Công tác đào tạo cán bộ TVTT đang đứng trước những vận hội và thử thách của xã hội thòng tin. Nền kinh tế tri thức của Internet và thư viện điện tử. Trong xã hội thông tin, thông tin và tri thức đã trở thành chiếc chìa khoá để phát triển kinh tế xã hội.
Bước vào thế kỷ XXI, cùng với nhân loại, Việt Nam đang sống trong một thời kỳ có nhiều biến động, công nghệ thông tin phát triển và thay đổi hàng ngày. Sự hình thành và phát triển của xu thế toàn cầu hoá, xu thế chuyển dịch sang nền kinh tế dựa trên tri thức, xu thế giao lưu văn hoá toàn cầu và xu thế đổi mới công nghệ thông tin với tốc độ cao đã và đang đặt ra cho các thư viện và cơ quan thông tin những thách thức mới, yêu cầu mới. Nội dung hoạt động mới của thư viện và các cơ quan thông tin đã gắn liền với sự xuất hiện các vật mang tin mới và việc sử dụng ngày càng sâu rộng công nghệ thông tin hiện đại.
97 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1653 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mô hình và giải pháp về đào tạo cán bộ thông tin thư viện ở Việt Nam trong điều kiện xã hội thông tin hiện đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hư viện phải là những chuyên gia đủ năng lực giúp đỡ người dùng tin hoặc tạo ra những sản phẩm được thiết kế riêng theo nhu cầu.
Định đề của C. Mooers - người sáng lập ra lý thuyết tìm tin, cho rằng "thông tin chỉ có giá trị khi bản thân nó (thông tin) có giá trị và được sử dụng", do đó đòi hỏi người cán bộ TVTT phải tích cực đưa thông tin, dữ liệu, tư liệu đến người sử dụng, chứ không phải chỉ đặt chúng trong kho bảo quản cực an toàn. Giao tiếp một cách chủ động và tích cực với người sử dụng thị trường, đẩy mạnh các mối tương tác giữa các cơ quan thông tin làm cho văn thông tin được quay vòng nhanh trong thực tiễn trở thành điều có ý nghĩa “cốt t” của hoạt động thông tin trong thời kỳ kinh tế vận hành theo định hướng thị trường.
Để hình thành đội ngũ cán bộ thư viện có những năng lực kể trên đòi hỏi các cơ sở đào tạo phải xây dựng được mô hình đào tạo thích ứng với các chương trình đào tạo hiện đại vừa đảm bảo tính chuyên môn hoá và thích ứng với các đặc thù của loại hình thư viện và cơ quan thông tin các học viên có nguyện vọng muốn tìm hiểu sâu. Điều quan trọng là khi xây đựng chương trình một mặt các trường phải tuân thủ các môn học cốt lõi của IFLA, một mặt vừa tạo ra nhiều môn tự chọn để sinh viên có thể lựa chọn các chuyên môn sâu. Khi xây dựng mô hình này có thể tham khảo thêm phương thức đào tạo cán bộ TVTT của các nước tiên tiến trên thế giới. Điều đó có nghĩa là nên đào tạo cử nhân và thạc sĩ thư viện học với nhiều hình thức và chương trình khác nhau:
Đối với trình độ đại học có thể đào tạo cho các học sinh có nguyện vọng học với tư cách là ngành thứ nhất. Đối với các học viên đã tốt nghiệp một bằng đại học khác, đào tạo thêm về mặt nghiệp vụ và thời gian nên tập trung từ 1 đến 2 năm.
Đối với trình độ cao học, đào tạo thạc sĩ cho cả hai đối tượng: những người đã tốt nghiệp đại học thư viện hoặc quản trị thông tin và những người tết nghiệp các đại học khác có nhu cầu công tác trong lĩnh vực thư viện. Đào tạo thạc sĩ thư viện học có thể chia thành 2 loại: thạc sĩ và thạc sĩ nghiên cứu. Để khẳng định vị thế của một ngành nghề và các trường đào tạo cán bộ TVTT chuyên nghiệp thiết yếu phải đào tạo trình độ tiến sĩ. Có thể tham khảo thêm mô hình của một số nước tiên tiến trên thế giới chỉ đào tạo sau đào tạo và khoá học sau đại học được tổ chức tập trung từ 1 đến 2 năm.
2. Các giải pháp về đào tạo cán bộ thư viện thông tin
2.1 Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo
Để nâng cao chất lượng đào tạo đòi hỏi các cơ sở đào tạo cần phải tiến hành đồng bộ biện pháp khác nhau như:
- Đổi mới chương trình đào tạo
- Đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập; phương pháp kiểm tra đánh giá.
- Xây dựng được một hệ thống giáo trình và tài liệu tham khảo
- Đảm bảo các điều kiện vật chất và kỹ thuật.
- Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ giảng dạy.
- Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ giảng dạy là một biện pháp nhưng đồng thời cũng là một giáp pháp hết sức quan trọng vì thế chúng tôi đạt biện pháp này thành một giải pháp và sẽ trình bày cụ thể trong phần sau. Trong phạm vi giải pháp này chúng tôi chỉ tập trung vào bốn nội dung kể trên.
Thứ nhất cần phải thiết kế được chương trình đào tạo định hướng vào công nghệ thông tin, đổi mới nội dung đào tạo. Chương trình phải theo kịp được yêu cầu phát triển. Với nhu cầu thực tiễn của xã hội thông lin đòi hỏi các huyên gia trong lĩnh vực thư viện học và thông tin học cần được đào tạo một cánh toàn diện với những định hướng chuyên ngành đa dạng hơn. Sinh viên cần phải được trang bị một cơ cấu kiến thức thích hợp để sau khi ra trường có năng lực, kỹ năng đa dạng có thể thu thập, xử lý, phân tích, lưu trữ , phổ biến và cung cấp thông tin dưới các dạng thức khác nhau theo yêu cầu của người đọc và người dùng tin. Yêu cầu đặt ra của thực tế là như vậy nhưng nhìn chung các chương trình đào tạo hiện nay còn bộc lộ một điểm yếu cơ bản là: hàm lượng tin học và công nghệ thông tin còn hạn chế. Nếu như trước đây các chương trình có thể áp dụng trong vòng 10 năm thì ngày nay cứ 5 năm các chương trình này cần phải được xem xét và cập nhật để bắt kịp với yêu cầu của thực tế phát triển với tốc độ cao như hiện nay. Các chương trình đào tạo cần chú ý cung cấp cho sinh viên, những người cán bộ TVTT trong tương lai kiến thức, kỹ năng và công cụ. Cần hết sức lưu ý bồi dưỡng kỹ năng thực hành, định hướng vào công tác xử lý, khai thác và phát triển các dịch vụ, giúp cho học viên có khả năng đáp ứng ngay đòi hỏi của công việc. Để đạt được những hướng đích kể trên, trong các chương trình đào tạo cần đưa vào các nội dung sau:
- Quản trị công nghệ thông tin bao gồm cả chính sách thông tin, luật pháp thông tin, các hệ thống và cấu trúc.
- Công nghệ thông tin mới và ứng dụng.
- Thông tin và tiếp cận: ngoài những nguyên tắc và phương pháp truyền thống phải nắm được các kỹ thuật tiếp cận và vật mang tin mới.
Trong công tác phát triển nguồn tài liệu cần phải truyền đạt nguyên tắc kết hợp giữa sở hữu tại chỗ và khả năng với tới các nguồn tin ở nơi khác thông qua chia sẻ nguồn lực.
- Lý thuyết tìm tin hiện đại: cần thiết phải nắm được các đặc điểm của phương pháp tìm tin đối với các nguồn tin khác nhau, đặc biệt là các nguồn tin điện tử.
- Nghiên cứu xác định được nhu cầu của người dùng tin và người đọc. Thực hiện marketing thông tin.
Trong các nội dung trên bồi dưỡng kỹ năng về công nghệ thông tin và viễn thông là hết sức quan trọng bởi xu thế phát triển mạng Internet, nguồn tin điện tử và thư viện điện tử đang ngày trở nên phổ biến. UNESCO đã cho rằng các môn học về công nghệ thông tin và viễn thông cần được thiết kế để giúp cho người học có được một số kiến thức và kỹ năng về lịch sử phát triển công nghệ, quan hệ của công nghệ thông tin với nghề TVTT; có khả năng thiết kế các sản phẩm thông tin, có kỹ năng thiết kế và phân tích hệ thống, biết đánh giá và lựa chọn phần mềm, kỹ năng tạo ra và bao gói các dịch vụ thông tin tin học hoá, kỹ năng xác định nguồn tin điện tử...
Cùng với định hướng công nghệ thông tin, các chương trình còn phải lưu ý đến việc trang bị cho sinh viên các kỹ năng khác như kỹ năng tiếp thị. đàm phán, bao gót thông tin nhằm chuẩn bị cho việc thực hiện các dịch vụ thông tin có thu phí Cần bổ sung thêm các chuyên để về tổ chức hoạt động thông tin, quản trị thông tin, quản trị tri thức ở các cơ quan doanh nghiệp không phải là các đơn vị thư viện và cơ quan thông tin chuyên nghiệp. Điều này sẽ mở rộng kỹ năng tiếp nhận và tạo nhiều cơ hội có thêm việc làm cho các sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành TVTT.
Thứ hai cần phải đổi mới phương pháp dạy và học cùng với phương pháp kiểm tra đánh giá. Qua thực tế tìm hiểu tại các trường đào tạo chuyên ngành TVTT ở Việt Nam hiện nay, tình trạng phổ biến vẫn tồn tại là: số giờ lên lớp lý thuyết còn nhiều, số môn học nhiều; học sinh vẫn phải học theo phương thức thụ động nhồi nhét; phương pháp giảng dạy của các giảng viên còn rất truyền thống với “bảng đen và phân trắng ", thày đọc trò ghi, thụ động lắng nghe; công tác đánh giá và kiểm tra còn hết sực nặng nề và có nhiều bất cập cho khuyến khích tính tích cực của người học.
Để có điều đó có hiệu quả, cần sắp xếp nội dung giảng dạy sao cho phù hợp với tỷ lệ giữa giờ giảng trên lớp và giờ thực hành (giờ sêmina, giờ tự học). Đặc biệt một số môn học nặng về nghiệp vụ và luyện kỹ năng như. "Khai thác mạng ", "Biên mục mô tả ", "Phân loại "Xử lý thông tin ", “Định chủ đề ", "Định Từ khoá ", "Tin học tư liệu”,… cần tăng thời gian thực hành nhiều hơn là lý thuyết.
Việc đổi mới phương pháp giảng dạy chuyên ngành TT-TV còn cần phải đặc biệt hướng tới việc sắp xếp cấu trúc nội dung giảng dạy sao cho có sự trợ giúp của các phương tiện giảng dạy hiện đại để bài giảng sinh động hơn, hấp dẫn hơn, thu hút sự chú ý của sinh viên.
Đổi mới phương pháp học tập của học sinh viên chính là phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo trong học tập, rèn luyện kỹ năng thực hành, tham gia nghiên cứu khoa học. hình thành thói quen tự học, tự tìm hiểu và thói quen đọc sách của sinh viên.
Để có thể phát huy hiệu quả tính tích cực học tập chủ động của sinh viên chuyên ngành TVTT vẫn cần phải có sự giúp đỡ tích cực của thầy và tự học của trò. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, sinh viên có điều kiện nhanh chóng tiếp cận với những tri thức khoa học mới và phương pháp nghiên cứu khoa học đó. Giáo viên cần giúp đỡ các em gợi mở những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn nghề nghiệp hiện nay chưa nghiên cứu nhiều, đặc biệt các chuyên đề có tính chất lý luận như: “thông tin học", "Thư viện học ", "Các quá trình và hệ thông thông tin", "Nguồn lực thông tin", "Tự động hoá Thư viện và cơ quan thông tin"...
Trên cơ sở ra các bài tập thực hành, tổ chức các buổi seminar, ra các đề tài nghiên cứu hoặc đề tài khoá luận giáo viên từng bước giúp các em hình thành một phương pháp học tập và nghiên cứu phù hợp.
Để nâng cao chất lượng đào tạo vấn đề đổi mới phương pháp dạy và học có một ý nghĩa hết sức quan trọng. Nhưng song hành với những điều đó cần phải đổi mới phương thức kiểm tra và đánh giá. Cần tránh khuynh hướng đánh giá qua việc học thuộc lòng và tái hiện lại kiến thức của sinh viên. Vấn đề quan trọng là phải đánh giá được khả năng lĩnh hội và vận dụng kiến thức của các em. Người giảng viên cần phải căn cứ vào đặc điểm nội dung của từng môn học để chọn hình thức kiểm tra vấn đáp, viết hay trắc nghiệm cho phù hợp. Đối với những môn cần phải rèn luyện kỹ năng cần phải cho sinh viên làm nhiều bài tập thực hành. Điểm của môn học phải được phải được đánh giá thông qua cả quá trình: học tập, tham gia thảo luận và các bài tập thực hành...Có như vậy mới tránh được sự tình cờ may rủi và khuyến khích sinh viên học tập tốt.
Thứ ba cần xây dựng được một hệ thống giáo trình và tài liệu tham khảo.
Trong công tác đào tạo, giáo trình và tài liệu tham khảo là một phương tiện quan trọng và cần thiết để đảm bảo chất lượng đào tạo. Đó là một công cụ không thể thiếu được đối với các thày và trò.
Đối với công tác giảng dạy, giáo trình là một trong những phương tiện chuyển tải và phổ biến kiến thức trong các điều kiện khác nhau. Đó là cơ sở để giảng viên trình bày vấn đề một cách tập trung, là điều kiện tiên quyết để đổi mới phương pháp giảng dạy khắc phục tình trạng học chạy.
Đối với việc học tập, giáo trình tài liệu tham khảo là phương tiện để học sinh có được những thông tin cơ bản, cần thiết liên quan đến nội dung môn học, mở rộng và nâng cao kiến thức. Đó là phương tiện giúp người học có thể thực hiện việc tự học, tự nâng cao trình độ.
Đáng tiếc là chưa có cơ sở đào tạo xây dựng được hệ thống giáo trình và tài liệu tham khảo đầy đủ. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là: Các cơ sở đào tạo chưa quan tâm đúng mức đến công tác biên soạn giáo trình, chưa đề ra chế độ thoả đáng với việc biên soạn giáo trình và tài liệu tham khảo, lực lượng các giảng viên có đủ trình độ biên soạn giáo trình còn thiếu và yếu. Để xây dựng được một hệ thống các giáo trình đảm bảo các yêu cầu về tính đầy đủ, hiện đại, lôgic, khái quát, thực tiễn và thiết lập một hệ thống các tài liệu tham khảo phong phú, đa dạng đòi hỏi các cơ sở đào tạo phải tiến hành một số biện pháp cụ thể sau:
- Các cơ sơ đào tạo cần có kế hoạch trong việc biên soạn và xuất bản giáo trình. Thường xuyên đánh giá lại các giáo trình hiện có, sửa đổi bổ sung những điểm còn bất cập và biên soạn mới đối với những môn học chưa có giáo trình.
- Xây dựng chế độ thù lao thích hợp cho việc biên soạn giáo trình và tài liệu tham khảo.
- Cải tiến phương pháp biên soạn giáo trình.
- Tổ chức phối hợp và hợp tác trong hoạt động biên soạn giáo trình và bổ sung các tài liệu tham khảo.
- Tiến hành dịch các tài liệu tham khảo và giáo trình tiên tiến của nước ngoài.
- Biên soạn mục lục liên hợp các tài liệu nghiệp vụ.
- Khuyến khích và có biện pháp thúc đẩy công tác nghiên cứu khoa học trong đội ngũ cán bộ giảng viên giúp họ cập nhật kiến thức đồng thời phát huy năng lực sáng tạo của họ. Kết quả của các công trình nghiên cứu sẽ bổ trợ tư liệu và thông tin cho công tác giảng dạy nói chung và công tác biên soạn giáo trình, tài liệu tham khảo nói riêng.
- Các cơ sở đào tạo cần chú trọng đến vấn đề bản quyền của các tác giả có giáo trình, tránh tình trạng tác giả chỉ được trả nhuận bút một lần còn giáo trình được sử dụng tái bản nhiều lần.
- Cần đa dạng hoá các giáo trình thích ứng với các trình độ đào tạo của từng bậc đào tạo: cơ sở, trung cấp, cao đẳng, đại học và sau đại học.
Thứ tư cần đảm bảo các điều kiện vật chất và kỹ thuật.
Ngày nay vai trò của các trang thiết bị và điều kiện vật chất kỹ thuật trong giảng dạy ngày càng trở nên hết sức quan trọng. Vấn đề tăng cường các phương tiện hiện đại nhằm nâng cao chất lượng đào tạo là một vấn đề thường xuyên được nhắc đến nhưng lại chưa được thực sự quan tâm vì nhiều lý do khác nhau. Cùng với việc đổi mới chương trình, nội dung đào tạo việc sử dụng các thiết bị giáng dạy hiện đại sẽ góp phần không nhỏ trong việc thay đổi môi trường học tập, tăng cường tính tích cực, chủ động, kích thích sự hứng khởi say mê và rèn luyện khả năng tự học của sinh viên.
Hiện nay tình trạng phổ biến tồn tại trong các trường dạy nghề TVTT là thiếu các phương tiên giảng dạy hiện đại, cơ sở vật chất kỹ thuật dành cho đào tạo còn hạn chế. Các máy projector, overhead, scanner và đặc biệt là các thiết bị bảo quản tài liệu còn chưa được sử dụng rộng rãi và phổ cập. Những đảm bảo về máy tính, mạng, phần mềm và các phương tiện thực hành khác chưa được chú ý trong các chủ đề đào tạo ở mọi trình độ. Do chưa có đủ điều kiện vật chất, chất lượng thực hành và tự học của sinh viên không thể được đảm bảo. Để giải quyết được vấn đề này đòi hỏi ban lãnh đạo của các trường có đào tạo cán bộ TVTT phải có sự đầu tư và quan tâm thoả đáng. Trong thời đại "môi trường điện tử" hiện nay ở nhiều nước tại các giảng đường người ta trang bị các thiết bị như: thiết bị nghe nhìn, thiết bị tin học phục vụ trình bày, phần mềm trình bày, mạng internet. . .
Cần nhanh chóng trang bị các thiết bị giảng dạy hiện đại trong các giảng đường. Những thiết bị đào tạo này sẽ giúp tăng lượng thông tin truyền đạt trong cùng một thời gian giảng bài, sự chính xác trong giảng dạy sẽ được đảm bảo hơn và sinh viên sẽ không phải lo nghe nhầm, ghi nhầm. Thời gian giành cho bài giảng sẽ được tăng lên vì không bị mất thời gian cho việc chuẩn bị các sơ đồ, các minh hoạ được chuẩn bị kỹ sẽ có tình thuyết phục và đầy đủ hơn. Mặt khác những phương tiện giảng dạy hiện đại cũng đảm bảo cho người học sự hứng thú và thuận tiện cho việc tiếp thu. lĩnh hội kiến thức.
2.2. Giải pháp nâng cao trình độ và khả năng cua đội ngũ những người làm công tác giảng dạy.
Trong bất cứ một nhà trường nào người giáo viên cũng giữ một vai trò hết sức quan trọng. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Không thầy đố mày làn nên”. Mặc dù thực tế đã có nhiều thay đổi, phương châm giáo dục mới là lấy người học là trung tâm nhưng không vì thế mà vị thế của người thày giảm sút. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào người thày luôn giữ vị trí quan trọng quyết định chất lượng đào tạo của một ngành nghề. Trong bối cảnh hiện nay người thày thực sự đã trở thành chuyên gia về việc học, là người tổ chức và hướng dẫn quá trình dạy - tự học, quá trình kết hợp cá nhân hoá với xã hội hoá việc học của người học". Giảng viên là người chủ động điều hành mối tương tác giữa thày-trò và tri thức, phát huy tính năng động tích cực của sinh viên giúp họ nắm được các kiến thức, trau dồi các kỹ năng một cách hiệu quả nhất. Để đào tạo ra đội ngũ cán bộ TVTT có trình độ đòi hởi người giảng viên cần phải có kiến thức chuyên môn giỏi, có khả năng quản lý và kiến thức sư phạm. Đáng tiếc là hiện tại ngành TVTT chưa có được một đội ngũ cán bộ giảng dạy đạt được đầy đủ các tiêu chuẩn kể trên. Nằm trong bối cảnh chung của giáo dục đại học của Việt Nam đội ngũ cán bộ giảng dạy của các trường đào tạo ngành TVTT cũng không tránh khỏi tình trạng "vừa thiếu lại vừa yếu (như nhận định của Thủ tướng Phan Văn Khải trong Hội nghị giáo dục đại học tổ chức vào táng 10 năm 2001). Số lượng các cán bộ giảng dạy tại Các trường đào tạo nghề TVTT còn quá ít ỏi (Bộ môn thông tin thư viện Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Hà Nội đông nhất cũng chỉ có 19 người, các khoa khác tại các trường đại học khác chỉ có từ 6 đến 15 người). Do không tiến hành đào tạo tiến sĩ ở trong nước nên chỉ có rất ít giảng viên có điều kiện đi học tiến sĩ ở nước ngoài. Do không có sự bồi dưỡng liên tục nên 2/3 trong số đó là các giảng viên trẻ. Trong các chương trình đào tạo cán bộ TVTT hiện nay chưa có một chương trình đào tạo riêng cho giáo viên. Trong chương trình đào tạo thạc sĩ tất cả các học viên đều được học phương pháp giảng dạy đại học. Nhưng điều đó không có nghĩa là mọi thạc sĩ đều có khả năng đứng trên bục giảng làm thày.
Để nâng cao trình độ và khả năng của những người làm công tác giảng dạy có thể áp dụng một số biện pháp cụ thể sau:
- Phải hình thành các trung tâm đào tạo giáo viên ngành TVTT càng sớm càng tốt. Nhiệm vụ cơ bản của trung tâm này là đào tạo và kiểm tra chất lượng của giáo viên ngành TVTT. Nội dung đào tạo có thể hướng tới các vấn đề như: phương pháp giảng dạy, tri thức về chuyên ngành thư viện, ngoại ngữ và quản lý.
- Để hình thành đội ngũ cán bộ giảng dạy đảm trách các môn gắn với công nghệ thông tin và khai thác mạng có thể áp dụng một trong ba biện pháp sau: cử các giảng viên có trình độ nghiệp vụ trong đơn vị đi đào tạo và công nghệ thông tin ứng dụng; tiếp nhận kỹ sư công nghệ thông tin đào tạo tại chỗ hoặc gửi đi đào tạo về nghiệp vụ thư viện hoặc mời các cán bộ, các chuyên gia giỏi về nghiệp vụ thư viện, hiểu sâu về công nghệ thông tin của các thư viện và cơ quan thông tin làm cán bộ giảng dạy kiêm nhiệm.
- Đối với các giảng viên trẻ chưa có kinh nghiệm thực tiễn nghề nghiệp cần gửi đến các thư viện và cơ quan thông tin trong khoảng thời gian từ 1 đến 2 năm. Có thể liên hệ với các thư viện và cơ quan thông tin cho các cán bộ giảng dạy làm viện bán thời gian để tăng cường kinh nghiệm nhất là đối với các môn đòi hỏi thực hành nhiều. Không thể rèn luyện kỹ năng cho sinh viên nếu bản thân người thày không có kỹ năng thực sự.
- Đối với các giảng viên có tuổi ưu điểm nổi bật của họ là có kinh nghiệm nhưng hạn chế của họ là khả năng tiếp cận và sử dụng công nghệ mới. Để theo học các khoá đào tạo về công nghệ hoặc những vấn đề mới các cán bộ giảng dạy này thường có tâm lý ngại ngùng. Để khắc phục điểm hạn chế này đòi hỏi phải đẩy mạnh sinh hoạt chuyên môn và tổ chức các lớp học tại chỗ cho giảng viên. Vấn đề cập nhật kiến thức cho các giáo viên là một vấn đề cần phái được quan tâm thoả đáng.
- Các giáo viên được tuyển chọn về các cơ sở đào tạo không chỉ đơn thuần tốt nghiệp từ cơ sở đào tạo đó với kết quả học tập cao mà còn từ nhiều khoa khác trường khác. Nên ưu tiên cho các cán bộ TVTT có kinh nghiệm công tác và khả năng sư phạm.
- Cơ cấu về tuổi tác cần hợp lý để cân bằng tỷ lệ của những người có khả năng, kinh nghiệm và những người trẻ tuổi còn thiếu kinh nghiệm.
- Các giáo viên cần được khuyến khích tham gia nghiên cứu khoa học và các buổi hội thảo, sinh hoạt chuyên môn để mở mang kiến thức, trau dồi học thuật.
- Để mỗi giáo viên có thể đứng vững trên bục giảng đòi hỏi từng cán bộ giáo viên phải hết sức nỗ lực phấn đấu song mặt khác Bộ Giáo dục & Đào tạo, Bộ Văn hoá Thông tin và trực tiếp là lãnh đạo các trường có cơ sở đào tạo chuyên ngành khoa học thư viện thông tin cần phải có những chính sách cán bộ hợp lý, đảm bảo đời sống cho những người làm công tác giảng dạy. Cần phải tăng cường đầu tư' cho công tác nghiên cứu khoa học, nàng cao trình độ tin học, ngoại ngữ và khả năng sử dụng các phương tiện hiện đại cho các giảng viên. Cần tạo điều kiện cho các giảng viên có cơ hội đi dự các cuộc hội thảo, học tập tham quan ở nước ngoài bằng kinh phí của nhà nước. Ở Việt Nam hiện nay chưa có đào tạo tiến sĩ Ở trong nước do đó cần tạo điều kiện cho các giảng viên ra nước ngoài để học tập.
- Các cán bộ làm công tác giảng dạy cần có sự hợp tác chặt chẽ với các nhà khoa học, các cán bộ giảng dạy của các cơ sở đào tạo khác để đảm bảo nguồn lực cán bộ giảng dạy.
2.3 Giải pháp đào tạo thường xuyên
Học tập thường xuyên suốt đời có một ý nghĩa rất quan trọng đối với nghề thư viện thông tin vì những cán bộ của ngành này phải trực tiếp tham gia vào việc phục vụ cho việc học suất đời của xã hội. Họ sẽ phải đóng góp một phần tích cực vào việc xây dựng một xã hội học tập - một sứ mệnh hết sức cao cả.
Chất lượng của dịch vụ TVTT phụ thuộc vào chất lượng của đội ngũ cán bộ TVTT. Năng lực của người cán bộ TVTT chỉ có thể được duy trì và hoàn thiện thông qua việc thường xuyên được đào tạo bồi dưỡng. Chính vì lý do đó đào tạo thường xuyên đã được IFLA xác định là một trong những chương trình cốt lõi.
Đào tạo thường xuyên là một quá trình liên tục học tập để cập nhật các tri thức và kỹ năng trên cơ sở các kỹ năng và tri thức đã có trước của các cá nhân. Đào tạo nghề nghiệp thường xuyên là một biện pháp quan trọng để giành được ưu thế cạnh tranh của một nghề nghiệp. Trong bối cảnh công nghệ không ngừng thay đổi, đào tạo thường xuyên sẽ tạo điều kiện, khả năng bồi dưỡng cập nhật thêm cho đào tạo cơ bản, giúp cho người cán bộ TVTT nắm được những khái niệm mới, theo kíp những kiến thức và kỹ năng mới cần thiết cho việc thực thi các công việc của mình. chuẩn bị cho sự hình thành tính chất chuyên môn hoá trong nghề thư viện.
Công tác đào tạo thường xuyên cần được đẩy mạnh và được sự quan tâm hơn nữa của các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp, các thư viện, trung tâm thông tin lớn, các tổ chức nghề nghiệp: Hội, Liên hiệp.
Để công tác đào tạo thường xuyên đạt được hiệu quả cao đòi hỏi các nhà tổ chức các lớp học phải phân tích và đánh giá được các yêu cầu và nhu cầu đào tạo thường xuyên của các cán bộ TVTT trong thực tế, bao gồm:
- Sắp xếp tổ chức công việc là yếu tố liên tục thay đổi thông qua đầu vào tri thức mới, công nghệ mới và những mong đợi từ phía công chúng đối với công tác phục vụ, môi trường chính là động lực thúc đẩy và định hướng của đào tạo thường xuyên
- Nhu cầu mối quan tâm của học viên
- Những kinh nghiệm đào tạo nghề nghiệp có chất lượng cao để quyết định khả năng thiết kế và phân phát của các nhà cung
Bên cạnh đó khi tiến hành đào tạo thường xuyên, đòi hỏi các cơ sở đào tạo và các thư viện cơ quan thông tin phải xác định được các nhóm mục tiêu.
- Đối với những người chưa có văn bằng đào tạo chuyên nghiệp hiện đang làm công tác thư viện hoặc có nhu cầu làm công tác thư viện cần tiến hành tổ chức các khoá đào tạo các kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp cơ bản.
Đối với các cán bộ đã được đào tạo cơ bản, tốt nghiệp một trình độ nhất định có thể tiến hành đào tạo liên tục dưới dạng cập nhật kiến thức mới, đào tạo nâng cao, đào tạo chuyên sâu.
Đào tạo thường xuyên có thể được thực hiện bởi các cơ sở đào tạo các thư viện trung tâm, các thư viện lớn các trung tâm thông tin đứng đầu hệ thống các hội các liên hiện. Về hình thức có thể tổ chức đào tạo thường xuyên dưới các dạng tập huấn, lớp học, hội thảo... Sau khi các học viên tham dự các lớp tập huấn, lớp học có thể cấp cho họ các chứng chỉ phù hợp với nội dung và chương trình đào tạo.
2.4. Giải pháp đẩy mạnh xã hội hoá
Trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta dành sự quan tâm đặc biệt cho giáo dục và đào tạo. Để đẩy mạnh sự phát triển của giáo dục và đào tạo một trong những giải pháp hàng đầu đã được Đảng ta xác định là: Tăng cường các nguồn lực cho giáo dục và đào tạo một trong những giải pháp hàng đầu đã được Đảng ta xác định là: Tăng cường xã hội hoá công tác giáo dục và đào tạo.
Trên thực tế, Xã hội hoá công tác giáo dục đào tạo là một những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước.
Xã hội hoá công tác giáo dục là một giải pháp tối ưu để thực hiện chủ trương về một nền "giáo dục nhân dân" vốn có của dân tộc Việt Nam. Nó góp phần giải quyết những mâu thuẫn mang tính thời đại trong công tác đào tạo nói chung và đào tạo cán bộ TVTT nói riêng của Việt Nam và thế giới. Đó là các mâu thuẫn:
- Mâu thuẫn giữa tốc độ và qui mô phát triển vê nhu cầu đào tạo của xã hội với những năng lực đáp ứng của hệ thống giáo dục đào tạo của Nhà nước.
- Mâu thuẫn giữa những đòi hỏi về năng lực và chất lượng cán bộ với nội dung chương trình đào tạo của nhà trường.
- Mâu thuẫn giữa tính đa dạng về điều kiện, về nhu cầu, về trình độ, về lứa tuổi của người đọc với tính chặt chẽ, hàn lâm, quan liêu của hệ thống đào tạo.
Để thúc đẩy công tác xã hội hoá đào tạo cán bộ TVTT có ba vấn đề cần quan tâm xem xét:
- Nhu cầu thực tế về đào tao cán bộ TVTT và khả năng đáp ứng nhu cầu đó
- Phương hướng và mục tiêu của xã hội hoá đào tạo cán bộ TVTT.
- Các giải pháp và phương hướng đẩy mạnh xã hội hoá trong đào tạo cán bộ TVTT ở Việt Nam hiện nay.
Chúng ta sẽ xem xét từng vấn đề.
Thứ nhất: nhu cầu thực tế về đào tạo cán bộ TVTT và khả năng đáp ứng nhu cầu đó
Theo con số thống kê của Vụ Thư viện - Bộ Văn hoá thông tin đến nay cả nước có khoảng 26.000 thư viện, tủ sách, phòng đọc với mạng lưới thư viện rộng khắp cả nước vì thế nhu cầu đào tạo và bồi dưỡng để nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ TVTT được đặt ra là rất lớn. Đáng tiếc là các cơ sở đào tạo hiện nay chưa có khả năng đáp ứng được các yêu cầu đang đặt ra của thực tế.
Như vậy, xét về nhu cầu đào tạo chuyên nghiệp và đào tạo lại cán bộ TVTT là rất lớn, trong khi chỉ tiêu đào tạo và ngân sách cho đào tạo nói chung và chuyên ngành TVTT nói riêng là rất hạn chế. Vì vậy, một số cơ sở đào tạo cán bộ TVTT đã thực hiện Nghị quyết số: 90-CP của chính phủ về "Phương hướng và chủ trương xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá " bằng các hình thức: Thành lập trường đại học dân lập (như khoa Thông tin và Quản trị thông tin tại Trường đại học dân lập Đông Đô); ở các cơ sở đào tạo công lập ngoài việc đào tạo chính quy, tại chức, các cơ sở này mở thêm các lớp ngắn hạn, một số liên kết với các cơ sở khác mở các lớp hệ cao đẳng hoặc dưới dạng dạy nghề, mở các khoá bồi dưỡng kiến thức mới cho các cán bộ đã tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng, đại học về thư viện thông tin từ nhiều năm trước. Tuy nhiên, do bị hạn chế về nhiều mặt như: lực lượng cán bộ giảng dạy mỏng, trình độ giảng viên còn hạn chế, cơ sở vật chất chưa đáp ứng được nhu cầu đào tạo, chương trình, giáo trình chưa phù hợp, phương thức đào tạo đơn giản,... nên chất lượng đào tạo chưa cao và không mở rộng được quy mô đào tạo Mặt khác, cơ chế chính sách để thực thi Nghị quyết: 90-CP của chính phủ còn nhiều bất cập như chính sách thuế, đất đai, tín dụng, huy động vốn, đầu tư, quản lý tài sản,... và chưa cụ thể hoá - nhất là đối với công tác đào tạo cán bộ ngành Văn hoá Thông tin nói chung và ngành Thư viện- Thông tin nói riêng.
Thứ hai: Phương hướng và mục tiêu của xã hội hoá đào tạo cán bộ Theo quan điểm của Đảng, xã hội hoá giáo dục là huy động mọi lực lượng xã hội bao gồm các tầng lớp nhân dân, các cộng đồng, tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp cùng tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục – đào tạo, tham gia quá trình giáo dục dưới sự quản lý của nhà nước đồng thời tạo điều kiện để mọi người dân được thừa hưởng thành quả do hoạt động giáo dục đem lại tạo nên một phong trào học tập trong toàn dân, tiến tới xây dựng và hình thành một xã hội học tập.
Trên cơ sở mục tiêu tổng quát trên, xã hội hóa công tác đào tạo cán bộ TVTT hướng tới các mục tiêu cụ thể sau:
- Phát triển các nguồn lực đào tạo cán bộ TVTT ngoài công lập
- Tạo lập đội ngũ giảng viên bán chuyên nghiệp tham gia quá trình đào tạo cán bộ TVTT
- Mở rộng cơ hội và điều kiện học tập cho mọi người
- Tạo sự đa dạng và phong phú về nội dung, chương trình và phương thức đào tạo, làm cho mục tiêu đào tạo của nhà trường tương hợp với yêu cầu của xã hội.
*Phát triển các nguồn lực đào tạo cán bộ TVTT ngoài công lập.
Từ trước đến nay trách nhiệm đào tạo cán bộ TVTT hoàn toàn do nhà nước đảm nhiệm. Sở dĩ có tình trạng này là vì nhiều nguyên nhân khác nhau. Thứ nhất vì nghề TVTT hiện nay chưa phải là một nghề hấp dẫn về phương diện thu nhập. Thứ hai, phần lớn cán bộ TVTT từ trước đến nay chỉ làm việc trong các cơ quan của nhà nước. Vì hai lý do trên, các cơ sở đào tạo dân lập chưa chú ý đến ngành học này. Các cơ sở đào tạo cán bộ TVTT hiện do Bộ Văn hoá Thông tin quản lý và một vài cơ sở khác do Bộ Giáo dục Đào tạo và Bộ Quốc phòng quản lý, chưa đáp ứng được nhu cầu học ngày càng cao của xã hội. Đơn cử như: Trường Đại học Văn hoá Hà Nội hằng năm có từ 2 đến 3 nghìn thí sinh đăng ký dự thi, nhưng chỉ có thể tuyển được khoảng 120 sinh viên, Trường Cao đẳng Văn hoá TP. HCM có từ 1 .500 đến 2.000 thí sinh đăng ký dự thi cũng chỉ có thể tuyển từ 70 đến 80 sinh viên theo chỉ tiêu hằng năm…
Vì thế giảm áp lực cho các cơ sở đào tạo cán bộ TVTT công lập, việc thành lập một hệ thống dào tạo không chính quy và ngoài công lập là cần thiết và hoàn toàn khả thi trong điều kiện hiện nay, bởi vì hoạt động TVTT đã được mở rộng, thâm nhập vào mọi ngành, mọi nghề, mọi thành phần kinh tế khác nhau, và nhu cầu khai thác và sở hữu thông tin tăng nhanh về số lượng cũng như về chất lượng theo tốc độ phát triển của xã hội.
*Tạo lập đội ngũ giảng viên bán chuyên nghiệp tham gia quá trình đào tạo cán bộ TVTT:
Hiện nay, đội ngũ giảng viên giảng dạy chuyên nghiệp chủ yếu được biên chế ở các cơ sở đào tạo công lập, mà số lượng giảng viên của các trường đại học chức chưa vượt quá 70 người. Đông nhất, Bộ môn Thông tin - Thư viện học trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội có 19 người và 4 cán bộ kiêm nhiệm, tiếp theo là Khoa TVTT trường Đại học Văn hoá Hà Nội có 1 5 người, 5 cán bộ kiêm nhiệm. Khoa Thông -tin - Thư viện trường Cao đẳng Văn hoá Từ. Hồ Chí Minh có 6 người, 4 cán bộ kiêm nhiệm… Một lực lượng như vậy quá khiêm tốn so vớt nhu cầu đào tạo hiện nay. Trong khi đó, ở nước ta hiện nay có một lực lượng khá đông đảo những chuyên gia thư viện có trình độ cao và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn. Họ là những cán bộ đã nghỉ hưu, những chuyên gia đang công tác tại các cơ quan TVTT. Đây là một tiềm năng hết sức to lớn trong việc đào tạo ngành của cán bộ TVTT.
Phương thức xã hội hoá chắc chắn sẽ đánh thức được tiềm năng vừa lý thuyết vừa thực tiễn ấy và sẽ tạo ra một sự đa dạng, phong phú và thực tiễn trong công tác đào tạo cán bộ TVTT.
*Mở rộng cơ hội và điều kiện học tập cho mọi người
Một khi nhu cầu thông tin của xã hội tăng lên thì sự nghiệp TVTT chắc chắn sẽ phát triển và nhu cầu học tập đối với người học cũng sẽ tăng lên. Xã hội hoá công tác đào tạo cán bộ TVTT sẽ mở rộng các cơ hội cho người có nhu cầu học, sẽ tạo ra một xuất phát điểm tương đối công bằng cho người học dù học ở trong những điều kiện và hoàn cảnh nào. Nó cũng sẽ cho phép người học dù họ ở trong nhưng loại trường lớp, những phương thức, những trình độ đào tạo phù hợp với năng lực và hoàn cảnh cá nhân. Với phương thức xã hội hoá, sẽ không có một cá nhân nào có năng lực và có ước muốn mà không có cơ hội tham gia hoạt động trong ngành TVTT.
*Tạo sự đa dạng và phong phú về nội dung, chương trình và phương thức đào tạo, làm cho mục tiêu đào tạo của nhà trường tương hợp với yêu cầu của xã hội.
Từ trước đến nay, nội dung chương trình đào tạo ngành TVTT còn mang nặng tính kinh viện, hàn lâm. Người học không có được nhiều sự chọn lựa về kiến thức cần cho bản thân. Các chương trình đào tạo hầu như không có thay đổi lớn tại các cơ sở đào tạo khác nhau. Tính chất bảo thủ, giáo điều vẫn còn. Nhà trường cứ đào tạo theo chương trình đã định sẵn, việc ứng dụng ra sao là do khả năng của người học. Có một khoảng cách khá lớn giữa đào tạo và ứng dụng, học viên khi tốt nghiệp thường phái mất một thời gian khá lâu mới hoà nhập được các cơ sở thực tiễn ngành TVTT. Học viên cũng có cơ hội tiếp xúc được với môi trường công tác ngay trong quá trình đào tạo và nhờ đó nội dung chương trình đào tạ sẽ luôn được điều chỉnh tương hợp với yêu cầu thực tiễn, học viên cũng biết mình phải rèn luyện, chuẩn bị những kỹ năng, kiến thức gì cho công tác sau này. Tính thực dụng trong mục tiêu đào tạo vừa là sự tiết kiệm kinh phí và thời gian đào tạo, vừa làm nên sự đa dạng phong phú cho chương trình vừa tạo hưng phấn, kích thích tính sáng tạo và luyện thói quen phản ứng trước hoàn cảnh cho học viên.
Thứ ba: Các giải pháp và phương hướng đẩy mạnh xã hội hoá trong đào tạo cán bộ TVTT ở Việt Nam hiện nay.
Để thực hiện được các mục tiêu đã nêu ở trên cần phải xây dựng được các giải pháp cụ thể nhằm thúc đẩy xã hội hoá trong công tác đào tạo cán bộ TVTT. Hệ thống các giải pháp đó bao gồm:
- Đa dạng hoá các cơ sở và hình thức đào tạo cán bộ TVTT.
- Coi trọng và đối xử bình đẳng đối với các sản phẩm và dịch vụ của cơ sở đào tạo ngoài công lập.
- Áp dụng chế độ kiêm chức đối với đội ngũ giảng viên bán chuyên nghiệp
- Tạo điều kiện để học viên có thể tiếp cận được với môi trường công tác ngay trong quá trình đào tạo.
- Tranh thủ sự hỗ trợ về mọi mặt của xã hội đối với công tác đào tạo cán bộ TVTT.
- Đảm bảo vai trò quản lý nhà nước.
Trong các giải pháp kể trên. đa dạng hoá các cơ sở và hình thức đào tạo cán bộ TVTT. Một nền giáo dục theo phương thức xã hội hoá là một nền giáo dục chia sẻ cho dân do dân và vì dân. Tính đa dạng về cơ sở đào tạo cũng như phương thức đào tạo là thực hiện mục tiêu đó. Sự đa dạng về cơ sở đào tạo vừa tạo thêm cơ hội cho người học vừa tạo điều kiện để mọi thành phần xã hội cùng với nhà nước phát triển sự nghiệp giáo dục. Đối với ngành TVTT, ngoài cơ sở đào tạo công lập như đã có từ trước đến nay, cần khuyến khích các trường dân lập mở ngành đào tạo TVTT, ngoài ra tạo điều kiện để các thư viện các trung tâm thông tin lớn cũng tham gia công tác đào tạo, và trở thành nơi đào tạo tay nghề cho học viên. Về phương thức đào tạo, cắn áp dụng nhiều phương thức như chính qui tập trung, đào tạo theo chế độ tín chỉ (để người học tự chọn môn học mình thích và thời điểm thuận lợi), đào tạo tại chức, đào tạo hàm thụ, bồi dưỡng huấn luyện ngắn ngày, thực tập tay nghề, chuyển giao công nghệ... các cơ sở đào tạo ngành TVTT có thể tiến hành nhiều hình thức đào tạo khác nhau như đào tạo không tập trung, đào tạo mở rộng:
- Hình thức đào tạo không tập trung: Do nhu cầu học tập để chuẩn hoá đội ngũ cán bộ các ngành, các địa phương, đặc biệt là nhu cầu chuyển đổi nghề nghiệp và tìm kiếm việc làm trong điều kiện nền kinh tế thị trường, ngoài phương thức đào tạo tại chức như trước đây còn có thêm phương thức đào tạo mở, đào tạo từ xa, tự học có hướng dẫn nên quy mô đào tạo không tập trung tăng rất nhanh.
- Hình thức đào tạo theo hợp đồng: ngoài đào tạo tại chức, các trường đại học, cao đẳng công lập còn thực hiện phương thức đào tạo theo hợp đồng. Đó là hình thức hợp tác giữa các trường đại học, các trung tâm đào tạo và các chính quyền địa phương để cung cấp các khoá học cao hơn.
- Hình thức đào tạo mở rộng: hình thức này là nhằm huy động thêm nguồn kinh phí của người học đóng góp thêm cho đào tạo, cho phép ngành Giáo dục - Đào tạo mở rộng quy mô, đáp ứng nhu cầu của người học muốn có trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học. Hiện nay, hình thức này được gọi là hệ đào tạo chính quy không cấp phát kinh phí.
Bên cạnh đó cần coi trọng và đối xử bình đẳng đối với các sản phẩm và dịch vụ của cơ sở đào tạo ngoài công lập. Trong thời gian vừa qua, các nhà quản lý, tiếp nhận cán bộ chưa thật sự có sự đối xử công bằng đối với sán phẩm và dịch vụ đào tạo của các trường dân lập. Điều đó đã phần nào làm giảm uy tín và không khuyến khích phát triển hệ thống đào tạo ngoài công lập cả về phía người đầu tư lẫn người học. Có nhiều lý do dẫn tới thái độ thiếu bình đẳng trên, nhưng lý do quan trọng nhất là nhà nước chưa có một qui chế thật cụ thể đối với hoạt động của các trường dân lập dẫn đến chỗ các trường chạy theo xu hướng thương mại hoá, buông lỏng quản lý trong tuyển sinh và trong đào tạo, coi nhẹ chất lượng đào tạo. Việc coi trọng và đối xử bình đẳng đối với sản phẩm và dịch vụ đào tạo của hệ thống đào tạo ngoài công lập là cần thiết nhưng phải đi đôi với việc quản lý nghiêm minh của nhà nước cả về qui chế lẫn nội dung và chất lượng đào tạo.
Ngoài ra cần áp dụng chế độ kiêm chức đối với đội ngũ giảng viên bán chuyên nghiệp. Hiện nay ở nước ta có đội ngũ khá đông các chuyên gia thư viện có học vị cao và có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy cũng như công tác, nay theo qui định của nhà nước họ đã nghỉ hưu. Đây là một vốn chất xám rất quý đối với ngành TVTT của nước ta hiện nay.
Ngoài ra, còn một lực lượng lớn lao các cán bộ TVTT đầu ngành đang công tác tại các thư viện và trung tâm thông tin. Các cơ sở đào tạo kể cả công lẫn dân lập cần xây dựng một cơ chế kiêm chức hoặc hợp đồng ngoài biên chế để có thể tranh thủ được vốn kiến thức và kinh nghiệm quý giá này. Đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ nghỉ hưu, đây là đội ngũ có thời gian và khả năng nghiên cứu, không bị ràng buộc bởi những công việc khác, chắc chắn sẽ là một đóng góp to lớn cho sự nghiệp đào tạo cán bộ TVTT.
Đồng thời cần tạo điều kiện để nọc viên có thể tiếp cận được với môi trường công tác ngay trong quá trình đào tạo. Phải đưa vào nội dung chương trình đào tạo của nhà trường chế độ kiến tập, thực tập bắt buộc đối với học viên. Chương trình này phái được áp dụng hầu hết phương án giải quyết. Với hình thức đào tạo này, học viên sẽ được rèn luyện về khả năng phản ứng và phát huy được năng lực tư duy độc lập sáng tạo, đồng thời kiểm nghiệm được tính hiệu quả của nội dung chương trình cũng như phương pháp giáng dạy của nhà trường và của giảng viên.
Mặt khác các cơ sở đào tạo cần tìm mọi biện pháp tranh thủ sự hỗ trợ về mọi mặt của xã hội đối với công tác đào tạo cán bộ TVTT. Đào tạo cán bộ TVTT trong thời đại hiện nay là một quá trình đào tạo hết sức tốn kém nếu muốn sán phẩm đào tạo thích nghi ngay được với môi trường công tác. Một cán bộ TVTT trong thế kỷ XXI cần phải được trang bị rất nhiều kiến thức và kỹ năng ở trình độ cao, họ phải là người am hiểu nhiều lĩnh vực kiến thức khoa học, biết khai thác và tổ chức các kiến thức ấy một cách có hệ thống. Họ phải nắm vững các khâu công tác nghiệp vụ từ việc phát hiện, đến việc sưu tập, tổ chức, tinh chế bao gói và chuyển giao thông tin dấn các địa điểm và đối tượng sử dụng khác nhau. Họ lại phải hết sức thành thạo trong việc sử dụng các thiết bị công nghệ thông tin hiện đại nhất, phải am hiểu một vài ngoại ngữ thông dụng, phải có khả năng ứng xử khéo léo và linh hoạt trước các đồng nghiệp, cũng như đối tượng công tác... Kinh phí và khả năng nhà trường chắc chăn sẽ không đủ đảm đương những yêu cầu ấy của quá trình đào tạo nếu không có được sự hỗ trợ của các tổ chức, đoàn thể, các doanh nghiệp ngoài xã hội. Đặc biệt là của các thư viện và các trung tâm thông tin. Sự giúp đỡ và hợp tác sẽ được hình thành trên nhiều bình diện: như là cơ sở thực tập, cung cấp hỗ trợ về phương diện giáo cụ, học cụ, về phương diện chuyển giao công nghệ và chuyển giao kinh nghiệm, cung cấp các điểm tham quan khảo sát thực tế cho thầy và trò các cơ sở đào tạo nghề TVTT.
Điều quan trọng không thể bỏ qua khi tiến hành xã hội hoá công tác đào tạo cán bộ thư viện là cần đảm bảo vai trò quản lý nhà nước. Quản lý nhà nước hiểu theo luật giáo dục là: Nhà nước Việt Nam thống nhất quản lý về giáo dục, chính phủ là cơ quan nhà nước có trách nhiệm quản lý thống nhất về giáo dục. Bộ Giáo dục Đào tạo chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục. Quản lý về giáo dục phải đảm bảo 3 phương diện: Hoạch định chiến lược phát triển giáo dục và kế hoạch phát triển giáo dục cho từng thời kỳ. Xây dựng hành lang pháp lý cho sự triển khai; Chỉ đạo việc thực hiên kế hoạch; Thanh tra, giám sát, xử lý vi phạm.
Tuy nhiên việc quản lý thống nhất của nhà nước phải đảm bảo chính sách và cơ chế quản lý thông thoáng và linh hoạt. Đồng thời các cơ sở đào tạo ngoài công lập cũng có trách nhiệm tuân thủ nghiêm minh các quy định của pháp luật về lĩnh vực Giáo dục đào tạo và phải chịu sự quản lý nhà nước.
Để đẩy mạnh xã hội hoá công tác đào tạo cán bộ TVTT trong cơ chế thị trường hiện nay cần phải có cách nhìn và cách làm năng động, có thể coi công tác đào tạo là một dạng sản xuất đặc biệt theo quy luật Cung - Cầu (trước đây coi sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo thuộc nhóm phúc lợi xã hội). Về phía Cung cần có các yếu tố đảm bảo chất lượng đào tạo và đáp ứng nhu cầu đa dạng của người học như: Cơ sở vật chất kỹ thuật tốt, chương trình, giáo trình, tài liệu tham khảo phù hợp, đội ngũ cán bộ giảng dạy có chuyên môn cao, có chê chính sách về đào tạo hợp lý, làm tốt Maketing nhu cáu của xã hội,... Về phía cầu được lựa chọn chương trình học phù hợp học phí hợp lý, thời gian học linh hoạt, không phân biệt đối tượng tuyển sinh,... Tuy nhiên tất cả quy trình tuyển sinh, đào tạo phải theo quy chế chung của Bộ Giáo dục - Đào tạo và đảm bảo chất lượng đào tạo. Chính thị trường sử dụng sản phẩm của đào tạo là nơi kiểm định chất lương đào tạo kém hay tốt và là động cơ kìm hãm hay thúc đẩy công tác đào tạo phát triển.
Xã hội hoá công tác đào tạo cán bộ TVTT là một phương thức cần thiết và chắc chắn sẽ đem lại hiệu quả cao trong điều kiện hiện nay của xã hội Việt Nam. Nó cũng là con đường để sự nghiệp TVTT nước ta có cơ hội tiếp cận hội nhập và tranh thủ được sự trợ giúp của sự nghiệp TVTT quốc tế.
3. Một số ý kiến đề xuất:
3.1 Kiến nghị với Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Văn hoá Thông tin.
- Bộ Văn hoá Thông tin và Bộ Giáo dục và các cơ sở đào tạo đào tạo nên quan tâm hơn nữa đến việc bồi dưỡng kiến thức cho những người làm công tác giảng dạy ngành thư viện thông tin. Cần phải quan tâm hơn nữa đến việc sắp xếp lại theo chức danh học vị để khuyến khích động viên các cán bộ giảng viên không ngừng học hỏi nâng cao trình độ.
Bộ Văn hoá Thông tin và Bộ Giáo dục và Đào tạo các cơ sở đào tạo đào tạo cần có sự khuyến khích và đầu tư thoả đáng cho việc biên soạn, xuất bản các giáo trình và tài liệu tham khảo cho học sinh.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Văn hoá Thông tin cần sớm cho phép một số cơ sở đào tạo có đủ điều kiện tổ chức việc đào tạo nghiên cứu sinh cấp bằng tiến sĩ. Đây chính là những cơ hội và điều kiện cho người làm công tác thư viện thông tin và các cán bộ giảng dạy có thể nâng cao trình độ.
- Bộ Giáo dục và đào tạo và Bộ văn hoá thông tin cần quan tâm cho phép các cơ sở đào tạo chuyên ngành thông tin thư viện đẩy mạnh việc hợp tác với nhau trong phạm vi quốc gia và quốc tế. Cần sớm đặt ra một kế hoạch thích hợp và tích cực trong việc cử các cán bộ giảng dạy chuyên ngành thông tin thư viện ra học tập tu nghiệp ở nước ngoài, cấp kinh phí cho cán bộ giảng viên có thể tham dự các cuộc hội thảo nhằm trao đổi kinh nghiệm và bổ sung kiến thức mới ở trong và ngoài nước.
3.2 Kiến nghị với các cơ sở đào tạo nghề thư viện thông tin.
- Để tạo ra các sản phẩm năng động thích ứng điều kiện thực tế hiện nay và chuẩn bị cho xã hội thông tin hiện đại các cơ sở đào tạo cần mở rộng mục tiêu đào tạo. Không thể chỉ đặt hướng đích địa chỉ cửa sản phẩm đầu ra là các thư viện và cơ quan thông tin chuyên nghiệp mà cần chú ý đến thị trường rộng lớn là mọi cơ quan tổ chức có tổ chức hoạt động thư viện thông tin. Cần chú ý tới việc đào tạo ra các cán bộ có khả năng chuyên sâu về các lĩnh vực chuyên ngành và bên cạnh đó có thể tham khảo thêm gợi ý của UNESCO về hướng đào tạo các cán bộ có khả năng làm việc liên thông cả ba lĩnh vực: thư viện, thông tin và lưu trữ.
- Về chương trình đào tạo: Các cơ sở đào tạo cần thường xuyên rà soát và xem xét lại để xây dựng được các chương trình đào tạo chuyên ngành thư viện thông tin phù hợp với các mục tiêu đặt ra, phù hợp với sự phát triển của đời sống kinh tế, khoa học, xã hội có khả năng hoà nhập với khu vực và quốc tế. Cần xây dựng chương trình theo định hướng công nghệ và dự trên công nghệ. Bên cạnh đó cần phải chú trọng hơn nữa đến việc đào tạo ngoại ngữ cho các cử nhân thư viện thông tin.
- Về phương thức đào tạo cần bổ sung thêm các hình thức giảng dạy mới có sử dụng các phương tiện hiện đại để góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy. Chú trọng thêm về việc rèn luyện các kĩ năng thực hành cho học sinh. Tăng cường thêm các buổi tham quan ngoại khoá giúp học sinh có hiệu biết đầy đủ và toàn diện hơn về thực tế nghề nghiệp.
- Để hỗ trợ cho việc giáng dạy và học tập của giáo viên và học sinh các cơ sở đào tạo cần có những định hướng và sự đầu tư nhất định cho việc xây dựng các thư viện thực hành theo đúng tính chất và yêu cầu của
- Để tạo điều kiện cho việc sử dụng các tài liệu chuyên ngành thông tin thư viện vào nhiều mục đích khác nhau, các cơ sở đào tạo cần sớm liên kết với các thư viện và trung tâm thông tin lớn để sao chụp, trao đổi và xây dựng một mục lục liên hợp các tài liệu nghiệp vụ.
- Các cơ sở đào tạo cần có kế hoạch nghiên cứu và tìm hiểu nhu cầu thực tế của các cơ quan thông tin, thư viện để xây dựng được những định hướng đúng và bổ sung thêm trong công tác đào tạo cán bộ thư viện thông tin.
- Đối với các cán bộ thư viện thông tin đã tốt nghiệp từ nhiều năm trước, các cơ sở đào tạo nên thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng, bổ túc kiến thức mới. Việc đào tạo liên tục nghề thư viện thông tin cần được các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp xem xét lại một các nghiêm túc và đầy đủ hơn.
- Các cơ sở đào tạo đặc biệt là Trường đại học Văn hoá Hà Nội nên sớm tổ chức đào tạo văn bằng hai về thư viện thông tin cho những người đã có một bằng đại học ngành khác có nhu cầu làm việc tại cơ quan thư viện thông tin. Đây là một nhu cầu đặt ra trong thực tiễn cần được quan tâm.
- Các cơ sở đào tạo có đủ điều kiện cần sớm mở ra các chương trình đào tạo tiến sĩ ngành thư viện thông tin học. Để tạo điều kiện cho việc trao đổi và hợp tác về nhiều bình diện các cơ sở đào tạo nghề thư viện thông tin ở Việt Nam có thể quan tâm hơn đến việc tổ chức một hội nghề nghiệp của những người làm công tác giáo dục đào tạo và cho xuất bản một tờ tạp chí hoặc tập san chuyên ngành về giáo dục đào tạo cán bộ thư viện thông tin riêng.
3.3 Kiến nghị với các thư viện, cơ quan thông tin.
Để đào tạo ra đội ngũ những người làm công tác TVTT có chất lượng cao đòi hỏi các thư viện và cơ quan thông tin phải có những đóng góp nhất định về nhiều mặt:
- Hỗ trợ các cơ sở đào tạo trong quá trình đào tạo cán bộ TVTT thông qua việc nhận sinh viên về thực tập, tạo điều kiện cho các giảng viên và sinh viên đến tham quan, học tập, nghiên cứu.
- Đặt ra các chính sách khuyến khích tiếp nhận các sinh viên đạt các thành tích cao trong học tập.
- Thường xuyên quan tâm đến việc nâng cao trình độ cho cán bộ công tác tại đơn vị mình bằng nhiều biện pháp khác nhau: cử cán bộ đi học tập, tổ chức các lớp bồi dưỡng đào tạo tại chỗ, tổ chức các cuộc tham quan, tạo điều kiện cho cán bộ của mình tham gia nghiên cứu khoa học và tham dự các cuộc hội thảo.
- Riêng đối với các thư viện đầu ngành, đứng đầu hệ thống và cơ quan thông tin lớn cần quan tâm đến việc tổ chức các lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn cho các thư viện thành viên thuộc hệ thống đó.
- Cần tăng cường hơn nữa sự hợp tác giữa các cơ sở đào tạo, các thư viện, cơ quan thông tin trên mọi bình diện.
KẾT LUẬN
Công tác đào tạo cán bộ TVTT đang đứng trước những vận hội và thử thách của xã hội thòng tin. Nền kinh tế tri thức của Internet và thư viện điện tử. Trong xã hội thông tin, thông tin và tri thức đã trở thành chiếc chìa khoá để phát triển kinh tế xã hội.
Bước vào thế kỷ XXI, cùng với nhân loại, Việt Nam đang sống trong một thời kỳ có nhiều biến động, công nghệ thông tin phát triển và thay đổi hàng ngày. Sự hình thành và phát triển của xu thế toàn cầu hoá, xu thế chuyển dịch sang nền kinh tế dựa trên tri thức, xu thế giao lưu văn hoá toàn cầu và xu thế đổi mới công nghệ thông tin với tốc độ cao đã và đang đặt ra cho các thư viện và cơ quan thông tin những thách thức mới, yêu cầu mới. Nội dung hoạt động mới của thư viện và các cơ quan thông tin đã gắn liền với sự xuất hiện các vật mang tin mới và việc sử dụng ngày càng sâu rộng công nghệ thông tin hiện đại. Nếu như vào đầu những năm 1990 Thư viện điện tử được coi là một hình ảnh của tương lai thì từ năm năm trở lại đây điều đó đã trở thành hiện thực. Nhiều thư viện điện tử và thư viện số đã được xây dựng ở các nước phát triển. Thư viện Quốc hội Mỹ đã tiến hành một chương trình thư viện số khổng lồ nhằm chuyển đổi vốn tư liệu in truyền thống sang nguồn tin điện tử linh hoạt và nếu công việc thực hiện đúng tiến độ kế hoạch thì trong thế kỷ XXI độc giả những người dùng tin khắp nơi trên thế giới sẽ có thể bật máy tính, tìm đến cơ sở dữ liệu và truy nhập tới kho tư liệu số hoá của Thư viện Quốc hội Mỹ. Ngoài ra, nhiều thư viện đại học ở Mỹ và các nước phát triển khác cũng đang tìm cách đưa các sưu tập thư viện vào máy tính và đưa lên mạng để bạn đọc truy nhập sử dụng rộng rãi. Các chuyên gia thông tin thư viện đã và đang có tham vọng tập hợp tư liệu số từ nhiều nơi, thậm trí, trên phạm vi toàn cầu thông qua internet, để mọi người ở bất kỳ nơi nào cũng có thể truy nhập được. Xu thế liên kết mạng, sự phát triển của các nguồn tin điện tử, sự hình thành các thư viện điện tử. phát triển các công điện tứ đã trở thành xu thế chung của thế giới.
Tại nhiều nước trên thế giới việc thực hiện chính sách thông tin quốc gia đã đòi hỏi phải cung cấp các dịch vụ điện tử, sử dụng công nghệ thông tin, tiếp cận Internet trong dịch vụ thư viện thông tin và trong công tác giáo dục đào tạo khoa học thư viện thông tin.
Tính chất và yêu cáu của nghề nghiệp đã, đang và sẽ tiếp tục có nhiều thay đổi nhưng người cán bộ thư viện thông tin mãi sẽ vẫn là linh hồn và nhân tố giữ vai trò quyết định trong hoạt động thư viện thông tin. Vì thế các cơ sở đào tạo và những người làm công tác giáo dục phải có trách nhiệm chuẩn bị đào tạo ra một thế hệ những cán bộ thư viện thông tin mới có khả năng bắt kịp với sự phát triển và yêu cầu của thực tiễn. Công tác đào tạo cán bộ thư viện thông tin sẽ bị tụt hậu, sản phẩm đào tạo sẽ không được thực tế chấp nhận nếu như các cơ sở đào tạo và những người tham gia vào hoạt động này không thực sự đổi mới về mọi bình diện, cách tân hệ thống và nội dung đào tạo và bồi dưỡng ngành nghề này.
Với các mô hình và một hệ thống các giải pháp được đề xuất trong đề tài chúng tôi hy vọng các cơ sở đào tạo ngành TVTT, những người xây dựng chiến lược, các nhà quản lý công tác đào tạo sẽ lựa chọn được phương thức và biện pháp thích hợp để đẩy mạnh công tác đào tạo cán bộ TVTT thích ứng với yêu cầu của thực tế Việt Nam và đòi hỏi của xã hội thông tin hiện đại.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33456.doc