LỜI MỞ ĐẦU
1.SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Từ tháng 9 năm 2008, cuộc khủng hoảng tài chính – tín dụng ở Mỹ diễn biến ngày càng phức tạp, khó lường và đã lan rộng trở thành cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Tình hình đó cùng với những khó khăn, yếu kém nội tại của nền kinh tế trong nước và thiên tai liên tiếp đã tác động tiêu cực đến nhiều lĩnh vực của nền kinh tế nước ta. Trong lĩnh vực tài chính, điều may mắn của nền kinh tế Việt Nam là thị trường tài chính của chúng ta chưa hoàn toàn hội nhập với thị trường tài chính quốc tế. Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam vẫn hoạt động với hiệu quả cao, cụ thể là kết quả kinh doanh 6 tháng đầu năm rất khả quan, nợ xấu vẫn nằm trong tầm kiểm soát. Tiêu dùng nội địa vẫn tăng trưởng trên 20%. Đây là những tiền đề cơ bản để Việt Nam nhanh chóng vượt qua suy thoái kinh tế. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay, Việt Nam đã gia nhập WTO và từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, các nguồn vốn nước ngoài đang tiến tới chảy vào Việt Nam. Điều này vừa có thuận lợi là cung cấp nguồn vốn cho đầu tư phát triển của đất nước nhưng cũng có khả năng gây ảnh hưởng mạnh đến thị trường tài chính của chúng ta khi khủng hoảng tài chính toàn cầu tương tự như cuộc khủng hoảng tài chính tín dụng nhà ở Mỹ xuất hiện. Hơn nữa việc hội nhập vào nền kinh tế quốc tế đã đặt ra những thách thức cho các Ngân hàng Thương mại, đó là sự tham gia của các tập đoàn tài chính đa quốc gia có thế mạnh về tài chính, kỹ thuật và công nghệ. Trước tình hình đó bắt buộc các ngân hàng thương mại có những bước cải cách trong định hướng phát triển chiến lược kinh doanh của mình. Khi nền kinh tế đã được hội nhập, nhất là việc Việt Nam cam kết mở cửa thị trường tài chính trong nước theo các cam kết đối với các đối tác nước ngoài thì việc các ngân hàng thương mại nước ngoài có đủ nội lực, đó là vốn và công nghệ sẽ thao túng thị trường tài chính Việt Nam. “Làm thế nào để có đủ sức đứng vững khi có sự cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại nước ngoài”, câu hỏi này luôn là những thách thức đối với các Ngân hàng thương mại Việt Nam, và phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ đã được các Ngân hàng thương mại lựa chọn là xu hướng phát triển lâu dài và bền vững.
Trong khi các tổ chức tài chính trên thế giới ở đa số các nước đang điêu đứng với khủng hoảng tài chính toàn cầu thì các ngân hàng và quỹ đầu tư tuân thủ luật Hồi Giáo lại hầu như tránh được những rắc rối từ các khoản nợ xấu . Các chuyên gia trong lĩnh vực tài chính Hồi Giáo cho rằng , cách thức kinh doanh của họ đã che chắn người áp dụng khỏi những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng hiện nay. Những ngân hàng lớn như HSBC của Anh hay Citibank của Mỹ đều đã thiết lập các chi nhánh ngân hàng Hồi giáo và những chi nhánh này đều ăn nên làm ra. Một số ngân hàng đã thành công với tài chính Hồi giáo còn muốn mở rộng phương thức kinh doanh này vượt xa khỏi thị trường tự nhiên ở những nước theo đạo Hồi. Họ tin rằng, hơn khi nào hết, lúc này đang có một thị trường cho những người thuộc các tôn giáo khác chia sẻ những giá trị mà kinh tế học Hồi giáo đem lại. Điều này gợi ra cho tôi một suy nghĩ, với tình hình nội tại của Việt Nam như thế , liệu chúng ta có thể áp dụng mô hình tài chính Hồi Giáo nhằm tạo ra loại hình dịch vụ bổ sung, một cách thức cung cấp dịch vụ mới nhằm đa dạng hoá sản phẩm tài chính hay không?Việc nghiên cứu tìm hiểu mô hình tài chính Hồi giáo cùng với điều kiện để áp dụng được mô hình này ở Việt Nam là một vấn đề đáng quan tâm. Tuy nhiên, xét thấy đây là một vấn đề hoàn toàn mới ở Việt Nam, việc ứng dụng mô hình này cũng cần có một lộ trình rõ ràng, cụ thể. Do đó trong phạm vi nghiên cứu này, tôi chỉ xin đề cập đến một mảng nhỏ đối với hệ thống ngân hàng thương mại, đó là mảng dịch vụ bán lẻ vì đây là dịch vụ có khả năng tăng trưởng nhanh nhất trong hệ thống tài chính tại Việt Nam. Nếu như mô hình này có thể áp dụng được, việc nhân rộng nó là vấn đề tương đối dễ dàng hơn. Xuất phát từ nguyên nhân này, tôi đã mạnh dạn đi vào nghiên cứu đề tài :
MÔ HÌNH NGÂN HÀNG HỒI GIÁO - HƯỚNG ĐI MỚI ĐỂ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG BÁN LẺ TẠI VIỆT NAM
2.MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Mục đích nghiên cứu là tìm hiểu mô hình ngân hàng Hồi Giáo, ưu điểm và nhược điểm của mô hình này cùng với thực trạng hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam, đặc biệt là mảng dịch vụ ngân hàng bán lẻ, để từ đó xây dựng một hệ thống sản phẩm ngân hàng bán lẻ mới bổ sung vào hệ thống sản phẩm, dịch vụ ngân hàng truyền thống đang được áp dụng hiện tại. Hệ thống sản phẩm mới này được xây dựng và hoạt động theo nguyên tắc riêng của ngân hàng Hồi giáo. Mục đích cuối cùng của tôi là giới thiệu cách thức xây dựng sản phẩm ngân hàng bán lẻ theo mô hình ngân hàng Hồi giáo nhằm đa dạng hóa sản phẩm ngân hàng truyền thống chứ không tham vọng đưa ra mô hình sản phẩm mới thay thế hệ thống sản phẩm truyền thống hiện tại.
3.ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là mô hình ngân hàng Hồi Giáo cùng các sản phẩm đi kèm. Phạm vi ứng dụng của mô hình này rất rộng, tuy nhiên trong nghiên cứu này, tôi chỉ giới hạn trong việc ứng dụng mô hình ngân hàng Hồi giáo vào mảng dịch vụ bán lẻ của ngân hàng thương mại nhằm đa dạng hoá dịch vụ do ngân hàng cung cấp.
Tài liệu nghiên cứu tổng hợp trong và ngoài nước từ năm 2000 đến nay.
4.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Về phương pháp nghiên cứu, có rất nhiều cách tiếp cận nhưng tôi sử dụng phương pháp thống kê - mô tả, phương pháp phân tích - tổng hợp, so sánh - đối chiếu, diễn dịch – qui nạp và phương pháp quan sát từ thực tiễn để khái quát bản chất của các vấn đề mà đề tài nghiên cứu.
Bên cạnh trình bày lý thuyết tôi cũng kết hợp ***g ghép thực tiễn vào trong đó để cho thấy sự hài hoà của đề tài và làm cho những vấn đề mang tính chất lý thuyết trở nên sống động và hấp dẫn hơn. Với phương pháp trình bày này, tôi hi vọng sẽ mang đến cho người đọc sự thoải mái cũng như dễ dàng cảm nhận những nội dung đang được trình bày.
Nguồn tài liệu phục vụ cho nghiên cứu : bao gồm nguồn tài liệu tham khảo trong nước và nước ngoài ( sách vở, báo chí, internet .)
Đề tài được trình bày theo kết cấu sau:
Phần mở đầu nói về sự cần thiết của đề tài, mục đích nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, tiếp theo là phần nội dung chính với các chương được trình bày cụ thể như sau:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về ngân hàng Hồi giáo và dịch vụ ngân hàng bán lẻ
- Chương 2 : Nghiên cứu mô hình ngân hàng Hồi giáo của một số nước trên thế giới cùng tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu– Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
- Chương 3 : Thực trạng hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam cùng dịch vụ ngân hàng bán lẻ Việt Nam.
- Chương 4 : Giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ Việt Nam theo mô hình ngân hàng Hồi giáo. .
Kế đến là phần kết luận và kiến nghị .Kết thúc đề tài là phần danh mục tài liệu tham khảo nhằm giúp người đọc cần nghiên cứu sâu hơn có thể tham khảo thêm, thêm vào đó các phụ lục giúp người đọc dễ dàng tra cứu.
84 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1701 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mô hình ngân hàng hồi giáo - Hướng đi mới để phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
í nhân viên.
Việc áp dụng công nghệ hiện đại vào hoạt động NHBL đã giúp tăng nguồn vốn huy động lên 35- 40% tổng nguồn vốn huy động, đồng thời giúp nguồn thu ngoại tệ của bà con Việt kiều và những người xuất khẩu lao động ngày càng tăng nhanh, năm 2007 đạt 6 tỷ đô la bằng 12,5% kim ngạch xuất khẩu, năm 2008 lượng kiều hối ước đạt 8 tỷ USD bằng 12.6% kim ngạch xuất khẩu mà không cần nhiều vốn đầu tư. Tỷ trọng dịch vụ NHBL ngày càng tăng: số liệu sau đây cho thấy tỷ lệ cung cấp dịch vụ ngân hàng qua các năm: 1998 dịch vụ bán buôn chiếm tỷ trọng 52%, dịch vụ bán lẻ chiếm 48%; năm 1999 dịch vụ bán buôn chiếm 48%, dịch vụ bán lẻ chiếm 52%, năm 2000 dịch vụ bán buôn chiếm 45%, dịch vụ bán lẻ chiếm 55%, năm 2001 dịch vụ bán buôn chiếm 42%, dịch vụ bán lẻ chiếm 58%, năm 2002 dịch vụ bán buôn chiếm 39%, dịch vụ bán lẻ chiếm 69% (2), điều này cho thấy xu thế phát triển dịch vụ NHBL đã tăng dần qua các năm.
Thu nhập từ dịch vụ NHBL ngày càng chiếm tỷ trọng cao:Theo thống kê giữa 2 khối NHTMNN và NHTMCP dưới đây cho thấy tỷ trọng và lợi nhuận thu từ dịch vụ NHBL có sự khác biệt và đều có xu hướng tăng lên.
Bảng 3.1. Tỷ trọng doanh thu và lợi nhuận từ dịch vụ NHBL của ngân hàng thương mại nhà nước
Đơn vị tính: %
Nội dung
Năm 2000
Năm 2005
Doanh thu từ dịch vụ NHBL/tổng doanh thu
35,5
45,8
Lợi nhuận thu từ dịch vụ NHBL/tổng lợi nhuận (trước thuế)
26,75
36,4
Bảng 3.2. Tỷ trọng doanh thu và lợi nhuận từ dịch vụ NHBL khối ngân hàng thương mại cổ phần
Đơn vị tính : %
Nội dung
Năm 2000
Năm 2005
Doanh thu từ dịch vụ NHBL/tổng doanh thu
65,5
82,8
Lợi nhuận thu từ dịch vụ NHBL/tổng lợi nhuận (trước thuế)
58,6
79,3
“Nguồn : Tạp chí Thị trường tài chính - Tiền tệ số 12/2005”
3.2.2. Kết quả đạt được và những tồn tại trong quá trình phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ
3.2.2.1.Kết quả đạt được
Việt Nam có tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 7% - 8%/năm, thu nhập đầu người năm 2007 đạt 835 đô la, vốn đầu tư nước ngoài (FDI) năm 2007 đạt 20,3 tỷ đô la, năm 2008 ước đạt 64 tỷ đô la, giải ngân đạt 11,5 tỷ, vốn đầu tư gián tiếp (FII) năm 2007 đạt 7,5 tỷ đô la, vốn đầu tư toàn xã hội chiếm 40,4% GDP. Cùng với quá trình đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, nhu cầu vay vốn hơn 350.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa, hơn 17.200 hợp tác xã các loại, 320.000 tổ hợp tác và hơn 40 triệu người dân ở tuổi trưởng thành là một thị trường vô cùng to lớn để các ngân hàng mở rộng dich vụ NHBL. Theo đó sẽ có nhiều cơ hội để các ngân hàng thương mại phát triển dịch vụ NHBL như dịch vụ tiền gửi với nhiều hình thức như tiết kiệm lãi suất bậc thang, tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm rút lãi và gốc linh hoạt, tiết kiệm kết hợp với bảo hiểm; dịch vụ tín dụng tiêu dùng như cho vay tiêu dùng, cho vay trả góp, cho vay thuê mua, cho vay mua ô tô, cho vay mua nhà đất,...; dịch vụ thanh toán như dịch vụ séc, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng...; dịch vụ đầu tư như quản lý tài sản, quản lý đầu tư...
Trong những năm qua, dịch vụ ngân hàng bán lẻ đạt được những kết quả đáng kể. Xét trên góc độ tài chính và quản trị ngân hàng, dịch vụ NHBL mang lại nguồn thu ổn định, chắc chắn, hạn chế rủi ro tạo bởi các nhân tố bên ngoài và đây là lĩnh vực ít chịu ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế. Ngoài ra, dịch vụ NHBL giữ vai trò quan trọng trong việc mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo nguồn vốn trung và dài hạn chủ đạo cho ngân hàng, góp phần đa dạng hóa hoạt động ngân hàng.
Đối với khách hàng, dịch vụ NHBL đem đến sự thuận tiện, an toàn, tiết kiệm cho khách hàng trong quá trình thanh toán và sử dụng nguồn thu nhập của mình. Mục tiêu của dịch vụ NHBL là khách hàng cá nhân, nên dịch vụ thường đơn giản, dễ thực hiện và thường xuyên, tập trung vào dịch vụ tiền gửi, tài khoản, vay vốn, mở thẻ tín dụng, nhu cầu về dịch vụ ngày càng cao. Theo các chuyên gia của học viện công nghệ Châu Á AIT..., dịch vụ NHBL là cung ứng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng tới từng cá nhân riêng lẻ, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua mạng lưới chi nhánh, khách hàng có thể tiếp cận trực tiếp với sản phẩm và dịch vụ ngân hàng thông qua các phương tiện điện tử viễn thông và công nghệ thông tin.
Nhờ ứng dụng công nghệ thông tin trong dịch vụ NHBL giúp đẩy nhanh quá trình luân chuyển tiền tệ, tận dụng tiềm năng to lớn về vốn để phát triển kinh tế, đồng thời giúp cải thiện đời sống dân cư, hạn chế thanh toán bằng tiền mặt, góp phần tiết kiệm chi phí và thời gian cho cả ngân hàng và khách hàng.
3.2.2.2.Tồn tại
Để phát triển dịch vụ NHBL thì ngoài những kết quả đạt được cũng còn nhiều tồn tại cần khắc phục.
Thứ nhất, sản phẩm dịch vụ ngân hàng còn mang tính truyền thống, nghèo nàn về chủng loại, chất lượng dịch vụ thấp, tính tiện ích chưa cao, chưa định hướng theo nhu cầu khách hàng. Mặt khác, ở các nước phát triển họ có vài ba nghìn sản phẩm khác nhau còn ngân hàng Việt Nam được gọi là mạnh lắm thì cũng chỉ có được dăm ba trăm loại. Chính vì thế, dịch vụ ngân hàng ở Việt Nam còn nghèo nàn, sơ khai và là ‘mảnh đất hoang’ cho bất cứ ai có công cụ, có đầu óc và nhanh nhạy đều cơ hội để khai phá. Hiện các NHTM ở nước ta mới chỉ cung cấp 36 dịch vụ, trong đó có 17 nhóm dịch vụ, cho doanh nghiệp là 19 dịch vụ; mặt khác dịch vụ cho vay mua nhà, mua xe và dịch vụ cho vay mua trả góp của các NHTM Việt Nam còn hạn chế, dư nợ mới chỉ chiếm khoảng 10% tổng dư nợ, nguyên nhân là do thu nhập của người dân chưa cao, nguồn thu nhập thiếu ổn định và đặc biệt lãi suất cho vay của ngân hàng thường thả nổi, đây là một khuyết điểm của hệ thống ngân hàng thông thường mà ngân hàng Hồi giáo có thể khắc phục được. Các ngân hàng huy động vốn chủ yếu dưới dạng tiền gửi chiếm 94% tổng nguồn vốn huy động và cấp tín dụng là hoạt động chủ yếu của ngân hàng, chiếm trên 80% tổng thu nhập, lãi suất tiền gửi tăng lên làm cho lãi suất cho vay cũng tăng, tạo thêm gánh nặng về chi phí cho các doanh nghiệp phụ thuộc nặng nề vào nguồn vay từ ngân hàng. Hậu quả là, ngân hàng vẫn tiếp tục cho vay để nuôi nợ, dẫn đến tình trạng mất vốn ngày càng lớn.
Thứ hai, tính cạnh tranh chưa cao, chưa có sự liên kết giữa các ngân hàng trong việc phát hành các loại thẻ và khai thác dịch vụ mới dẫn đến lãng phí trong việc đầu tư mua sắm máy móc cũng như chưa tạo sự thuận lợi cho khách hàng.
Thứ ba, các NHTM Việt Nam chưa có chiến lược tiếp thị cụ thể trong hoạt động NHBL, thiếu đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp về tiếp thị dịch vụ NHBL, tỷ lệ khách hàng cá nhân tiếp cận và sử dụng dịch vụ ngân hàng vẫn còn ở mức khiêm tốn.
Kế đến, nhân sự của ngành ngân hàng hiện nay đang thiếu những nguồn nhân lực có trình độ cao (thiếu cán bộ quản lý cấp cao theo thông lệ quốc tế, thiếu chuyên gia trong lĩnh vực mới như kiểm toán, kiểm soát nội bộ, thiết kế sản phẩm mới hoặc quản trị rủi ro...). Ngoài ra, đối với những loại hình dịch vụ - sản phẩm mới, gắn bó chặt chẽ với tất cả hoạt động kinh doanh của ngân hàng hiện có nên nó đòi hỏi nhân sự phải có một kiến thức tổng hợp và kinh nghiệm trong lĩnh vực ngân hàng mới có thể thiết kế được.
Như vậy, với những hạn chế như đã trình bày ở phần trên, chúng ta sẽ đi
tìm hiểu đâu là những nguyên nhân dẫn đến sự tồn tại này?
3.2.2.3. Một số nguyên nhân dẫn đến tồn tại của dịch vụ NHBL VN
Ba yếu tố chính dẫn đến sự hạn chế của các dịch vụ NHBL Việt Nam:
Nét đặc thù của dịch vụ ngân hàng bán lẻ là nhắm tới đối tượng khách hàng cá nhân, song người dân trong nước chưa biết nhiều về dịch vụ ngân hàng nói chung và dịch vụ NHBL nói riêng; cũng như thói quen sử dụng tiền mặt của người dân vẫn còn phổ biến.
Môi trường pháp lý về hoạt động ngân hàng chưa thực sự phù hợp với tình hình thực tế. Các văn bản pháp quy về hoạt động ngân hàng chủ yếu được xây dựng trên cơ sở các giao dịch thủ công với nhiều loại giấy tờ và quy trình xử lý nghiệp vụ phức tạp. Trong khi đó, phát triển dịch vụ NHBL đòi hỏi phải áp dụng công nghệ mới và quy trình nghiệp vụ hiện đại, nhanh chóng. Với tốc độ phát triển dịch vụ như hiện nay, nhiều quy định pháp lý đã tỏ ra bất cập và không bao hàm hết các mặt nghiệp vụ, gây khó khăn cho các NHTM khi muốn triển khai dịch vụ mới.
Về phía các NHTM, các ngân hàng chưa xây dựng được chiến lược đồng bộ về phát triển dịch vụ NHBL, sản phẩm và dịch vụ NHBL còn đơn điệu, chưa đáp ứng nhu cầu khách hàng, bộ máy tổ chức chưa xây dựng theo định hướng khách hàng, chưa có đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp về nghiệp vụ NHBL, mạng lưới kênh cung cấp dịch vụ còn mỏng, nền tảng công nghệ và khả năng ứng dụng công nghệ mới còn hạn chế.
3.3.Việt Nam và hệ thống ngân hàng thương mại dưới tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu
3.3.1.Tác động của cuộc khủng hoảng đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và hệ thống ngân hàng thương mại nói riêng
Do vị thế đặc biệt của Mỹ là trung tâm tài chính lớn nhất của thế giới, là nhà đầu tư hàng đầu vào Việt Nam hiện nay, chiếm tới 1/5 tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm của Việt Nam, cũng là nơi có lượng Việt kiều đông nhất trên thế giới, nên xét về mặt tổng thể, khủng hoảng tài chính Mỹ cũng ảnh hưởng nhất định đến nền kinh tế Việt Nam, bởi lẽ:
Thứ nhất, về xuất khẩu, tính đến cuối năm 2008, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 58,5 tỷ USD, tăng 34% so với cùng kỳ năm trước nhưng chủ yếu là do tăng giá. Những tháng cuối năm 2008, xuất khẩu sẽ bị giảm sút do các nước Mỹ, EU, Asean, Úc,… bị ảnh hưởng nặng nề nhất của cuộc khủng hoảng tài chính cũng sẽ ảnh hưởng đến xuất khẩu của năm 2009 và do đó nguồn thu ngoại tệ của Việt Nam cũng sẽ bị suy giảm.
Thứ hai, cuộc khủng hoảng có thể làm giảm sút mạnh nguồn kiều hối từ Mỹ và cả từ các nước khác có chịu ảnh hưởng trực tiếp từ cuộc khủng hoảng này do phần đông Việt kiều sinh sống ở Mỹ, EU bị giảm thu nhập.
Thứ ba, đối với thu hút vốn đầu tư nước ngoài, nguồn tín dụng trên thị trường tài chính quốc tế bị thu hẹp do các nhà đầu tư nước ngoài gặp khó khăn về tài chính và cả sự thận trọng hơn khi đưa ra những quyết định đầu tư. Điều này làm cho hoạt động đầu tư trực tiếp và gián tiếp suy giảm trên phạm vi toàn cầu và Việt Nam không phải ngoại lệ.
Thứ tư, giá xăng dầu, các nguyên vật liệu đầu vào và hàng hóa tiêu dùng nhập khẩu có xu hướng giảm, sẽ tác động giảm lạm phát, nhưng bất lợi là giảm kim ngạch xuất khẩu và tăng thâm hụt thương mại do giảm cả khối lượng và giá.
Thứ năm, cuộc khủng hoảng tài chính còn gây ra tác động khác đến khu vực thị trường chứng khoán (TTCK) ở 3 khía cạnh:
Một là, gây tâm lý lo ngại chung và sự trầm lặng, thận trọng hơn trong việc ra quyết định của các nhà đầu tư;
Hai là, có thể làm giảm lượng vốn nước ngoài đổ vào TTCK do các nhà đầu tư nước ngoài gặp khó khăn về nguồn vốn;
Ba là, có thể khiến các doanh nghiệp Việt Nam niêm yết trên TTCK gặp khó khăn trong kinh doanh, từ đó làm giảm sút lợi nhuận, kéo theo giảm sút thị giá chứng khoán của mình, tức giảm bớt sức hấp dẫn chung của TTCK với các nhà đầu tư.
Trong lĩnh vực ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước khẳng định: Không một định chế tài chính nào của Việt Nam đầu tư vào chứng khoán bất động sản tại Mỹ, và cũng không nắm giữ cổ phiếu các ngân hàng đầu tư Mỹ, các ngân hàng trong nước chủ yếu giao dịch với các ngân hàng thương mại nước ngoài, trong khi đó cuộc khủng hoảng lại tập trung chủ yếu ở các ngân hàng đầu tư… Vì vậy, hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam sẽ không chịu những ảnh hưởng trực tiếp từ khủng hoảng tài chính Mỹ. Hơn nữa, thị trường tài chính Việt Nam chưa hội nhập quá sâu nên không chịu nhiều tác động từ khủng hoảng toàn cầu. Vấn đề quan trọng là cho đến giờ, Chính phủ luôn kiểm soát tốt và chặt chẽ toàn bộ hệ thống tài chính trong nước. Còn Ngân hàng Nhà nước cũng kiểm soát được rất tốt toàn bộ hệ thống các ngân hàng thương mại trước những biến động của tài chính toàn cầu, vấn đề cốt lõi là đảm bảo được tính thanh khoản và dự phòng rủi ro của các ngân hàng thương mại trong nước. Điều này đã được Ngân hàng Nhà nước tập trung giải quyết trong suốt một năm qua, và ở vào thời điểm này, hệ thống ngân hàng trong nước đang có tính thanh khoản rất tốt.
3.3.2.Dịch vụ bán lẻ của ngân hàng thương mại Việt Nam dưới tác động của khủng hoảng
Trong thời kỳ khủng hoảng, mảng dịch vụ bán lẻ của ngân hàng cũng bị ảnh hưởng, tuy nhiên mức độ ảnh hưởng không lớn, nguyên nhân chủ yếu là do ảnh hưởng của chính sách tiền tệ trong việc chống suy thoái kinh tế chứ không phải do tác động trực tiếp của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Dịch vụ thẻ vẫn phát triển trong khi dịch vụ tín dụng có phần nào giảm sút.Trong nghiệp vụ cho vay, mặc dù ngân hàng ban hành giải pháp hỗ trợ lãi suất đối với các tổ chức, cá nhân vay vốn trung dài hạn để phát triển sản xuất kinh doanh nhưng nhìn chung tác động vẫn còn hạn chế trong giai đoạn hiện nay. Bởi lẽ ít có chủ doanh nghiệp nào dám mạo hiểm vay vốn ngân hàng trung và dài hạn để đầu tư cho một dự án khi thị trường tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ trầm lắng.
Theo thông tin từ các ngân hàng, hoạt động tín dụng trong thời gian qua đã phải thu hẹp do ngân hàng Nhà nước đưa ra chủ trương kiểm soát chặt tăng trưởng dư nợ.Mặc dù nguồn thu từ hoạt động tín dụng đã hạn chế, song thực tế cho thấy với kết quả lợi nhuận được công bố sau 9 tháng hoạt động đầu năm nay, thu từ lãi vẫn chiếm tỷ trọng trên dưới 60% tổng lợi nhuận của nhiều ngân hàng.
Ngoài ra, để gia tăng nguồn thu trong thời kỳ kinh tế khó khăn, các ngân hàng cũng thực hiện tăng phí dịch vụ cho các hoạt động trung gian như thanh toán hộ, chuyển tiền…,đồng thời thực hiện thu thêm một số mục phí mà trước đây cho khách hàng sử dụng miễn phí như phí quản lý tài khoản, phí rút tiền từ tài khoản ATM tại máy của ngân hàng liên kết khác hệ thống…, điều này cũng phần nào ảnh hưởng đến mức độ quan tâm của khách hàng vào sản phẩm, dịch vụ bán lẻ của ngân hàng.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Chương này tập trung vào việc tìm hiểu thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, trong đó đi sâu nghiên cứu quá trình phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ hiện nay. Từ đây, người đọc có thể nắm được thực trạng các sản phẩm dịch vụ bán lẻ của ngân hàng, đồng thời thấy được cơ hội khi triển khai các sản phẩm dịch vụ bán lẻ mới nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng cùng những kết quả đạt được và những tồn tại hiện có của nó. Việc nghiên cứu những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến nền kinh tế Việt Nam nói chung và hệ thống ngân hàng Việt Nam nói riêng cùng dịch vụ bán lẻ của ngân hàng tạo ra một tiền đề, một cơ sở cho việc xây dựng khung giải pháp mới nhằm hạn chế tác động của khủng hoảng.Cùng với việc nghiên cứu, tìm hiểu những ưu điểm của mô hình tài chính Hồi giáo dưới tác động của khủng hoảng đã nêu ra ở những chương trước, kết hợp với việc tìm hiểu thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay sẽ mở ra cho người nghiên cứu một hướng đi mới: đó là việc làm thế nào để có thể ứng dụng thành công mô hình sản phẩm tài chính Hồi giáo để tạo ra sản phẩm thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam nhằm phát huy tối đa tiện ích của sản phẩm. Đây sẽ là vấn đề được đề cập đến trong chương cuối cùng sau đây.
CHƯƠNG 4 :
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG BÁN LẺ VIỆT NAM THEO MÔ HÌNH NGÂN HÀNG HỒI GIÁO
4.1.Định hướng phát triển dịch vụ bán lẻ của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đến năm 2020
Theo nghiên cứu của các chuyên gia ngân hàng, tỷ lệ thu nhập từ các dịch vụ bán lẻ chiếm bình quân từ 6-12% trong tổng thu nhập của các ngân hàng, trong khi đó tỷ lệ này đối với các phát triển là 50%. Với dân số hơn 80 triệu dân của Việt Nam ngày càng có nhu cầu về dịch vụ ngân hàng bán lẻ, thì thị trường ngân hàng bán lẻ ngày càng trở nên “màu mỡ” đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam. Nắm được xu hướng tất yếu này, trong định hướng phát triển, các ngân hàng thương mại đều tập trung phát triển dịch vụ bán lẻ, trong đó đặc biệt quan tâm đến việc đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khách hàng, đồng thời hiện đại hóa hoạt động ngân hàng, làm thay đổi cơ bản cơ cấu thu nhập từ dịch vụ theo đúng định hướng của ngân hàng nhà nước. Phấn đấu đến năm 2020, ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ thiết lập xong các mối quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế, sẽ xây dựng một danh mục sản phẩm đa dạng để khách hàng tự do lựa chọn sử dụng, đáp ứng nhu cầu của tất cả thành phần dân cư, tôn giáo ở mọi nơi, trong đó việc lập ra các chi nhánh ngân hàng chuyên biệt theo nguyên tắc hoạt động được chú trọng.
Để thực hiện định hướng này đòi hỏi các ngân hàng liên tục đầu tư công nghệ hiện đại, cải tiến cơ cấu quản trị, phương thức điều hành, quản trị rủi ro, đẩy mạnh công tác tiếp thị và quảng bá sản phẩm dịch vụ, đa dạng hoá các kênh phân phối, mở rộng mạng lưới hoạt động. Vì vậy, việc đưa ra các giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ của ngân hàng thương mại Việt nam không còn là vấn đề mới mà là vấn đề tất yếu phải làm trong hoàn cảnh hiện nay.
4.2.Mô hình ngân hàng Hồi giáo - hướng đi mới phù hợp cho việc phát triển dịch vụ bán lẻ của các ngân hàng thương mại Việt Nam
4.2.1.Mô hình ngân hàng Hồi giáo phù hợp với định hướng phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ tại Việt Nam
Trong khi các quốc gia trên thế giới và Việt Nam đang phải khắc phục những hậu quả do cuộc khủng hoảng tài chính thế giới gây ra thì các ngân hàng và quỹ đầu tư tuân thủ quy tắc đạo Hồi lại tránh được những khoản nợ xấu. Các sản phẩm, dịch vụ tài chính Hồi giáo hầu như được các ngân hàng lớn trên thế giới ứng dụng tạo ra các sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của người sử dụng và ngày càng ăn nên làm ra. Trong khi đó, tại Việt Nam các sản phẩm dịch vụ tài chính do ngân hàng cung cấp lại rất đơn điệu, không đáp ứng được đa số nhu cầu của người dân. Nhiều sản phẩm được tung ra nhằm thu hút khách hàng quan tâm nhưng thực tế là có không đến 5% số đó sử dụng thực sự. Lý do là hầu hết các sản phẩm đều không bắt nguồn từ nhu cầu thực sự của người tiêu dùng. Trong 6 tháng đầu năm 2009, mặc dù tất cả các ngân hàng thương mại Việt Nam đều công bố con số lãi rất lớn, tuy nhiên số lãi này đều không xuất phát từ hoạt động kinh doanh truyền thống của các ngân hàng mà chủ yếu là do những khoản hoàn nhập dự phòng hay đầu tư chứng khoán mà ra. Do đó, việc ứng dụng mô hình tài chính Hồi giáo để tạo ra những sản phẩm, dịch vụ tài chính cho các ngân hàng thương mại Việt nam có ý nghĩa rất đặc biệt trong bối cảnh hiện nay bởi lẽ mô hình ngân hàng Hồi giáo hoàn toàn phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
Thứ nhất, trong xu thế hội nhập quốc tế như hiện nay, áp lực cạnh tranh là cực kỳ khốc liệt, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Khi mà cơ chế hoạt động là như nhau, lợi ích (lãi suất, khuyến mãi…) các ngân hàng đem đến cho khách hàng là như nhau thì việc tạo ra những sản phẩm mới thoả mãn nhu cầu của khách hàng là điều cần thiết để khẳng định sự khác biệt về chất lượng dịch vụ tài chính giữa các ngân hàng thương mại. Thật vậy, yêu cầu của khách hàng ngày nay không còn gói gọn trong việc sử dụng các dịch vụ tài chính truyền thống mà là sự đòi hỏi các giải pháp tài chính hoàn hảo, là sự tiện lợi, nhanh chóng…và điều này chỉ có được khi ngân hàng mở rộng các sản phẩm tài chính dựa trên mô hình tài chính Hồi giáo.
Thứ hai, lợi nhuận của ngân hàng thương mại Việt Nam từ các sản phẩm, dịch vụ truyền thống ngày càng sụt giảm, thậm chí là chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong các hoạt động của ngân hàng. Trong 9 tháng đầu năm, lợi nhuận của hệ thống ngân hàng thương mại chủ yếu là từ hoạt động đầu tư kinh doanh chứng khoán. Đây là một nhược điểm của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam khi chúng ta đang đi theo vết xe đổ của các nước phương Tây bởi lẽ đó chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Ngân hàng có nhiệm vụ giữ tiền của khách hàng thì không nên mạo hiểm dùng tiền đó để đầu tư vào hoạt động nhiều rủi ro như đầu tư chứng khoán. Nếu thất bại, ngân hàng sẽ mất khả năng thanh toán cho khách hàng và điều này dẫn đến những hệ luỵ cho nền kinh tế. Trong khi đó, mô hình ngân hàng Hồi giáo lại khắc phục được nhược điểm này, nó không cho phép đầu tư vào những lĩnh vực mạo hiểm, nghiêm cấm sử dụng công cụ lãi suất. Việc ứng dụng mô hình ngân hàng Hồi giáo để tạo ra các sản phẩm tài chính sẽ là một giải pháp hoàn hảo bổ sung cho các sản phẩm, dịch vụ truyền thống mà các ngân hàng thương mại hiện đang sử dụng.
4.2.2.Lợi ích đạt được khi ứng dụng mô hình ngân hàng Hồi giáo vào việc phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ tại Việt Nam
Việc ứng dụng mô hình ngân hàng Hồi giáo để tạo ra các sản phẩm tài chính trong lĩnh vực bán lẻ của ngân hàng thương mại Việt Nam mang lại những lợi ích sau:
Thứ nhất, điều kiện hiện tại của Việt Nam rất thuận lợi và có sức thu hút một bộ phận giới đầu tư Trung Đông đang trên đường tìm kiếm cơ hội đầu tư . Do đó, việc ứng dụng mô hình tài chính Hồi giáo vào hệ thống ngân hàng thương mại hiện tại sẽ tranh thủ và tận dụng được nguồn vốn đầu tư này, đây sẽ là một thuận lợi lớn cho quá trình đưa nước ta thoát khỏi suy thoái kinh tế và tiến lên trên bước đường hội nhập kinh tế toàn cầu.
Thứ hai, trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với hệ thống tài chính thế giới thì việc ứng dụng mô hình này sẽ một phần nào đó bảo vệ hệ thống ngân hàng tránh khỏi những tác động sâu rộng từ những cuộc khủng hoảng tài chính có qui mô toàn cầu. Do hệ thống ngân hàng là mạch máu của nền kinh tế nên khi hệ thống ngân hàng an toàn thì sẽ tác động tích cực đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung trong điều kiện có xảy ra khủng hoảng tài chính.
Thứ ba, trong khi ngân hàng Việt Nam đang thiếu trầm trọng những sản phẩm, dịch vụ đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người dân thì việc tạo ra những sản phẩm mới theo mô hình ngân hàng Hồi giáo sẽ tạo ra một luồng sinh khí mới cho cả ngân hàng và khách hàng. Khách hàng thì có thêm nhiều cơ hội lựa chọn những sản phẩm phù hợp với mình nhất trong khi ngân hàng có thể gia tăng nguồn thu nhập có được từ việc cung cấp các sản phẩm này.
4.2.3.Những khó khăn khi ứng dụng mô hình ngân hàng Hồi giáo vào việc phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ tại Việt Nam
Khó khăn dễ thấy nhất là đại đa số người dân Việt Nam hoàn toàn xa lạ với mô hình ngân hàng Hồi giáo. Điều này sẽ phần nào hạn chế quá trình tiếp cận với mô hình mới do đội ngũ cán bộ chuyên trách trong các ngân hàng cũng như khách hàng sử dụng chưa có một nền tảng kiến thức về loại mô hình này, do đó đòi hỏi các ngân hàng khi bắt tay vào việc ứng dụng này sẽ cần thời gian để gửi các cán bộ ra nước ngoài học tập về mô hình này. Thêm vào đó, việc tồn tại hai hệ thống luật pháp là hệ thống pháp luật Việt Nam hiện tại và hệ thống luật pháp đạo Hồi trong cùng một hợp đồng giao dịch sẽ gây nên sự xáo trộn, khó khăn trong việc giải quyết khi có tranh chấp xảy ra.
Thứ đến, các nghiệp vụ giao dịch tài chính Hồi giáo liên quan đến việc nắm giữ, quản lý hàng tồn kho là những loại hàng hoá có giá trị lớn, khối lượng lớn như bất động sản, ô tô, nhà xưởng, thành phẩm… sẽ làm tăng thêm phần công việc cho các ngân hàng thương mại trong việc quản lý hàng tồn kho.
4.3.Điều kiện cần có để ứng dụng mô hình ngân hàng Hồi Giáo ở Việt Nam
Mô hình ngân hàng Hồi giáo là một mô hình đang được sử dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia trên thế giới do tính đơn giản và hiệu quả của nó. Bất cứ quốc gia nào cũng có thể ứng dụng mô hình này do tất cả các quốc gia hiện nay đều có hệ thống ngân hàng thương mại, tuy nhiên để có thể ứng dụng được thì mỗi một quốc gia cần phải thiết lập một số nền tảng cơ bản liên quan đến yếu tố Hồi giáo, chẳng hạn như phải thành lập một uỷ ban tư vấn và giám sát luật Shariah, kế đến là gửi nhân sự sang các quốc gia đi trước học tập kinh nghiệm cũng như công tác chuyên môn.Vì vậy, Việt Nam hoàn toàn có đủ điều kiện để ứng dụng mô hình này nhằm đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng bán lẻ. Thêm vào đó, Việt Nam có một số thuận lợi để tiến hành triển khai thử nghiệm mô hình này:
Trước hết, Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á, đây là chiếc nôi hình thành của ngân hàng Hồi giáo bao gồm Malaysia, Indonesia và các nước châu Á khác. Do đó, khi Việt Nam bắt tay vào việc ứng dụng mô hình ngân hàng Hồi giáo thì chúng ta có thể học hỏi nhiều kinh nghiệm quý báu của các nước láng giềng đi trước để có thể ứng dụng mô hình một cách hoàn hảo.
Thứ hai, Việt Nam hiện nay là một mục tiêu quan tâm hàng đầu của các công ty và các tập đoàn quốc gia lớn tại khu vực Trung Đông, rất nhiều lĩnh vực, ngành nghề mà họ muốn đầu tư vào Việt Nam, trong đó lĩnh vực họ quan tâm nhất là qui hoạch đô thị và du lịch. Việt Nam được chọn là điểm đến của các nhà đầu tư Trung Đông do Việt Nam là một nền kinh tế phát triển rất nhanh, trong vài năm trở lại đây, tăng trưởng kinh tế luôn ổn định ở mức cao, chính sách đầu tư thông thoáng và minh bạch. Do đó việc xây dựng các sản phẩm dựa trên mô hình Hồi giáo tuân thủ quy tắc Shariah là một điều cần thiết trong điều kiện hiện nay.
Thứ ba, hệ thống ngân hàng đã có cuộc đổi mới toàn diện. Nhiều văn bản luật đã được ban hành một cách đồng bộ; cơ chế chính sách về hoạt động ngân hàng đã ngày một hoàn chỉnh và phù hợp với thông lệ quốc tế; khuôn khổ thể chế ngày một thông thoáng và minh bạch hơn. Những phân biệt đối xử giữa loại hình tổ chức tín dụng, tổ chức tín dụng trong nước và tổ chức tín dụng nước ngoài đã từng bước được loại bỏ, các tổ chức tín dụng đã được tự chủ và tự chịu trách nhiệm khá đầy đủ. Tính cạnh tranh của các tổ chức tín dụng được nâng cao; thị trường dịch vụ ngân hàng được phát triển an toàn và hiệu quả.
Thứ tư, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đang trên bước đường tiến tới hội nhập. Với sự tham gia và bành trướng của các ngân hàng thương mại nước ngoài trên thị trường tài chính Việt Nam, nhiều khả năng thị trường tài chính bán lẻ trong nước sẽ có sự sắp xếp lại. Để gia tăng năng lực cạnh tranh, các ngân hàng thương mại trong nước đang ra sức mở rộng quy mô hoạt động, tăng cường mạng lưới giao dịch, xây dựng nhiều sản phẩm tài chính nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng. Trong bối cảnh đó, áp dụng mô hình ngân hàng tài chính Hồi giáo nhằm đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng bán lẻ sẽ là trợ thủ đắc lực giúp tăng khả năng cạnh tranh với các đối thủ khác.
Cuối cùng, với hơn 70.000 cư dân theo đạo Hồi sinh sống tại Việt Nam nhưng không có một sản phẩm ngân hàng tài chính Hồi giáo nào đáp ứng được nhu cầu của họ. Đây là một điều kiện vô cùng thuận lợi trong bước đầu triển khai áp dụng mô hình này vì chúng ta đã có sẵn lượng khách hàng để thử nghiệm dịch vụ này. Việc xây dựng các sản phẩm ngân hàng theo mô hình tài chính Hồi giáo sẽ góp phần làm tăng doanh thu cũng như lợi nhuận cho ngân hàng do thu hút được thành phần cư dân theo đạo Hồi, một bộ phận được xem là giàu có nhờ nguồn thu từ dầu mỏ tại khu vực Trung Đông. Bộ phận này có nguồn vốn vô cùng dồi dào và hiện đang dần rút vốn đầu tư ra khỏi các nước phương Tây do bị nghi ngờ dính tới khủng bố khi đầu tư tại Mỹ và Châu Âu.
4.4.Nhận định về khả năng áp dụng mô hình tài chính Hồi giáo để xây dựng các sản phẩm ngân hàng bán lẻ tại Việt Nam
Từ những phân tích về mô hình ngân hàng Hồi giáo và thực trạng dịch vụ ngân hàng bán lẻ tại Việt Nam cho thấy sự cần thiết phải áp dụng mô hình ngân hàng Hồi giáo vào việc xây dựng các sản phẩm ngân hàng bán lẻ tại Việt Nam. Đây sẽ là một giải pháp tốt để tránh các cuộc khủng hoảng tài chính cũng như tạo ra một môi trường thuận lợi để thu hút nguồn vốn đầu tư từ khu vực Trung Đông vốn nổi tiếng giàu có đang trên đường tìm kiếm cơ hội đầu tư, ngoài ra còn làm đa dạng hoá các sản phẩm tài chính ngân hàng, khắc phục nhược điểm của các sản phẩm ngân hàng truyền thống để thoả mãn nhu cầu của đại đa số người dân, bao gồm cả những bộ phận cư dân không theo đạo Hồi. Tuy nhiên, việc áp dụng mô hình này sẽ gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại cần sự nỗ lực khắc phục và giải quyết theo một lộ trình khoa học, cụ thể.
Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam cần lập ra một kế hoạch triển khai theo từng giai đoạn cụ thể như: giai đoạn cho công tác chuẩn bị, giai đoạn vận hành thử nghiệm, giai đoạn đánh giá, bổ sung sửa đổi và rút kinh nghiệm thực tiễn đến khi đáp ứng tương đối đầy đủ yêu cầu của khách hàng. Thời gian cho 3 giai đoạn tối thiểu từ 3 đến 4 năm, giai đoạn vận hành thử nghiệm phải đảm bảo thời gian ít nhất trên 1 năm để việc đánh giá được chính xác, từ đó, giúp cho giai đoạn bổ sung sửa đổi được hoàn thiện nhanh chóng hơn và có hiệu quả cao hơn.
Tuy nhiên, với sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống ngân hàng thương mại hiện nay thì Việt Nam hoàn toàn có thể rút ngắn thời gian hoàn thiện cơ sở pháp lý, hạ tầng kỹ thuật, cơ chế giám sát và xây dựng mô hình sản phẩm ngân hàng bán lẻ Hồi giáo. Chúng ta có thể chọn lọc một số sản phẩm tài chính phù hợp với nhu cầu của người dân Việt Nam để triển khai trước. Có thể chúng ta không “bê nguyên xi” khuôn mẫu theo mô hình Hồi giáo mà chúng ta chắt lọc ưu điểm của mô hình đó để tạo ra những sản phẩm đáp ứng được nhu cầu của khách hàng Việt Nam.
4.5.Giải pháp xây dựng sản phẩm tài chính dựa trên mô hình tài chính Hồi Giáo
4.5.1.Lộ trình xây dựng sản phẩm tài chính dựa trên mô hình tài chính Hồi Giáo
Trong những năm qua, cùng với quá trình cải cách kinh tế, thị trường tài chính Việt Nam đã có những bước phát triển nhất định. Các thị trường cấu thành cơ bản của thị trường tài chính đã được hình thành và từng bước hoàn thiện. Trong hơn 9 năm lại đây, hệ thống ngân hàng đã được cơ cấu lại nhằm giảm thiểu những yếu kém của hệ thống và những sai lệch trong chính sách tín dụng. Chương trình cơ cấu lại tập trung vào việc lành mạnh hoá và tăng cường năng lực tài chính của hệ thống ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại. Hoạt động tín dụng đã được đổi mới theo hướng các tổ chức tín dụng có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong quyết định cho vay, lựa chọn khách hàng và biện pháp đảm bảo tiền vay trên nguyên tắc thương mại, đảm bảo an toàn và hiệu quả. Tuy nhiên, rủi ro tín dụng, nhất là vấn đề nợ xấu vẫn còn hiện hữu và nguy cơ tiếp tục phát sinh nợ quá hạn là khá cao do nhiều dự án đầu tư chưa được kiểm định chặt chẽ về tính hiệu quả và khả thi, trong khi quá trình cải cách các doanh nghiệp nhà nước lớn mới chỉ thực sự được triển khai từ năm 2005. Hơn nữa, trong thời gian gần đây, các ngân hàng thương mại tung ra rất nhiều sản phẩm tài chính nhằm thu hút khách hàng, tuy nhiên kết quả không khả quan do đa số đều không thoả mãn được nhu cầu của khách hàng. Do vậy, việc xây dựng những sản phẩm tài chính mới sẽ tạo ra một luồng sinh khí mới cho hoạt động của các ngân hàng, tuy nhiên việc thực hiện cần theo một lộ trình như sau:
4.5.1.1.Giai đoạn chuẩn bị và thực hiện thí điểm
Công tác chuẩn bị trước khi tung các sản phẩm tài chính theo mô hình Hồi giáo ra thị trường có vai trò rất quan trọng cho sự quản lý sau này.Công tác chuẩn bị phải được thực hiện từ khâu đơn giản nhất đến phức tạp nhất.
Nhiệm vụ của giai đoạn này là xây dựng nền tảng cho việc ứng dụng mô hình Hồi giáo để tạo ra sản phẩm tài chính. Cần phải có sự chuẩn bị về cơ sở luật điều chỉnh và hệ thống quy tắc Shariah, xây dựng nền tảng nhận thức cho người dân, hình thành đội ngũ cán bộ chuyên trách về sản phẩm tài chính Hồi giáo, chuẩn bị kế hoạch cho việc tạo dựng danh mục các sản phẩm tài chính theo mô hình Hồi giáo, cơ sở vật chất kỹ thuật…Giai đoạn này cần ít nhất một năm theo sơ đồ sau:
Bảng 4.1.Công tác chuẩn bị của giai đoạn chuẩn bị và thực hiện thí điểm
Hoàn thành giai đoạn chuẩn bị
Pháp luật cho sản phẩm Hồi giáo – quy tắc Shariah
Trang bị kiến thức cho khách hàng
Đội ngũ nhân viên chuyên trách
Xây dựng danh mục sản phẩm tài chính Hồi giáo
Cơ sở vật chất kỹ thuật
Các yếu tố khác
Bộ phận tư vấn và giám sát luật Shariah
Giai đoạn thực hiện thí điểm
Việc tung các sản phẩm tài chính Hồi giáo ra thị trường phải lựa chọn thời điểm phù hợp khi mọi điều kiện đã được chuẩn bị chu đáo. Trong giai đoạn này cần hội đủ các điều kiện sau :
- Thành lập được bộ phận tư vấn và giám sát luật Shariah, bộ phận này gồm những chuyên viên am hiểu tường tận các quy tắc Shariah.
- Xây dựng hoàn tất danh mục các sản phẩm tài chính Hồi giáo thích hợp với điều kiện Việt Nam.
- Trang bị đầy đủ kiến thức về sản phẩm mới cho nhân viên tiếp xúc trực tiếp với khách hàng.
- Nhu cầu về sản phẩm mới đã hình thành trong tư tưởng khách hàng.
Giai đoạn này có thể kéo dài vài năm cho đến khi khách hàng bắt đầu quen với sản phẩm tài chính mới mẻ này và ngân hàng cũng đúc kết được một số kinh nghiệm trong việc quản lý rủi ro do sản phẩm mang lại. Trong giai đoạn này ngân hàng cũng nên tiếp tục thực hiện những công việc ở giai đoạn đầu một cách sâu rộng hơn nữa.
Các giải pháp cho giai đoạn này được đề cập đến trong mục 4.4.2 dưới đây.
4.5.1.2.Giai đoạn hoàn thiện và phát triển sản phẩm tài chính Hồi giáo
Khi đã xây dựng được một số nền tảng, đúc kết một số kinh nghiệm nhất định trong công tác quản lý và khách hàng đã quen với sản phẩm tài chính Hồi giáo, chúng ta tiến hành giai đoạn hoàn thiện và phát triển sản phẩm hơn nữa.
Trong giai đoạn này, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh đến nghiệp vụ giao dịch Hồi giáo, đồng thời củng cố kiến thức cho các thành viên nằm trong bộ phận tư vấn và giám sát luật Shariah. Cũng trong giai đoạn này, ngân hàng sẽ thực hiện cung cấp sản phẩm tài chính Hồi giáo song song với các sản phẩm truyền thống, tạo nhiều cơ hội cho khách hàng lựa chọn những sản phẩm phù hợp với bản thân nhất.
Nhằm chuyên nghiệp hóa hơn trong việc đưa những sản phẩm này đến tay những khách hàng có nhu cầu thực sự, ngân hàng thương mại nên tiếp tục mở rộng, phát triển mô hình sản phẩm này thông qua hình thức mở một chi nhánh ngân hàng Hồi giáo chuyên biệt, loại hình này cũng tương tự như loại hình ngân hàng dành cho phụ nữ hay ngân hàng dành cho người Hoa mà Sacombank đang thực hiện. Đây cũng là lộ trình mẫu mà các nước trong khu vực đã áp dụng.
4.5.2.Giải pháp tổng thể nhằm xây dựng sản phẩm tài chính theo mô hình Hồi giáo
4.5.2.1.Hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh nghiệp vụ giao dịch tài chính Hồi giáo
Do đặc điểm của giao dịch tài chính Hồi giáo là các giao dịch được thực hiện thông qua hợp đồng thương mại, trong đó đối tượng đề cập đến trong hợp đồng là hàng hoá, tài sản hữu hình chứ không phải tiền như các giao dịch tài chính truyền thống khác nên hợp đồng trong giao dịch tài chính Hồi giáo ngoài việc tuân thủ các quy tắc Hồi giáo còn phải phù hợp với hệ thống luật thương mại và các văn bản pháp luật liên quan đến tài sản, hàng hoá. Tuy nhiên, bản chất và cấu trúc của các sản phẩm tài chính Hồi giáo lại có khuynh hướng chịu nhiều thuế hơn so với các sản phẩm tài chính thông thường nên việc cần thiết phải làm là tạo ra sự cân bằng đối với các sản phẩm tài chính Hồi giáo. Điều này có nghĩa là chúng ta nên bãi bỏ việc đánh thuế kép đối với các giao dịch Hồi giáo liên quan đến bất động sản. Hiện nay, các giao dịch liên quan đến bất động sản đều phải chịu mức thuế suất là 25%, điều này đã phần nào hạn chế hoạt động mua bán nhà đất. Nếu như sản phẩm tài chính Hồi giáo ra đời sẽ phần nào góp phần làm ấm dần thị trường bất động sản vốn lạnh lẽo trong hơn 1 năm qua.
Như đã đề cập ở trên, các giao dịch tài chính Hồi giáo bắt buộc phải tuân thủ theo quy tắc Shariah ( tức là quy tắc Hồi giáo). Do vậy, trước khi đưa các sản phẩm tài chính Hồi giáo vào thử nghiệm thì các ngân hàng phải thành lập một bộ phận tư vấn và giám sát luật Shariah bao gồm một đội ngũ chuyên gia có năng lực để đảm bảo những hướng dẫn, tư vấn của uỷ ban tư vấn Hồi giáo toàn cầu được thực hiện một cách đúng đắn nhất.
4.5.2.2.Hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật và quy trình quản lý
Điều thuận lợi khi bắt đầu triển khai thử nghiệm các sản phẩm tài chính Hồi giáo là nó không yêu cầu đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, vì bản thân cơ sở vật chất của các ngân hàng thương mại Việt Nam đã đáp ứng được,vấn đề là các ngân hàng cần phải xây dựng quy trình quản lý các giao dịch mới này, điều này vô cùng quan trọng vì tạo tiền đề vững chắc cho các nghiệp vụ giao dịch tài chính Hồi giáo. Quy trình thực hiện các nghiệp vụ tài chính Hồi giáo sẽ phức tạp hơn, đòi hỏi quản lý tỉ mỉ và chặt chẽ hơn, do đó việc thiết kế quy trình nên dựa vào kinh nghiệm sẵn có của các nước trong khu vực hay của ngân hàng HSBC, một ngân hàng đã có chi nhánh hoạt động tại Việt Nam.
4.5.2.3.Xây dựng và đưa vào thử nghiệm một số sản phẩm có tính khả thi hiện
nay
Các sản phẩm tài chính Hồi giáo rất là phong phú, đa dạng, tuy nhiên để từng bước vận hành, phát triển mô hình này tại Việt Nam đòi hỏi một lộ trình cụ thể. Do vậy, bước đầu tiên chúng ta cần xây dựng danh mục sản phẩm tài chính thích hợp với khách hàng Việt Nam và có thể áp dụng ngay. Việc tạo ra các sản phẩm đều dựa trên một số công cụ tài chính nhất định, mỗi một công cụ tài chính có thể phát triển thành nhiều sản phẩm cung cấp cho nhiều đối tượng khách hàng khác nhau. Kinh nghiệm các nước trong khu vực và của ngân hàng HSBC cho thấy 3 công cụ phổ biến là mudarabah, ijara và murabahah.
4.5.2.3.1.Mudarabah
Mudarabah là một liên kết đầu tư. Trong một giao dịch Mudarabah, hợp đồng được thiết lập giữa nhà đầu tư ( người bỏ vốn) với một doanh nghiệp (người quản lý vốn). Rủi ro và lợi ích đều được chia sẻ. Trong trường hợp có lãi, cả hai bên sẽ nhận được phần lợi nhuận theo thoả thuận ban đầu. Trong trường hợp bị lỗ, phía nhà đầu tư sẽ chịu toàn bộ tổn thất về vốn trong khi doanh nghiệp mất thời gian và toàn bộ công sức của mình. Công cụ tài chính này thích hợp với đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp đang có nhu cầu vay vốn đầu tư sản xuất. Dựa vào công cụ tài chính này, ngân hàng có thể tạo ra nhiều sản phẩm khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng, vừa đảm bảo những lợi ích của mình khi triển khai sản phẩm đó.
Đối với các doanh nghiệp, việc sử dụng sản phẩm này sẽ khắc phục được nhược điểm của loại hình sản phẩm truyền thống, sẽ không phải chịu những rủi ro do biến động lãi suất gây ra. Về phía ngân hàng sẽ được tối đa hoá lợi nhuận tuỳ thuộc vào tình hình kinh doanh của doanh nghiệp chứ không phải nhận một mức lợi nhuận cố định hàng tháng như trong trường hợp cho vay truyền thống. Công cụ này thường được sử dụng trong các trường hợp: tài trợ vốn thành lập doanh nghiệp vừa và nhỏ, tài trợ nhập khấu, tài trợ xuất khẩu,…
4.5.2.3.2.Ijara
Nghiệp vụ Ijara là nghiệp vụ cho thuê Hồi giáo. Ngân hàng sẽ thực hiện mua tài sản và cho khách hàng thuê lại với một mức giá cố định hàng tháng. Một Ijara có thể bao gồm một quyền chọn cho bên đi thuê là quyền được mua lại tài sản khi hết hợp đồng thuê, tuy nhiên đây là việc hoàn toàn không bắt buộc. Công cụ tài chính này thích hợp cho khách hàng là cá nhân hay doanh nghiệp.
Nghiệp vụ này hoàn toàn khác với nghiệp vụ cho thuê tài chính. Ijarah không phải là món nợ tài chính do nó không xuất hiện trên bảng cân đối kế toán của bên thuê như khoản nợ phải trả. Với cách thể hiện nằm ngoài bảng cân đối như thế, khoản tiền thuê này sẽ không được các ngân hàng tính trong hệ số nợ khi tính toán giới hạn tài chính. Điều này cho phép các bên đi thuê tham gia vào nhiều hợp đồng Ijara khác mà không tác động đến việc đánh giá tổng thể nợ. Tất cả các khoản thanh toán cho hợp đồng Ijarah được coi là chi phí hoạt động nên hoàn toàn được khấu trừ thuế. Việc đi thuê đem đến một khoản lợi về thuế và do đó tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. Hơn nữa, nhiều loại máy móc thiết bị đã lỗi thời trước khi kết thúc chu kỳ sử dụng. Hợp đồng Ijarah cho phép chuyển những rủi ro từ bên đi thuê sang bên cho thuê bù lại việc chịu tỷ lệ thuê cao. Tỷ lệ này cao được xem như là khoản bảo hiểm cho sự lạc hậu của máy móc thiết bị cho thuê. Thêm nữa nếu như chỉ cần máy móc thiết bị trong thơi gian ngắn thì việc thuê sẽ thuận lợi hơn mua khi tạo ra lợi nhuận.
Đối với khách hàng cá nhân, sản phẩm ngân hàng có thể cung cấp là cho thuê nhà ở. Sản phẩm này có ưu điểm là giảm áp lực tài chính đối với khách hàng và họ có thể thương lượng mua lại căn nhà từ ngân hàng bất cứ lúc nào họ có thể. Việc mua lại căn nhà thuê mình sống trong nhiều năm sẽ là một ưu điểm lớn của sản phẩm tài chính này.
Bên cạnh những thuận lợi trên, ngân hàng cũng gặp phải những khó khăn trong việc quản lý tài sản của chính mình. Do vậy, vấn đề đầu tiên cần khắc phục là quy trình quản lý tài sản và theo dõi, thu hồi công nợ hàng tháng. Ngân hàng cần thành lập bộ phận chuyên trách cho mảng này, từ khâu đầu tư mua sắm đến bàn giao, quản lý tài sản và thu tiền.
4.5.2.3.3.Murabahah
Một nghiệp vụ giao dịch Murabahah là việc bán hàng ở một mức có lợi nhuận. Trong một giao dịch Murabahah, ngân hàng sẽ mua hàng hoá ( có thể là ô tô, bất động sản…) từ bên thứ ba và bán lại cho khách hàng ở một mức giá có lợi nhuận trên cơ sở thanh toán chậm. Bằng cách này, khách hàng có thể mua bất kỳ cái gì mà không cần quan tâm đến lãi suất cho vay của ngân hàng. Đối tượng nhắm đến của loại sản phẩm này có thể là tổ chức hay cá nhân.
Việc triển khai sản phẩm này khắc phục nhược điểm của sản phẩm cho vay truyền thống hiện nay. Hiện nay, các sản phẩm cho vay mua nhà truyền thống của các ngân hàng khó thu hút khách hàng do những hạn chế về rủi ro lãi suất, quá trình thẩm định khắt khe và nhiều lý do liên quan khác. Thực tế phần lớn dân cư có nhu cầu muốn vay nhưng không vay được trong khi các ngân hàng tung ra hàng loạt các sản phẩm cho vay truyền thống cũng chẳng thu hút được khách hàng bao nhiêu . Khách hàng sẽ lập kế hoạch ngân sách cho những khoản chi của mình, chủ động hơn về tài chính do không sợ biến động lãi suất hàng tháng. Trong khi đó, ngân hàng sẽ tính toán chính xác mức lợi nhuận có được trong mỗi hợp đồng, thương lượng được mức lợi nhuận mong muốn có được qua mỗi giao dịch cụ thể. Quy trình thực hiện giao dịch này hoàn toàn giống với các giao dịch truyền thống hiện tại, chỉ khác ở điểm là không áp dụng lãi suất để tạo ra lợi nhuận, đây là điểm hạn chế khiến sản phẩm này khó tiếp cận với khách hàng thực sự có nhu cầu.
4.5.2.3.4.Musharakah
Đây là nghiệp vụ hợp tác kinh doanh giữa khách hàng và ngân hàng theo phương thức cùng phân chia phần lãi hay phần lỗ theo một tỷ lệ định trước. Đây là một điểm mới so với các nghiệp vụ truyền thống. Khách hàng có thể gửi tiền vào ngân hàng theo từng mục địch khác nhau, đối với khách hàng không thích sự rủi ro thì họ có thể là gửi tiền đơn thuần là nhờ ngân hàng giữ hộ để thanh toán, cũng có khách hàng ưa thích mạo hiểm, họ có thể gửi tiền nhờ ngân hàng đầu tư tìm kiếm lợi nhuận, trường hợp này thì lãi/ lỗ sẽ phân chia theo một tỷ lệ xác định trước.
4.5.2.4.Lập kế hoạch tuyên truyền và công bố rộng rãi các ưu việt của giao dịch tài chính Hồi giáo
Sự quan tâm và hiểu biết của công chúng là một yếu tố chính quyết định thành công trong việc đưa ra một sản phẩm tài chính mới áp dụng trên thị trường tài chính. Để thu hút nhiều khách hàng tham gia thì các ngân hàng thương mại phải có chính sách tuyên truyền và phổ biến kiến thức về giao dịch tài chính Hồi giáo cho công chúng. Ngân hàng nên thực hiện quảng bá rộng rãi, cung cấp thông tin cần thiết bao gồm đặc điểm của sản phẩm, tính ưu việt cũng như hạn chế của sản phẩm mới so với các sản phẩm truyền thống như thế nào, trên cơ sở đó khách hàng có thể tính toán để đưa ra một sự lựa chọn hợp lý phụ thuộc vào nhu cầu và khả năng của chính họ.
4.5.2.5.Phát triển nguồn nhân lực trực tiếp triển khai sản phẩm tài chính Hồi giáo
Nhân lực phục vụ cho quá trình triển khai xây dựng và phát triển sản phẩm mới đóng vai trò quan trọng nhất trong việc giúp quá trình này diễn ra thông suốt và hiệu quả. Nhân lực phục vụ cho quá trình này không chỉ có kiến thức đầy đủ về tất cả các mảng từ đầu tư mua sắm, thẩm định dự án đầu tư cho đến quản lý doanh nghiệp hiệu quả… mà còn phải có một nền tảng kiến thức về các quy tắc Shariah. Để có được những người có trình độ chuyên môn cao như thế cần phải thực hiện các giải pháp sau: Cử cán bộ có chuyên môn cao ra nước ngoài tham dự các khoá học ngắn hạn về thị trường tài chính Hồi giáo, có kế hoạch đầu tư lâu dài và bài bản cho các cán bộ tiềm năng; khuyến khích các nhân viên nghiên cứu, tìm hiểu về các thị trường tài chính Hồi giáo đầy tiềm năng này.
4.6.Giải pháp hỗ trợ phát triển sản phẩm tài chính theo mô hình Hồi giáo
Để triển khai sản phẩm mới theo mô hình ngân hàng Hồi giáo cần có một gói giải pháp hỗ trợ. Đây sẽ là một biện pháp giúp người sử dụng từng bước tiếp cận và sử dụng sản phẩm mới hoạt động theo nguyên tắc Hồi giáo. Đó là:
Thực hiện chiến dịch quảng bá giới thiệu sản phẩm mới đến các đối tượng khách hàng. Cụ thể là hỗ trợ tổng hợp, biên dịch, cung cấp các tài liệu liên quan đến giao dịch tài chính Hồi giáo đặt tại một chuyên mục trong website của ngân hàng, đồng thời và tiến hành quảng cáo theo phương pháp phát tờ rơi giới thiệu sản phẩm mới tại trụ sở, quảng cáo trên các phương tiện truyền thông đại chúng về sản phẩm mới hay gửi email cho khách hàng, tư vấn trực tiếp tại quầy để phổ cập thông tin cho khách hàng .
Thêm nữa, bản chất và cấu trúc của các sản phẩm tài chính Hồi giáo có khuynh hướng chịu nhiều thuế hơn so với các sản phẩm truyền thống tương tự, cụ thể là đối với các giao dịch như Murabahah, Ijara, do ngân hàng đóng vai trò là trung gian mua bất động sản và bán lại cho khách hàng nên nếu việc đánh thuế trong quá trình mua và bán sẽ dẫn đến thiệt hại kép về thuế cho khách hàng. Do đó Chính phủ nên cân nhắc xoá bỏ việc đánh thuế kép lên các giao dịch liên quan đến bất động sản, đây cũng là kinh nghiệm rút ra từ các nước áp dụng mô hình ngân hàng Hồi giáo trong khu vực.
4.7.Hướng nghiên cứu ứng dụng mô hình ngân hàng Hồi giáo cho Việt Nam
Việc ứng dụng mô hình ngân hàng Hồi giáo là một quá trình lâu dài, đòi hỏi Việt Nam phải có một sự chuẩn bị chu đáo về kiến thức chuyên môn cũng như hệ thống pháp lý đầy đủ. Tuy nhiên, theo tôi, các ngân hàng thương mại Việt Nam nên bắt đầu bằng việc tạo ra các sản phẩm ngân hàng bán lẻ dựa trên 4 công cụ phổ biến trên.Các sản phẩm dựa trên các công cụ này phải thoả mãn quy tắc Shariah. Sau khi các sản phẩm mới hoàn thiện thì bộ phận phát triển sản phẩm mới của ngân hàng thương mại nên nghiên cứu các công cụ tài chính ngân hàng Hồi giáo khác để phát triển dịch vụ bán lẻ. Phạm vi ứng dụng của mô hình ngân hàng Hồi giáo bước đầu chỉ gói gọn trong việc tạo ra các sản phẩm mới dựa trên một số công cụ tài chính Hồi giáo phổ biến trong lĩnh vực bán lẻ, sau đó có thể áp dụng sang cho cả lĩnh vực bán buôn của ngân hàng. Khi việc xây dựng, quản lý các sản phẩm trở nên thuần thục, các ngân hàng nên nghĩ đến việc thành lập một chi nhánh ngân hàng Hồi giáo chuyên biệt. Chi nhánh ngân hàng chuyên biệt cũng không phải là việc hoàn toàn mới ở Việt Nam, hiện có một số ngân hàng cũng đã thành lập các chi nhánh ngân hàng chuyên biệt dành riêng cho phụ nữ hay cho riêng cộng đồng người Hoa. Do vậy, khả năng Việt Nam sẽ bớt bỡ ngỡ khi tiếp cận công việc mới này.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
Để có thể ứng dụng mô hình ngân hàng Hồi giáo vào việc phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ đòi hỏi Việt Nam phải có một định hướng, một lộ trình cụ thể. Với những điều kiện thuận lợi, mô hình ngân hàng Hồi giáo hoàn toàn phù hợp với các ngân hàng thương mại Việt Nam. Do đó, vấn đề đầu tiên là chúng ta phải xây dựng mộ bộ giải pháp hợp lý và có tính khả thi. Muốn xây dựng thành công một mô hình sản phẩm tài chính Hồi giáo, bên cạnh công tác nghiên cứu và học hỏi kinh nghiệm của nước ngoài, điều kiện tiên quyết là cần phải có sự quyết tâm của các ngân hàng thương mại và Chính phủ thông qua các hành động thiết thực cho các công tác chuẩn bị, đầu tư và đào tạo; hoàn thiện dần hệ thống pháp luật. Trong đó, nguồn nhân lực về kiến thức thị trường tài chính Hồi giáo sẽ được ưu tiên hàng đầu để đáp ứng nhu cầu phát triển trong tương lai.
KẾT LUẬN
Sau gần 3 năm là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO, hệ thống ngân hàng chúng ta từng bước hội nhập với hệ thống ngân hàng thế giới. Bên cạnh những thuận lợi, chúng ta cũng đối diện với những khó khăn, thách thức nhất định. Việc cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài là một vấn đề lớn hiện nay do các sản phẩm của chúng ta nghèo nàn, đơn điệu, không đáp ứng đầy đủ nhu cầu của đa số khách hàng. Trong bối cảnh đó, việc xây dựng và phát triển những sản phẩm tài chính phù hợp với người dân Việt Nam là một vấn đề đáng lưu tâm.
Việc ứng dụng mô hình tài chính Hồi giáo nhằm tạo ra những sản phẩm tài chính mới hiện nay tạo ra một luồng sinh khí mới thử nghiệm trên thị trường tài chính Việt Nam. Với những tiện ích của công cụ tài chính Hồi giáo, chúng ta có thể tạo ra nhiều sản phẩm mới đáp ứng được nhu cầu của nhiều đối tượng khách hàng khác nhau mà mỗi một sản phẩm này đều khắc phục những hạn chế của các sản phẩm truyền thống hiện tại. Thêm vào đó, mô hình ngân hàng Hồi giáo được xem như là miễn nhiễm trước cuộc khủng hoảng tài chính thế giới hiện nay đang tạo ra một sự quan tâm đặc biệt đối với các quốc gia trên thế giới. Nhiều người xem nó như là một mô hình thay thế hoàn hảo cho hệ thống tài chính thế giới đang suy thoái hiện nay, số khác lại xem mô hình này phụ thêm cho hệ thống vốn chiếm thế thống lĩnh trong thế giới phương Tây.
Trên cơ sở nghiên cứu những lý luận về mô hình ngân hàng tài chính Hồi giáo và phân tích thực trạng phát triển dịch vụ bán lẻ của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay , tôi mạnh dạn đề xuất phương án ứng dụng mô hình tài chính Hồi giáo để tạo ra các sản phẩm ngân hàng bán lẻ Việt Nam. Lý do tôi chọn lĩnh vực áp dụng là mảng bán lẻ của ngân hàng thương mại do đây là dịch vụ có khả năng tăng trưởng nhanh nhất trong hệ thống tài chính của Việt Nam. Để có thể thử nghiệm, phát triển dịch mới này đòi hỏi các ngân hàng thương mại thực hiện theo một lộ trình thống nhất nêu trên, đồng thời có thể tham khảo một số giải pháp mà tôi đã đưa ra trên đây.
Thực tế, dưới sự giúp đỡ tận tình của giảng viên hướng dẫn, dù đã có nhiều cố gắng nhưng các vấn đề liên quan đến đề tài còn rất rộng mà thời gian nghiên cứu có hạn , tài liệu nghiên cứu không nhiều cùng với sự hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm nên chắc chắn luận văn vẫn còn nhiều thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự thông cảm của quý thầy cô cùng những ý kiến góp ý xây dựng chân tình của quý thầy cô giáo. Tuy nhiên , tôi cũng hi vọng rằng tất cả những gì tôi trình bày trong luận văn này sẽ là một phần đóng góp nhỏ trong quá trình phát triển mở rộng dịch vụ tài chính ngân hàng trong tương lai.
Xin chân thành cảm ơn và trân trọng kính chào.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mo hinh ngan hang Hoi giao .doc