo quỹ đạo hạn 72 giờ:
Sai số khoảng cách tại thời điểm này so với dự báo kiểm
tra giảm 172 km, hướng di chuyển của dự báo quỹ đạo bão bằng
phương pháp BGM lệch phải, trong khi đó dự báo kiểm tra cho dự
báo quỹ đạo bão có xu thế lệch trái so với quỹ đạo thực. Tốc độ di
chuyển của cả 2 phương án đều hơi chậm so với quỹ đạo thực.
5) Kết quả nghiên cứu có thể sử dụng thử nghiệm trong nghiệp vụ.
Phương hướng nghiên cứu tiếp: Dự báo cho nhiều trường hợp bão và xây
dựng dự báo siêu tổ hợp.
75
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1 Hoàng Đức Cường “Ứng dụng phương pháp dự báo tổ hợp cho mô hình MM5”.
Hội thảo khoa học lần thứ 9 – Viện Khí tượng Thủy văn
2 Võ Văn Hòa, 2006: Dự báo quỹ đạo xoáy thuận nhiệt đới dựa trên dự báo tổ hợp
hàng nghìn thành phần. Tạp chí KTTV, 547, tr 7-18.
3 Võ Văn Hòa, Đỗ Lệ Thủy, Nguyễn Chi Mai, 2006: “Các phương pháp tạo nhiễu
động trong dự báo tổ hợp quỹ đạo xoáy thuận nhiệt đới. Phần I: Giới thiệu phương
pháp và hướng áp dụng cho điều kiện ở Việt Nam”. Tạp chí KTTV, 541, tr 23-32.
4 Võ Văn Hòa, Đỗ Lệ Thủy, Nguyễn Chi Mai, 2006: Các phương pháp tạo nhiễu
động trong dự báo tổ hợp quỹ đạo xoáy thuận nhiệt đới. Phần II: Một số kết quả
nghiên cứu. Tạp chí KTTV, 543, tr 21-31.
5 Nguyễn Chi Mai, Nguyễn Thu Hằng, 2004: Phương pháp dự báo tổ hợp và khả
năng ứng dụng ở Việt Nam. Tạp chí KTTV, 518, tr 30-37.
6 Nguyễn Chi Mai, Nguyễn Thu Hằng, Nguyễn Phương Liên, 2004: Thử nghiệm dự
báo tổ hợp quỹ đạo bão bằng phương pháp thống kê từ dự báo của các trung tâm
quốc tế. Tạp chí KTTV, 519, tr 23-28.
7 Nguyễn Chi Mai, Nguyễn Thu Hằng, Phạm Lệ Hằng, 2004: Dự báo đường đi của
bão sử dụng thống kê tập hợp dự báo của các mô hình số trị và các trung tâm dự
báo quốc tế. Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu cơ bản, mã số 730902.
8 Đỗ Lệ Thuỷ, Võ Văn Hoà, Nguyễn Chi Mai, 2005: Dự báo tổ hợp quỹ đạo xoáy
thuận nhiệt đới dựa trên phương pháp nhiễu động trên mô hình chính áp. Báo cáo
tổng kết đề tài nghiên cứu cơ bản, mã số 732904.
9 Trần Tân Tiến, (2004), Dự báo trường khí tượng, thuỷ văn biển Đông, Báo cáo
tổng kết đề tài cấp nhà nước KC09-04.
Tiếng Anh
10 Anderson, J. L, 1996. A method for producing and evaluating probabilistic
forecasts from ensemble model integrations. J. Climate, 9, 1518-1530.
11 Anderson, J. L., 2001. An ensemble adjustment Kalman filter for data assimilation.
Mon. Wea. Rev., 129, 2884-2903.
12 ATMET (2000), RALPH dataset formats version 2: RAMS Standard Input Format
for Pressure Coordinate and Observation Data.
13 Barkmeijer, J., 1996. Constructing fast-growing perturbations for the nonlinear
regime. J. Atmos. Sci., 53, 2838-2851.
14 Barkmeijer, J., M. Van Gijzen and F. Bouttier, 1998. Singular vectors and the
76
estimates of analysis-error covariance matrix. Quart. J. Roy. Meteor. Soc., 124,
1695-1713.
15 Brankovic, C., T. N. Palmer, F. Molteni, S. Tibaldi and U. Cubasch, 2006.
Extended-range predictions with ECMWF models: Time-lagged ensemble
forecasting. Quart. J. Roy. Meteor. Soc., 116, 867-912.
16 Buizza, R., 1994. Sensitivity of optimal unstable structures. Quart. J. Roy. Meteor.
Soc., 120, 429-451.
17 Cai, M., E. Kalnay and Z. Toth, 2002. Bred vectors of the Zebiak-Cane model and
their application to ENSO prediction. J. Climate, 16, 40-56.
18 Cao, H, 2002. Memorial dynamics of systems and its applications. Chinese
Geology Press, Beijing, China, 192pp. (in Chinese)
19 Chen, J., J. Xue and H. Yang, 2003. Impact of physical parameterization schemes
on mesoscale heavy rain simulations. Acta Meteorologica Sinica, 61, 203-218.
20 Cheung, K. W. C. and J. C. L. Chan, 1999a. Ensemble forecasting of tropical
cyclone motion using a barotropic model. Part I: perturbations of the environment.
Mon. Wea. Rev., 127, 1229-1243.
21 Cheung, K. W. C. and J. C. L. Chan, 1999b. Ensemble forecasting of tropical
cyclone motion using a barotropic model. Part II: perturbations of the vortex. Mon.
Wea. Rev., 127, 2617-2640.
22 Clark, T.L., 1977: A small-scale dynamic model using a terrain-following
coordinate transformation. J. Comput. Phys., 24, 186-215.
23 Davies, H.C., 1978: A lateral boundary formulation for multi-level prediction
models. Quart. J. R. Met. Soc., 102, 405-418.
24 Du J. and M. S. Tracton, 2001. Implementation of a real-time short-range ensemble
forecasting system at NCEP: an update. Preprints, 9th Conference on Mesoscale
Processes, Ft. Lauderdale, Florida, Amer. Meteor. Soc., 355-356.
25 Du, J. and M. S. Tracton, 2001. Implementation of a real-time short-range
ensemble forecasting system at NCEP: an update. Preprints, 9th Conference on
Mesoscale Processes, Ft. Lauderdale, Florida, Amer. Meteor. Soc., 355-356.
26 Du, J., 2004. Hybrid Ensemble Prediction System: a New Ensembling Approach.
Preprints, Symposium on the 50th Anniversary of Operational Numerical Weather
Prediction, University of Maryland, College Park, Maryland, June 14-17, 2004,
Amer. Meteor. Soc., CD-ROM (paper p4.2, 5pp) . [available online:
].
27 Du, J., J. McQueen, G. DiMego, T. Black, H, Juang, E. Rogers, B. Ferrier, B. Zhou,
Z. Toth and M. S, Tracton, 2004. The NOAA/NWS/NCEP short-range ensemble
forecast (SREF) system: evaluation of an initial condition vs. multi-model physics
77
ensemble approach. Preprints (CD), 16th Conference on Numerical Weather
Prediction, Seattle, Washington, Amer. Meteor. Soc.
28 Du, J., 2005: Impact of Model Error and Imperfect Initial Condition Perturbations
on Ensemble-Based Probabilistic Forecasts: UNPREDICTABLE SPOTS.
Preprints, 17th Conference on Numerical Weather Prediction/21st Conference on
Weather Analysis and Forecasting, Washington DC., Aug. 1-5, 2005, Amer.
Meteor. Soc. (paper 15B.6) [available online
].
29 Du, J., G. DiMego, M. S. Tracton, and B. Zhou 2003. NCEP short-range ensemble
forecasting (SREF) system: multi-IC, multi-model and multi-physics approach.
Research Activities in Atmospheric and Oceanic Modelling (edited by J. Cote),
Report 33, CAS/JSC Working Group Numerical Experimentation (WGNE),
WMO/TD-No. 1161, 5.09-5.10.
30 Du, J., S. L. Mullen and F. Sanders, 1997. Short-range ensemble forecasting of
quantitative precipitation. Mon. Wea. Rev., 125, 2427-2459.
31 Durran, DR., 1981: The effects of moisture on mountain lee waves. Technical
Report Ph.D. Thesis NTIS PB82156621, Massachusetts Institute of Technology.
32 Ebert, E.E., 2001. Ability of a Poor Man's Ensemble to Predict the Probability and
Distribution of Precipitation. Mon. Wea. Rev., 129, 2461–2480.
33 Ebisuzaki, W. and E. Kalnay, 1991. Ensemble experiments with a new lagged
average forecasting scheme. WMO, Research activities in atmospheric and oceanic
modeling. Report 15, 6.31-32.
34 Ehrendorfer, M., R.M. Errico and K.D. Raeder, 1999. Singular-Vector Perturbation
Growth in a Primitive Equation Model with Moist Physics. J. Atmos. Sci., 56,
1627–1648
35 Errico, R. and D. Baumhefner, 1998. Predictability experiments using a high-
resolution limited area model. Mon. Wea. Rev., 115, 488-504.
36 Errico, R. and T. Vukicevic, 1992. Sensitivity analysis using an adjoint of the PSU-
NCAR mesoscale model. Mon. Wea. Rev., 120, 1644-1660.
37 Fischer, M., A. Joly and F. Lalaurette, 1998. Error growth and Kalman filtering
within an idealized baroclinic flow. Tellus, 50A, 596-615.
38 Grimit, E.P., and C.F. Mass, 2002. Initial Results of a Mesoscale Short-Range
Ensemble Forecasting System over the Pacific Northwest. Wea Forecasting, 17,
192–205.
39 Hamill, T. M., 2006. Ensemble-based atmospheric data assimilation. Chapter 6 of
Predictability of Weather and Climate, Cambridge Press, 124-156.
78
40 Hoffman, R. N. and E. Kalnay, 1983. Lagged average forecasting, an alternative to
Monte Carlo forecasting. Tellus, 35A, 100-118.
41 Hou, D., E. Kalnay and K. K. Droegemeier, 2001. Objective verification of the
SAMEX'98 ensemble forecasts. Mon. Wea. Rev., 129, 73-91.
42 Houtekamer, P. L., L. Lefaivre, J. Derome, H. Ritchie and H. L. Mitchell, 1996.
Asystem simulation approach to ensemble prediction. Mon. Wea. Rev., 124, 1225-
1242. verification of the SAMEX'98 ensemble forecasts. Mon. Wea. Rev., 129, 73-
91.
43 Jankov, I., W.A. Gallus, M. Segal, B. Shaw and S.E. Koch, 2005. The Impact of
Different WRF Model Physical Parameterizations and Their Interactions on Warm
Season MCS Rainfall. Wea. Forecasting, 20, 1048–1060.
44 Kalnay, E, 2003. Atmospheric modeling, data assimilation and predictability.
Cambridge University Press, 368pp.
45 Klemp, J.B. and D.K. Lilly, 1978: Numerical simulation of hydrostatic mountain
waves. J. Atmos. Sci., 35, 78-107.
46 Klemp, J.B. and DR. Durran, 1983: An upper boundary condition permitting
internal gravity wave radiation in numerical mesoscale models. Mon. Wea. Rev.,
111, 430-444.
47 Klemp, J.B. and R.B. Wilhelmson, l978a: The simulation of three-dimensional
convective storm dynamics. J. Atmos. Sci., 35, 1070-1096.
48 Klemp, J.B. and RB. Wilhelmson, 1978b: Simulations of right- and left-moving
storms produced through storm splitting. J. Atmos. Sci., 35, 1097-1110.
49 Kong, F., K. K. Droegemeier and N.L. Hickmon, 2007. Multiresolution ensemble
forecasts of an observed tornadic thunderstorm system, Part II. Mon. Wea. Rev.,
135, 759-782
50 Krishnamurti, T. N., C. M. Kishtawal, T. LaRow, D. Bachiochi, Z. Zhang, C. E.
Williford, S. Gadhil and S. Surendran, 1999. Improved weather and seasonal
climate forecasts from multimodel superensemble. Science, 285, 1548-1550.
51 Li, X., M. Charron, L. Spacek and G. Candille, 2007. A regional ensemble
prediction system based on moist targeted singular vectors and stochastic parameter
perturbations. Mon. Wea. Rev., (in press).
52 Lorenz, E. N., 1963. Deterministic nonperiodic flow. J. Atmos. Sci., 20, 130-141.
53 Lorenz, E. N., 1965. A study of the predictability of a 28-variable atmospheric
model. Tellus, 17, 321-333.
54 Lu, C., H. Yuan, B.E. Schwartz and S.G. Benjamin, 2007. Short-Range Numerical
Weather Prediction Using Time-Lagged Ensembles. Wea. Forecasting, 22, 580–
79
595.
55 Martin, A., V. Homar, L. Fita, J. M., Gutierrez, M. A.. Rodriguez and C. Primo,
2007. Geometrid vs. classical breeding of vectors: application to hazardous
weather in the Western Mediterranean. Geophysical Research Abstracts, 9,
European Geosciences Union.
56 Mclay, J. M., C. H. Bishop and C. A. Reynolds, 2007. The ensemble-transform
scheme adapted for the generation of stochastic forecast perturbations. Quart. J.
Roy. Meteor. Soc., 133, 1257-1266.
57 Mesinger, F. and A. Arakawa, 1976: Numerical methods used in atmospheric
models. GARP Publication Series, No. 14, WMO/ICSU Joint Organizing
Committee, 64 pp.
58 Mittermaier, M. P., 2007. Improving short-range high-resolution model
precipitation forecast skill using time-lagged ensembles. Qart. J. Roy. Meteor. Soc.,
submitted
59 Mu M. and W. S. Duan, 2003. A new approach to study ENSO predictability:
conditional nonlinear optimal perturbation. Chinese Sci. Bull., 48, 1045-1047
60 Mu M. and Z. Zhang, 2006. Conditional nonlinear optimal perturbations of a two-
dimensional quasi-geostrophic model. J. Atmos. Sci., 63, 1587-1604.
61 Mu, M., 2000. Nonlinear singular vectors and nonlinear singular values. Scinece in
China (D), 43, 375-385.
62 Mu, M., W. S. Duan and B. Wang, 2003. Conditional nonlinear optimal
perturbation and its applications. Nonlinear Processes in Geophysics, 10, 493-501.
63 Mullen, S. L. and D. P. Baumhefner, 1994. Monte Carlo simulation of explosive
cyclogenesis. Mon.Wea. Rev., 122, 1548-1567.
64 Mullen, S. L. and R. Buizza, 2002. The impact of horizontal resolution and
ensemble size on probabilistic forecasts of precipitation by the ECMWF ensemble
prediction system. Wea. Forecasting, 17, 173-191.
65 Mylne, K. R., Evans, R. E., and Clark, R. T., 2002: Multi-model multi-analysis
ensembles in quasi-operational medium-range forecasting. Quart. J. Roy. Meteor.
Soc., 128, 361-384.
66 Oortwijn, J. and J. Barkmeijer, 1995. Perturbations that optimally trigger weather
regimes. J. Atmos. Sci., 52, 3952-3944.
67 Orlanski, I., 1976: A simple boundary condition for unbounded hyperbolic flows. J.
Comput. Phys., 21, 251-269.
68 Ott, E., B. R. Hunt, I. Szunyogh, A. V. Zimin, E. J. Kostelich, M. Corazza, E.
Kalnay, D. J. Patil and J. A. Yorke, 2004. A local ensemble Kalman filter for
80
atmospheric data assimilation. Tellus, 56A, 415-428.
69 Palmer, T. N., R. Gelaro, J. Barkmeijer and R. Buizza, 1998. Singular vectors,
metrics and adaptive observations. J. Atmos. Sci., 55, 633-653.
70 Reynolds, C.A. and R.M. Errico, 1999. Convergence of Singular Vectors toward
Lyapunov Vectors. Mon. Wea. Rev., 127, 2309–2323.
71 Saha, S., S. Nadiga, C. Thiaw, J. Wang, W. Wang, Q. Zhang, H.M. Van den Dool,
H.L. Pan, S. Moorthi, D. Behringer, D. Stokes, M. Peña, S. Lord, G. White, W.
Ebisuzaki, P. Peng and P. Xie, 2006. The NCEP Climate Forecast System. J.
Climate, 19, 3483–3517.
72 Stensrud, D. J., J. W. Bao and T. T. Warner, 2000. Using initial condition and
model physics perturbations in short-range ensemble. Mon. Wea. Rev., 128, 2077-
2107.
73 Szungyogh, I., E. J. Kostelich, G. Gyarmati, B. R. Hunt, A. V. Zimin, E. Kalnay, D.
J. Patil and J. A.York, 2004. A local ensemble Kalman filter for the NCEP GFS
model. AMS annual meeting, Seattle, WA, Jan. 11-15.
74 Talagrand, O., R. Vautard and B. Strauss, 1997. Evaluation of probabilistic
prediction systems. Proceedings, ECMWF Workshop on Predictability, ECMWF,
1–25. [Available from ECMWF, Shinfield Park, Reading, Berkshire RG2 9AX,
United Kingdom.]
75 Tippett, M. K., J. L. Anderson, C. H. Bishop, T. Hamill and J. S. Whitaker, 2003.
Ensemble squared root filters. Mon. Wea. Rev., 131, 1485-1490.
76 Toth, Z. and E. Kalnay, 1993. Ensemble forecasting at NCEP: the generation of
perturbations. Bull. Amer. Meteor. Soc., 74, 2317-2330.
77 Toth, Z. and E. Kalnay, 1997. Ensemble forecasting at NCEP: the breeding method.
Mon. Wea. Rev., 125, 3297-3318.
78 Tracton M. S., J. Du, Z. Toth and H. Juang, 1998: Short-range ensemble
forecasting (SREF) at NCEP/EMC. Preprints, 12th Conf. on Numerical Weather
Prediction, Phoenix, Amer. Meteor. Soc., 269-272.
79 Tracton, M. S. and E. Kalnay, 1993. Ensemble forecasting at NMC: practical
aspects. Wea. Forecasting, 8, 379-398.
80 Tremback, C.J. and R. Kessler, 1985: A surface temperature and moisture
parameterization for use in rnesoscale numerical models. Preprints, 7th Conference
on Numerical Weather Prediction, 17-20 June 1985, Montreal, Canada, AMS.
81 Tremback, C.J., J. Powell, W.R. Cotton, and R.A. Pielke, 1987: The forward in
time upstream advection scheme: Extension to higher orders. Mon. Wea. Rev., 115,
540-555.
81
82
82 Tripoli, G.J., 1992: An explicit three-dimensional nonhydrostatic numerical
simulation of a tropical cyclone. Meteorol. Atmos. Phys., Springer-Verlag.
83 Tripoli, G.J., and W.R. Cotton, 1982: The Colorado State University three-
dimensional cloud/mesoscale model - 1982. Part I: General theoretical framework
and sensitivity experiments. J. de Rech. Atmos., 16, 185-220.
84 Wang, X. and C. H. Bishop, 2003. A comparison of breeding and ensemble
transform Kalman filter ensemble forecast schemes. J. Atmos. Sci., 60, 1140-1158.
85 Wang, X., C. H. Bishop and S. J. Julier, 2004. Which is better, an ensemble of
positive/negative pairs or a centered spherical simplex ensemble? Mon. Wea. Rev.,
132, 1590-1605.
86 Wang, X., T.M. Hamill, J.S. Whitaker and C.H. Bishop, 2007. A Comparison of
Hybrid Ensemble Transform Kalman Filter–Optimum Interpolation and Ensemble
Square Root Filter Analysis Schemes. Mon. Wea. Rev., 135, 1055–1076.
87 Wang, Y. and A. Kann, 2005. ALADIN-LAEF (Limited Area Ensemble
Forecasting) at ZAMG: Status and Plan. 15th ALADIN Workshop [available
online: www.cnrm.meteo.fr/aladin/meetings/Wk2005/WANG.pdf].
88 Wei, M., Z. Toth, R. Wobus and Y. Zhu, 2007. Initial perturbations based on the
ensemble transform (ET) technique on the NCEP global operational forecast
system. Tellus, (in press).
89 Wei, M., Z. Toth, R. Wobus, Y. Zhu, C. Bishop and X. Wang, 2006. Ensemble
Transform Kalman Filter-based ensemble perturbations in an operational global
prediction system at NCEP. Tellus, 58A, 28-44.
90 Whittaker, J. S. and T. M. Hamill, 2002. Ensemble data assimilation without
perturbed observation. Mon. Wea. Rev., 130, 1913-1924.
91 Wobus, R. and E. Kalnay, 1995. Three years of operational prediction of forecast
skill. Mon. Wea. Rev., 123, 2132-2148.
92 Yang, S-C., M. Cai, E. Kalnay, M. Rienecker, G. Yuan and Z. Toth, 2006. ENSO
bred vector in coupled ocean-atmospheric general circulation models. J. Climate,
19, 1422-1436.
93 Zhang, F., 2005. Dynamics and Structure of Mesoscale Error Covariance of a
Winter Cyclone Estimated through Short-Range Ensemble Forecasts. Mon. Wea.
Rev., 133, 2876–2893.
94 Zhang, F., C. Snyder and J. Sun, 2004. Impacts of initial estimate and observation
availability on convective-scale data assimilation with an ensemble Kalman filter.
Mon. Wea. Rev., 132, 1238–53.
95 Zhang, Z. and T. N. Krishnamurti, 1999. A perturbation method for hurricane
83
ensemble prediction. Mon. Wea. Rev., 127, 447-469.
96 Zhou, C.L.Chen. Ensemble forecasting of tropical cyclone motion using a
baroclinic model. Atmos. Sci., vol 23, no 3,2006, 342-354
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVThS Cong Thanh.pdf