Quan điểm này muốn hướng tăng trưởng kinh tế tới các mục tiêu phát triển bền vững. Theo đó, vấn đề quan trọng không phải là bám đuổi mục tiêu tăng trưởng nhanh mà là duy trì một mục tiêu tăng trưởng hợp lý trong mối quan hệ răng buộc với những điều kiện về tài nguyên môi trường và các vấn đề xã hội. Một mặt, đối với vấn đề tài nguyên môi trường, tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với: bảo đảm sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên, nâng cao khả năng tái sinh tài nguyên; phòng chống ô nhiễm môi trường, có phương án xử lý ô nhiễm, kỹ thuật phòng chống và giải quyết hệ quả của ô nhiễm, có chính sách kinh tế phù hợp áp dụng cho các cơ sở kinh tế gay ô nhiễm, tực hiện sự tham gia công đồng trong vấn đề này; thực hiện quá trình đa dạng hóa sinh học hình thành những vùngvệ tinh tạo yếu tố môi trường thuận lợi cho những khu vực có ô nhiễm. Mặt khác, đối với vấn đề xã hội, quá trình tăng trưởng kinh tế phải được kiểm soát thường xuyên, chặt chẽ bởi các chỉ tiêu phát triển xã hội, trong đó trọng tâm là vấn đề xóa đói giảm nghèo, công bằng xã hội, giải quyết việc làm, chỉ tiêu liên quan đến sự phát triển toàn diện cho con người như giáo dục, y tế, thể dục thể thao, văn hóa nghệ thuật, cá chỉ số giới và dân tộcv.v.Chính việc bảo đảm các chỉ tiêu xã hội và môi trường sẽ là yếu tố tích cực củng cố, duy trì khả năng tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Sử dụng chính sách phân phối thu nhập hợp lý sẽ giúp chúng ta thực hiện tốt được mục tiêu phát triển kinh tế toàn diện.
Tóm lại, về lý thuyết, nội hàm của phát triển kinh tế đã được khẳng định. Rõ ràng là chỉ có kết hợp đồng thời tăng trưởng kinh tế nhanh, có hiệu quả và thực hiện sự lan tỏa tích cực của nó đến cải thiện đời sống xã hội cho quảng đại quần chúng nhân dân thì sự phát triển kinh tế mới thực sự bền vững. Việt Nam đã lựa chọn đúng cách đi của mình trong thời kỳ đổi mới kinh tế. Thời gian tới, tiêp tục duy trì những thành quả đạt được và tìm ra những hướng đổi mới phù hợp, cao hơn nữa là có các chính sách đúng đắn hơn nữa trong thời kỳ chiến lược mới 2011 – 2020 về tăng trưởng kinh tế, thực hiện tốt chính sách phân phối thu nhập sẽ giúp Việt Nam nhanh chóng thực hiện được mục tiêu trước hết vượt ngưỡng nghèo, trở thành nước có mức thu nhập trung bình và tiến tới các tiêu chí của một nước công nghiệp mới.
34 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1971 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mô hình phát triển kinh tế Việt Nam thời kỳ đổi mới (giai đoạn 1986-2007), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI
(GIAI ĐOẠN 1986-2007)
BÀI TẬP NHÓM 7
CÁC THÀNH VIÊN TRONG NHÓM
ĐỒNG KIM KHÁNH
NGUYỄN DUY HÒA
ĐỖ TRUNG HIẾU
PHÙNG THẾ VƯƠNG
TĂNG MINH CHÍNH
NGUYỄN TUẤN THANH
HOÀNG ĐỨC CƯƠNG
MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI
(GIAI ĐOẠN 1986-2007)
Phát triển kinh tế được xem như là quá trình biến đổi cả về lượng và về chất của nền kinh tế. Mặt lượng của sự phát triển bao hàm nghĩa sự gia tăng về quy mô thu nhập và tiềm lực của nền kinh tế còn sự thay đổi về chất bao gồm quá trình thay đổi cấu trúc bên trong của nền kinh tế (chuyển dịch cơ cấu kinh tế) và sự tiến bộ xã hội.
I. Mô hình phát triển toàn diện – sự lựa chọn của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới kinh tế:
Mặc dù Việt Nam đã dành được những thành tựu nhất định trong nhiều lĩnh vực từ thập niên 90 của thế kỷ thứ 20, tuy vậy, bước vào thời kỳ chiến lược 2001-2010, chúng ta vẫn bị đánh giá là có nguy cơ tụt hậu về kinh tế, nếu so sánh với sự phát triển vượt trội của các nước trong khu vực, khoảng cách tuyệt đối về thu nhập bình quân trên đầu người của Việt nam ngày càng xa so với họ. Vì vậy, yêu cầu tăng trưởng kinh tế nhanh đã trở thành bức xúc, hàng đầu để thực hiện mục tiêu phát triển. Thực hiện tăng trưởng nhanh mới có thể kéo nước ta ra khỏi danh sách các nước nghèo, kém phát triển, và chống tụt hậu xa hơn, thu hẹp dần khoảng cách phát triển so với các nước xung quanh. Hơn thế nữa, thế kỷ 21, tình hình về kinh tế quốc tế có nhiều thay đổi, mở cửa, hội nhập quốc tế và khu vực ngày càng rộng rãi đã cho phép chúng ta có thể sử dụng được những lợi thế của các nước đi sau để khắc phục những rào cản thực hiện mục tiêu tăng trưởng nhanh trong nhiều năm qua như sự thiếu vốn, thiếu công nghệ, thiếu lao động tay nghề và thiếu thị trường tiêu thụ cũng như cung cấp sản phẩm. Mặt khác, con đường mà Việt nam lựa chọn trong thời kỳ đổi mới kinh tế là phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khía cạnh “xã hội chủ nghĩa” đặt
yêu cầu tiến bộ và công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. Quan tâm đến tiến bộ và công bằng xã hội chính là mặt văn hóa của của sự phát triển mà chúng ta theo đuổi phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa và nó chính là một phần của mô hình phát triển đất nước.
Những luận cứ nói trên cho thấy mô hình phát triển kinh tế việt nam lựa chọn hiện nay là mô hình phát triển toàn diện. Nội dung chính của mô hình này là thực hiện việc kết hợp tăng trưởng kinh tế nhanh với công bằng xã hội ngay từ đầu và trong toàn tiến trình phát triển.. Mục tiêu về kinh tế đạt được đó là sự tăng trưởng ổn định với cơ cấu kinh tế hợp lý, đáp ứng được yêu cầu nâng cao đời sống của nhân dân, tránh được sự suy thoái hoặc đình trệ trong tương lai, tránh để lại gánh năng nợ nần lớn cho thế hệ mai sau. Mục tiêu về xã hội là đạt được kết quả cao tong thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm chế độ dinh dưỡng và chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân ngày càng được nâng cao, mọi người đều có cơ hội được học hành và có việc làm, giảm tình trạng nghèo đói và hạn chế khoảng cách giầu nghèo giữa các tầng lớp, các nhóm dân cư trong xã hội, nâng cao mức công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các thành viên và các thế hệ , duy trì và phát huy được tính đa dạng và bản sắc văn hóa dân tộc, không ngừng nâng cao trình độ văn minh về đời sống vật chất và tinh thần . Mục tiêu về môi trường là khai thác hợp lý và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên, thực hiện việc tái sinh tài nguyên và chống ô nhiễm môi trường.
II. Các giai đoạn phát triển kinh tế việt nam từ năm 1986-2007:
1. Thời kỳ 1986-1990:
Đây được coi là giai đoạn “khởi động” từng bước đổi mới chính sách kinh tế trên cơ sở đổi mới tư duy kinh tế và tổng kết các thực nghiệm trong thực tế. Từ đó vạch rõ con đường đổi mới chưa từng được khai phá của một nền kinh tế chuyển đổi trong điều kiện kinh tế chưa phát triển.
Đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986) thông qua kế hoạch năm năm (1986-1990) với các mục tiêu cơ bản; xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý; ưu tiên ba chương trình kinh tế lớn: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu.
Việt Nam tập trung triển khai Ba Chương trình kinh tế lớn: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu.
+ Bảo đảm nhu cầu lương thực của xã hội và có dự trữ; đáp ứng một cách ổn định nhu cầu thiết yếu về thực phẩm. Mức tiêu dùng lương thực, thực phẩm đủ tái sản xuất sức lao động.
+ Đáp ứng nhu cầu của nhân dân về những mặt hàng tiêu dùng.
+ Tạo được một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực; tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu để đáp ứng được phần lớn nhu cầu nhập khẩu vật tư, máy móc, phụ tùng và những hàng hóa cần thiết.
- Với chính sách đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có một bước chuyển đổi cơ bản từ một nền kinh tế tập trung thành một nền kinh tế thị trường đầy đủ. Và chính 3 chương trình kinh tế lớn là sự cụ thể hóa nội dung chính của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên 1986 – 1990.
*) Những thành tựu đạt được 1986 – 1990:
Bảng số liệu năm 1986 - 1990
Năm
Tổng sản phẩm quốc nội
Tốc độ tăng trưởng
1986
109.2
2.8
1987
113.1
3.6
1988
120.0
6.0
1989
125.6
4.7
1990
132.0
5.1
Tổng sản phẩm quốc nội tính theo nghìn tỷ đồng
(Thống kê của Quỹ tiền tệ quốc tế)
- Trong kế hoạch 5 năm 1986-1990, tổng sản phẩm xã hội tăng bình quân mỗi năm tăng 4,8%; thu nhập quốc dân tăng 3,9%.. Tốc độ tăng trương bình quân là 4,44%. Tốc độ tăng trưởng nhanh nhưng không đều 2,8% (1986) lên 6,0%(1998) và năm 1990 là 5,1%.
Bảng Cơ cấu Tổng sản phẩm trong nước năm 1986 – 1990:
Năm
Nông nghiệp
Công nghiệp
Dịch vụ
Tổng số(%)
1986
38.1
28.9
33.0
100
1987
----
----
----
100
1988
46.3
21.6
32.1
100
1989
42.8
23.3
33.9
100
1990
38.74
22.67
38.59
100
(Nguồn: VN Economy và Báo cáo kinh tế xã hội 20 năm, 2005)
- Sản xuất nông nghiệp, nhất là lương thực có bước phát triển mới. Sản lượng lương thực năm 1990 đã đạt 21,5 triệu tấn tăng 18,2% (3,3 triệu tấn) so 1985, sản lượng lương thực năm 1988 đạt 19,50 triệu tấn (vượt năm 1987 hơn 2 triệu tấn) và năm 1989 đạt 21,40 triệu tấn. Lương thực bình quân nhân khẩu đạt 325 kg và năm 1989 Việt Nam đã xuất khẩu 1,42 triệu tấn gạo, đánh dấu thời kỳ chuyển đổi tính chất sản xuất từ tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá gắn với xuất khẩu gạo. Sản xuất công nghiệp có bước phát triển mới. Một số ngành then chốt của nền kinh tế tăng trưởng khá. Đáng chú ý là sản lượng dầu thô tăng từ 40 nghìn tấn năm 1986 lên 2,7 triệu tấn năm 1990 tuy nhiên công nghiệp chưa phát triển đúng với tiềm năng hiện có. Hoạt động thương mại, dịch vụ khôi phục và tăng trưởng khá. Cơ cấu kinh tế quốc dân chuyển dịch theo hướng tiến bộ.
Bảng tỷ lệ lạm phát năm 1986 – 1990
Năm
Tỷ lệ lạm phát
1986
774,5%
1987
360.4%
1988
374.4%
1989
95.8%
1990
67.1%
(Nguồn: VN Economy và Báo cáo kinh tế xã hội 20 năm, 2005)
- Một thành tựu quan trọng nữa là đã bước đầu kiềm chế được đà lạm phát. Lạm phát đã giảm mạnh từ năm 1986 – 774.5% xuống còn 36.0% năm 1990. Chỉ số tăng giá bình quân hàng tháng trên thị trường năm 1986 là 20%, năm 1987 là 10%, năm 1988 là 14%, thì năm 1989 là 2,5% và năm 1990 là 4,4%. Đây là kết quả tổng hợp của việc thực hiện Ba chương trình kinh tế và đổi mới cơ chế quản lí, đổi mới chính sách giá và lãi suất, mở rộng thông thương và điều hòa cung cầu hàng hóa. Điều có ý nghĩa là chúng ta đạt được kết quả này trong hoàn cảnh nguồn trợ giúp bên ngoài giảm so với trước, vừa chống lạm phát và thực hiện chuyển từ giá bao cấp sang giá kinh doanh. Nhờ kiếm chế được lạm phát, các cơ sở kinh tế có điều kiện thuận lợi để hạch toán kinh doanh, đời sống nhân dân giảm bớt khó khăn.
- Xuất nhập khẩu: Năm 1988 phải nhập 450 nghìn tấn lương thực thì năm 1989 trở thành nước xuất khẩu gạo gần 1 triệu tấn và năm 1990 thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 3 trên thế giới với 1,5 triệu tấn. Giá trị xuất nhập khẩu bình quân tăng 28,0%/năm, tỷ lệ nhập siêu giảm nhanh. Nếu trong các năm 1976-1980 tỷ lệ giữa xuất và nhập là 1/4,0 thì những năm 1986-90 chỉ còn 1/1,8. Năm 1986 đến năm 1990, hàng xuất khẩu tăng gấp 3 lẩn (từ 439 triệu rúp và 884 triệu đô la, lên 1019 triệu rúp và 1170 triệu đô la). Từ năm 1989, sản xuất của ta tăng thêm các mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn như gạo, dầu thô và một số mặt hàng mới khác.
*) Tăng trưởng kinh tế giải quyết với y tế, giáo dục:
- Giáo dục: Sự nghiệp giáo dục đạt nhiều thành tựu. Tỷ lệ dân số từ 10 tuổi trở lên biết đọc, biết viết đã tăng từ 88% năm 1989 lên 91% năm 1999. Năm 1990 nước ta có 105,9 nghìn học sinh trung học chuyên nghiệp, tính bình quân cho 1 vạn dân có 16 học sinh thì đến năm 2004 là 465,3 nghìn và 97 học sinh. Năm 2004 so với năm 1990, số học sinh trung học chuyên nghiệp tăng 4,39 lần. Giáo dục đại học, cao đẳng năm 1990 có 93,04 nghìn sinh viên đại học, cao đẳng, tính bình quân 1 vạn dân có 14 sinh viên.
- Y tế: Sự nghiệp y tế và chăm sóc sức khoẻ nhân dân được quan tâm. Hệ thống y tế đã được phát triển từ tuyến cơ sở tới trung ương với nhiều loại hình dịch vụ y tế đã tạo điều kiện cho người dân được lựa chọn các dịch vụ y tế phù hợp. Năm 1990, tính bình quân 1 vạn dân có 3,5 bác sĩ. Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi năm 1990 từ 51,5%. Chỉ số về sức khoẻ bà mẹ và trẻ em có nhiều tiến bộ. Tỷ lệ tử vong của trẻ em đã giảm xuống bằng với mức phổ biến ở những nước có thu nhập đầu người cao gấp 2-3 lần Việt Nam.. Tuổi thọ bình quân tăng lên 64 tuổi năm 1990.
*) Đánh giá:
- Thành công trong kế hoạch năm năm 1986 - 1990 không đơn thuần là phục hồi được sản xuất, kiềm chế lạm phát, tăng trưởng kinh tế... mà quan trọng hơn là đã chuyển đổ cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện 1 bước quá trình đổi mới đời sống kinh tế xã hội và giải phóng sức lao động.
- Tuy nhiên, các biện pháp đổi mới cơ chế quản lý phần lớn mới chỉ tác động trong những năm cuối lì kế hoạch năm 1986-1990, nên mức độ thực hiện các mục tiêu đề ra trong kế hoạch còn hạn chế:
+ Đất nước vẫn chưa thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội. Kinh tế phát triển chậm và không ổn định.
+ Hầu hết các cân đối lớn đều rất căng thẳng: thâm hụt ngân sách chiếm 8% GDP. Lạm phát phi mã tuy đã đẩy lùi nhưng vẫn còn cao.
+ Thu nhập bình quân đầu người rất thấp, tỷ lệ tiết kiệm nội địa hầu như không đáng kể, thị trường khan hiếm, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
+ Cơ sở vật chất, kỹ thuật phần lớn xuống cấp nghiêm trọng cả về số lượng lẫn chất lượng.
Tuy 1 số chỉ tiêu định lượng đạt tháp so với mục tiêu đề ra, nhưng nền kinh tế đã bắt đầu có những chuyển biến tích cực, đã tạo ra 1 số nhân tố mới thúc đẩy chuyển biến bước đầu mở ra 1 thời kỳ phát triển mới cho những kế hoạch năm năm sau.
2. Giai đoạn 1991-2000:
2.1. Chính sách của chính phủ:
Mục tiêu tổng quát của giai đoạn 1991-2000 là “ chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000: ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế xã hội, phấn đấu vượt tình trạng nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đơì sống nhân dân củng cố quốc phòng an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ 21. tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2000 tăng khoảng gấp đôi so với năm 1990”
B) Những thành tựu về tăng trưởng kinh tế:
Tình hình tăng trưởng được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Năm
GDPn danh nghĩa
GDPr thực tế
Tốc độ tăng trưởng
1991
76707
139634
1992
110532
151782
8.69
1993
140258
164043
8.08
1994
178534
178534
8.83
1995
228892
195567
9.54
1996
272036
213833
9.34
1997
313623
231264
8.15
1998
361017
244596
5.76
1999
399942
256272
4.77
2000
441646
273666
6.79
Tốc độ tăng trưởng bình quân 7,5%/năm, tỷ lệ tiết kiệm bình quân đầu người tiếp tục tăng.
1990
1995
2000
Tốc độ tăng GDP bình quân hàng năm (%)
Trong đó
Nông lâm ngư nghiệp %
Công nghiệp và xây dựng %
Dịch vụ %
Kim nghạch xuất khẩu (tỷ USD)
Kim nghạch nhập khẩu (tỷ USD)
Tiết kiệm so với GDP %
Chỉ số giá tiêu dùng %
4,4
3,1
4,7
5,7
2,4
2,7
8,5
67,1
8,2
4,1
12,0
8,6
5,4
8,1
22,8
12,7
6,9
4,3
10,6
5,75
14,5
15,2
27,0
-0,6
Nguồn: Tổng cục thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
- Tỷ lệ tiết kiệm và thu nhập bình quân trên đầu người tiệp tục tăng. So với năm 1990 tỷ lệ tiết kiệm trong nước so với GDP năm 2000 gấp 2,5 lần và GDP bình quân đầu người năm 2000 tăng 1,8 lần. Tích luỹ vốn tăng lên đáng kể tổng tích luỹ gộp so với GDP tăng từ 14,4% năm 1990 lên 29% vào năm 2000.
- Các nghành nông nghiệp, công nghiệp dựoc duy trì và phát triển khá cao. sản xuất nông nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng khá và toàn diện bình quân 1991-2000 đạt 5,6%/năm, lương thực bình quân đầu người tăng từ 303 kg năm 1990 lên 444kg năm 2000. nước ta đã tự túc được lương thực và xuất khẩu mỗi năm trên 3 triẹu tấn. kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản tăng khá từ 1 tỷ USD năm 1990 lên hơn 4,3 tỷ USD năm 2000 bằng khoảng 4 lần so với năm 1990. công nghiệp tiếp tục phát triển với tốc độ cao góp phần quan trọng trong việc ổn định kinh tế xã hội và xoá đói giả nghèo.
- Tự do hoá thương mại đã có tác động mở rộng thị trường xuất khẩu thúc đẩy kim nghạch xuất khẩu và nhập khẩu tăng nhanh. Mức độ mở của nền kinh tế thể hiện thông qua tỷ giá thương mại trên tổng sản phẩm quốc dân (hoặc tổng giá trị xuất nhập khẩu tính trên GDP) đã tăng mạnh từ 58,2% và năm 1998 lên 111% năm 2000. Năm 2000 giá trị xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ đã tăng 3,6 lần so với năm 1991, trong khi giá trị nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ tăng 3,2 lần. Chính sách tự do hoá thương mại đã tạo động lực khuyến khích mạnh mẽ các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài tham gia trực tiệp và hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.
- Chúng ta đã khống chế lạm phát trong vòng kiểm soát: chỉ số lạm phát đo bằng chỉ số giá CPI được khống chế ở mức 67% năm 1990 giảm liên tục xuống còn 12,7% năm 1995 và -0,6% năm 2000. thành quả này hết sức quan trọng tạo điều kiện kinh tế vi mô ổn định.
- Nguồn vốn toàn xã hội tăng mạnh bao gồm vốn trong nước và nứoc ngoài,. nguồn vốn trong nước đã khai thác khá hơn chiếm 60% tống vốn đồu tư xã hội, trong đó khu cức dân cư và tư nhân đóng vai trò quan trọng.
2.2. Tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội:
* Tăng trưởng kinh tế với giải quyết việc làm và giảm nghèo:
- Trước hết về thu hút lao động. Trong khi số lao động làm việc trong khu vực nhà nước từ 3,4 triệu người năm 1990 chỉ tăng lên 3,5 triệu người vào năm 2000 (chỉ tăng 100000 người sau 10 năm), thì tại khu vực ngoài nhà nước tổng số lao động làm việc tăng hơn 7 triệu người, giảm tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn. tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị 6-7%, tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn còn dưới 30% và ngày càng giảm đi.
- Giả quyết việc làm là điều kiện quan trọng nâng cao thu nhập thực hiện xoá đói giảm nghèo. Theo đánh giá cục điều tra mức sống tỷ lẹ hộ nghèo theo mọi tiêu thức hai giữa hai kỳ điều tra đã giảm hơn một nửa. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn quốc tế năm 1992-1993 là 57% đến năm 2002 chỉ còn 29%. Năm 2000 cả nước còn 2,8 triệu hộ nghèo ( theo chuẩn nghèo Việt Nam) chiểm 17,2% số hộ trong cả nước trong đó: 9,5% ở thành thị, 28% ở vùng núi và 62,5% ở vùng nông thôn đồng bằng.
- Mặc dù thu nhập qua các năm đều tăng. Nhưng người giàu có khả năng tăng thu nhập nhanh hơn người nghèo. Khoảng cách 20% dân cư giàu nhất và 20% dân cư nghèo nhất từ mức 6-7 lần những năm đầu giai đoạn lên 8-9 l vào năm 2000. chỉ số GINI (0<g<1) phản ánh độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập càng gần 1 thì càng bất bình đẳng. Năm 2000 hệ số GINI là 0,36 thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực như: Trung Quốc (0,4), Thái Lan (0,41), Philippine (0,46), Mailaysia (0,49) do đó được đánh giá tốt hơn.
* Tăng trưởng kinh tế kết hợp với phát triển giáo dục- y tế- văn hóa:
- Đời sống nhân dân đã có nhiều cải thiện, các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội và cải thiện đời sống các tầng lớp dân cư ở thành thị và nông thôn nhất là mục tiêu xoá đói giảm nghèo đạt kết quả rõ rệt.
- Trong 10 năm qua, tuổi thọ bình quân tăng từ 64 tuổi vào năm 1990 lên 68 tuổi và năm 2000; tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi giảm từ 51,5% xuống còn 33,1%; tỷ suất tử vong trẻ em dưới 5 tuổi giảm từ 81/1000 xuống còn 42/1000.
- Tỷ lệ hộ nông dân dùng nước sạch tăng lên gấp đôi; tỷ lệ nhập học theo đúng độ tuổi ở bậc tiểu học đạt 95%... tỷ lệ các xã không có hoặc thiếu cơ sở hạ tầng thiế yếu đã giảm rất nhiều (năm 2000 có 88% số xã đã có điện, 95% số xã có đường ô tô đến trung tâm xã). Chỉ số phát triển con người và tiệp cận các dịch vụ xã hội được cải thiện rõ rệt, mặc dù GDP tính theo đầu người năm năm 1999 xếp hạng thứ 167 song chỉ số phát triển con người (HDI) được xếp hạng 101 thuộc loại trung bình thế giới với chỉ số 0,682 (năm 1990 xếp thứ 121 với chỉ số HDI là 0,456).
*) Đánh giá:
Kinh tế phát triển nhanh với tốc độ tăng trưởng tương đối cao, đưa đát nước thoát ra khỏi tình trạng siêu lạm phát và khủng hoảng kinh tế. Cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang giai đoạn hoàn thiện cơ chế mới theo chiều sâu.
Đã thành công trong việc mở cửa hội nhập quốc tế.
Đời sống nhân dân cải thiện rõ rệt lĩnh vực văn hoá giáo dục y tế nâng cao.
Còn nhiều hạn chế và yếu kém: Tiềm lực kinh tế còn non yếu hiệu quả sản xuất kinh doanh năng lực lao động xã hội thấp, hàng hoá dịch vụ thiếu tính cạnh tranh. Một số vấn đề xã hội bức xúc, gay gắt cần được giải quyết như việc làm, tệ nạn xã hội, y tế ... Nguồn nhân lực tương đối lớn nhưng chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu của đổi mới.
3.Giai đoạn năm 2001 – 2010:
* Mục tiêu tổng quát của chiến lược 10 năm 2001 - 2010 là:
- Đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất văn hoá tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thanh nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, nâng cao khoa học công nghệ kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản vị thế nước ta trên thị trường quốc tế được nâng cao.
3.1. Kế hoạch 5 năm 2001-2005:
3.1.1. Những thành tựu đạt được:
- Các chỉ tiêu kinh tế của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2001-2005 do quốc hội thông qua tại Nghị Quyết quốc hội số 55/2001/QH/10 như sau:
Chỉ tiêu
Thời kỳ 1996-2000
Thời kỳ 2001-2005
Tốc độ tăng trưởng
Trong đó:
+ Khu vực nông lâm thuỷ sản
+ Khu vực công nghiệp xây dựng
+ Khu vực dịch vụ
6,9
4,4
10,6
5,7
7,5
3,8
10,2
7,0
Tốc độ tăng giá trị
sản xuất:
+ Nông, lâm, thuỷ sản
+ Công nghiệp
+ Dịch vụ
6,75
13,9
6,8
5,4
16,0
7,6
Thu ngân sách nhà nước
20,7
23,8
Bội chi ngân sách so với GDP
3,9
4,9
5. Chỉ số giá tiêu dùng và dịch vụ
3,3
5,1
- Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 7,5%/năm đạt kế hoạch đặt ra cao hơn 5 năm trước 0,6 điểm phầm trăm. Trong đó nông, lâm nghiệp, thuỷ sản tăng 3,8%; khu vực công nghiệp tăng 10,2%; khu vực dịch vụ tăng 7%.
- Giá trị sản xuất nông lâm ngư nghiệp tăng 5,4% (kế hoạch 4,8%).
- Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 16% (kế hoạch là 13,1%).
- Giá trị các nghành dịch vụ tăng 7,6% (kế hoạch 7.5%).
- Tỷ trọng nông lâm ngư nghiệp trong GDP đến năm 2005 đạt 20,89% (kế hoạch 20_21%); công nghiệp và xây dựng đạt 41,03% (kế hoạch 38-39%); dịch vụ đạt 38,08% (kế hoạch 41-42%).
Bảng số liệu tỷ trọng các ngành 2001 - 2005
Năm
Nông nghiệp (%)
Công nghiệp (%)
Dịch vụ (%)
2001
23,24
38,13
38,63
2002
23,03
38,49
38,48
2003
22,54
39,47
37,99
2004
21,81
40,21
37,98
2005
20,97
41,02
38,01
(Bảng số liệu Tổng cục thống kê, Niêm giám thống kê)
- Cơ cấu kinh tế chuyển theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Tỷ trọng các nghành đã tăng lên đáng kể. Chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp đạt nhiều kết quả.
- Kim nghạch xuất khẩu tăng 17,5% (kế hoạch 14-16%). Đã vượt kế hoạch đặt ra, tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2005 bằng 60% GDP và đạt 390USD/ người. Vốn ODA và FDI liên tục tăng có chuyển biến tích cực góp phần lớn vào tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này.
Nguồn vốn
Lượng vốn (tỷ USD)
(2001-2005)
Giải ngân vốn (tỷ USD)
(2001-2005)
ODA
13,3
8,2
FDI
16
13
- Công tác vay trả nợ nước ngoài được quản lý tốt. công tác đối ngoại tăng cường, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá, mở rộng quan hệ các nước. Vị thế nước ta nâng cao trên trường quốc tế.
* Thứ hai: tăng trưởng kết hợp với giải quyết việc làm và giảm nghèo:
- Vấn đề giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp đã đạt được những thành tựu to lớn. Hằng năm nước ta có khoảng 1,7 triệu người bước vào độ tuổi lao động, số lượng lao động tăng hằng năm khoảng 2%/năm. Năm 2000 nước ta có 37,6 triệu lao động, năm 2005 là 42,5 triệu. Số lao động được giải quyết việc làm bình quân hằng năm khoảng 1,5 đến 1,6 triệu người. Tỷ lệ thất nghiệp thành thị giảm từ 6,28% năm 2000 xuống còn 5,31% năm 2005. Tuy nhiên vùng nông thôn tỷ lệ thiếu việc làm vẫn ở mức khá cao. Tạo việc làm và bổ sung việc làm mới cho khoảng 7,5 triệu người.
- Đời sống của người dân không ngừng được cải thiện thu nhập bình quân đầu người tăng từ 5,7 triệu đồng năm 2000 lên trên 10 triệu đồng năm 2005 tăng 12,1%/năm.
- Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo vào năm 2005 đạt 25% chưa đạt được kế hoạch đặt ra (kế hoạch 30%)
- Công tác xoá đói giảm nghèo đạt thành tựu nổi bật, nhiều biện pháp xoá đói giảm nghèo thực hiện tốt. Người nghèo từng bước tiếp cận với dịch vụ xã hội cơ bản, cơ sở hạ tầng ở vùng nghèo, xã nghèo được tăng cường nhất là vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bằng dân tộc thiểu số. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo nước ta trong giai đoạn 2001-2005 ( Chuẩn nghèo nước ta năm 2001-2005 100.000 VNĐ/1người/1 tháng ở khu vực nông thôn, miền núi và 150.000 VNĐ/1người/1tháng khu vực thành thị) đã giảm hơn một nửa từ 17,5% năm 2001 xuống còn 7% năm 2005. Đời sống người nghèo nâng cao.
* Thứ ba:Tăng trưởng kết hợp với giáo dục- y tế- văn hoá xã hội:
- Việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội có chuyển biến tích cực.
Chỉ số phát triển con người không ngừng tăng lên:
Năm
Chỉ số phát triển con người
(HDI)
Thứ hạng nước ta đứng thứ mấy so với các nước
2001
0,682
101/162
2002
0,688
109/173
2003
0,688
109/175
2004
0,691
112/177
2005
0,704
108/177
- Năm năm giá trị tăng 0.022 (tức 2,22%) vẫn đứng ở mức dưới 100 nước đứng sau nhóm có HDI trung bình. Trong đó tuổi thọ trung binh vào năm 2005 khoảng 71,3 tuổi đã vượt kế hoạch (kế hoạch 70 tuổi). Đáp ứng 45% thuốc chữa bệnh được sản xuât trong nước cượt kế hoạch đặt ra (kế hoạch 40%). Tỷ lệ học sinh phổ thông trung học đi học trong độ tuổi vào năm 2005 đạt khoảng 50% (kế hoạch 45%).
- Hoạt động văn hoá, thông tin, báo chí, tiếp tục phát triển đa dạng đổi mới về nội dung và hình thức góp phẩn cải thiện đời sống tinh thần người dân. tiếp tục bảo tồn phát huy truyền thống của dân tộc.
3.1.2 Nguyên nhân:
- Thứ nhất: kiên trì thực hiện đổi mới phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; bước đầu đã hoàn thiện và đồng bộ các chính sách cơ chế quản lý kinh tế, xã hội, nhiều chủ trương chính sách về phát huy nội lực và phát triển lĩnh vực xã hội tạo việc làm và xoá đói giảm nghèo đã phát huy tác động tích cực đối với quá trình phát triển đất nước.
- Thứ hai: Do sự quan tâm của quốc hội vào những lĩnh vực then chốt (thu hút vốn đầu tư, đẩy mạnh xuất khẩu, khắc phục hậu quả tương lai, dịch bệnh, giải quyết những bức xúc về xã hội , hội nhập kinh tế quốc tế …) sự quyết tâm phấn đấu nhiệm vụ kế hoạch năm năm 2001-2005 các doanh nghiệp đã từng bước trưởng thành trong cơ chế thị trường, ngày càng năng động trong việc nắm bắt nhu cầu thị trường tổ chức sản xuất phù hợp có hiệu quả.
- Thứ ba: do nguồn vốn huy dộng ngày càng cao thúc đảy tăng trưởng kinh tế góp phần xoá đói giảm nghèo, làm tăng năng lực sản xuất của nhiều nghành, có thêm công nghệ hiện đại tăng khả năng cạnh tranh.
3.2 Các chỉ tiêu đặt ra năm 2006-2010
* Về kinh tế:
- Đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000. năng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, một phần đáng kể nhu cầu sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu.
- Kim ngạch xuất khẩu tăng 16%/ năm
- Tỷ lệ huy động GDP hàng năm vào ngân sách đạt 21%- 22%
- Vốn đầu tư toàn xã hội hàng năm đạt khoản 40% GDP
* Về xã hội:
- Tốc độ dân số khoảng 1,14%.
- Lao động nông nghiệp chiểm dưới 50% lao động xã hội.
- Tạo việc lào cho trên 80 triệu lao động, tỉ lệ thất nghiệp ở đô thị dưới 5% .
- Tỷ lệ hộ nghèo còn khoảng 10%-11%.
- Hoàn thành phổ cập giáo dục cơ sở, lao động dã qua đào tạo chiếm 40% tổng lao động xã hội.
- Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới năm tuổi xuống dưới 20%.
* Về môi trường:
- Tỷ lệ che phủ rừng 42%-43%
- Tỷ lệ dân cư được sử dụng nước sạch ở đô thị là 95%, ở nông thôn 75%.
- Tỉ lệ các cơ sở sản xuất mới xây dựng phải áp dụng công nghệ sạch hoặc trang bị các thiết bị giảm ô nhiễm, xử lý chất thải 100% , tỷ lệ các cơ sở sản xuất kinh doanh đạt tiêu chuẩn môi truờng trên 50%. Xây dựng hệ thống xử lý nước thải tại 100% số đo thị loại 3 trở lên, 50% số đô thị loại 4 và tất cả các khu công nghiệp khu chế xuất , 80%-90% chất thải rắn, 100% chất thải y tế được thu gom xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường.
Tình hình kinh tế:
• Tăng trưởng kinh tế:
Bảng số liệu tăng truởng nước ta từ năm 2006_2007:
Năm
GDPn danh nghĩa
GDPr thực tế
Tốc độ tăng trưởng
2006
974266
425373
8.23
2007
1144015
461443
8.48
- Tốc độ tăng trưởng vẫn duy trì ở mức cao trên 8%. Thu nhập bình quân đầu người năm 2007 là 833 USD. Thu nhập bình quân đầu người đứng thứ 122/177.
- Việt nam trong quá trình thực hiện mục tiêu vượt ngưỡng các nước đang phát triển có thu nhập thấp. Kết quả là GDP/người của Việt nam có sự gia tăng đáng kể (xem bảng dưới).
Biểu đồ 3 : Mức thu nhập bình quân đầu người Việt Nam (2000 – 2008)
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
- Qua bảng, nếu năm 2000 mới chỉ đạt 402 USD, đến năm 2007 thu nhập bình quân đầu người đạt 835 USD, tăng 14,5% so với năm 2006. GDP bình quân đầu người năm 2008 của Việt Nam đạt 1028 USD, cao gấp 8,7 lấn với năm 1990 (chỉ đạt 118$/người) và thu nhập bình quân đầu người tăng gấp 2,6 lần so với năm 2000 .
- Như vậy là đến năm 2008, thu nhập bình quân trên đầu người của chúng ta là 1028$, so với mức của nước có thu nhập thấp do WB xác định trong báo cáo phát triển thế giới 2008 là 905 thì lần đầu tiên chúng ta vượt ngưỡng các nước có mức thu nhập thấp. Có thể nói đây là một kỳ tích mà chúng ta đã phấn đấu không mệt mỏi, từ một mức thu nhập dưới 200 USD năm 1990 và năm 2000 cũng mới chỉ là 400 USD.
Về giáo dục:
- Năm 2006 cả nước có khoảng 93000 lớp mẫu giáo với 112,8 ngàn giáo viên, hơn 16 triệu học sinh với hơn 789 nghìn giáo viên, có 299 trường Đại học và Cao đẳng với 53,4 nghìn giảng viên, 1666,2 nghìn sinh viên, có 269 trường trung cấp với 14,5 nghìn giáo viên, 468,8 nghìn học sinh, số sinh viên tốt nghiệp Đại học và Cao đẳng là 230 nghìn người, tốt nghiệp các trường trung cấp là 149,3 nghìn người. Tổng số người đi học lên tới 23,2 triệu người, bình quân 1 vạn dân có 2841 người đi học, tỷ lệ trẻ em đi học mẩu giáo khoảng 50%, tỷ lệ người lớn biết chữ tăng từ 88% năm 1993 lên 90,3% năm 2003 và 94 % năm 2006. Bên cạnh hệ công lập, hệ ngoài công lập cũng có những bước phát triển mạnh để khai thác nguồn lực xã hội, chia sẻ với nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân.
Tỷ lệ chi phí cho giáo dục ở Việt Nam 2000-2005
2000
2002
2003
2004
2005
Tổng chi cho giáo dục(1000tỷ)
23,219
34,088
37,552
54,223
68,968
Tỷ lệ chi/GDP(%)
5,3
7,8
6,1
7,6
8,3
Tỷ lệ NS cho giáo dục/GDP
3,2
4,7
3,7
4,6
5
- Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đạt khoảng 18,25% tổng chi ngân sách giai đoạn 2001-2006. Tỷ lệ chi phí cho giáo dục/GDP là 8,3% nhưng do tổng GDP của nước ta rất thấp nên chi phí cho một học sinh ở Việt Nam vẫn thấp xa so với các nước. Tuy nhiên xét về mặt nào đó thì đó là một cố gắng lớn của Đảng và nhà nước trong sự nghiệp phát triển giáo dục đào tạo.
Về y tế:
- Công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân có những tiến bộ đáng kể. Tuổi thọ bình quân nếu năm 1995 mới đạt 62,5 tuổi thì đến năm 2007 đã đạt 73,3 tuổi. Tuổi thọ tăng do những thành tựu về y tế và chăm sóc sức khoẻ. Đến năm 2006 số cơ sở khám chữa bệnh là 13232 cơ sở với 198,4 giường bệnh và hơn 200 nghìn cán bộ y tế, bình quân có khoảng 6,3 bác sỹ trên một vạn dân. Số hộ ở nông thôn được sử dụng nước sạch đạt tỷ lệ 62%;
- Chỉ số phát triển con người năm 2007 đạt 0,733 đứng thứ 105 tăng 4 bậc so với năm 2006 (đứng 109). Chỉ số GEM (thước đo quyền lực giới tính) nước ta đứng thứ 52/93 nước. Chỉ số HDI đứng ở vị trí 105 còn bình quân thu nhập theo đầu người đứng thứ 122 cho thấy sự tăng trưởng kinh tế có mức độ lan tỏa rộng hơn cho phát triển con người
- Về khía cạnh công bằng xã hội cũng bộc lộ một số yếu kém. Khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa thành thị và nông thôn, giữa miền xuôi và miền núi đang có xu hướng dãn ra. Hệ số GINI của Việt Nam vẫn ở mức cao và có xu hướng tăng, việc xoá đói giảm nghèo có xu hướng chậm lại, số hộ tái nghèo tăng lên.
Năm
1993
1994
1995
2002
2004
2006
Hệ số GINI
0,34
0,35
0,357
0,37
0,423
0,36
Những yếu kém:
- Tăng trưởng còn dưới khả năng phát triển của đất nước và thấp hơn nhiều nước trong khu vực ở thời kì công nghiệp hoá; chất lượng phát triển còn thấp năng lực cạnh tranh nền kinh tế còn yếu .(hệ số ICOR cao).
ICOR của VN với các nước trong thời kỳ tăng trưởng nhanh.
Thời kỳ tăng trưởng nhanh
Tỷ lệ đầu tư (%GDP)
Tỷ lệ tăng trưởng (%)
ICOR
Việt Nam
2001-2005
2006
2007
2008
37,7%
40%
---
43%
7,5
8,17
7,48
6,5
5,0
5,01
---
5,8-6
- Chưa phát triển kinh tế theo chiều sâu, chưa kết hợp thật tốt giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và chăm lo đúng mức cho sự phát triển con người khai thác, sử dụng tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ cải thiện môi trường.
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm và chưa đồng đều chưa phát huy tốt thế mạnh trong từng nghành từng vùng, từng sản phẩm, cơ cấu dịch vụ chưa có sự chuyển dịch đáng kể dịch vụ cao phát triển chậm. Trong nông nghiệp sản xuất chưa gắn kết chặt chẽ cà có hiệu quả cao tới thị trường, ứng dụng khoa học công nghệ còn chậm, thiếu tính bền vững.
- Tỷ trọng công nghiệp gia công lắp ráp còn lớn; công nghiệp bổ trợ kém phát triển, tốc độ đổi mới công nghệ còn chậm. Tỷ trọng dịch vụ còn thấp chưa có chuyển biến rõ nét. tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp so với yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Thể chế thị trường định hường xã hội chủ nghĩa còn nhiều hạn chế. Thị trường thu hút vốn, thị trường tài chính, thị trường khoa học công nghệ, thị trường lao động, thị trường bất động sản còn nhiều bất cập, còn vi pham nhiều nguyên tắc thị trường.
- Cơ chế, chính sách văn hoá chậm được đổi mới và cụ thể hoá nhiều vấn đề xã hội bức xúc cần giải quyết.
* Chất lượng giáo dục còn thấp kém, hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước. Hệ thống giáo dục phát triển chưa cân đối giữa giáo dục nghề nghiệp với giáo dục trung học phổ thông và giáo dục đại học; đào tạo nghề còn thiếu số lượng, yéu về chất lượng chưa đáp ừng nhân lực có tay nghề cao cho nghành kinh tế. Công tác quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo chậm đổi mới và nhiều bất cập.
* Khoa học công nghệ chưa phát huy tác dụng tích cực đến việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Cơ chế quản lý khoa học công nghệ còn mang năng tính bao cấp. Viện nghiên cứu chưa thực sự gắn kết với thực tiễn sản xuất, kinh doanh chất lượng còn thấp. Đầu tư khoa học công nghệ còn thấp phân tán.
* Thành tựu về xoá đói giảm nghèo chưa thực sự vững chắc, tỷ lệ hộ tái nghèo còn cao; nhiều chính sách hỗ trợ người nghèo, vùng nghèo chưa thực hiện tốt. chênh lệch giàu nghèo giữa khu vực miền núi và thành thị ngày càng gia tăng. đời sống nhiều dân tộc thiểu số còn khó khăn.
- Sự bất bình đẳng về thu nhập giữa các vùng miền, giữa các tầng lớp dân cư có xu hướng ngày càng gia tăng. Điều này thể hiện trên cả 3 khía cạnh.
- Một là, khoảng giãn cách thu nhập giữa hai đầu giầu và nghèo ngày càng xa. Khoảng dãn cách thu nhập đo bằng Hệ số chênh lệch về thu nhập bình quân đầu người giữa nhóm hộ thu nhập cao nhất (20%) và nhóm hộ thu nhập thấp nhất (20%) ngày càng gia tăng (Biểu đồ dưới):
Chênh lệch về thu nhập bình quân đầu người giữa nhóm hộ thu nhập cao nhất và nhóm hộ thu nhập thấp nhất.
Thực tế cho thấy, Nếu năm 1990, sự cách biệt về thu nhập của 20% số hộ giàu nhất và 20% số hộ nghèo nhất chỉ là 4,1 lần, năm 1995 là 7,0 lần, năm 1999 là 7,6 lần, năm 2002 là 8,1 lần, năm 2004 là 8,34 lần và năm 2006 là 8,37 lần. Hệ số chênh lệch về thu nhập giữa nhóm hộ thu nhập cao nhất và nhóm hộ thu nhập thấp nhất ở khu vực thành thị cao hơn ở nông thôn (năm 2002: thành thị là là 8,0 lần, nông thôn 6 lần; năm 2004 là 8,1 và 6,4 lần; năm 2006 là 8,2 lần và 6,5 lần). Theo vùng lãnh thổ, chênh lệch cao nhất năm 2006 là ở Đông Nam Bộ (8,8 lần), thấp nhất là ở Bắc Trung Bộ (6,3 lần).
Hai là, tỷ trọng thu nhập của những người nghèo nhất ( thu nhập của 40% dân số có thu nhập thấp nhất) có xu hướng chiếm ngày càng thấp đi trong tổng thu nhập dân cư
Số liệu thống kê từ các cuộc Điều tra mức sống hộ gia đình của Việt Nam (VHLSS) các năm cho thấy, tổng thu nhập của 40% số hộ có thu nhập thấp nhất so với các nhóm còn lại giảm dần: năm 1995 là 21,1%, năm 1999 là 17,98%, năm 2002 là 17,4%, năm 2004 là 17,4% và 2006 là 17,47%. Điều này cho thấy mức bình đẳng tương đối về thu nhập có xu hướng xấu đi, chúng ta đã bị chuyển từ nhóm nước có mức độ công bằng xã hội cao sang nhóm nước có mức độ công bằng xã hội vừa.
Ba là, Sự bất bình đẳng chung có xu hướng gia tăng rõ ràng
Đo lường bất bình đẳng theo hệ số GINI cho thấy xu hướng của hệ số này ở VN tăng lên, nhất là sau những năm 2000:
Năm
1993
1994
1995
2002
2004
2006
Hệ số GINI
0,34
0,35
0,357
0,418
0,423
0,43
Năm 1995 là 0,357; năm 1999 là 0,390; năm 2002 là 0,418; năm 2004 là 0,423; năm 2006 là 0,43. Điều này chứng tỏ sự bất bình đẳng giữa các nhóm dân cư vẫn chưa có chiều hướng được cải thiện. Bất bình đẳng thu nhập gia tăng cho thấy rằng thành quả của tăng trưởng đã không được phân bổ đồng đều giữa các tầng lớp dân cư. Thực tế này đặt ra câu hỏi: Có bao nhiêu phần trăm dân số Việt Nam có thu nhập ít nhất là ngang bằng với mức thu nhập bình quân đầu người? Nếu tỷ lệ này là cao thì việc vượt ngưỡng nước đang phát triển có thu nhập thấp mới thực sự có ý nghĩa. Kết hợp với các số liệu về tỷ lệ nghèo ở trên ở các vùng trong cả nước, cho thấy tỷ lệ người sống dưới mức vượt ngưỡng nước nghèo còn khá lớn. Chúng ta còn phải phấn đấu nhiều hơn nữa cho mục tiêu vượt ngưỡng nghèo đích thực.
Những tồn tại bất bình đẳng trong xã hội còn diễn ra gây khó khăn cho xoá đói giảm nghèo và tăng trưởng. Công tác chăm sóc còn nhiều bất cập sản xuất, quản lý và sử dụng thuốc chữa bệnh còn yếu kém, thiếu xót, những vi phạm y đức còn chậm phát hiện và xử lý. Một số tệ nạn xã hội tội phạm còn gia tăng. Tai nạn giao thông còn nghiêm trọng.
Giải pháp:
Từ năm 2006 trở đi, Việt Nam bước vào thời kỳ kế hoạch mới, đặc biệt lại trở thành thành viên chính thức của WTO (năm 2007), triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế nước ta được dự báo bằng những con số thực sự lạc quan và có căn cứ, đáng tin cậy, nhưng đó chỉ là một vế cuả bài toán phát triển mà Việt Nam lựa chọn. Một nền kinh tế tăng trưởng nhanh không phải luôn đồng nghĩa với một nền kinh tế mạnh, nhất là khi chúng ta đang sống trong một thế giới hội nhập và cạnh tranh khốc liệt. Việc tìm ra quan điểm đúng đắn trong việc lựa chọn mô hình và chính sách tăng trưởng kết hợp với giải quyết vấn đề công bằng xã hội, phù hợp cho giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế là điều quyết định cho phép xác định rõ triển vọng của nền kinh tế, tạo sức hấp dẫn và khả năng duy trì sự phát triển dài hạn. Chúng ta có thể hướng tới những sự thay đổi sau đây
(1) Thay đổi tư duy về mô hình tăng trưởng, từ đó có sự thay đổi trong cách tiếp cận hệ chính sách và giải pháp giải quyết vấn đề.
Trước hết và đóng vai trò quyết định là có một tư duy đúng về mô hình tăng trưởng kinh tế cần hướng tới. Cốt lõi của tư duy này là: giải quyết vấn đề tốc độ tăng trưởng phải trên nền tảng giải quyết vấn đề chất lượng tăng trưởng. Theo đó, trong dài hạn, cần chấm dứt quan điểm phải đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh với mọi giá theo mô hình tăng trưởng nhờ khai thác chiều rộng, tăng trưởng nhờ dốc sức vào tăng khối lượng vốn đầu tư và vào khai thác tài nguyên; chuyển dần sang mô hình sang mô hình tăng trưởng dựa vào hiệu quả và bền vững, tập trung nhiều hơn, quyết liệt hơn vào mục tiêu chất lượng dài hạn. Cụ thể là, cần chú trọng nâng cao hiệu quả đầu tư, hướng vào các điểm cực tăng trưởng dài hạn của nền kinh tế trên cơ sở nguyên lý phân phối nguồn lực đóng vai trò quyết định, tuân theo quy luật tự do cạnh tranh lành mạnh. Từ những tư duy về mô hình tăng trưởng kinh tế hợp lý, thực hiện đẩy mạnh cải cách thể chế, chú trọng tạo lập những cơ sở nâng cao năng lực cạnh tranh củng cố các cơ sở tăng trưỏng dài hạn. Tuy nhiên cũng cần phải xác định rõ lộ trình cho việc thực hiện chuyển đổi mô hình tăng trưởng, trước mắt, một sự kết hợp theo kiểu "lưỡng nan" trong điều kiện chúng ta đồng thời phải thực hiện của 2 nhiệm vụ tăng trưởng nhanh và tăng trưởng hướng về chất lượng trở nên hợp lý hơn và trong quá trình đó hướng dần sự phát triển theo đúng quy luật của nó.
(2) Nâng cao hiệu quả của các chỉ tiêu tăng trưởng. Việt Nam là một quốc gia đang phát triển có nhiều lợi thế về tài nguyên và nguồn lao động, tuy vậy, những dấu hiệu của lợi thế ấy cũng đang có biểu hiện giảm sút dần; mặt khác khi đã gia nhập tổ chức thương mại quốc tế, sức ép của cạnh tranh quốc tế buộc chúng ta phải quan tâm đến hiệu quả của tăng trưởng, hiệu quả của các hoạt động kinh tế, nếu không sẽ luôn luôn gặp bất lợi, chịu thua thiệt trong các mối quan hệ thương mại, và cuối cùng sẽ bị thất bại trên các đấu trường quốc tế, thậm chí trên cả chính sân nhà. Cần phải nâng cao hiệu quả tăng trưởng, chuyển hướng hoạt động của nền kinh tế theo các khía cạnh chiều sâu của sự phát triển, cụ thể là: nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trình độ khoa học công nghệ, tăng cường ảnh hưởng của nhân tố TFP, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng năng suất lao động, hướng hoạt động của nền kinh tế theo các ngành, các lĩnh vực tạo nhiều giá trị gia tăng, giảm chi phí trung gian, chủ động sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm hàng hóa có dung lượng công nghệ cao trên cơ sở khai thác triệt để lợi thế của đất nước và thực hiện đồng bộ hóa quá trình khai thác và chế biến sản phẩm.
(3) Phải có tầm nhìn dài hạn trong mục tiêu tăng trưởng kinh tế.
Trên thực tế, để tránh nguy cơ tụt hậu ngày càng xa, các nước đang phát triển bị cuốn hút vào vòng xoáy của cơn lốc tăng trưởng nhanh với hy vọng cải thiện mức sống dân cư, làm cho bộ mặt nền kinh tế nhanh khởi sắc. Chúng ta thường quan tâm đến việc đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm sau cao hơn năm trước để rồi gồng mình lên, bằng mọi giá thực hiện cho được mục tiêu này. Nhiều nước, đã tạo được sự thần kỳ tăng trưởng trong hàng chục năm liền nhưng sau đó rơi vào thảm họa trì trệ, suy thoái kéo dài, điều đó có nghĩa là trong ngắn hạn và kể cả trung hạn tốc độ tăng trưởng có thể đạt được rất cao nhưng vãn có thể thua trong cuộc đua tranh phát triển dài hạn. Cần phải có cái nhìn dài hạn trong tăng trưởng, quan điểm này đặt ra cho các nhà hoạch định chính sách tăng trưởng hướng đến các chính sách để tạo ra, duy trì và củng cố các cơ sở tăng trưởng dài hạn như yếu tố vốn nhân lực, cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật, một cấu trúc kinh tế hợp lý, cân đối, không dựa trên cơ sở vay mượn. Theo thông điệp này, có thể phải chấp nhận tạm thời trong một số năm trước mắt nền kinh tế không đạt được tốc độ tăng trưởng cao như kỳ vọng vì phải dốc sức vào việc tạo lập và củng cố cơ sở tăng trưởng dài hạn, nhưng suốt cả giai đoạn dài sau đó nó nhất định đạt được mục tiêu tăng trưởng cao và bền vững.
(4) Gắn tăng trưởng với việc tạo tác động lan tỏa tích cực đến các đối tượng chịu ảnh hưởng.
Quan điểm này muốn hướng tăng trưởng kinh tế tới các mục tiêu phát triển bền vững. Theo đó, vấn đề quan trọng không phải là bám đuổi mục tiêu tăng trưởng nhanh mà là duy trì một mục tiêu tăng trưởng hợp lý trong mối quan hệ răng buộc với những điều kiện về tài nguyên môi trường và các vấn đề xã hội. Một mặt, đối với vấn đề tài nguyên môi trường, tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với: bảo đảm sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên, nâng cao khả năng tái sinh tài nguyên; phòng chống ô nhiễm môi trường, có phương án xử lý ô nhiễm, kỹ thuật phòng chống và giải quyết hệ quả của ô nhiễm, có chính sách kinh tế phù hợp áp dụng cho các cơ sở kinh tế gay ô nhiễm, tực hiện sự tham gia công đồng trong vấn đề này; thực hiện quá trình đa dạng hóa sinh học hình thành những vùngvệ tinh tạo yếu tố môi trường thuận lợi cho những khu vực có ô nhiễm. Mặt khác, đối với vấn đề xã hội, quá trình tăng trưởng kinh tế phải được kiểm soát thường xuyên, chặt chẽ bởi các chỉ tiêu phát triển xã hội, trong đó trọng tâm là vấn đề xóa đói giảm nghèo, công bằng xã hội, giải quyết việc làm, chỉ tiêu liên quan đến sự phát triển toàn diện cho con người như giáo dục, y tế, thể dục thể thao, văn hóa nghệ thuật, cá chỉ số giới và dân tộcv.v....Chính việc bảo đảm các chỉ tiêu xã hội và môi trường sẽ là yếu tố tích cực củng cố, duy trì khả năng tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Sử dụng chính sách phân phối thu nhập hợp lý sẽ giúp chúng ta thực hiện tốt được mục tiêu phát triển kinh tế toàn diện.
Tóm lại, về lý thuyết, nội hàm của phát triển kinh tế đã được khẳng định. Rõ ràng là chỉ có kết hợp đồng thời tăng trưởng kinh tế nhanh, có hiệu quả và thực hiện sự lan tỏa tích cực của nó đến cải thiện đời sống xã hội cho quảng đại quần chúng nhân dân thì sự phát triển kinh tế mới thực sự bền vững. Việt Nam đã lựa chọn đúng cách đi của mình trong thời kỳ đổi mới kinh tế. Thời gian tới, tiêp tục duy trì những thành quả đạt được và tìm ra những hướng đổi mới phù hợp, cao hơn nữa là có các chính sách đúng đắn hơn nữa trong thời kỳ chiến lược mới 2011 – 2020 về tăng trưởng kinh tế, thực hiện tốt chính sách phân phối thu nhập sẽ giúp Việt Nam nhanh chóng thực hiện được mục tiêu trước hết vượt ngưỡng nghèo, trở thành nước có mức thu nhập trung bình và tiến tới các tiêu chí của một nước công nghiệp mới.
Các tài liệu tham khảo chính.
Sách toàn cảnh nền kinh tế Việt Nam (Nhà xuất bản chính trị quốc gia).
Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo.
Tổng quan qui hoạch phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam.
Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm (2006-2010).
Lựa chọn con đường phát triển (Ngô Thắng Lợi).
Hội thảo khủng hoảng (Ngô Thắng Lợi).
Trang web: Tổng cục thống kê.
- Trang web: htp://72.14.235.132/search?q=cache:ZksjbyYT-9sJ:www.gso.gov.vn/Modules/Doc_Download.aspx%3FDocID%3D1502+he+so+gini+viet+nam+nam+1986&cd=65&hl=vi&ct=clnk&gl=vn&client=firefox-a.
MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI 1
I. Mô hình phát triển toàn diện – sự lựa chọn của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới kinh tế: 1
II. Các giai đoạn phát triển kinh tế việt nam từ năm 1986-2007: 3
1. Thời kỳ 1986-1990: 3
2. Giai đoạn 1991-2000: 8
2.1. Chính sách của chính phủ: 8
2.2. Tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội: 10
3.Giai đoạn năm 2001 – 2010: 13
3.1. Kế hoạch 5 năm 2001-2005: 13
3.1.1. Những thành tựu đạt được: 13
3.1.2 Nguyên nhân: 17
3.2 Các chỉ tiêu đặt ra năm 2006-2010 18
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21773.doc