Đề tài Mô hình xác định các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất của ngành sản xuất giầy dép

Ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia lĩnh vực sản xuất giầy dép ở Việt Nam. Các doanh nghiệp của Nhà nước với thời gian hoạt động lâu năm (trên 20 năm) vẫn chiếm một thị phần lớn và nhưng mức hiệu quả tương đối thấp so với toàn ngành. Lý do là hầu hết các cơ sở này hình thành trong thời kỳ nền kinh tế kế hoạch nên trình độ quản lý yếu kém, hoạt động theo phương châm tự cung tự cấp dựa trên các kế hoạch định sẵn nên mức độ năng động và năng lực cạnh tranh thấp. Đáng chú ý nhất là các doanh nghiệp có tuổi từ 10 đến 20 năm, từ sau khi chuyển đổi cơ chế thị trường, với cơ chế thông thoáng hơn, đầu tư trong và ngoài nước mở rộng, đã tỏ ra hoạt động có hiệu quả hơn cả ( xấp xỉ 50%). Các doanh nghiệp mới tham gia vào lĩnh vực này, chủ yếu là các công ty liên doanh, với nhiều thuận lợi về nguồn vốn và kỹ thuật nên mức hiệu quả cũng tăng dần theo thời gian hoạt động. Điều này cũng phù hợp với cấu trúc của hai biến AGE và AGE2 trong mô hình chứng tỏ hiệu quả kỹ thuật của doanh nghiệp biến thiên theo những mức độ khác nhau tuỳ theo tuổi của doanh nghiệp.

doc62 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1238 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mô hình xác định các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất của ngành sản xuất giầy dép, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sản xuất của một doanh nghiệp chỉ có thể đạt được trong dài hạn. 1.2 Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kỹ thuật của một ngành sản xuất Tính phi hiệu quả sản xuất ở các doanh nghiệp không chỉ bắt nguồn từ những yếu tố môi trường, chẳng hạn môi trường kinh doanh không hấp dẫn và một khu vực tài chính yếu kém mà còn bắt nguồn từ các yếu tố xuất phát từ bản thân các doanh nghiệp như qui mô không phù hợp, không đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu và phát triển, phương thức quản lý yếu kém, thiếu yếu tố cạnh tranh trong và ngoài nước. Trong điều kiện từ một nền kinh tế kế hoạch tập trung chuyến sang nền kinh tế thị trường, môi trường kinh doanh có nhiều vấn đề, tuy đã có cải thiện với việc cải tổ lại hệ thống quản lý doanh nghiệp, chuyển từ hình thức sở hữu nhà nước trung ương và địa phương sang hình thức sở hữu khác như cổ phần hoá, có các biện pháp thúc đẩy cạnh tranh, có hình thức giám sát hoạt động của các tổ chức tài chính và xử lý các vấn đề phát sinh trong quản lý nhưng các yếu tố của bản thân doanh nghiệp có tác động đến tính hiệu quả của sản xuất thường ít được tính đến, trong khi các doanh nghiệp có thể chủ động quyết định các yếu tố của bản thân bản thân hơn đối với môi trường. Do đó doanh nghiệp cần xác định các đặc điểm cụ thể của bản thân để từ đó có những hướng điều chỉnh thích hợp nhằm tăng hiệu quả của quá trình sản xuất. (1) Qui mô: Nghiên cứu các nhân tố tác động đến tính hiệu quả của công nghệ có liên quan đến qui mô và sự phân bổ qui mô của các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển. Một số nhà nghiên cứu chủ trương ủng hộ và thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp có qui mô nhỏ dựa trên luận cứ về kinh tế và phúc lợi (You, 1995). Mặt khác nghiên cứu về mô hình tăng trưởng của Jovanavic(1982) lại đi đến kết luận là các hãng có qui mô lớn hơn thì hoạt động có hiệu quả hơn so với hãng có qui mô nhỏ. Các lý thuyết này chủ yếu dựa vào khái niệm về sự chuyển động của thị trường với các hãng mới liên tục tham gia thị trường và đẩy các hãng khác ra khỏi ngành. Các hãng chỉ nhận biết được “năng suất thực” của họ khi quan sát kết quả của mình so với toàn ngành, và sẽ rời khỏi ngành nếu năng suất thập hơn một mức độ giới hạn nào đó. Các hãng có năng suất cao hơn giới hạn đó sẽ tồn tại và phát triển. Sự khác biết về mức hiệu quả ở các qui mô khác nhau của doanh nghiệp còn có thể do vấn đề đo lường (Page, 1984). Có vài lý do mà các doanh nghiệp có qui mô khác nhau có sự khác biệt về hiệu quả. Tính chất của các đầu vào có thể khác nhau cho các doanh nghiệp có qui mô khác nhau như trang bị vốn và lao động, hoạt động tổ chức và quá trình sản xuất của các doanh nghiệp lớn sẽ hợp lý hơn so với doanh nghiệp nhỏ. Về mặt thực nghiệm, Pitt và Lee (1981) thấy rằng có mối liên hệ dương giữa qui mô doanh nghiệp và hiệu quả kỹ thuật ở 50 doanh nghiệp ngành giầy dép của Indonesia, kết quả này cũng được minh chứng khi Page (1984) áp dụng cho ngành giầy dép Ân Độ. Các nghiên cứu về mặt thực nghiệm đã cho thấy có một mối quan hệ khăng khít giữa qui mô và hiệu quả, tác động của qui mô tới hiệu quả là thuận chiều hay ngược chiều sẽ phụ thuộc vào đặc điểm riêng của từng ngành. (2) Vị trí và loại hình doanh nghiệp: Vị trí của doanh nghiệp cũng đóng vai trò tương đối quan trọng khi xem xét hiệu quả sản xuất. Với những vị trí địa lý khác nhau, có thuận lợi hay không về giao thông, về các nguồn lực khai thác sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ sản xuất. Mặt khác tính hiệu quả còn liên quan đến hình thức sở hữu của doanh nghiệp. Nhiều nhà kinh tế cho rằng hình thức sở hữu Nhà nước có thể làm cản trở đến hoạt động có hiệu quả của hãng vì với nhà quản lý lợi nhuận không phải là mục tiêu cao nhất. Mô hình phổ biến trong nghiên cứu các tác động của hình thức sở hữu là mô hình về sự lựa chọn công cộng hay mô hình về quyền tài sản. Lý thuyết về quyền tài sản cho rằng do quyền sở hữu không tập trung trong tay các cá nhân nên sẽ không có nhiều các sáng kiến quản lý liên quan đến việc gia tăng hiệu quả kỹ thuật. Nhưng theo tài liệu điều tra của Việt Nam, các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động có hiệu quả hơn vì họ không bị giới hạn về nguồn vốn vay nên việc đầu tư vào công nghệ mới cũng thuận lợi hơn do đó hiệu quả sản xuất cũng được nâng cao. (3) Cấu trúc vốn của doanh nghiệp: Theo Williamson (1988), một trong những vấn đề quan trọng trong lý thuyết quản ý doanh nghiệp là mối liên hệ giữa mức nợ của doanh nghiệp và hoạt động kinh tế của doanh nghiệp. Đầu tiên hai tác giả Modigliani và Miller (1958) cho rằng mức nợ của doanh nghiệp không ảnh hưởng đến hiệu quả của doanh nghiệp. Tuy nhiên, Jensen và Meckling (1976) gợi ý rằng mức nợ có thể ảnh hưởng phi tuyến đến hành vi và hoạt động của doanh nghiệp. Gertner và cộng sự(1994) chỉ ra rằng quyền sở hữu làm cho phân bổ vốn hiệu quả hơn và đầu tư bởi nguồn vốn nội bộ được kỳ vọng là cải thiện hiệu quả của doanh nghiệp. Đối với các tác động gián tiếp, cấu trúc vốn có thể ảnh hưởng trong dài hạn. Tỷ lệ vốn vay bên ngoài trên tổng số vốn cao có thể dẫn đến sự suy giảm trong cải tiến của doanh nghiệp và trong dài hạn hiệu quả sẽ đi xuống. Cấu trúc vốn có thể có tác động theo chiều hướng khác nhau đến hiệu quả của doanh nghiệp và vai trò của hệ thống giám sát đối với nguồn vốn bên ngoài cũng như tỉ trọng của nguồn vốn này có tác động rõ rệt đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. (4) Hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D): Nhiều nhà kinh tế cho rằng các hoạt động R&D có tác động mạnh đến việc gia tăng năng suất, và họ cố gắng tìm ra mối liên hệ giữa R&D và tốc độ tăng năng suất. Vốn được coi là một nhân tố khó đo lường. Khó khăn này bắt nguồn từ tính phức tạp trong mối quan hệ giữa R&D và năng suất. Theo Perelman (1995), năng lực sản xuất của hãng sẽ gia tăng cùng với các hoạt động R&D vì nó nâng cao đường giới hạn khả năng sản xuất. Nếu đường giới hạn khả năng sản xuất dịch lên trên mà hãng không có khả năng ứng dụng công nghệ mới thì khoảng cách giữa đường giới hạn và sản lượng thực tế sẽ tăng lên ( tính phi hiệu quả kỹ thuật tăng). Các khoản đầu tư lớn vào R&D nhằm tạo ra đổi mới về công nghệ. Tuy nhiên điều này không hẳn là đúng trong trường hợp các khoản đầu tư có qui mô nhỏ, và được cho là không đủ để nâng được giới hạn khả năng sản xuất lên. Hơn nữa có một thực tế là với các dự án nghiên cứu khoa học ứng dụng sản xuất có qui mô nhỏ thì khó có thể tạo ra được những thay đổi trong công nghệ sản xuất. Do đó, các dự án đầu tư R&D có qui mô nhỏ chỉ làm gia tăng sản lượng thực tế và cho phép tiệm cận gần hơn đến đường giới hạn và gia tăng hiệu quả kỹ thuật. (5) Hoạt động xuất khẩu: Có nhiều nghiên cứu đề cập tới mối liên hệ giữa các hoạt động xuất khẩu và hiệu quả xuất. Lý thuyết trao đổi tân cổ điển cho rằng các hãng sản xuất phải đối mặt với cạnh tranh quốc tế thì có thể nâng cao được hiệu quả sản xuất bởi vì các hoạt động xuất khẩu làm cho việc phân bổ nguồn lực trở nên có hiệu quả, huy động được nhiều vốn hơn và tận dụng được tính hiệu quả theo qui mô. Sự cạnh tranh trên thị trường quốc tế sẽ là điều kiện bắt buộc các doanh nghiệp tham gia phải tuân theo, và muốn đứng vững và phát triển được hãng phải có những quyết định sản xuất hợp lý, sản xuất cho ai, cái gì và như thế nào để đạt được mục đích thu lợi với chi phí hợp lý. Điều đó ít nhiều cũng ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp. (6)Chính sách điều tiết của Nhà nước: Các qui định của Nhà nước cũng như chính quyền địa phương có thể tác động đến hiệu quả về mặt công nghệ. Các qui định có thể làm ngăn cản sự hoạt động của cơ chế thị trường và làm ảnh hưởng đến việc phân bổ nguồn lực cũng như tính hiệu quả của sản xuất trên phạm vi cả nước hoặc từng vùng. Thị trường có tính cạnh tranh cao hơn sẽ làm tăng khả năng của doanh nghiệp trong việc đạt được hiệu quả của sản xuất như mong muốn. 2. Mô hình hàm sản xuất biên ngẫu nhiên đánh giá hiệu quả kỹ thuật Có rất nhiều nghiên cứu được đưa ra về hàm sản xuất biên ngẫu nhiên và ước lượng các tham số của hàm sản xuất biên ngẫu nhiên. Theo Aigner, Lovell Schmidt (1977), Meeusen van den Broeck (1977), Battese và Corra (1977) đề xuất, có thể tính được hiệu quả kỹ thuật trung bình cho các hãng cùng ngành với việc biểu diễn sai số ngẫu nhiên của hàm sản xuất gồm hai phần. Một phần biểu thị nhiễu thống kê và được giả thiết tuân theo quy luật phân phối chuẩn, phần kia biểu thị sự không hiệu quả trong sản xuất và phân phối theo những quy luật khác nhau. 2.1. Giới thiệu mô hình * Hàm sản xuất biên được mô tả như sau Y = Xb + E (1) Trong đó: E = V – U (2) Yit: sản lượng của hãng thứ i (i = ) tại thời kỳ t (t = ) Xit: vectơ đầu vào tương ứng với quá trình sản xuất của hãng thứ i tại quan sát ở thời kỳ t b: vectơ các hệ số ứng với biến độc lập trong hàm sản xuất Vit: các biến ngẫu nhiên giả định độc lập với nhau và cũng có phân phối N ( O, s2v), độc lập với biến ngẫu nhiên Uit Uit: biến ngẫu nhiên độc lập không âm tương ứng với tính không hiệu quả của công nghệ ( hiệu ứng hãng) Sự liên kết giữa Y và X theo một dạng hàm thích hợp mô tả công nghệ sản xuất của hãng. * Phân phối của sai số ngẫu nhiên Các nhiễu Uit có thể có các dạng khác nhau vì vậy hiệu quả cũng khác nhau. Mô hình bán chuẩn (normal – half normal model) Hàm mật độ của u ³ 0 được cho bởi f(u) = (3) Với giá trị trung bình E (U) = s f (0) / F (0) = (4) Và giá trị phương sai Var (U) = (5) Mô hình chuẩn mũ (normal – exponential model) Hàm mật độ xác suất có dạng f(U) = qe-q.u trong đó q = Giá trị trung bình E (U) = Giá trị phương sai Var (U) = Mô hình chuẩn cụt tại 0 (normal – truncated at 0) Hàm mật độ xác suất có dạng f(u) = (6) Trong đó: m: mode của phân phối chuẩn cụt F (.) : hàm phân phối của biến ngẫu nhiên chuẩn hoá. f (.) : hàm mật độ của biến ngẫu nhiên chuẩn hoá 2.2 Hiệu quả kỹ thuật xác định từ hàm sản xuất biên Ta xem xét trường hợp nhiễu U có phân phối chuẩn cắt cụt. Khi đó hiệu quả kỹ thuật của hãng bất kỳ là tỷ số giữa sản lượng trung bình (theo đơn vị gốc) với hiệu ứng thực tế của hãng trên sản lượng trung bình tương ứng với hiệu ứng hãng = 0. Kí hiệu TE là hiệu quả kỹ thuật. * Hiệu quả kỹ thuật của hãng thứ i được xác định như sau TEi = (7) Với Y*it : giá trị sản lượng (theo đơn vị gốc) của hãng thứ i trong thời kỳ thứ t. Điều kiện 0 Ê TE Ê 1 Nếu hàm sản xuất biên được xác định trực tiếp theo đơn vị gốc của sản lượng thì hiệu quả kỹ thuật của hãng thứ i được tính như sau: (8) Với : giá trị trung bình của các mức đầu vào của hãng thứ i * Hiệu quả kỹ thuật trung bình các hãng trong ngành (9) Với : giá trị trung bình của các mức đầu vào của các hãng trong ngành. * Nếu hàm sản xuất biên xác định là hàm logarit, sản lượng của hãng thứ i trong thời kỳ t là exp (Yit) thì hiệu quả kỹ thuật của hãng i sẽ là TEit = exp (-Uit) (10) Uit = exp [-h ( t-Ti )]Ui (11) Với h là hệ số ước lượng từ hàm sản xuất biên, biểu diễn tính bất biến của phi hiệu quả kỹ thuật theo thời gian TEt = E[exp(-hUi)] (12) + (13) Theo nghiên cứu của Schnuidt và Lovell (1980) tính hiệu quả kỹ thuật trung bình của các nhà máy hơi điện. ) (14) áp dụng với điều kiện U có phân phối nửa chuẩn. Theo công thức (1), hiệu quả kỹ thuật của 1 hãng được dự toán phụ thuộc vào dạng phân phối thích hợp của hiệu ứng Ui. 3. Giới thiệu mô hình đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến tính phi hiệuquả kỹ thuật của một ngành sản xuất. Mô hình hàm sản xuất biên dạng loga siêu việt, áp dụng cho ngành công nghiệp chế biến của Hàn Quốc. (ngành thực phẩm, dệt may, giấy, hoá chất, kim loại). Các ngành được ước lượng một cách riêng rẽ để xem tính hiệu quả kỹ thuật có liên quan một cách hệ thống đến qui mô , nguồn vốn bên ngoài, các khoản đầu tư từ hoạt động nghiên cứu và phát triển, xuất khẩu. 3.1 Mô hình hàm sản xuất biên ngẫu nhiên Hàm loga siêu việt được cho như sau Lnyit = + Trong đó: yit: Sản lượng quan sát của xí nghiệp thứ i ở năm t x : vectơ đầu vào cho sản xuất j,l dùng để chỉ các đầu vào (gồm vốn K và lao động L) vit: sai số ngẫu nhiên được giả định là độc lập có phân phối N (0, ) uit: biến ngẫu nhiên không âm đại diện cho những ảnh hưởng phi hiệu quả kỹ thuật, được giả định là phân phối nửa chuẩn tại điểm 0 với kỳ vọng bằng Mit, phương sai s2 3.2 Mô hình phi hiệu quả. Do Uit đại diện cho mức độ ảnh hưởng của tính không hiệu quả trong đó giá trị trung bình mit sẽ được biểu diễn thay thế. mit = d0 + d1Z1it + d2Z2it + ..... + dkZkit + wi Trong đó: Z1, Z2, ..... , Zk thể hiện các yếu tố như quy mô của xí nghiệp, tỷ lệ huy động vốn từ bên ngoài, hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D), ... wi : Biến ngẫu nhiên tuân theo phân phối chuẩn cắt cụt wi ~ N(O, su2) sao cho ui không âm. d: các hệ số ước lượng với giá trị phương sai được biểu diễn như sau s2 = s2v + s2u và g = Với 0 Ê g Ê 1 thể hiện mức độ ảnh hưởng của hiệu ứng hãng với tính phi hiệu quả. Phương pháp ước lượng mô hình là phương pháp hợp lý tối đa. 4. Phương pháp ước lượng hợp lý tối đa 4.1 Xây dựng hàm hợp lý tối đa Giả sử đã biết quy luật phân tích xác suất tổng quát của biến ngẫu nhiên gốc X dưới dạng hàm mật độ f(x, q). Đó cũng có thể là biểu thức xác suất nếu X là biến ngẫu nhiên rời rạc. Cần phải ước lượng tham số q nào đó của X. Lập mẫu ngẫu nhiên kích thước n W = (X1, X2,...Xn) Và xây dựng hàm của đối số q tại một giá trị cụ thể của mẫu L(x1, x2,..., xn, q) =f(x1, q).f(x2, q)...f(xn, q) Hàm L gọi là hàm hợp lý của tham số q Giá trị của hàm hợp lý chính là xác suất hay mật độ xác suất tại điểm (x1, x2, ..., xn) còn giá trị của thống kê q tại điểm đó = f(x1, x2, ...xn) gọi là ước lượng hợp lý tối đa của q nếu ứng với giá trị này của q hàm hợp lý đạt cực đại. 4.2 áp dụng tính hàm hợp lý tối đa cho mô hình biên ngẫu nhiên * Mô hình nửa chuẩn * Mô hình chuẩn cụt + * Mô hình chuẩn mũ Với ei = vi - ui trong đó vi ~ N(0,s2v) ui ~ N(mi, s2u) Chương III áp dụng mô hình cho ngành sản xuất giầy dép Việt Nam 1. Mô tả số liệu Số liệu được thu thập từ cuộc điều tra doanh nghiệp 2000 - 2003 do Tổng cục thống kê thực hiện. Các thông tin sử dụng bao gồm tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, số lượng lao động, nguồn vốn, doanh thu, loại hình và chi phí sản xuất của doanh nghiệp. Các bộ số liệu được sử dụng Số liệu ngành giầy da (64 cơ sở) trong 3 năm 2000 - 2002 Số liệu gộp hai ngành tiêu dùng dệt may và giầy da của Hà Nội (76 cơ sở) từ 2001- 2003 Các biến trong mô hình VA : Giá trị gia tăng ( Triệu đồng) R : Doanh thu (Triệu đồng) Kr : Vốn ròng ( = Tổng tài sản - Khấu hao, đơn vị tính: triệu đồng) L : Số lao động trong doanh nghiệp ( người) AGE : Tuổi của doanh nghiệp ( Số năm hoạt động trong ngành) oWN1: Biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân oWN2: Biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước REG1: Biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu doanh nghiệp ở miền Nam REG2: Biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu doanh nghiệp ở miền Bắc INDS: Biến giả nhận giá trị bằng 0 nếu doanh nghiệp thuộc ngành giầy dép, bằng 1 nếu doanh nghiệp thuộc ngành dệt may Giá trị thống kê của các biến trong mô hình Đơn vị : Triệu đồng Bảng 3.1 Ngành giầy dép Năm Biến Số quan sát Trung bình Độ lệch chuẩn Nhỏ nhất Lớn nhất 2000 VA 64 9967,61 27086,67 14 204532 L 64 317,48 594,53 5 2699 Kr 64 10089,48 22247,69 13 146387 R 64 46782,52 104475,52 87 584531 2001 VA 64 10453,69 15287,39 27 80153 L 64 340,91 634,4 5 2967 Kr 64 10728,81 19848,18 11 119959 R 64 52182,93 118765,5 117 698458 2002 VA 64 7862,73 14651,7 40 89781 L 64 323,06 515,83 5 2039 Kr 64 9745,95 17704,92 9 119966 R 64 58079,31 164731,02 144 933814 2000 - 2002 VA 192 9428,01 19008,59 14 201532 L 192 327,15 581,5867 5 2967 Kr 192 10188,08 19933,6 9 146387 R 192 52348,25 129324 87 933814 Nguồn: Tính toán của tác giả Nhìn vào các chỉ tiêu trong bảng 3.1 ta thấy giá trị gia tăng của ngành giầy tăng trong hai năm 2000 và 2001, nhưng đến năm 2002 giá trị này lại giảm, thậm chí còn thấp hơn so với năm 2000. Lý do để giải thích cho điều này đó là năm 2002 Trung Quốc gia nhập tổ chức thương mại WTO khiến tình hình cạnh tranh giữa sản xuất giầy dép nước ta và Trung Quốc trở nên gay gắt, do đó VA của toàn ngành giảm. Vốn đầu tư trong năm 2002 cũng không lớn bằng năm trước, mặc dù lực lượng lao động vẫn tăng nhưng không đủ lớn do đó doanh thu nói chung không cao, khoảng cách về qui mô sản xuất giữa các doanh nghiệp trong ngành lớn nên độ lệch chuẩn của các biến cũng cao Bảng 3.2 Ngành Dệt may - Giầy dép Năm Biến Số quan sát Trung bình Độ lệch chuẩn Nhỏ nhất Lớn nhất 2001 VA 76 7245,388 15369,911 21,728 90401,98 L 76 447,178 788,7977 6 3643 Kr 76 27878,387 80596,254 55,4455 577552,47 R 76 28747,215 74355,245 71,125 55363,36 2002 VA 76 8967,21 12546,21 32,2564 80236,15 L 76 626,326 668,254 12 6598 Kr 76 25365,125 60326,245 62,3261 73265,124 R 76 30236,658 78959,568 102,054 60584,12 2003 VA 76 10236,325 23654,12 60,235 102365,12 L 76 556,15 884,15 10 7526 Kr 76 32125,12 65324,21 102,325 87595,12 R 76 35654,24 24578,25 89,258 86957,42 2001 - 2003 VA 228 8536,245 15857,85 21,728 102362,12 L 228 535,245 758,25 6 7526 Kr 228 286594,12 65384,15 55,4455 87595,12 R 228 26584,25 21457,54 71,125 55363,36 Nguồn: Tính toán của tác giả Phân tích chung đối với ngành gộp cũng cho thấy tuy giá trị gia tăng có tăng dần qua các năm nhưng do trong ba năm từ 2001 đến 2003 ngành dệt may được quan tâm hơn nên nguồn vốn được đầu tư nhiều , lao động không có nhiều thay đổi nhưng giá doanh thu chung của toàn ngành dệt may giầy dép cũng tăng. 2. Mô hình hàm sản xuất biên đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến tính hiệu quả và phi hiệu quả của ngành giầy dép 2.1 Mô hình hàm sản xuất biên Sử dụng mô hình hàm sản xuất biên để đánh giá vai trò của các nhân tố đầu vào đối với hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp thông qua chỉ tiêu hiệu quả kỹ thuật ( Technical Efficiency - TE ). Biến đại diện cho hiệu quả sản xuất là giá trị gia tăng (VA) là một hàm của hai nhân tố vốn (Kr) và lao động(L) Dạng 1: Hàm sản xuất Cobb - Douglass với giả thiết nhiễu ngẫu nhiên Ui phân phối bán chuẩn Ln(VAi) = b1 + b2Ln(Li) + b3Ln(Kri) + (Vi - Ui) Dạng 2: Hàm sản xuất loga siêu việt với giả thiết nhiễu ngẫu nhiên Ui phân phối theo qui luật chuẩn cắt cụt Ln(VAi)= b1 + b2Ln(Li) + b3Ln(Kri) + b4Ln(Li)2 + b5Ln(Kri)2 + b6Ln(Li).Ln(Kri) + b7Ln(Li).t + b8Ln(Kri).t + b9t + b10t2 +(Vi - Ui) Trong đó i : là kí hiệu chỉ quan sát thứ i trong thời kỳ nghiên cứu t : biểu diễn cho năm nghiên cứu (t =1,2,3 tương ứng cho các năm 2000, 2001, 2002) Ln... là logarit cơ số tự nhiên của các biến tương ứng Kiểm định giả thiết để lựa chọn dạng hàm: Kiểm định tỷ số hợp lý Tư tưởng chung của kiểm định đưa ra trên cơ sở xây dựng một cặp giả thiết với các điều kiện đối lập H0 và H1, L(H0) và L(H1) là giá trị loga của hàm hợp lý của mô hình có điều kiện ràng buộc trong các giả thiết. Tiêu chuẩn kiểm định l = -2[L(H0) - L(H1)] có phân phối c2 với số bậc tự do bằng số chênh lệch giữa số các tham số trong hai giả thiết H0, H1 Giả thiết Định dạng mô hình Giá trị của hàm hợp lý Giá trị thống kê l Giá trị c2 tới hạn Quyết định H0 Cobb-Douglas -292,405 20,162 14,0671* Bác bỏ H0 H1 Loga siêu việt -282,324 Vậy dạng hàm lựa chọn là hàm loga siêu việt với hai đầu vào là vốn (Kr) và lao động (L). 2.2 Mô hình đánh giá tác động của các nhân tố tới tính phi hiệu quả kỹ thuật Theo một số nghiên cứu, có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới tính hiệu quả và phi hiệu quả của một doanh nghiệp trong ngành sản xuất như qui mô doanh nghiệp, thời gian hoạt động (tuổi doanh nghiệp), hình thức sở hữu, cơ cấu vốn, xuất khẩu, hoạt động nghiên cứu và phát triển...Tuy nhiên do số liệu không đầy đủ nên tác giả chỉ đưa vào một số yếu tố và phân tích tác động của chúng. Mô hình chỉ định như sau mi = d0 + d1(Kri/Li) + d2Ri + d3 OWN1i + d4 OWN2i + d5 REG1i + d6 REG2i + d7 AGEi + d7 AGEi2 + wi Với m : giá trị trung bình của nhiễu U đại diện cho mức phi hiệuquả Kr/L : Tỷ số giữa vốn ròng và lao động biểu thị mức độ trang bị kỹ thuật trên một lao động R : Doanh thu ( đại diện cho qui mô của doanh nghiệp) AGE : Tuổi của doanh nghiệp ( Số năm hoạt động trong ngành) oWN1: Biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài oWN2: Biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước REG1: Biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu doanh nghiệp ở miền Nam REG2: Biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu doanh nghiệp ở miền Bắc Có thể kiểm định sự tồn tại của mức phi hiệu quả kỹ thuật (HQKT) bằng kiểm định tỷ số hợp lý với thống kê l Giả thiết H0 : Không có phi hiệu quả kỹ thuật (g = m = h = 0) H1 : Có phi hiệu quả kỹ thuật ( ít nhất một hệ số khác 0) Nếu giả thiết H0 chưa bị bác bỏ thì sẽ không có tham số biên biểu thị mức phi hiệu quả trong hàm sản xuất do đó phương pháp ước lượng lại quay trở phương pháp bình phương nhỏ nhất thông thường. Giả thiết Định dạng mô hình Giá trị của hàm hợp lý Giá trị thống kê l Giá trị c2 tới hạn Quyết định H0 Không có phi HQKT -360,326 23.325 7,045* Bác bỏ H0 H1 Có tồn tại phi HQKT -348,6635 Vậy trong mô hình hàm sản xuất tồn tại tính phi hiệu quả kỹ thuật * Giá trị tới hạn lấy với mức ý nghĩa 5%, bậc tự do bằng số hệ số chênh lệch giữa hai mô hình trong hai giả thiết H0, H1 2.3 Kết quả ước lượng mô hình Tác giả sử dụng phần mềm FRONTIER 4.1 để ước lượng hàm sản xuất biên ngẫu nhiên và mô hình phi hiệu quả Bảng 3.3: Kết quả ước lượng mô hình biên ngẫu nhiên và mô hình phi hiệu quả ( theo phương pháp ước lượng hợp lý tối đa) Biến Hệ số ước lượng Độ lệch chuẩn Thống kê T Mô hình 1: mô hình hàm sản xuất biên ngẫu nhiên CONST 1,87 0,9103 2,0542 LnL 0,327 0,08912 3,669 LnKr 0,361 0,08803 4,1008 Ln(L2) -0,163 0,04397 -3,707 Ln(Kr2) 0,1806 0,44365 0,407 (LnL)(LnKr) -0,044 0,2033 0,2164 (LnL)t -0,085 0,0789 1,0762 (LnK)t 0,038 0,05342 0,6739 t 0,449 0,64915 0,6916 t2 -0,805 0,15403 -5,2262 Mô hình 2: mô hình phi hiệu quả (Kr/L) -0,0015 0,01615 0,0928 R -0,0001* 0,000047 2,276 OWN1 1,426* 0,44574 3,1992 OWN2 0,3028 0,63187 0,4792 REG1 -0,2167 0,4722 -0,4589 REG2 0,143 0,51556 0,2774 AGE 0,1033 0,17896 0,5772 AGE2 -0.0351 0,12712 -0,2761 s2 1,691* 0,31338 5,396 g 0,742* 0,078723 9,432 Giá trị hàm hợp lý tối đa -272,253 Nguồn: Kết quả ước lượng của chương trình Frontier Dấu (* ) biểu hiện hệ số có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 5% Trong mô hình, cả hàm sản xuất và mô hình phi hiệu quả được ước lượng đồng thời, phần ngẫu nhiên trong hàm sản xuất biên được tách làm hai phần, một phần là nhiễu ngẫu nhiên thông thường, một phần biểu hiện cho mức phi hiệu quả với phân phối nửa chuẩn Phân tích kết quả áp dụng mô hình cho 64 cơ sở sản xuất giầy dép trong phạm vi cả nước, mặc dù với mức ý nghĩa 5%, một số biến trong hàm sản xuất loga siêu việt chưa thực sự tác động tới giá trị gia tăng đầu ra nhưng kiểm định tỷ số hợp lý ở trên đã chứng tỏ rằng dạng hàm lựa chọn là đúng nên ta chấp nhận mô hình được chỉ định. Các hệ số ước lượng ứng với các biến lao động( LnL) và vốn (LnKr) mang dấu dương và thực sự có ý nghĩa phù hợp với lý thuyết kinh tế về sự gia tăng đầu ra khi đầu vào tăng. Biến Ln(L2) có hệ số mang dấu âm chứng tỏ qui mô đầu ra sẽ giảm dần nếu thêm quá nhiều lao động. Trong thực tế, ngành giầy dép là ngành sử dụng nhiều lao động, chủ yếu là lao động phổ thông nên nếu trong thời gian ngắn tăng nguồn lực này sẽ đem lại hiệu quả thì xét về dài hạn, nếu các điều kiện khác không được cải thiện, việc sử dụng quá nhiều đầu vào này sẽ đem lại hiệu quả không cao. Trong mô hình hàm sản xuất biên ngẫu nhiên, có hai chỉ số cho phép đánh giá hiệu quả hoạt động của ngành đang xét. Đó là s2 có chứa sv2 là sai số ngẫu nhiên kết hợp với su2 là số hạng hiệu quả kỹ thuật và g =su2/s2 được đưa vào để phân tích cấu trúc của phi hiệu quả kỹ thuật. Xem xét chung ngành sản xuất giầy dép ta thấy hiệu quả kỹ thuật của toàn ngành không cao (trung bình khoảng 54,78% chung cho 3 năm), tỷ lệ doanh nghiệp có mức hiệu quả thấp khá lớn ( chiếm khoảng 23% số quan sát ) trong khi số lượng cơ sở có hiệu quả cao không nhiều ( cũng xấp xỉ 25% trên tổng số quan sát). Do đặc thù của mỗi cơ sở sản xuất nên mức hiệu quả chênh lệch nhau khá nhiều, có cơ sở hoạt động rất hiệu quả như các doanh nghiệp liên doanh với tổng vốn đầu tư lớn, kỹ thuật và máy móc hiện đại kèm theo sản phẩm có thương hiệu nên doanh thu luôn ổn định ở mức cao, bên cạnh đó, những cơ sở sản xuất cũ của Nhà nước không đáp ứng được nhu cầu trên thị trường nên ngày càng thu hẹp sản xuất và hiệu quả rất thấp. Giá trị g = 0,742 cho chúng ta thấy trong ngành giầy dép có khoảng 25,8% tổng biến thiên của sản xuất do yếu tố ngẫu nhiên gây nên, còn lại 74,2% do tác động của sai số phi hiệu quả kỹ thuật. Bảng 3.4 Hiệu quả phân phối qua các năm Chỉ tiêu đánh giá TE2000 TE2001 TE2002 Giá trị trung bình 0,4897 0,5783 0,5475 Độ lệch chuẩn 0,1187 0,1987 0,2154 Giá trị cực đại 0,8975 0,9325 0,8872 Giá trị cực tiểu 0,0325 0,1020 0,0351 Bảng 3.5 Đánh giá xu hướng tác động của một số chỉ tiêu tới tính phi hiệu quả Biến Dấu của hệ số ước lượng ý nghĩa Kr/L -0,0015<0 Khi tỷ lệ vốn trên lao động tăng, mức độ phi hiệu quả sẽ giảm R -0.0001<0 Khi doanh thu biểu hiện cho qui mô doanh nghiệp tăng, mức phi hiệu quả giảm OWN1 1.426>0 Mức phi hiệu quả của doanh nghiệp tư nhân cao OWN2 0.3028>0 Doanh nghiệp Nhà nước cũng có mức phi hiệu quả khá cao REG1 -0,2167<0 Doanh nghiệp ở miền Nam hoạt động hiệu quả hơn ở các miền khác (phi hiệu quả ít hơn) REG2 0,143>0 Doanh nghiệp ở miền Bắc hoạt động ít hiệu quả hơn ở các miền khác AGE 0,1033>0 Doanh nghiệp hoạt động lâu năm quá trong ngành cũng kéo theo mức độ phi hiệu quả cao Hai yếu tố thực sự ảnh hưởng sâu sắc đến mức phi hiệu quả là doanh thu biểu hiện cho qui mô của doanh nghiệp và loại hình doanh nghiệp , tuổi doanh nghiệp (các hệ số của doanh thu R và biến giả OWN1, thực sự có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 5%). Hệ số của biến R mang dấu âm và có ý nghĩa cho thấy qui mô doanh nghiệp có tác động đến hiệu quả và doanh thu tăng sẽ làm cho mức phi hiệu quả giảm nên hiệu quả kỹ thuật sẽ lớn hơn, ngoài ra biến giả phân biệt cho hình thức sở hữu tư nhân và các loại sở hữu khác cũng có ý nghĩa thực sự trong mô hình nên chứng tỏ chỉ có sự khác nhau rõ rệt giữa hiệu quả của doanh nghiệp tư nhân và hai hình thức khác còn hai loại sở hữu Nhà nước và liên doanh thì không có khoảng cách quá lớn về hiệu quả sản xuất. g và s2 cũng khác không thực sự nên trong mô hình có tồn tại tính phi hiệu quả kỹ thuật. Ta sẽ đánh giá tác động cụ thể của từng yếu tố tới hiệu quả kỹ thuật. * Hiệu quả với doanh thu Nhìn vào đồ thị trên ta thấy số lượng quan sát phân phối tương đối đều giữa các khoảng doanh thu khác nhau chứng tỏ các doanh nghiệp lựa chọn trong mẫu rất phong phú, có doanh nghiệp qui mô sản xuất lớn và nhỏ. Mức hiệu quả kỹ thuật phân bố cũng khác nhau, các doanh nghiệp có mức doanh thu trong khoảng từ 11 đến 30 tỷ đồng có hiệu quả trung bình thấp nhất (khoảng 40%), trong khi với qui mô nhỏ hơn (doanh thu dưới 10 tỷ đồng) thì mức hiệu quả tương đối đều nhau khoảng 47%. Lý do có thể các cơ sở sản xuất nhỏ không đầu tư quá nhiều nhưng tận dụng có hiệu quả nhân công nên TE cao hơn. Các doanh nghiệp lớn có điều kiện về nguồn vốn, khả năng quay vòng sản xuất nhanh, ứng dựng các ký thuật hiện đại trong sản xuất và quản lý nên hiệu quả kỹ thuật đạt được cao nhất( xấp xỉ 57%) và cũng chiếm số lượng nhiều nhất trong ngành. Chính điều này cũng giúp hiệu quả chung của toàn ngành nâng cao hơn. Các doanh nghiệp lớn chủ yếu là các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài, vốn và điều hành chung từ phía nước ngoài, Việt Nam chỉ đóng góp lực lương lao động dồi dào nên hiệu quả cũng cao hơn các cơ sở trong nước. * Hiệu quả với loại hình sở hữu Theo Hiệp hội Da Giầy Việt Nam, vì giầy dép là mặt hàng xuất khẩu nhiều trên các thị trường quốc tế ( EU, Nhật, Mỹ...) nên các doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế đều tham gia.Các doanh nghiệp Nhà nước với thương hiệu được người tiêu dùng trong và ngoài nước ư a thích như Vina Giầy, giầy vải và giầy thể thao Thượng Đình, Bitis’s...vẫn tiếp tục có chỗ đứng vững chắc nên hiệu quả đạt được trong quá trình sản xuất tương đối cao ( khoảng 43%), tuy nhiên trong những năm gần đây các doanh nghiệp này do không có khách hàng thường xuyên nên cũng phải thu hẹp sản xuất. Các doanh nghiệp sản xuất giầy vải khó khăn hơn nên nhiều cơ sở phải chuyển sang sản xuất giầy thể thao và giầy nữ. Mặt khác, do sự biến động tăng giá các dịch vụ, điện nước, tiền lương, bảo hiểm mà chi phí sản xuất của các doanh nghiệp tăng lên, trong khi đó giá bán không tăng nên các doanh nghiệp phải chịu sức ép khá lớn do đó mức phi hiệu quả cũng cao hơn (hệ số của biến OWN2 dương). Đối với các doanh nghiệp FDI và liên doanh, do có khách hàng tiềm năng, đơn hàng nhiều nên doanh số bán hàng tương đối ổn định do đó hiệu quả cũng cao nhất. Các doanh nghiệp ở khu vực ngoài quốc doanh và có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng chiếm tỷ trong cao hơn cả về năng lực sản xuất và kim ngạch nhập khẩu. Ngoài hai nhân tố chính phân tích ở trên ta thấy còn một số tác nhân khác, tuy kết quả phân tích trong mô hình chỉ ra rằng không có ảnh hưởng của vị trí cũng như thời gian hoạt động của doanh nghiệp nhưng qua kiểm định tỷ số hợp lý tối đa cho rằng có tồn tại mức phi hiệu quả kỹ thuật nên ta cũng đề cập tới các yếu tố này. * Vị trí doanh nghiệp Nhìn vào đồ thị trên ta thấy hiệu quả của các doanh nghiệp ở phía Nam cao hơn các miền khác do các doanh nghiệp này có lợi thế về vận tải và công nghiệp tập trung. Một số nơi như TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, các cở sở Nhà nước và liên doanh tiếp tục phát triển với tốc độ cao. Chỉ có miền Trung do không có nguồn nguyên liệu sản xuất cũng như điều kiện vận tải khó khăn nên không phát huy được hiệu quả trong sản xuất ( TE chỉ đạt khoảng 38%). Hai khu vực Bắc và Nam, với lợi thế thông thương tốt kèm theo môi trường đầu tư thuận lợi nên thu hút được các nguồn vốn FDI vào lĩnh vực sản xuất giầy dép để xuất khẩu. Mặt khác, tại các thành phố lớn thường tập trung các doanh nghiệp sản xuất nguyên, phụ liệu, có điều kiện trong việc thiết kế mẫu mã sản phẩm và các hoạt động xúc tiến thương mại cũng thuận lợi hơn nên mức độ lãng phí khi sử dụng các nguồn lực giảm do đó mức hiệu quả kỹ thuật cũng cao hơn. TP Hồ Chí Minh và Hà Nội là nơi tập trung các cơ sở đào tạo nghề nhiều nhất do đó trình độ của lao động cũng cao hơn. Mặt khác, thị trường ở hai miền Bắc, Nam cũng rộng hơn nên năng lực tiêu thụ lớn. Đây cũng là một động lực để các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả của chính mình trong môi trường cạnh tranh gay gắt. * Thời gian hoạt động của doanh nghiệp (tuổi doanh nghiệp) Ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia lĩnh vực sản xuất giầy dép ở Việt Nam. Các doanh nghiệp của Nhà nước với thời gian hoạt động lâu năm (trên 20 năm) vẫn chiếm một thị phần lớn và nhưng mức hiệu quả tương đối thấp so với toàn ngành. Lý do là hầu hết các cơ sở này hình thành trong thời kỳ nền kinh tế kế hoạch nên trình độ quản lý yếu kém, hoạt động theo phương châm tự cung tự cấp dựa trên các kế hoạch định sẵn nên mức độ năng động và năng lực cạnh tranh thấp. Đáng chú ý nhất là các doanh nghiệp có tuổi từ 10 đến 20 năm, từ sau khi chuyển đổi cơ chế thị trường, với cơ chế thông thoáng hơn, đầu tư trong và ngoài nước mở rộng, đã tỏ ra hoạt động có hiệu quả hơn cả ( xấp xỉ 50%). Các doanh nghiệp mới tham gia vào lĩnh vực này, chủ yếu là các công ty liên doanh, với nhiều thuận lợi về nguồn vốn và kỹ thuật nên mức hiệu quả cũng tăng dần theo thời gian hoạt động. Điều này cũng phù hợp với cấu trúc của hai biến AGE và AGE2 trong mô hình chứng tỏ hiệu quả kỹ thuật của doanh nghiệp biến thiên theo những mức độ khác nhau tuỳ theo tuổi của doanh nghiệp. 3. áp dụng mô hình hàm sản xuất biên với ngành gộp (dệt may và giầy dép)Với số liệu về ngành gộp thu thập tại Hà Nội Hàm sản xuất biên Ln(VAi)= b1 + b2Ln(Li) + b3Ln(Kri) + b4Ln(Li)2 + b5Ln(Kri)2 + b6Ln(Li).Ln(Kri) + b7Ln(Li).t + b8Ln(Kri).t + b9t + b10t2 +(Vi - Ui) Mô hình phi hiệu quả mi = d0 + d1 OWN1i + d2 OWN2i + d3 INDS + d4AGEi + wi Do đặc tính của ngành gộp về mức độ trang bị kỹ thuật và doanh thu giữa hai ngành dệt may và giầy dép không đồng đều nên mô hình không xem xét biến Kr/L và R mà chú trong đến sự khác nhau về mức độ phi hiệu quả giữa các ngành Bảng 3.6 Kết quả ước lượng mô hình Biến Hệ số ước lượng Độ lệch chuẩn Thống kê T Mô hình 1: mô hình hàm sản xuất biên ngẫu nhiên CONST 4,5466* 2,3372 1,945 LnL -0,629 0,6572 -0,9571 LnKr 0,5745 0,5541 1,036 Ln(L2) 0,1808* 0,0461 3,9208 Ln(Kr2) -0,265 0,557 -0,460 (LnL)(LnKr) -0,123 0,996 -0,124 (LnL)t -0,115* 0,0599 -1,932 (LnK)t 0,199 0,1344 1,483 t 0,225* 0,1057 2,1292 t2 -0,4823* 0,2615 -1,845 Mô hình 2: mô hình phi hiệu quả OWN1 -1,6207 1,675 -0,9674 OWN2 -1,048* 0,2681 3,908 INDS -0,8712* 0,1285 -6,779 AGE 0,604* 0,2577 2,3438 s2 10,922* 4,555 2,397 g 0,850* 0,02873 29,585 Giá trị hàm hợp lý tối đa -445,637 Dấu (*) biểu hiện hệ số có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 5% Phân tích kết quả Mức hiệu quả trung bình của ngành gộp dệt may - giầy dép tại khu vực Hà Nội không cao ( khoảng 52,03%), hiệu quả giao động trong khoảng từ 22% đến 80% biểu hiện tính không đồng đều của các doanh nghiệp Do có nhiều hình thức sở hữu nên tuỳ thuộc vào cơ sở đó thuộc loại nào mà có các mức hiệu quả kỹ thuật tương ứng. Tại khu vực thành phố Hà Nội, do đặc thù là trung tâm kinh tế của cả nước nên tập trung nhiều cơ sở sản xuất ở cả hai ngành. Thị trường tiêu thụ cũng thuận lợi hơn, có nhiều cơ hội đầu tư do đó mức hiệu quả chung của ngành gộp cũng như ngành giầy dép nói riêng cao hơn so với các nơi khác (trừ các khu vực, thành phố lớn ở miền nam). Nếu tách riêng ngành dệt may ra khỏi nhóm ngành chung thì hiệu quả của ngành này sẽ cao hơn, nhưng vì dệt may và giầy dép thuộc nhóm hàng tiêu dùng và có giá trị xuất khẩu lớn nên ta có thể gộp chung để phân tích cũng như so sánh hiệu quả của hai ngành. Cùng với lộ trình gia nhập AFTA và WTO, Nhà nước cần có những kế hoạch cụ thể để đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả trong sản xuất theo từng ngành, lĩnh vực, từng địa phương. Kinh tế thủ đô là một bộ phận trong vòng quay kinh tế của cả nước và đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển chung do đó đánh giá hiệu quả của các ngành tại Hà Nội cũng là cơ sở để xem xét và so sánh với các nơi khác Các hệ số của biến giả phân chia sở hữu OWN1, biến giả phân hai ngành và tuồi của doanh nghiệp thực sự có ý nghĩa, giá trị s2 và g đều khác không nên có tồn tại phi hiệu quả kỹ thuật trong ngành gộp. Do đặc thù của ngành sử dụng nhiều lao động nên mức trang bị vốn trên một lao động và doanh thu của ngành không được đề cập trong mô hình này. Bảng 3.7 Phân phối hiệu quả kỹ thuật Khoảng hiệu quả 2001 2002 2003 < 0,2 11,8% 6,5% 21,05% [0,2 - 0,4] 15,78% 22,36% 17,1% [0,4 - 0,6] 34,21% 31,57% 38,15% > 0,6 38,21 39,57% 23,7% Ta sẽ phân tích cụ thể tác động của từng yếu tố tới mức phi hiệu quả kỹ thuật của ngành gộp. * Hiệu quả theo loại hình sở hữu Với ba hình thức sở hữu chính, ta xem xét cụ thể hiệu quả theo từng năm. Trong cả 3 năm, hiệu quả của doanh nghiệp liên doanh đều đạt mức cao nhất (xấp xỉ 70%), sau đó đến doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân. Trong những năm gần đây, do chính sách mở cửa đầu tư cùng với cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, rất nhiều doanh nghiệp Nhà nước trước kia đã chuyển sang hình thức sở hữu mới với trên 50% cổ phần do nước ngoài và tư nhân nắm giữ . Chính vì thế mặc dù hiệu quả không phân bổ đều giữa các doanh nghiệp nhưng cũng không có khoảng cách quá lớn giữa các hình thức sở hữu này( đặc biệt giữa sở hữu Nhà nước và nước ngoài). Nếu xem xét dưới góc độ phi hiệu quả, do dấu của hai hệ số ứng với biến OWN1 và OWN2 đều nhỏ hơn không nhưng biến OWN1 không có ý nghĩa thực sự trong mô hình. Điều đó chứng tỏ mức độ phi hiệu quả không khác nhau nhiều lắm giữa hình thức tư nhân và các loại hình sở hữu khác. Lý do đưa ra là các cơ sở tư nhân có thể qui mô sản xuất không lớn, họ đa phần chọn thị trường trong nước là nơi tiêu thụ sản phẩm nên các tác động tới mức phi hiệu quả thấp hơn. Trong khi đó, mức phi hiệu quả của doanh nghiệp Nhà nước rõ ràng sẽ nhỏ hơn các loại hình khác vì các cơ sở tồn tại lâu năm nên có nhiều kinh nghiệm hơn trong việc lập kế hoạch sản xuất. * So sánh hiệu quả giữa hai ngành dệt may và giầy dép Nhìn vào đồ thị và kết quả ước lượng từ mô hình ta thấy ngành dệt may có hiệu quả cao hơn so với ngành giầy dép. Các sản phẩm của hai ngành này có giá trị xuất khẩu cao, đặc biệt là dệt may nên hiệu quả sản xuất mà cụ thể là hiệu quả kỹ thuật cũng cao. Tuy nhiên, do vị thế của hàng dệt may lớn hơn nên khả năng mở rộng và đầu tư vào sản xuất sẽ cao hơn so với giầy dép.Thị trường xuất khẩu đối với hai mặt hàng này lớn (chủ yếu là thị trường EU và Mỹ) khiến kim ngạch xuất khẩu luôn dẫn đầu trong nhóm hàng tiêu dùng. Trong các năm, từ 2001 đến 2003, tuy có sự chênh lệch về mức hiệu quả kỹ thuật của hai ngành nhưng mức chênh lệch này có xu hướng giảm dần. Điều đó cho thấy ngành giầy dép đang nỗ lực hết mình để đẩy cao năng suất và hiệu quả của toàn ngành. * Hiệu quả với tuổi của doanh nghiệp Số năm hoạt động cũng tác dộng tới hiệu quả chung của ngành gộp, thời gian hoạt động trong khoảng 6 đến 10 năm đối với các loại hình doanh nghiệp đều cho mức hiệu quả cao. Nếu doanh nghiệp hình thành sớm, chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nước trong những năm gần đây hoạt động không hiệu quả lắm, đặc biệt các doanh nghiệp dệt may, giày dép có số năm hoạt động trên 20 năm, cơ chế quản lý cũ, cơ sở vật chất bị khấu hao hết và mức độ năng động kém nên không có nhiều đơn đạt hàng nên hiệu quả trung bình không cao. Điều này càng cho thấy sự tương đồng về đánh giá hiệu quả giữa ngành gộp nói chung và ngành giầy dép nói riêng. 4. Các khuyến nghị và giải pháp Từ những phân tích định tính và định lượng nói trên, kết hợp với kế hoạch phát triển đề ra với ngành, ta có thể xem xét một số giải pháp, những hướng đi đối với công nghiệp giầy dép trong thời gian tới. Mục tiêu chung của toàn ngành công nghiệp trong những năm tới - Đạt tốc độ tăng trưởng sản xuất bình quân toàn ngành công nghiệp không thấp hơn 12 - 12,5%/năm trên cơ sở đảm bảo hiệu quả - Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành để giữ vững và mở rộng thị phần cả trên thị trường nội địa và quốc tế, chuẩn bị thật tốt cho việc tham gia đầy đủ vào AFTA từ năm 2006 - Đáp ứng kịp thời với khả năng cao nhất nhu cầu của nền kinh tế về những sản phẩn công nghiệp trọng điểm, đáp ứng nhu cầu với giá cả phù hợp sức mua của thị trường về những mặt hành tiêu dùng thiết yếu ( vải, quần áo, giầy dép, thực phẩm chế biến...) - Phấn đấu tăng kim ngạch xuất khẩu (dụ kiến tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm công nghiệp đạt bình quân 15- 16%/năm), đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm chế biến, sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao - Tham gia ổn định và phát triển thị trường trong nước Theo bài học kinh nghiệm rút từ thực tế 5 năm qua, việc lựa chọn các ngành công nghiệp mũi nhọn để phát triển có trọng tâm, trọng điểm và phù hợp với tiềm năng của đất nước là rất quan trọng. Tiêu chí để lựa chọn các ngành công nghiệp mũi nhọn có thể là: - Có lợi thế cạnh tranh: công nghiệp sử dụng nhiều nguồn lao động rẻ và có tay nghề, công nghiệp sử dụng tài nguyên sẵn có, tiềm năng về rừng, biển, nông nghiệp nhiệt đới. - Có thị trường lớn ở trong nước - Có tiềm năng xuất khẩu - Tạo cơ sở vật chất kỹ thuật và hạ tầng cho phát triển kinh tế, tạo nguyên liệu đầu vào cho các ngành công nghiệp. - Có khả năng cho lợi nhuận cao, thu hồi vốn và trả nợ nhanh - Phục vụ tốt cho việc nâng cao và ổn định đời sống, xã hội của người dân. - Công nghiệp có công nghệ cao Từ các tiêu chí trên, có thể thấy các ngành công nghiệp sau đây được xếp vào loại công nghiệp mũi nhọn: - Công nghiệp năng lượng, bao gồm ngành điện và khai thác dầu khí; - Công nghiệp nhẹ gồm công nghiệp chế biến nông lâm hải sản, công nghiệp dệt may và da giày, công nghiệp chế tạo hàng tiêu dùng; - Công nghiệp cơ khí và điện tử (bao gồm cả công nghiệp chế tạo ô tô, tàu thủy); - Công nghiệp phân bón và hoá dầu; - Công nghiệp sản xuất xi măng và vật liệu xây dựng; - Công nghiệp thép và các sản phẩm kim loại. Công nghiệp dệt may, da giày vốn là thế mạnh của Việt Nam, có tiềm năng xuất khẩu lớn, thu hút được nhiều lao động. Vấn đề là cần tăng tốc đầu tư với cơ chế hợp lý để nắm bắt thị trường và tạo giá trị gia tăng lớn hơn trong ngành này. Mục tiêu chủ yếu 5 năm tới của ngành da giầy là: - Duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân 9 - 10%/năm, đến năm 2010 đạt sản lượng 720 triệu đôi giầy dép các loại, kim ngạch xuất khẩu đạt 6,3 tỷ USD - Phát triển công nghiệp thuộc da, phấn đấu đến năm 2010 đạt sản lượng da thuộc 80 triệu feet vuông. Trong 5 năm tới, hai ngành dệt may và da giầy sẽ vẫn là hai ngành công nghiệp có vai trò hết sức quan trọng trong việc thu hút lao động và tăng kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên, các ngành này sẽ phải chịu một áp lực cạnh tranh cực kỳ lớn từ các nước trong khu vực và Trung Quốc. Vì vậy, Nhà nước cần tạo mọi điều kiện để ngành phát triển và đạt các mục tiêu đề ra. Một số định hướng phát triển Những kết quả đạt được trong những năm vừa qua của ngành da- giầy đa tạo ra nhiều tiền đề quan trọng trong khả năng hội nhập cua ngành với khu vực và quốc tế. Tuy nhiên để có được tốc độ tăng trưởng cao, ổn định trong một thời gian lâu dài, ngành cần phải phát triển các nhân tố đảm bảo phát triển bền vững trên cơ sở khai thác triệt để các lợi thế quốc gia trong phân công tham gia phân công lao động quốc tế dưới tác động của quá trình toàn cầu hoá. Trước hết, chúng ta phải đánh giá đúng xu hướng vận động sản xuất giầy dép trên thế giới, từ đó xây dựng chiến lược phát triển hợp lý cho cả ngành và từng doanh nghiệp. Trong năm tới sản xuất giầy dép tiếp tục chuyển dịch mạnh từ các nước công nghiệp phát triển sang các nước đang phát triển có giá lao động rẻ, châu á sẽ trở thành khu vực sản xuất giầy dép chính của thế giới. Bên cạnh lợi thế về nhân lực rẻ, dồi dào, Việt Nam còn có vị trí địa lý thuận lợi, điều kiện chính trị ổn định, Chính phủ đã và đang tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các ngành thu hút nhiều lao động và có sản phẩm xuất khẩu. Việc tạo dựng các nhân tố phát triển cho ngành cũng chính là quá trình nâng cao hàm lượng giá trị gia tăng của giầy dép sản xuất tại Việt Nam và tăng tính chủ động của các doanh nghiệp trong sản xuất, kinh doanh. Theo hướng này, ngành cần phải đồng thời tiến hành các biện pháp chủ yếu sau: Từng bước phát triển sản xuất nguyên liêu, thiết bị trong nước: Để khắc phục tình trạng hầu hết nguyên phụ liệu sản xuất phải nhập khẩu, ngành cần phải chú trọng phát triển sản xuất nguyên liệu trong nước trước hết chỉ nên tập chung vào một vài nguyên liệu chủ yếu mà ngành sử dụng như da và giả da. Đây là lĩnh vực đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm nên Chính phủ cần có những cơ chế hỗ trợ về lãi suất vốn vay, mặt bằng, thuế ưu đãi để thu hút các nhà đầu tư. Chúng ta không nên sản xuất lan tràn tất cả loại nguyên phụ liệu dẫn đến không khai thác hết năng lực sản xuất và bị lỗ. Không nên đồng nhất việc sản xuất nguyện liệu trong nước với việc thực hiện toàn bộ các công đoạn xử lý nguyên liệu thô cho tới sản phẩm hoàn chỉnh có thể chúng ta chỉ tiến hành thực hiện một số công đoạn trung gian nếu thấy có lợi hơn. Cũng quan trọng như vấn đề sản xuất nguyên liệu nói trên, nếu ngành cơ khí nước ta có khả ngăng sản xuất một số thử nghiệm thì doanh nghiệp sẽ vừa tiết kiệm được chi phí đầu tư, vừa có khả năng thực hiện được các sáng kiến cải tiến công nghệ sản xuất. Đẩy mạnh công tác dự báo thị trường và xúc tiến thương mại : khi chuyển sang phương thức tự sản xuất tự lo tiêu thụ, công tác thị trường là quan trọng nhất, bao gồm nhiều kỹ thuật phức tạp đòi hỏi nhiều chi phí. Bên cạnh các nỗ lực của doanh nghiệp, cần chú trọng nhiều hơn đến công tác xúc tiến thương mại ở cấp độ quốc gia, ngành sản xuất, vùng sản xuất. Chúng ta cần phải quảng bá khả năng sáng chế giầy dép của cả nước, cả ngành, của từng trung tâm lớn lớn để tạo nên một hình ảnh đồng bộ đủ lớn và hấp dẫn với khách hàng. Chính phủ cần có các quỹ khuyến khích công tác. Nếu các công tác này thực hiện tốt thì công tác tiếp thị của doanh nghiệp sẽ thuận lợi rất nhiều. Công tác tự báo, thông tin thị trường cũng cần được tăng cường. Các cơ quan nghiên cứu Chính phủ, các tổ chức xúc tiến thương mại cần phải cung cấp kịp thời các dự báo về xu hướng tiêu dùng, tình hình thị trường để các doanh nghiệp có thể lập và điều chỉnh sản xuất, về các chính sách, tập quán thương mại, lộ trình hội nhập quốc tế của quốc gia là một đòi hỏi cấp thiết của doanh nghiệp hiện nay. Việc xây dựng thương hiệu cho sản phẩm là cần thiết. Đây là một công việc phải tiến hành liên tục hàng chục năm, chi phí lớn, có nhiều rủi ro, đòi hỏi chúng ta có nhiều cân nhắc kỹ lưỡng theo nguồn lực của mình. Vấn đề là ở chỗ chúng ta tham gia vào thị trường bằng cách nào cho có lợi nhất, chứ không phải nhất thiết có thương hiệu riêng cho mình. Trên thực tế, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản là những quốc gia xuất khẩu giầy nhiều thập kỷ nhưng hầu như chưa có thương hiệu giầy dép nào của họ được chấp nhận ở thị trường EU và Mỹ. Để xuất khẩu được họ thường phải ký hợp đồng thuê lại các thương hiệu ở châu Âu hay ở Mỹ cho các sản phẩm của mình. Đẩy mạnh đào tạo thợ lành nghề, công nhân kỹ thuật, kỹ sư: Hiện nay ngành da giầy đang sử dụng hơn 400 nghìn lao động nhưng toàn ngành chưa có một trường đào tạo chính quy về nghề. Công nhân được đào tạo chủ yếu theo lối kèm cặp ngay tại xí nghiệp sau khi được tuyển dụng. Nếu tình trạng này tiếp tục tồn tại, ngành sẽ thiếu nhân lực có khả năng ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào quản lý và sản xuất, thiếu đội ngũ cán bộ thiết kế triển khai mẫu mốt theo thị hiếu ngày càng đa dạng của khách hàng dẫn đến khả năng cạnh tranh kém so với các nước khác. Để cải thiện nhanh được thực trạng này, đề nghị nhà nước hỗ trợ đề ngành có được một trung tâm, trường đào tạo chính quy, làm tiền đề cho chiến lược phát triển nguồn nhân lực lâu dài của ngành. Tiếp tục tạo môi trường sản xuất, kinh doanh thuận lợi: Trước hết là hệ thống chính sách pháp luật có ảnh hưởng trực tiếp đến ngành: chính sách lao động, chính sách thuế. Ngành da giầy sử dụng nhiều lao động, chịu tác động rất lớn bởi các thay đổi chính sách lao động nhất là khi phần lớn sản xuất vẫn còn gia công có tính thời vụ cao. Ví dụ: mức lương tối thiểu được điều chỉnh từ 180 nghìn đồng/người/tháng lên 210 nghìn đồng /người/tháng và hiện tại là 290 nghìn đồng đã làm tăng các chi phí liên quan đến lương của doanh nghiệp ; các khoản nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế doanh nghiệp phải trả tăng 16,7%… Sự khác biệt về thời gian làm thêm quy định của luật lao động nước ta với các tiêu chuẩn quốc tế mà khách hàng áp dụng cũng tạo ra khó khăn đối với doanh nghiệp .Trong khi các doanh nghiệp trong nước phải đóng mức thuế thu nhập doanh nghiệp 32% thì doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ phải đóng 25%…Nhà nước cần phải điều chỉnh lại các luật,chính sách phù hợp với trình độ phát triển và khả năng thực hiện của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp da -giầy nói riêng. Chủ trương khuyến khích đầu tư nước ngoài là rất đúng và cần thiết, song các chính sách phải bình đẳng giữa doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh. Kế hoạch 5 năm (2000- 2005) đã sắp khép lại với những kết quả sản xuất kinh doanh tích cực, những năm sau đang mở ra với cơ hội và thách thức cho ngành da- giầy Việt Nam. Bên cạnh những nỗ lực của mỗi doanh nghiệp, của mỗi ngành, sự giúp đỡ kịp thời của Nhà nước chắc chắn sẽ tiếp tục chắp cánh cho ngành hội nhập khu vực và thế giới với những tầm cao mới. Kết luận Qua những kết quả phân tích trên ta đã thấy được phần nào hiệu quả sản xuất của ngành giầy dép cũng như đánh giá tác động của các nhân tố tới mức độ phi hiệu quả của ngành. Vì ngành giầy dép có năng suất và hiệu quả chung không cao do đặc thù sử dụng lao động phổ thông là chủ yếu nên phần không hiệu quả được quan tâm khá nhiều. Trên cơ sở tính toán hiệu quả kỹ thuật chung của toàn ngành trong cả thời kỳ phân tích, đưa ra một số nhân tố ảnh hưởng tới tính không hiệu quả của ngành giầy dép và hiệu quả gộp với ngành dệt may, luận văn đã phần nào mô tả được bức tranh sản xuất của ngành giầy dép. Đó là hình ảnh của một ngành có nhiều tiềm năng, đặc biệt trong xuất khẩu nhưng chưa khai thác hết lợi thế của mình. Bên cạnh những thuận lợi, ngành còn gặp nhiều khó khăn do thiếu nguyên liệu, thiếu kỹ thuật và quan trọng hơn nhiều doanh nghiệp chỉ là một bộ phận trong khâu gia công các sản phẩm của nước ngoài nên giá trị gia tăng thực của ngành không cao. Cũng như nhiều ngành có sản phẩm xuất khẩu khác, giầy dép Việt Nam mới chỉ dừng lại ở những sản phẩm cấp thấp, thiếu thương hiệu và mẫu mã chưa phong phú nên khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới thấp. Các nước nhập khẩu giầy dép của Việt Nam khá nhiều trong đó quan trọng nhất là thị trường EU, nhưng tại thời điểm này, giầy dép của chúng ta đang bị kiện bán phá giá và chương trình ưu đãi thuế quan xuất khẩu (GSP) sẽ không còn. Đó là một khó khăn lớn đối với ngành nên hơn bao giờ hết hiệu quả hoạt động được đánh giá nhiều nhất. Sản xuất như thế nào để tận dụng hết nguồn lực, phát huy mọi tiềm năng đưa sản phẩm đến với người tiêu dùng trong và ngoài nước là mục tiêu chủ yếu trong giai đoạn này. “ Vận động cho thế giới biết”, đó là ý kiến của một giám đốc doanh nghiệp giầy da lớn, và để làm được điều đó ngành phải nỗ lực rất nhiều trong sản xuất, đẩy mạnh đầu tư công nghệ mới để nâng cao chất lượng sản phẩm, năng suất lao động và chú trọng đến khâu thiết kế, phát triển thị trường. Có làm được những điều đó. ngành giầy dép mới trở thành chỗ dựa vững chắc xuất khẩu Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0225.doc
Tài liệu liên quan