Hoạt động đầu tiên của NHTM là huy động vốn. Thực tế, để bắt đầu hoạt động, chủ NH phải có một lượng vốn nhất định gọi là VCSH. Tuy nhiên, VCSH thường chiếm tỷ trọng rất nhỏ, khoảng 5% tổng nguồn vốn. Là tổ chức cung ứng vốn chủ yếu của nền kinh tế, NH buộc phải huy động vốn. Hoạt động này sẽ hình thành nên vốn nợ của NH. Vốn nợ bao gồm tiền gửi, tiền vay và các loại vốn nợ khác.
Nghiệp vụ đầu tiên của NH khi đi vào hoạt động là mở tài khoản TG để giữ hộ và thanh toán hộ cho KH. Qua nghiệp vụ này, NH huy động được lượng tiền nằm rải rác trong xã hội. NHTM nhận TG từ các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình thức TG không kỳ hạn, TG có kỳ hạn và các loại TG khác. Tiền gửi của KH là bộ phận quan trọng nhất, thường chiếm tỷ trọng hơn 50% tổng vốn của NH. Tuy nhiên, tiền gửi phải được thanh toán khi có yêu cầu của KH, ngay cả khi đó là TG có kỳ hạn chưa đến hạn. Quy mô và cơ cấu TG cũng phụ thuộc nhiều vào những biến động về lãi suất, tỷ lệ lạm phát và thu nhập của KH. Vì thế, đây là nguồn kém ổn định, đòi hỏi sự quản lý chặt chẽ của NH. Hơn nữa, vốn từ huy động tiền gửi không đủ để đáp ứng nhu cầu cho vay và một số nhu cầu chi trả khác của NH. Bởi vậy, NHTM phải đi vay để bổ sung vốn cho mình.
86 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 959 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp tư nhân của Sở Giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p ứng nhu cầu vốn ngày càng lớn của các DNTN.
Hoà mình vào xu thế chung của các NHTM hiện nay là mở rộng cho vay đối với DNTN, SGD cũng đã đạt được những kết quả nhất định trong hoạt động này. Tuy nhiên, những kết quả ấy vẫn chưa xứng đáng với tiềm lực của SGD. Hoạt động cho vay đối với DNTN của SGD vẫn còn hạn chế cần phải được khắc phục.
2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1 Hạn chế
So với mục tiêu mà SGD đặt ra từ năm 2003, có thể khẳng định rằng hoạt động cho vay đối với DNTN của SGD chưa được mở rộng. Đó chính là hạn chế trong hoạt động cho vay đối với DNTN của SGD. Hạn chế này được biểu hiện qua một số khía cạnh sau đây:
Trước hết, số DNTN vay vốn tại SGD còn quá ít, chỉ chiếm khoảng 0.16% tổng số DNTN đang hoạt động trên địa bàn Hà Nội. Ở Hà Nội có tới 42,000 DNTN. Với số lượng rất đông đảo, nhu cầu vay vốn của các DNTN là rất lớn. Vậy mà SGD mới chỉ đáp ứng được nhu cầu vay của 69 DN. Điều đó nghĩa là hoạt động cho vay đối với DNTN của SGD vẫn chưa được mở rộng, so với nhu cầu thực tế của DN.
Bên cạnh đó, tỷ trọng dư nợ cho vay DNTN còn rất nhỏ so với tỷ trọng của DNNN. Dư nợ cho vay DNTN chỉ chiếm khoảng hơn 20% tổng dư nợ của SGD. Mục tiêu để tỷ trọng này lớn hơn hoặc bằng 40%, mặc dù đã đặt ra từ năm 2003, nhưng cho đến nay vẫn chưa đạt được. Không thể nói rằng hoạt động cho vay đối với DNTN của SGD được mở rộng khi tỷ trọng dư nợ cho vay DNTN chỉ bằng một nửa so với mục tiêu đề ra.
Hạn chế trong hoạt động cho vay đối với DNTN của SGD là hoạt động này chưa được mở rộng so với mục tiêu đề ra. Để khắc phục hạn chế, việc tìm hiểu nguyên nhân của nó là rất cần thiết.
2.3.2.2 Nguyên nhân
Nguyên nhân chủ quan:
Thứ nhất, chính sách tín dụng của SGD kém linh hoạt so với các NHTM cổ phần. DNNN là khách hàng truyền thống của SGD. Vì vậy, chính sách tín dụng vẫn được xây dựng theo hướng ưu tiên đối tượng khách hàng này. DNNN được ưu tiên khi xem xét cho vay, được hưởng chính sách của khách hàng VIP vào những dịp đặc biệt Trong khi đó, DNTN lại gặp nhiều khó khăn khi vay vốn tại SGD. So với các DNNN, các yêu cầu vay vốn của DNTN khó được chấp thuận hơn. Nếu được vay thì DNTN phải chịu lãi suất cao hơn, thời hạn ngắn hơn, giới hạn cho vay lại thấp hơn Các điều kiện về tài sản đảm bảo cũng chặt chẽ hơn. 100% dư nợ cho vay đối với DNTN phải được đảm bảo bằng tài sản. Tuy nhiên, thủ tục định giá tài sản đảm bảo của SGD lại rất rườm rà. Tỷ lệ cho vay trên giá trị tài sản đảm cũng rất thấp, chỉ từ 20-50%. Chính sách khách hàng của SGD còn thiếu cởi mở, khiến cho các DNTN có tâm lý e ngại khi muốn vay vốn tại SGD.
Thứ hai, công tác marketing của SGD kém hiệu quả. Trong khi chiến dịch quảng bá thương hiệu của các NHTM khác như Techcombank, SHB, Habubank, ACBđang rất rầm rộ thì hoạt động này của SGD lại khá im ắng. Chính sách sản phẩm chưa tạo ra sự nổi bật cho sản phẩm của SGD so với sản phẩm của các NHTM khác. SGD cũng chưa có phòng marketing, chưa có cán bộ marketing được đào tạo chuyên nghiệp. SGD chưa quan tâm đúng mức tới việc nghiên cứu môi trường kinh doanh. Do đó, SGD còn thiếu hiểu biết về các đối thủ cạnh tranh. Khả năng dự báo của SGD về những biến động kinh tế, chính trị, xã hội và pháp luật còn yếu kém. SGD chưa chủ động tìm kiếm khách hàng mới. Chính sách marketing mới chỉ được xây dựng chung chung, chưa hướng tới từng đối tượng khách hàng cụ thể. Việc quảng bá thương hiệu, hình ảnh mặc dù đã có nhưng chưa được đầu tư thích đáng nên hiệu quả đem lại không cao. Chính vì vậy mà những cố gắng trong việc mở rộng cho vay đối với DNTN của SGD chưa đạt được những kết quả như mong đợi.
Thứ ba, quy trình cho vay mà SGD đang áp dụng đối với các DNTN còn rườm rà cứng nhắc. So với quy trình chuẩn, quy trình của SGD nhiều hơn hai bước. Đó là: tiếp nhận, hướng dẫn KH về hồ sơ vay vốn và thanh lý hợp đồng tín dụng. Thực ra 2 bước này hoàn toàn có thể gộp vào bước 2 và bước 5 trong quy trình, giảm bớt sự rườm rà của quy trình cho vay. Quy trình của SGD cũng trải qua rất nhiều khâu trình cán bộ, xin chữ ký của cán bộ Thang điểm để xếp hạng khách hàng của SGD cũng được xây dựng, chủ yếu là để chấm điểm các DNNN, quy mô lớn. Lẽ tất nhiên, các DNTN với quy mô nhỏ sẽ thiệt thòi khi bị đo lường dưới thước đo này. Những điều kiện cho vay khắt khe, những thủ tục rườm rà, mất thời gian khiến cho nhiều doanh nghiệp, tuy làm ăn hiệu quả, phương án sản xuất kinh doanh khả thi nhưng lại không thể tiếp cận nguồn tín dụng từ SGD. SGD quá chặt chẽ trong việc xác định tài sản cầm cố thế chấp và các thủ tục nhằm tránh rủi ro nhưng sự chặt chẽ đó đã khiến cho nhiều dự án không thể vay được vốn. Tất cả những điều này đã khiến cho hoạt động cho vay các DNTN của SGD chưa thể mở rộng.
Thứ tư, quy mô VCSH nhỏ làm giảm sức cạnh tranh của SGD trong hoạt động cho vay các DNTN. Trong số 4 NHTM Nhà nước, BIDV có quy mô VCSH nhỏ nhất, khoảng 4000 tỷ đồng. Trong khi đó, VCSH của Agribank lên tới gần 6500 tỷ đồng. Hiện nay, NHNN có quy định là dư nợ cho vay tối đa đối với một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của NHTM. Vì quy định này, SGD khó có thể tăng quy mô các khoản cho vay DNTN dựa trên lượng VCSH ít ỏi của mình. Hơn nữa, quy mô vốn nợ của SGD cũng chưa có sự gia tăng mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu của các DNTN tìm đến đây. Lãi suất huy động của SGD thấp hơn lãi suất của các NHTM cổ phần khác, các hình thức huy động chưa hấp dẫn nên quy mô vốn của SGD chưa tăng mạnh. Mặt khác, vốn nợ của SGD chủ yếu là ngắn hạn. Để đảm bảo khả năng thanh khoản và sự phù hợp về kỳ hạn, SGD không thể đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu vốn trung dài hạn của DNTN. Chính vì vậy, hoạt động mở rộng cho vay đối với các DNTN của SGD vẫn bị kìm hãm.
Thứ năm, công tác quản lý rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay đối với DNTN của SGD còn bị lơ là. So với các NHTM nước ngoài như ANZ, HSBC công tác này của SGD còn thiếu chuyên nghiệp, thiếu chặt chẽ. Các khoản nợ dưới tiêu chuẩn, nợ có khả năng mất vốn vẫn tiếp tục phát sinh. Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cho vay DNTN lên tới gần 3%. Các NHTM nước ngoài đã có rất nhiều kinh nghiệm trong việc cho vay các DNTN. Bởi vậy, những đánh giá mà họ đưa ra sau khi phân tích KH là chính xác. Cơ chế thu thập thông tin và kiểm soát trong khi cho vay được họ tiến hành với sự hợp tác của nhiều đối tượng như: nhà cung cấp, đối tác của DN, báo chí, công ty nghiên cứu thị trườngTrong khi đó, việc thu thập thông tin và kiểm tra giám sát trong khi cho vay của SGD lại chưa được quan tâm và thiếu sự hợp tác nói trên. Sự hiểu biết của cán bộ tín dụng SGD về các DNTN, về lĩnh vực kinh doanh và môi trường kinh doanh của khách hàng này còn hạn chế, bởi khách hàng lâu nay của SGD vốn là DNNN. Khả năng dự báo của cán bộ tín dụng về các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng cũng chưa tốt. Bởi vậy, công tác quản lý rủi ro tín dụng chưa hiệu quả, gây khó khăn cho việc mở rộng cho vay đối với DNTN của SGD.
Bên cạnh nguyên nhân chủ quan, hoạt động cho vay đối với DNTN của SGD chưa được mở rộng do những nguyên nhân khách quan dưới đây.
Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, khả năng đáp ứng các điều kiện vay của DNTN còn hạn chế. Năng lực tài chính của DNTN còn yếu kém. 75% DN hiện có mức vốn dưới 2 tỷ đồng. Quy mô VCSH của các DN này rất nhỏ, chỉ bằng 2.05% so với DNNN. Đa số các DNTN không có người bảo lãnh, lại không có tài sản đảm bảo, hoặc tài sản đảm bảo không đủ tiêu chuẩn. Rất ít doanh nghiệp được tiến hành kiểm toán bởi các công ty kiểm toán độc lập, nên các báo cáo tài chính của DNTN thường có độ tin cậy thấp. Hơn nữa, kinh nghiệm quản lý ở các DNTN còn non yếu, hệ thống kế toán chưa được các chủ doanh nghiệp quan tâm đúng mức. Tất cả những điều đó khiến cho DNTN khó đáp ứng được các điều kiện vay mà SGD đặt ra. Nếu như DNTN chưa tạo dựng được uy tín và thương hiệu của mình trên thị trường thì việc tiếp cận vốn tín dụng của SGD là rất khó khăn.
Thứ hai, các dự án, phương án sản xuất kinh doanh mà DNTN cần tài trợ vẫn thiếu thuyết phục. Những chỉ số về khả năng sinh lời, khả năng thanh toán mà DN đưa ra nằm ngoài khả năng của họ. DN cũng chưa lường hết được những thay đổi về nhu cầu của thị trường, thay đổi trong chính sách của Chính phủ và những rủi ro khác như đình công, thiên tai, khủng hoảng kinh tế Sự thiếu chuyên nghiệp của DNTN trong việc xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, làm cho những phương án đó kém khả thi. Hơn nữa, các DNTN còn thiếu hiểu biết về pháp luật, đặc biệt là các quy định, thông lệ quốc tế dẫn đến tình trạng sai phạm trong sản xuất kinh doanh, bị kiện cáo, huỷ hợp đồnggây hậu quả lớn. Do đó, SGD phải luôn xem xét rất thận trọng các dự án cần vay vốn và điều này cũng hạn chế khả năng mở rộng cho vay đối với các DNTN của SGD
Thứ ba, môi trường pháp lý ở nước ta kém minh bạch, thiếu lành mạnh. Theo Tổ chức Minh bạch thế giới, năm 2006, Việt Nam xếp hạng thứ 111 trên 163 quốc gia. Sự thiếu minh bạch gây khó khăn cho hoạt động của cả ngân hàng lẫn DNTN. Sự vô lý trong những quy định của pháp luật gây ra sự lúng túng của DN khi tiến hành hoạt động kinh doanh. Bên cạnh đó, năng lực quản lý yếu kém, tình trạng “không quản được thì cấm” của các cơ quan quản lý kìm hãm sự phát triển của các DNTN. Vì thế mà nhu cầu vay vốn của các DN này cũng bị hạn chế rất nhiều. Năng lực quản lý yếu kém còn tạo ra khe hở cho hành vi gian lận, trốn thuế, sai phạm của một số DNTN, làm cho uy tín của các DN này giảm sút. Tất cả những điều này khiến cho việc mở rộng cho vay đối với các DNTN của SGD gặp nhiều trở ngại.
Thứ tư, quá trình hội nhập kéo theo sự cạnh tranh gay gắt đã khiến cho hoạt động cho vay DNTN của SGD khó có thể mở rộng. Là thành viên của WTO, từ năm 2007, Việt Nam phải thực hiện các cam kết mở cửa thị trường tài chính. Theo đó, NHTM nước ngoài được phép thành lập chi nhánh tại VN và định lượng dịch vụ mà họ cung cấp cũng không bị hạn chế. Nhờ đó, các NHTM nước ngoài có ưu thế về vốn, uy tín, cung cấp những sản phẩm dịch vụ hoàn hảo đang thu hút ngày càng nhiều khách hàng là DNTN Việt Nam đến với mình. Áp lực cạnh tranh mà SGD phải chịu là rất lớn. Hoạt động cho vay đối với các DNTN của SGD, vì thế, cũng vấp phải nhiều cản trở đáng ngại.
Thứ năm, sức nóng của thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản đã phần nào hạn chế hoạt động cho vay đối với DNTN của SGD. Năm 2006, thị trường chứng khoán Việt Nam tăng trưởng ngoạn mục. Đà tăng trưởng tiếp tục cho tới tháng 3 năm 2007, với VN – Index lên tới kỷ lục hơn 1170 điểm. Thị trường bất động sản năm 2007 cũng phát triển nóng. Nhu cầu đầu tư xây dựng các cao ốc văn phòng, chung cư liên tục tạo ra những cơn sốt trên thị trường này. Bởi vậy, giai đoạn 2006-2007, SGD đã tăng cường cho vay đầu tư chứng khoán và đầu tư bất động sản. Sự phát triển của hai thị trường này đã thu hút một lượng đáng kể vốn cho vay của SGD. Vì vậy mà các DNTN khó tiếp cận hơn với nguồn tín dụng từ SGD.
Thứ sáu, chính sách tiền tệ thắt chặt trong thời gian qua cũng khiến cho SGD không thể mở rộng cho vay đối với các DNTN. Năm 2007 chứng kiến một tỷ lệ lạm phát cao trong nền kinh tế nước ta. Những biện pháp nhằm kiềm chế lạm phát đã được thực hiện dần. Động thái này khiến SGD không thể mở rộng hoạt động cho vay đối với DNTN.
Nhìn chung, hoạt động mở rộng cho vay đối với các DNTN của SGD đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Song những hạn chế còn tồn tại trong hoạt động này cũng không ít. Nếu như SGD không có những giải pháp kịp thời thì những hạn chế nêu trên không những không được giải quyết mà ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn, đe doạ tới sự phát triển của SGD trong tương lai.
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP MỞ RỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN CỦA SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
3.1 Định hướng mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp tư nhân của Sở giao dịch trong thời gian tới
3.1.1 Nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp tư nhân tại Hà Nội trong thời gian tới
Doanh nghiệp tư nhân đã có lịch sử tồn tại và hoạt động trong hàng chục năm. Song chỉ một vài năm trở lại đây, các DN này mới thực sự “bùng nổ” và ngày càng khẳng định được vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Sự mở cửa của nền kinh tế, cơ chế quản lý thông thoáng hơn dẫn đến sự ra đời của hàng loạt công ty cổ phần và các công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Hoà mình vào dòng chảy phát triển chung của DNTN trên cả nước, DNTN tại Hà Nội cũng có những bước chuyển mình mạnh mẽ. Hà Nội hiện có 42,000 DNTN. Cùng với sự tăng mạnh về số lượng, hàng năm các DNTN đóng góp khoảng trên 30% tổng GDP của thành phố.
Sự phát triển của các DNTN khiến cho nhu cầu vay vốn của họ không ngừng tăng lên. Nhìn chung, các DNTN hiện nay đều có sự tìm tòi để xác định cho mình hướng đi phù hợp để khai thác tốt hơn tiềm năng, vị thế của Thủ đô. Các DN đã không ngừng đổi mới thiết bị, đa dạng hóa sản phẩm để nâng cao sức cạnh tranh và tạo dựng thương hiệu riêng trên thị trường. Đặc biệt, nhiều DN đã mạnh dạn lựa chọn những lĩnh vực sản xuất đòi hỏi sự đầu tư lớn, hàm lượng chất xám cao như công nghệ thông tin, sản xuất phần mềm, lắp ráp máy tính để đầu tư.
Dù bước đầu đã đạt được những kết quả khả quan nhưng DNTN ở Hà Nội mới trong giai đoạn bắt đầu phát triển. Thực tế, tiềm năng phát triển của kinh tế Hà Nội và của các DNTN tại đây rất lớn. Thật vậy, với lượng dân số lớn thứ hai trên cả nước, Hà Nội là một trong hai trung tâm kinh tế quan trọng nhất của nước ta. Với vị trí của Thủ đô, đây là nơi tập trung các cơ quan Bộ ngành, các công ty lớn, văn phòng đại diện của các hãng lớn từ nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam, đồng thời cũng là nơi thu hút một lượng lớn đội ngũ trí thức, các nhà khoa học, công nhân lành nghề Hơn nữa, nếu so với mặt bằng chung của cả nước thì Hà Nội có hệ thống cơ sở hạ tầng được đầu tư tốt. Đây quả là một môi trường rất tốt cho sự phát triển của các DNTN.
Như vậy, DNTN tại Hà Nội có rất nhiều triển vọng phát triển. Các DNTN tại đây đang không ngừng mở rộng sản xuất kinh doanh và đầu tư vào những lĩnh vực cần nhiều vốn. Trong thời gian tới, nhu cầu đầu tư của các DNTN là rất lớn, cộng thêm sự gia tăng mạnh mẽ về số lượng thì nhu cầu vay vốn của các DN này cũng sẽ tăng lên nhanh chóng. Trước tình hình đó, SGD cần phải có định hướng mở rộng cho vay đối với DNTN để nắm lấy thời cơ, thu hút thêm nhiều khách hàng, tăng lợi nhuận, tạo điều kiện cho sự phát triển vững chắc của SGD trong tương lai.
3.1.2 Định hướng mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp tư nhân của Sở giao dịch trong thời gian tới
Xác định được tiềm năng phát triển của DNTN trên địa bàn Hà Nội, SGD đã có định hướng mở rộng cho vay đối với các DN này.
Định hướng mở rộng cho vay của SGD sẽ quyết định đến quy mô và cơ cấu các khoản cho vay đối với DNTN. SGD vẫn hướng tới mục tiêu tăng tỷ trọng dư nợ cho vay DNTN trong tổng dư nợ lên tới 40%. Để làm được điều này, SGD sẽ nỗ lực gia tăng số lượng DNTN có quan hệ tín dụng với Sở, tăng quy mô các khoản tín dụng dành cho DNTNVề cơ cấu cho vay theo thời hạn, SGD tăng dần tỷ trọng các khoản cho vay trung dài hạn để đáp ứng đầy đủ hơn nhu cầu vốn trung dài hạn của DNTN. Song, các khoản cho vay ngắn hạn vẫn được chú trọng. SGD tiếp tục duy trì tỷ trọng dư nợ cho vay trung dài hạn dưới 40% để đảm bảo khả năng thanh toán và sự phù hợp về kỳ hạn giữa nguồn và tài sản. Về cơ cấu cho vay theo ngành nghề, SGD cho vay trên nhiều lĩnh vực để phân tán rủi ro. Tuy nhiên, Sở sẽ tập trung tài trợ cho những ngành nghề có khả năng sinh lời lớn, có triển vọng phát triển trong tương lai. Cụ thể, SGD ưu tiên cho vay các DN hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, du lịch, DN có vốn đầu tư nước ngoài và DN hoạt động trong các khu công nghiệp SGD sẽ cố gắng xây dựng một cơ cấu tín dụng hợp lý, phù hợp với xu hướng phát triển chung.
Bên cạnh việc củng cố quan hệ với những khách hàng cũ là DNTN, SGD cũng tiến hành tìm kiếm thị trường mới, khách hàng mới để mở rộng thị phần cho vay DNTN của mình. Đồng thời, công tác quản lý rủi ro tín dụng sẽ được SGD chú trọng hơn nhằm nâng cao chất lượng hoạt động cho vay, tạo cơ sở cho việc mở rộng cho vay đối với DNTN của SGD.
Tóm lại, SGD đã có những định hướng cụ thể nhằm mở rộng thị phần, tăng quy mô các khoản cho vay DNTN, đồng thời thay đổi cơ cấu tín dụng theo hướng tích cực hơn. Mặt khác, có rất nhiều NHTM đang hoạt động trên địa bàn Thủ đô, tạo ra áp lực cạnh tranh lớn. Hoạt động cho vay DNTN sẽ chứa đựng nhiều rủi ro và khó khăn thách thức đối SGD là không hề nhỏ. Bởi vậy, SGD cần có những giải pháp cụ thể, để vừa mở rộng cho vay DNTN một cách hiệu quả, vừa đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của mình. Từ đó, SGD mới có cơ sở để củng cố vị thế là “cánh chim đầu đàn” của toàn hệ thống BIDV.
3.2 Giải pháp mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp tư nhân của Sở giao dịch
3.2.1 Tăng cường huy động vốn
Lượng vốn dồi dào chính là điều kiện hàng đầu để SGD có thể mở rộng cho vay các DNTN. Bởi vì, khi SGD bị thiếu hụt về vốn thì dù có muốn, việc mở rộng cho vay cũng không thể thực hiện được. Tức là, mọi nỗ lực để mở rộng cho vay đều trở nên vô nghĩa nếu như hoạt động huy động vốn của SGD kém hiệu quả. Chính vì vậy, giải pháp đầu tiên mà SGD phải thực hiện để mở rộng cho vay DNTN là tăng cường huy động vốn. Để làm được điều này, SGD cần có các biện pháp cụ thể như sau:
Thứ nhất, đa dạng hoá các hình thức huy động, đặc biệt là các hình thức huy động tiền gửi. Đối với tiền gửi thanh toán, SGD có thể phát hành nhiều loại thẻ khác nhau, phù hợp với nhu cầu phong phú của KH. Còn đối với tiền gửi tiết kiệm, các loại hình tiền gửi với kỳ hạn, lãi suất khác nhau sẽ đem đến cho khách hàng nhiều sự lựa chọn hơn. Từ đó khách hàng sẽ có tâm lý thoải mái bởi họ có thể chủ động lựa chọn hình thức gửi tiền phù hợp nhất trong số rất nhiều sản phẩm huy động mà SGD đưa ra.
Thứ hai, tăng tính hấp dẫn của các hình thức huy động tiền gửi. Cụ thể, đối với tiền gửi thanh toán, SGD cần đem đến cho KH nhiều tiện ích hơn khi sử dụng thẻ thanh toán hoặc dịch vụ thanh toán của SGD. Đối với tiền gửi tiết kiệm, SGD có thể tăng tính hấp dẫn của hình thức huy động này bằng cách tăng lãi suất, áp dụng lãi suất bù lạm phát hay lãi suất bậc thang Ngoài ra, các hình thức khuyến mại như bốc thăm trúng thưởng, quà tặng dành cho KH khi họ mở tài khoản thanh toán hoặc khi gửi tiền cũng rất cần thiết.
Thứ ba, nâng cao chất lượng sản phẩm huy động tiền gửi. Các sản phẩm huy động tiền gửi có đặc điểm là chất lượng của nó phụ thuộc nhiều vào phong cách phục vụ của những người cung cấp nó, cụ thể là nhân viên giao dịch. Một khi KH có ấn tượng xấu về nhân viên giao dịch, họ cũng có ấn tượng không tốt về NH nơi nhân viên đó làm việc và ấn tượng này rất khó thay đổi. Bởi vậy, ngoài kỹ năng nghề nghiệp tốt, nhân viên giao dịch của Sở cần phải có kỹ năng giao tiếp, có ngoại hình ưa nhìn, có tác phong phục vụ chuyên nghiệp Nhờ đó, hình ảnh về SGD trong lòng KH sẽ là một hình ảnh đẹp. Những người gửi tiền sẽ trở thành KH trung thành của SGD. Điều này không những làm tăng vốn cho SGD mà còn giúp SGD huy động được những nguồn ổn định hơn. Bên cạnh yếu tố con người, yếu tố công nghệ cũng ảnh hưởng lớn đến chất lượng của sản phẩm huy động tiền gửi. Thật vậy, máy móc công nghệ lạc hậu sẽ gây phiền hà cho KH, đặc biệt là các KH sử dụng thẻ thanh toán hay các dịch vụ thanh toán khác. Do đó, SGD cần đầu tư, hiện đại hoá máy móc và công nghệ để các sản phẩm dịch vụ mà SGD cung cấp có chất lượng ngày càng cao hơn.
Thứ tư, tăng cường huy động vốn trung dài hạn. Lãi suất và uy tín chính là công cụ cạnh tranh trong việc huy động vốn trung dài hạn. Uy tín của BIDV nói chung và SGD nói riêng đã được khẳng định qua hàng chục năm hoạt động. Tuy vậy, SGD phải không ngừng củng cố uy tín của mình. Ngoài ra, bằng việc đưa ra lãi suất hấp dẫn cho các khoản tiền gửi trung dài hạn, phát hành thêm nhiều giấy tờ có giá dài hạn, SGD có thể gia tăng nguồn vốn trung dài hạn. Đây chính là điều kiện để SGD mở rộng cho vay trung dài hạn đối với các DNTN.
Cuối cùng, SGD có thể tăng cường hoạt động huy động vốn thông qua việc mở rộng mạng lưới chi nhánh và phòng giao dịch. KH sẽ dễ dàng, tiện lợi hơn khi đến gửi tiền nếu như SGD có mạng lưới chi nhánh dày và rộng. Hơn nữa, các chi nhánh và phòng giao dịch được đầu tư xây dựng khang trang, bề thế và lịch sự cũng sẽ tạo ấn tượng tốt nơi KH, làm tăng ý muốn của họ trong việc gửi tiền tại SGD.
3.2.2 Tăng cường hoạt động marketing
Hiện nay, sự cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng đang diễn ra rất gay gắt. Thông qua hoạt động marketing, các NHTM phải chủ động tìm hiểu nhu cầu của thị trường, tìm đến KH và kéo họ về phía mình. Hoạt động marketing có ý nghĩa quyết định tới số lượng khách hàng cũng như sự trung thành của họ đối với NH. Chính vì lẽ đó, để mở rộng cho vay các DNTN, SGD cần phải tăng cường hoạt động marketing, tập trung vào đối tượng KH tiềm năng là các DNTN. Nhiệm vụ quan trọng nhất của hoạt động này là xác định được nhu cầu, mong muốn của các DNTN và cách thức đáp ứng nhu cầu đó một cách hiệu quả hơn các đối thủ cạnh tranh của SGD.
Để tăng cường hoạt động marketing, việc đầu tiên mà SGD cần thực hiện là thành lập phòng marketing riêng biệt. Trong nhiều năm qua, KH truyền thống của SGD vốn là các DNNN. Tuy nhiên, từ năm 2003, SGD đã có định hướng mở rộng cho vay đối với các DNTN. Đây là đối tượng KH mới, hiểu biết của họ về SGD còn hạn chế. Về phía mình, SGD cũng chưa có nhiều thông tin về các DNTN. Vì thế, để mở rộng cho vay đối với DNTN, SGD phải tìm hiểu về các DNTN, tìm hiểu nhu cầu thực tế của họ. Đồng thời, SGD phải quảng bá hình ảnh của mình đến với KH để họ biết đến những sản phẩm và dịch vụ mà SGD đang cung cấp. Việc tìm hiểu và khai thác một đối tượng khách hàng hoàn toàn mới yêu cầu SGD phải có một phòng marketing riêng biệt. Vậy mà, cho đến nay, SGD vẫn chưa thành lập phòng marketing chuyên trách. Các cán bộ tín dụng đảm nhận luôn nhiệm vụ của cán bộ marketing. Đây thực sự là một khiếm khuyết lớn trong hoạt động marketing của SGD. Việc thành lập phòng marketing chuyên trách phải được thực hiện nhanh chóng. Phòng marketing với đội ngũ nhân viên marketing chuyên nghiệp có nhiệm vụ thực hiện các nội dung của marketing NH Hơn thế nữa, SGD nhất thiết phải tạo lập cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động của phòng marketing và hoạt động của phòng tín dụng. Chỉ khi đó, hoạt động marketing của SGD mới thực sự đạt hiệu quả.
Phòng marketing chuyên trách được thành lập có nhiệm vụ thực hiện các nội dung của marketing NH, mà nội dung đầu tiên chính là nghiên cứu môi trường kinh doanh. Phòng marketing phải thu thập, nghiên cứu thông tin về các yếu tố vĩ mô bao gồm: môi trường địa lý, môi trường dân số, môi trường kinh tế, văn hoá xã hội, chính trị và pháp luật, môi trường kỹ thuật công nghệ. Những thay đổi của các yếu tố môi trường này có tác động lớn đến hoạt động của cả SGD lẫn các DNTN trên địa bàn. Vì vậy, bộ phận marketing phải dự báo được sự biến động của chúng, giúp lãnh đạo SGD kịp thời điều chỉnh hoạt động của SGD nói chung và hoạt động cho vay DNTN nói riêng cho phù hợp với những thay đổi của môi trường.
Không chỉ dừng lại ở đó, bộ phận marketing còn phải tìm hiểu về KH của SGD, cụ thể là các DNTN. Bộ phận marketing phải nghiên cứu thị trường, xác định được các DNTN mong muốn điều gì ở dịch vụ NH trong hiện tại và cả trong tương lai. Trên cơ sở những thông tin đầu vào mà bộ phận marketing cung cấp, SGD mới có thể nâng cao chất lượng dịch vụ và phát triển các dịch vụ mới, phù hợp với nhu cầu của thị trường. Bên cạnh đó, bộ phận marketing còn có nhiệm vụ tìm hiểu về đối thủ cạnh tranh hiện tại và tiềm ẩn của SGD, để xây dựng chiến lược cạnh tranh phù hợp, tạo ra lợi thế cho SGD trong việc cung ứng sản phẩm dịch vụ cho các DNTN.
Trên cơ sở phân tích các yếu tố nêu trên, bộ phận marketing cần xây dựng chiến lược marketing phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế và điều kiện thực tế của SGD. Trước sự phát triển nhanh chóng của DNTN, chiến lược marketing của SGD cần phải hướng tới đối tượng khách hàng này. Chính sách marketing phải tạo dựng được hình ảnh đẹp về SGD trong nhận thức của các DNTN. Trong chiến lược marketing hiện nay của SGD thì chiến lược quảng bá hình ảnh thương hiệu là khâu yếu nhất. Để khắc phục điều này, SGD cần thực hiện một số biện pháp như sau:
SGD cần thường xuyên tổ chức họp báo và hội nghị KH để giới thiệu về định hướng mở rộng cho vay đối với các DNTN của mình. Các buổi họp báo và hội nghị nên được tổ chức tại những địa điểm như trung tâm hội nghị, khách sạn 5 sao để tạo thuận lợi cho KH khi tới tham dự. Thông tin về buổi họp báo cần được thông báo rộng rãi đến giới báo chí các đối tượng có liên quan để gây được sự chú ý. Tại hội nghị và buổi họp báo, những thông tin về các sản phẩm hiện có, kế hoạch triển khai sản phẩm mới sẽ được SGD cung cấp cho báo chí và KH. Đồng thời, SGD thu thập ý kiến phản hồi của DNTN khi vay vốn tại Sở. Đây là biện pháp rất hiệu quả để SGD và các DNTN hiểu biết sâu sắc hơn về nhau, giúp cho quan hệ tín dụng giữa hai bên được mở rộng và bền chặt hơn.
Các phương tiện truyền thông như truyền hình, báo chí, Internetcũng cần được khai thác tối đa. SGD cần mở rộng quan hệ với giới truyền thông. Ngoài các tạp chí chuyên ngành Ngân hàng, SGD nên tăng cường quan hệ với các báo, tạp chí được các DNTN quan tâm. Thông qua các phương tiện báo chí, truyền hình, internet, SGD tự giới thiệu về mình và các chính sách ưu đãi dành cho KH là DNTN, quảng cáo về các sản phẩm mới, đặc biệt là các sản phẩm sắp tung ra thị trường. Biện pháp này không những giúp cho hình ảnh của SGD trở nên phổ biến hơn mà còn giúp truyền thông điệp đầy thiện chí từ SGD đến với các DNTN.
SGD cần tăng cường tài trợ cho các sự kiện tiêu biểu nhằm thu hút sự chú ý của các DNTN. Ví dụ: giải thưởng Sao vàng đất Việt, các giải thể thao uy tín, các diễn đàn của DNTN, các hội nghị kinh tế, các quỹ học bổng Tất cả những sự kiện thu hút được sự chú ý của xã hội và của các DNTN đều nên được tận dụng để làm cho thương hiệu SGD trở nên quen thuộc hơn. Tuy nhiên, SGD cũng cần có sự lựa chọn khi tài trợ, tránh tài trợ cho các sự kiện không phù hợp với hoạt động NH, không xứng đáng với vị thế của SGD BIDV.
Việc chủ động tìm kiếm khách hàng mới là DNTN cũng rất quan trọng. SGD có thể mời các DNTN đến dự họp báo giới thiệu sản phẩm của mình, hoặc gửi thư giới thiệu tới các DN đó. Đồng thời, SGD chủ động hướng dẫn, tư vấn KH trong việc lựa chọn sản phẩm dịch vụ phù hợp với họ. Đây là biện pháp trực tiếp làm tăng số lượng KH vay vốn tại SGD, qua đó mở rộng thị phần cho vay DNTN của SGD.
Bên cạnh việc chú trọng tạo dựng quan hệ với KH mới, SGD không nên sao lãng việc duy trì và phát triển quan hệ với KH cũ. Bộ phận chăm sóc KH phải liên tục thu thập thông tin phản hồi từ KH để có sự điều chỉnh hợp lý về sản phẩm. Bộ phận marketing phải nghiên cứu đưa ra những chương trình khuyến mại, những chính sách ưu đãi dành cho các DNTN để khuyến khích họ tiếp tục vay vốn tại SGD. Ngoài ra, SGD cần cung cấp dịch vụ tư vấn KH trong việc xây dựng dự án/ phương án sản xuất kinh doanh, có biện pháp hỗ trợ khi hoạt động của các KH cũ gặp khó khăn Điều này sẽ củng cố lòng yêu mến của KH dành cho SGD. Những KH trung thành sẽ trở thành bộ phận KH đem lại lợi nhuận lớn và ổn định cho SGD, đồng thời là kênh quảng cáo hữu hiệu, kéo thêm nhiều DNTN mới đến với SGD.
Bên cạnh chiến lược quảng bá thương hiệu thì chiến lược sản phẩm cũng cần phải được SGD quan tâm nhiều hơn. Hiện nay, các sản phẩm tín dụng của SGD khá đa dạng song không có nhiều khác biệt so với các sản phẩm mà những NHTM khác đang cung cấp. Điều đó tạo ra tâm lý quen thuộc của KH là dù đến các NH khác nhau, họ cũng nhận được những loại hình dịch vụ như nhau, với chất lượng khá đồng đều. Bởi vậy, để mở rộng khách hàng DNTN, SGD phải nắm bắt kịp thời nhu cầu của thị trường, đa dạng hoá danh mục tín dụng để đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú của KH. Hơn thế nữa, SGD cần phải tạo ra sự khác biệt cho sản phẩm của mình, bằng các dịch vụ tiện ích kèm theo, bằng phong cách phục vụ tận tình, chuyên nghiệp. Điều này sẽ tạo ra dấu ấn riêng cho các sản phẩm dịch vụ của SGD. Một mặt hoàn thiện các sản phẩm của mình, mặt khác, SGD cần phải tìm hiểu xem các NH đối thủ đang triển khai dịch vụ gì, chất lượng ra sao và dịch vụ mới nào sắp được họ tung ra thị trường. Từ đó, SGD có những động thái đáp lại để có thể cạnh tranh với các NH khác trong việc thu hút KH về phía mình.
Tất cả những biện pháp trên đây, từ việc nghiên cứu môi trường kinh doanh đến quảng bá thương hiệu đều phải được SGD thực hiện đều đặn, thường xuyên hoặc định kỳ. Hoạt động marketing của SGD không những được tăng cường về quy mô và còn được nâng cao về chất lượng. Nhờ đó, việc mở rộng cho vay đối với các DNTN mới được thực hiện dễ dàng và hiệu quả.
3.2.3 Điều chỉnh chính sách tín dụng theo hướng cởi mở hơn với doanh nghiệp tư nhân
Hiện nay, chính sách tín dụng đối với DNTN của SGD còn quá khắt khe, khiến cho các DNTN khó vay vốn và việc mở rộng cho vay DNTN gặp nhiều trở ngại. Vì vậy, việc điều chỉnh chính sách tín dụng theo hướng mềm dẻo, cởi mở hơn với các DNTN là rất cần thiết.
Thứ nhất, SGD cần nới lỏng chính sách về quy mô và giới hạn tín dụng nhằm tăng quy mô các khoản cho vay đối với DNTN. Thực tế, những quy định của SGD về quy mô và giới hạn tín dụng đối với DNTN là rất khắt khe. Kết quả là, nhiều DNTN không được xét duyệt cho vay hoặc quy mô cho vay quá nhỏ so với nhu cầu của họ. Để giải quyết tình trạng này, SGD cần linh hoạt hơn trong việc cho vay đối với các DNTN. Để ra quyết định tài trợ, SGD không nên chỉ dựa vào tài sản đảm bảo mà có thể xem xét tính khả thi của phương án kinh doanh mà DN đưa ra. Nếu phương án/ dự án đó có tính khả thi, có khả năng sinh lời cao thì SGD có thể chấp nhận cho vay. Ngoài ra, tỷ lệ cho vay trên tài sản đảm bảo cần được tăng lên, giới hạn cho vay đối với DNTN cần được mở rộng để DNTN vay được nhiều vốn hơn từ SGD.
Thứ hai, chính sách về các khoản đảm bảo cần phải được thay đổi. Hiện nay, 100% dư nợ cho vay đối với DNTN tại SGD phải được đảm bảo bằng tài sản. Việc định giá tài sản đảm bảo của SGD cũng quá cứng nhắc và chặt chẽ. Điều này khiến cho DN, dù có tài sản đảm bảo thì khoản tín dụng mà họ nhận được cũng quá ít ỏi so với nhu cầu. Vì vậy, SGD cần phải thay đổi một số quy định trong chính sách về các khoản đảm bảo. Việc định giá tài sản đảm bảo cần được đơn giản hoá để DNTN dễ dàng tiếp cận hơn với nguồn vốn từ NH.
Thứ ba, SGD nên áp dụng lãi suất cho vay một cách linh hoạt hơn. Hiện nay, SGD xác định lãi suất cho vay dựa trên kết quả xếp hạng khách hàng và tỷ lệ tài sản đảm bảo trên dư nợ của KH. Các DNTN thường bị xếp hạng thấp, giá trị tài sản đảm bảo lại không cao nên phải chịu lãi suất cao hơn so với các DNNN. Điều này sẽ gây tâm lý không thoải mái cho các KH là DNTN. Vì vậy, SGD nên có sự ưu đãi về lãi suất đối với những DN sử dụng vốn có hiệu quả và trả nợ sòng phẳng. Một chính sách lãi suất công bằng, phù hợp với điều kiện của các DNTN không những kích thích các DN đó đến vay vốn tại SGD nhiều hơn mà còn khuyến khích họ trả nợ đúng hạn, đầy đủ.
3.2.4 Đổi mới quy trình cho vay phù hợp với doanh nghiệp tư nhân
Quy trình cho vay đang được SGD áp dụng chung cho tất cả các loại hình DN. Quy trình này được xây dựng dựa trên đặc điểm của các DNNN - vốn là KH truyền thống của SGD. Tuy nhiên, các DNTN lại có nhiều điểm khác biệt so với DNNN như: quy mô nhỏ, khả năng tài chính còn hạn chế, chưa có được uy tín và sự tin tưởng của các NHTM... Bởi vậy, quy trình cho vay mà SGD đang áp dụng rõ ràng là không phù hợp với DNTN. Một số điều chỉnh sau đây sẽ giúp cải thiện điều này:
Một là, hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng KH cần phải được thay đổi cho phù hợp với các DNTN. Hiện nay, việc chấm điểm và xếp hạng KH tại SGD được thực hiện theo quy trình chung của cả hệ thống BIDV. Quy trình đối với KH là tổ chức kinh tế bao gồm 6 bước. Trong đó, bước xác định quy mô, chấm điểm các chỉ tiêu tài chính và chỉ tiêu phi tài chính là quan trọng nhất, có ảnh hưởng quyết định tới kết quả xếp hạng KH. Trong khi đó, các DNTN lại có những bất lợi về quy mô, vốn, năng lực tài chính, kinh nghiệmĐặc biệt, nếu đem so sánh với các DNNN thì sự chênh lệch trên những phương diện này là rất đáng kể. Lẽ tất nhiên, các DNTN sẽ bị xếp hạng thấp, thường chỉ đạt mức BB trở xuống – theo hệ thống xếp hạng tín dụng của BIDV. Việc sử dụng thước đo dành cho các DNNN để đo lường chất lượng của các DNTN là điều vô lý. Và điều vô lý đó dẫn tới sự thiệt thòi của DNTN về lãi suất, quy mô và thời hạn các khoản vay khi vay vốn tại SGD. Chính vì thế, SGD cần phải điều chỉnh các tiêu chí, chỉ tiêu chấm điểm cho phù hợp với đặc điểm thực tế của các DNTN. Nếu các DNTN không phải chịu sự thua thiệt, họ sẽ sẵn sàng đến vay vốn tại SGD nhiều hơn.
Hai là, thủ tục cho vay các DNTN cần phải được đơn giản hoá đến mức tối đa nhằm tiết kiệm thời gian, chi phí và nguồn nhân lực cho cả hai bên ( NH và KH ). SGD cần giảm bớt các thủ tục không quan trọng để tránh phiền hà cho KH. Ví dụ, theo quy trình cho vay hiện nay, sau khi cán bộ tín dụng xem xét chi tiết hồ sơ vay vốn, đảm bảo đã nhận được đầy đủ các thông tin phải chuyển toàn bộ tài liệu cho cán bộ tín dụng quản lý giải ngân rà soát. Cán bộ tín dụng quản lý giải ngân sau khi kiểm tra hồ sơ lại chuyển trả lại cho cán bộ tín dụng để tiếp tục khâu thẩm định KH vay vốn. Thực ra, việc rà soát hồ sơ vay vốn của KH đến 2 lần thật sự là không cần thiết. SGD nên cắt giảm những thủ tục rườm rà để tiết kiệm thời gian. Bởi thời gian là điều rất quan trọng đối với các DNTN. Trong môi trường cạnh tranh gay gắt, DN nào không nhanh chóng chớp lấy thời cơ kinh doanh thì sẽ nhận lấy phần thua thiệt. Do đó, một quy trình cho vay đơn giản sẽ tạo ra tâm lý thoải mái, hài lòng nơi KH khi họ đến vay vốn tại SGD.
Ba là, cán bộ tín dụng của SGD cần chủ động hướng dẫn khách hàng trong việc hoàn thiện hồ sơ vay vốn. Do DNTN là những khách hàng mới, họ khó tránh khỏi sự lúng túng khi lập hồ sơ vay vốn trình SGD. Sự giúp đỡ nhiệt tình của cán bộ tín dụng ngay từ khâu này, một mặt giúp giảm bớt thời gian và chi phí cho cả hai bên, mặt khác tránh cho KH khỏi e ngại khi tới SGD vay vốn. Điều này khiến cho KH là DNTN hài lòng hơn về SGD và đó là điều kiện để SGD mở rộng cho vay đối với đối tượng KH này.
Tóm lại, quy trình cho vay hiện tại của SGD có những điểm không hợp lý nếu đem áp dụng với các DNTN. Bởi vậy, một số điều chỉnh trong quy trình cho vay sao cho phù hợp hơn với các DNTN là rất cần thiết, nếu như SGD thực sự muốn mở rộng cho vay đối với khu vực kinh tế tư nhân.
3.2.5 Nâng cao chất lượng công tác quản lý rủi ro tín dụng
Để nâng cao chất lượng của công tác quản lý rủi ro tín dụng, SGD phải nghiêm túc chấp hành các quy định về an toàn tín dụng của NHNN. Ngoài ra, SGD phải tăng cường kiểm soát chất lượng hoạt động cho vay đối với DNTN bằng các biện pháp cụ thể sau đây:
Thứ nhất, chất lượng của công tác phân tích khách hàng, thẩm định dự án đầu tư cần được nâng cao. Để làm được điều này, bên cạnh những thông tin mà KH cung cấp, SGD phải tự thu thập thêm thông tin từ các nguồn khác. Các nguồn đó là: đối tác, nhà cung cấp, các NHTM đã có quan hệ tín dụng với KH, các phương tiện thông tin, các tổ chức nghiên cứu thị trường, dư luận và các cơ quan quản lý có liên quanViệc thu thập thông tin phải được tiến hành thường xuyên, được tổ chức một cách khoa học. SGD nên xây dựng một cơ sở dữ liệu về các DNTN trên địa bàn. Nhờ đó, việc phân tích thẩm định KH mới được tiến hành nhanh chóng hơn và đem lại kết quả chính xác hơn. Mặt khác, thông tin do KH cung cấp cũng như thông tin mà NH tự thu thập phải được kiểm tra về tính chính xác để trở thành đầu vào đáng tin cậy cho quá trình phân tích khách hàng và thẩm định dự án cần vay vốn.
Thứ hai, quá trình kiểm tra giám sát trong khi cho vay cần được tiến hành nghiêm túc và chặt chẽ hơn. Hoạt động của các DNTN thường không ổn định và dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài. Khả năng trả nợ của KH DNTN dễ bị tổn thương. Do đó, SGD cần tiến hành định kỳ hoặc thường xuyên việc kiểm tra giám sát hoạt động sử dụng vốn của KH. Điều này giúp SGD ngăn chặn ý đồ sử dụng vốn vay không đúng không đúng mục đích của KH, kịp thời phát hiện những dấu hiệu làm ăn thua lỗ của họ. Từ đó, SGD đã hạn chế phần nào rủi ro trong hoạt động cho vay đối với DNTN.
Thứ ba, SGD tạo ra môi trường làm việc tốt cho đội ngũ cán bộ. SGD cũng cần khuyến khích và tạo điều kiện tối đa để các cán bộ tín dụng được học tập và nâng cao trình độ. Cơ chế phân định trách nhiệm cũng phải được xây dựng thật rõ ràng. Trình độ và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng sẽ quyết định chất lượng công tác quản lý rủi ro tín dụng của SGD. Chất lượng của công tác này được nâng cao là điều kiện để SGD có thể mở rộng cho vay đối với các DNTN.
Như vậy, để mở rộng cho vay đối với DNTN, SGD cần có những thay đổi đáng kể trong quy trình cho vay và chính sách tín dụng, phải tăng cường huy động vốn và hoạt động marketing, nâng cao chất lưọng công tác quản lý rủi ro. Tất cả những giải pháp này đòi hỏi phải có sự đầu tư lớn và quyết tâm cao từ phía SGD. Tuy nhiên, nỗ lực từ phía SGD là chưa đủ. Để những giải pháp này được thực hiện hiệu quan, sự thay đổi từ chính các DNTN, sự hỗ trợ từ BIDV trung ương, NH Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền là rất quan trọng.
3.3 Một số kiến nghị
3.3.1 Kiến nghị đối với các doanh nghiệp tư nhân
Khả năng đáp ứng các điều kiện vay của DNTN là nhân tố khách quan có ảnh hưởng lớn đến việc mở rộng cho vay đối với các DNTN của SGD. Bởi vậy, để hoạt động mở rộng cho vay của SGD được thực hiện, sự cố gắng của các DNTN trong việc đáp ứng các điều kiện vay là không thể thiếu được.
Trước hết, các DNTN cần bổ sung vốn chủ sở hữu bằng nhiều cách như tăng tỷ lệ tích luỹ từ lợi nhuận, phát hành thêm cổ phần... Vốn chủ sở hữu tăng lên sẽ giúp nâng cao năng lực tài chính cho DN. Từ đó, DN dễ dàng hơn trong việc đáp ứng các điều kiện về tài sản đảm bảo mà SGD đặt ra. Năng lực tài chính được cải thiện cũng góp phần để DN được xếp hạng cao hơn. Quy mô tín dụng mà SGD dành cho DN, tất nhiên, sẽ lớn hơn.
Các DNTN cũng cần tạo dựng thương hiệu của mình trên thị trường và uy tín đối với NHTM. Để làm được điều này, DN phải thực hiện một loạt công việc như: xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn phù hợp với điều kiện của mình và với xu thế phát triển của nền kinh tế; nâng cao năng lực sử dụng vốn; áp dụng công nghệ hiện đại; chú trọng hệ thống hạch toán kế toán để làm tăng độ tin cậy và tính chính xác của các báo cáo tài chính... Những biện pháp này không chỉ giúp cho DN tiếp cận vốn của NH dễ dàng hơn mà còn tạo ra cơ sở để DN phát triển bền vững.
Đối với DNTN, sự thiếu thuyết phục của các dự án/ phương án sản xuất kinh doanh mà họ xây dựng luôn là rào cản cản trở họ trong việc vay được vốn từ NH. Do đó, vấn đề quan trọng đối với các DNTN hiện nay là phải nâng cao năng lực xây dựng các dự án/ phương án sản xuất kinh doanh. DN cần chủ động lựa chọn dự án đầu tư phù hợp với điều kiện thực tế của mình và với nhu cầu của thị trường. Chỉ có như vậy, dự án đầu tư mới có tính khả thi cao. Mặt khác, sự thiếu thuyết phục của các dự án đầu tư mà DN xây dựng cũng có nguyên nhân là sự thiếu thông tin, thiếu hiểu biết của DN về pháp luật và các quy định thương mại quốc tế. Vì vậy, các DNTN cần liên tục cập nhật thông tin về những biến động của môi trường kinh doanh, cần tăng cường hợp tác, tham gia vào các hiệp hội doanh nghiệp trong và ngoài nước để bổ sung kiến thức và nắm bắt thông tin nhanh chóng, kịp thời.
Ngoài ra, yếu tố con người chính là chìa khoá cho sự thành công trong việc xây dựng dự án đầu tư và nâng cao năng lực sản xuất của DN. Bởi vậy, một việc làm rất quan trọng mà DNTN phải thực hiện là đào tạo nguồn nhân lực. Lãnh đạo DN bảo thủ, thiếu năng lực, trình độ, kém nhạy bénlà điều tối kỵ đối với DN. Những quyết định sai lầm từ phía lãnh đạo khiến cho hoạt động kinh doanh của DN đi chệch hướng, gây hậu quả nghiêm trọng. Mặt khác, trình độ người lao động thấp sẽ làm giảm năng suất lao động, tăng chi phí sản xuất, hoạt động của DN vì thế sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Do đó, DNTN phải chú trọng hơn đến việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Những biện pháp cụ thể là: tài trợ cho những cán bộ có năng lực đi học thêm để nâng cao trình độ; đưa ra chế độ lương và phúc lợi hấp dẫn để thu hút người giỏi về làm việc cho mình; tổ chức các buổi tập huấn để bồi dưỡng kiến thức và nâng cao tay nghề cho người lao động trong DN. Nguồn nhân lực chất lượng cao chính là đòn bảy nâng cao hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh của DNTN. Đó cũng là cơ sở để việc vay vốn NH của DN được thuận lợi hơn.
3.3.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
SGD là bộ phận nằm trong hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Mọi hoạt động của SGD đều chịu sự tác động trực tiếp từ đường lối hoạt động của BIDV. Bởi thế, các giải pháp mở rộng cho vay đối với các DNTN của SGD khó có thể được thực hiện nếu như thiếu sự hỗ trợ từ phía BIDV trung ương. Những kiến nghị dưới đây đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là nhằm thực thi các giải pháp dành cho SGD.
BIDV cần phải định hướng hoạt động tín dụng của SGD là mở rộng cho vay đối với các DNTN. SGD là đơn vị thay mặt Hội sở chính trực tiếp kinh doanh. Nếu như không có sự chỉ đạo từ phía Hội sở chính thì SGD khó có thể tuỳ tiện mở rộng hoạt động cho vay của mình. Bởi vậy, BIDV trung ương cần có sự chỉ đạo rõ ràng rằng phương hướng hoạt động tín dụng của SGD là mở rộng cho vay đối với các DNTN. Hơn nữa, BIDV cần tạo ra cơ chế để SGD chủ động hơn trong việc lựa chọn ngành nghề, khu vực kinh tế cần tài trợ. Sự chủ động sẽ giúp cho việc mở rộng cho vay đối với các DNTN của SGD được thực hiện dễ dàng hơn.
Bên cạnh đó, sự tham gia của BIDV trung ương trong việc xây dựng quy trình cho vay đối với DNTN là rất cần thiết. Quy trình cho vay hiện nay mà SGD đang áp dụng với các DNTN là quy trình chung, có hiệu lực trong toàn hệ thống BIDV. Bởi vậy, SGD không thể tự mình thay đổi quy trình đó. BIDV cần phối hợp với SGD điều chỉnh quy trình cho vay và chính sách tín dụng theo hướng mềm dẻo, linh hoạt hơn đối với các DNTN. Chỉ có như vậy, quy trình cho vay trong toàn hệ thống BIDV mới thống nhất và hợp lý hơn. Đó là điều kiện để SGD mở rộng cho vay đối với các DNTN trên địa bàn hoạt động của mình.
Riêng về hoạt động marketing, BIDV cũng cần phải có những hành động thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này. Sự hỗ trợ về tài chính từ BIDV để SGD tăng cường các hoạt động quảng bá thương hiệu cần được thực hiện thường xuyên hơn. BIDV nên đẩy mạnh việc thực hiện các chương trình quảng cáo, tài trợ cho các sự kiện để thương hiệu BIDV trở nên phổ biến hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho SGD mở rộng khách hàng.
Cuối cùng, để hoạt động cho vay đối với các DNTN của SGD được mở rộng một cách hiệu quả thì sự kiểm tra giám sát của BIDV là không thể thiếu được. Công tác kiểm tra của BIDV cần được tăng cường để đảm bảo việc mở rộng cho vay các DNTN phải gắn liền với việc nâng cao chất lượng các khoản vay, đảm bảo an toàn cho hoạt động của SGD và của toàn hệ thống.
3.3.3 Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Thị trường tài chính tiền tệ phát triển lành mạnh là điều kiện để các NHTM hoạt động tốt hơn. Bởi vậy, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần tạo ra môi trường ổn định cho sự phát triển của thị trường này. Nhờ đó, các NHTM nói chung và SGD nói riêng mới có thể tăng cường huy động vốn và mở rộng hoạt động cho vay.
Các văn bản Luật do Ngân hàng Nhà nước ban hành có tác động trực tiếp đến hoạt động của NHTM. Hoạt động cho vay của NHTM đối với các DNTN được mở rộng hay không còn tuỳ thuộc vào các quy chế, quy định của Ngân hàng Nhà nước. Do đó, ngân hàng Nhà nước cần ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể về việc cho vay đối với các DNTN, xây dựng hành lang pháp lý tạo điều kiện cho các NHTM nới lỏng điều kiện vay vốn đối với DNTN. Ngân hàng Nhà nước nên cho phép các NHTM chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh của mình. Từ đó, các NHTM có thể tự đưa ra những quy định về chính sách cho vay để hoạt động cho vay của mình linh hoạt hơn.
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng cần thận trọng trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Những tháng đầu năm 2008, những biện pháp thắt chặt tiền tệ của NHNN đã buộc các NHTM nói chung và SGD nói riêng phải hạn chế hoạt động cho vay của mình. Khó khăn trong việc huy động vốn khiến các NHTM đều phải tăng lãi suất huy động. Lãi suất huy động tăng lên đồng nghĩa với việc SGD phải tăng lãi suất cho vay. Điều này dẫn đền hậu quả là nhu cầu vay vốn của các DNTN giảm đi. Bởi vậy, mỗi động thái trong việc điều hành chính sách tiền tệ cần được NHNN nghiên cứu kỹ lưỡng trước khi hành động, để hoạt động cho vay DNTN của NHTM không bị thu hẹp.
3.3.4 Kiến nghị đối với Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền liên quan
Trước hết, Chính phủ cần duy trì sự ổn định và phát triển của nền kinh tế. Trong năm 2007, tỷ lệ lạm phát ở nước ta đã lên đến 12.6%. Sự gia tăng tỷ lệ lạm phát vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại, khi mà chỉ trong quý I năm 2008, chỉ số giá tiêu dùng đã tăng 6%. Đây là những biến động xấu, ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ của nền kinh tế và hoạt động của hệ thống NHTM. Trong điều kiện lạm phát cao, nhu cầu gửi tiền của người dân sẽ giảm đi. Hoạt động huy động tiền gửi của NH sẽ rất khó khăn và tất nhiên, hoạt động cho vay cũng chịu tác động tiêu cực. Vì thế, Chính phủ phải có sự điều hành thận trọng nhằm bình ổn giá cả, kiềm chế lạm phát, ổn định nền kinh tế. Đó là điều kiện về môi trường vĩ mô để SGD tiếp tục gia tăng nguồn vốn và mở rộng cho vay đối với các DNTN.
Chính phủ cũng cần phải giảm dần việc chỉ đạo cho vay đối với các NHTM Nhà nước. Việc cho vay các dự án, các doanh nghiệp theo sự chỉ đạo của Nhà nước khiến cho NHTM trở nên bị động và không thể tập trung nguồn lực để mở rộng cho vay các DNTN.
Chính phủ cần duy trì sự ổn định của thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản. Sự u ám của hai thị trường này có thể làm cho nền kinh tế lâm vào suy thoái. DNTN không còn điều kiện phát triển thì nhu cầu vay vốn NH của họ cũng giảm sút. Trái lại, sự tăng trưởng quá nóng của thị trường chứng khoán và bất động sản lại hút bớt một lượng vốn đáng kể của NH. Điều này làm cho DNTN khó vay vốn NH hơn. Hoạt động cho vay DNTN của NHTM cũng không thể mở rộng.
Chính phủ và các cơ quan quản lý cần nhanh chóng tạo ra một sân chơi bình đẳng, một môi trường kinh doanh minh bạch cho tất cả các thành phần kinh tế. Đây là điều rất cần thiết cho sự phát triển lành mạnh của các DNTN. Từ đó, nhu cầu vay vốn của họ tăng lên và khả năng đáp ứng các điều kiện vay cũng được cải thiện.
Việc cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường pháp lý cũng cần được thực hiện ngay. Một hệ thống các văn bản pháp lý được xây dựng thống nhất sẽ giúp các DNTN tránh được những khó khăn trong quá trình hoạt động. Các thủ tục hành chính đơn giản gọn nhẹ sẽ giúp cho hoạt động của DN diễn ra thông suốt, dễ dàng hơn. Bên cạnh đó, các dự thảo Luật liên quan đến hoạt động kinh tế cần phải có sự tham gia đóng góp ý kiến của mọi thành phần trong xã hội, đặc biệt là các DN. Khi đó, Luật được ban hành ra mới phù hợp với nguyện vọng chung, phù hợp với tình hình thực tế và hạn chế được sự chủ quan của các nhà làm luật. Một môi trường pháp lý lành mạnh sẽ thúc đẩy sự phát triển của các DNTN và tất nhiên là họ sẽ tiếp cận vốn tín dụng NH dễ dàng hơn.
Các cơ quan quản lý phải không ngừng nâng cao năng lực, trình độ của mình. Tình trạng “không quản được thì cấm” phải được chấm dứt ngay, tránh để các DN phải chịu thua thiệt một cách vô lý. Việc quản lý chặt chẽ, hiệu quả của các cơ quan có thẩm quyền cũng sẽ giúp loại bỏ các DN làm ăn sai trái, góp phần làm tăng uy tín của khối DNTN trong mắt các NHTM.
Ngoài ra, các DNTN cũng rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước trong việc tiếp cận thông tin kinh tế, pháp luật. Vì vậy, thông tin về cơ chế chính sách và các quy định mới cần được Nhà nước và các cơ quan thẩm quyền công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng để DN tiếp cận kịp thời.
Tóm lại, để hoạt động cho vay đối với DNTN được mở rộng thì nỗ lực của riêng SGD là không đủ. Sự phối hợp đồng bộ từ phía các DNTN, từ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, từ Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền là rất quan trọng. Những thay đổi trong hoạt động của các cơ quan này sẽ giúp SGD thực thi hiệu quả các giải pháp nhằm mở rộng cho vay đối với các DNTN.
KẾT LUẬN
Đề tài “Mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp tư nhân của Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam” được nghiên cứu trên giác độ của SGD. Nội dung chính của đề tài đã được trình bày trong khoá luận, cụ thể như sau:
Phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động cho vay đối với DNTN của NHTM.
Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng cho vay đối với DNTN của NHTM.
Đánh giá thực trạng cho vay đối với DNTN của SGD.
Phân tích một số nguyên nhân khiến cho hoạt động cho vay đối với DNTN của SGD chưa được mở rộng như: chính sách tín dụng của SGD kém linh hoạt, công tác marketing chưa được quan tâm, hệ thống chấm điểm xếp hạng khách hàng chưa phù hợp
Đề xuất một số giải pháp như: tăng cường huy động vốn, tăng cường hoạt động marketing, nâng cao chất lượng công tác quản lý rủi ro, đổi mới quy trình cho vay nhằm mở rộng cho vay đối với các DNTN của SGD.
Tóm lại, hoạt động cho vay đối với DNTN của SGD đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận. Song hoạt động này vẫn chưa được mở rộng, nếu so với mục tiêu mà SGD đã đặt ra. Mặt khác, cho vay các DNTN thật sự là một thị trường đầy tiềm năng đối với SGD. Bởi vậy, SGD cần nhanh chóng thực hiện các giải pháp nhằm mở rộng cho vay đối với các DNTN. Hơn thế nữa, các giải pháp đó phải được thực hiện với sự đầu tư lớn và quyết tâm cao. Như vậy, hoạt động mở rộng cho vay đối với các DNTN mới thực sự đạt hiệu quả, góp phần tăng cường sức mạnh của SGD trong cuộc cạnh tranh với các NHTM Việt Nam và nước ngoài.
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
Trang
Bảng 2.1 Tình hình huy động vốn 33
Hình 2.1 Biến động cơ cấu vốn huy động 35
Bảng 2.2 Cơ cấu cho vay theo thành phần 36
Hình 2.2 Cơ cấu cho vay theo kỳ hạn 37
Hình 2.3 Tỷ lệ nợ quá hạn qua các năm 38
Bảng 2.3 Doanh thu từ dịch vụ qua các năm 39
Bảng 2.4 Cơ cấu dư nợ của DNTN theo kỳ hạn 45
Hình 2.4 Cơ cấu dư nợ cho vay DNTN theo kỳ hạn 46
Hình 2.5 Cơ cấu dư nợ theo thành phần 47
Bảng 2.5 Doanh số cho vay theo thành phần của SGD 48
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7680.doc