Dân số Việt Nam hiện nay vào khoảng hơn 85 triệu người, một con số không phải là nhỏ và ước tính vào năm 2010, nước ta sẽ có đến 56,82 triệu người trong độ tuổi lao động. Lực lượng này ước tính chiếm 64,4% dân số và là thành phần chính của nguồn nhân lực. Trong khi đó, tổng cầu lao động dự kiến chỉ khoảng hơn 49 triệu lao động, còn lượng cầu về lao động làm công ăn lương ước tính xấp xỉ 20 triệu người vào năm 2010. Như vậy, nhu cầu tuyển dụng chỉ chiếm gần 1/3 so với dân số trong độ tuổi lao động. Có nghĩa là nguy cơ thất nghiệp đang là mối đe dọa trong nay mai. Ở nông thôn, gieo trồng theo mùa vụ nên thời gian không có việc làm cũng rất nhiều, trong khi đó lao động làm không đủ ăn. Và thực tế cho thấy việc phát triển DNNQD đã góp phần thu hút và giải quyết được nhiều việc làm cho người lao động. Thời gian qua, tỷ lệ số lao động làm trong khu vực này ngày càng tăng, chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng lao động toàn xã hội.
82 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1039 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mở rộng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phẩm, dịch vụ và đối tượng khách hàng. Ngân hàng chủ trương mở rộng cho vay đối với tất cả các thành phần kinh tế, đặc biệt chú trọng vào nhóm khách hàng DNNQD. Số lượng khách hàng DNNQD có quan hệ tín dụng với ngân hàng tăng nhanh qua các năm. Cụ thể là, năm 2007, số lượng này lên tới 1350 doanh nghiệp, năm 2006 là 1200 doanh nghiệp, năm 2005 1010 doanh nghiệp, trong khi đó năm 2004 mới chỉ có 910 doanh nghiệp. Trung bình mỗi năm, số lượng DNNQD có quan hệ tín dụng với ngân hàng tăng 200 doanh nghiệp. Thực trạng cho vay của ngân hàng đối với các DNNQD ngày càng lớn lên cả về số lượng lẫn chất lượng. Điều đó được thể hiện qua các chỉ tiêu về cho vay đối với các DNNQD sau đây:
2.3.1. Dư nợ cho vay đối với DNNQD
- Doanh số cho vay đối với DNNQD Doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang trở thành nhóm khách hàng cạnh tranh của các ngân hàng thương mại. Mở rộng cho vay đối với DNNQD đã trở thành hướng đi chính trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại nói chung và ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa nói riêng. Bởi vì trong điều kiện nền kinh tế thị trường đang hội nhập, doanh nghiệp Nhà nước đang ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém. Dưới đây là bảng số liệu về doanh số cho vay đối với các DNNQD trong thời gian qua của ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa.
Bảng doanh số cho vay đối với DNNQD (Đơn vị: tỷ đồng)
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
2007
Doanh số cho vay
2243
2280
1900
2850
DNNN
1865
1100
1150
1540
(% so với tổng doanh số cho vay)
83.15%
48.24%
60.53%
54%
DNNQD
380
1180
750
1310
(% so với tổng doanh số cho vay)
16.85%
51.76%
39.47%
46%
(Nguồn: Số liệu do phòng tổng hợp tiếp thị cung cấp)
Có thể thấy, doanh số cho vay đối với các DNNQD ngày càng chiếm tỷ trọng lớn. Doanh số cho vay đối với các DNNQD tăng từ 16.85% năm 2004 đến 46% năm 2007. Từ những năm 2004 trở về trước, nhóm khách hàng doanh nghiệp nhà nước vẫn đang là nhóm cạnh tranh trọng điểm của các ngân hàng thương mại, do vậy mà tỷ trọng cho vay đối với các doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng lớn, 83.15%, và do vậy cho vay đối với các DNNQD chỉ chiếm 16.85%. Năm 2006 là năm khó khăn về huy động vốn, do đó mà doanh số cho vay giảm sút và doanh số cho vay đối với các DNNQD cũng giảm 36.4% so với năm 2005, chỉ chiếm 39.47% tổng doanh số cho vay. Doanh số cho vay lại tăng lên một cách đáng kể vào năm 2007, cho vay DNNQD đạt 1310 tỷ đồng, tăng 74.67% so với năm 2006, 11% so với năm 2005 và hơn 200% so với năm 2004. Năm 2007, ngành ngân hàng phát triển an toàn và lành mạnh, năm Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) các ngân hàng thương mại thu hút được sự quan tâm lớn của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đối với ngân hàng Công thương Việt Nam nói chung và ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa nói riêng, quy mô tăng trưởng tín dụng lớn nhất trong suốt thập niên qua. Hoạt động cho vay phát triển không những về số lượng mà còn cả chất lượng. Ngân hàng đang ngày chú trọng tập trung vào đối tượng khách hàng các DNNQD. Điều đó được minh chứng qua sự dịch chuyển cơ cấu cho vay đối với DNNQD và doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua ở bảng số liệu trên.
Dư nợ cho vay đối với DNNQD
Theo định hướng phát triển của ngân hàng Công thương Việt Nam, các chi nhánh trong hệ thống công thương nói chung và ngân hàng Công thương Đống Đa nói riêng đã chú ý mở rộng dư nợ đối với các thành phần kinh tế khác, đặc biệt DNNQD, theo đó giảm dần dư nợ đối với các DNNN. Đặc biệt trên địa bàn Hà Nội, trung tâm văn hóa kinh tế của cả nước, là địa bàn tập trung nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh ra đời.
Bảng dư nợ cho vay đối với DNNQD (Đơn vị: tỷ đồng)
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
2007
Dư nợ
2150
2200
1600
2560
DNNN
1800
1210
880
1350
(% so với tổng dư nợ)
83.72
55.00
55.00
52.73
DNNQD
350
990
720
1210
(% so với tổng dư nợ)
16.28
45.00
45.00
47.27
(Nguồn: Số liệu do phòng tổng hợp tiếp thị cung cấp)
Ta có thể nhận thấy cơ cấu dư nợ chuyển dịch rõ rệt giữa hai khu vực doanh nghiệp Nhà nước và DNNQD. Nếu như năm 2004, dư nợ đối với khu vực DNNQD chỉ chiếm tỷ trọng 16.28% trong tổng dư nợ thì đến năm 2007 con số này đã lên đến 47.27%. Theo đó, tỷ trọng cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước đã giảm từ 83.72% năm 2004 xuống còn 52.73% năm 2007. Tuy vẫn chiếm tỷ trọng ít hơn đối với doanh nghiệp nhà nước nhưng dư nợ đối với DNNQD năm 2007 cũng đã đạt 1210 tỷ đồng, tăng hơn 68% so với năm 2006, 22% so với năm 2005 và hơn 200% so với năm 2004. Sở dĩ năm 2004, tỷ trọng dư nợ của DNNQD thấp là vì ở thời điểm đó, DNNQD chưa được khuyến khích phát triển, các chính sách hỗ trợ ưu đãi chưa đến được với doanh nghiệp, môi trường kinh doanh còn nhiều vướng mắc. Bên cạnh còn chịu tác động tiêu cực của nền kinh tế trong và ngòai nước nên các doanh nghiệp phải thu hẹp quy mô sản xuất, do đó mà chưa có nhu cầu về vốn nhiều cũng như việc tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng còn rất phức tạp và khó khăn. Nhưng hiện nay, tình trạng đã được cải thiện hơn khi mà các văn bản luật về doanh nghiệp ra đời hoàn thiện cơ chế làm ăn cho doanh nghiệp cũng như được sự hỗ trợ từ nhà nước và chính phủ. DNNQD ngày càng lớn mạnh cả về số lượng lẫn chất lượng. Quy mô sản xuất kinh doanh được mở rộng, nhu cầu vốn lớn, sản xuất kinh doanh hiệu quả do vậy mà dễ dàng vay vốn từ ngân hàng hơn. Đó là nguyên nhân dư nợ cho vay của các DNNQD ngày càng tăng. Mặc dù hiện nay, ngân hàng đang chú trọng vào DNNQD tuy nhiên về tỷ trọng cho vay thì vẫn chưa qua được doanh nghiệp ngoài nhà nước. Sở dĩ như vậy là vì doanh nghiệp nhà nước từ lâu đã là khách hàng truyền thống của ngân hàng, từ nhiều năm trước đã là nhóm khách hàng trọng điểm và đem lại nguồn thu nhập chính cho ngân hàng. Hơn nữa lại ra đời sớm hơn so với khu vực DNNQD. Được xếp vào khách hàng truyền thống nên dư nợ về cho vay đối với khu vực này vẫn đang chiếm tỷ trọng lớn mặc dù là có chiều hướng giảm.
2.3.2.Tăng trưởng dư nợ đối với DNNQD
Trong những năm gần đây với việc Luật DN ra đời môi trường kinh doanh thông thoáng hơn khiến cho số lượng DNNQD không ngừng gia tăng trên mọi lĩnh vực kinh doanh và cơ cấu nền kinh tế đang chuyển dịch theo hướng năng động hơn. Chúng ta có thể nhận thấy rõ sự có mặt ngày càng quan trọng của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đối với sự phát triển của nền kinh tế. DNNQD đã dần tạo được lòng tin đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước và không nằm ngoài xu hướng chung đó Chi nhánh đã chủ động hơn trong việc mở rộng tín dụng với khối DN này.
Tuy ra đời muộn nhưng tỷ trọng dư nợ cho vay của các DNNQD hiện nay đã chiếm đến 47.27% tổng dư nợ. Và tỷ lệ tăng trưởng dư nợ đối với các DNNQD ngày càng tăng. Nếu như năm 2005, tỷ lệ tăng trưởng dư nợ là 2.33% thì tỷ lệ tăng trưởng dư nợ đối với DNNQD lên tới 182.9%. Cơ cấu dư nợ đã chuyển dịch mạnh vào khối DNNQD. Hiện nay, tỷ lệ tăng trưởng dư nợ chung là 60% so với năm 2006 thì tỷ lệ tăng trưởng dư nợ đối với DNNQD là 68.5%. Như vậy, tỷ lệ tăng trưởng đối với DNNQD đã tăng từ 2.33% năm 2005 đến 68.5% vào năm 2007. Năm 2007, năm Việt Nam gia nhập
WTO, có nhiều thay đổi về môi trường hoạt động, chính sách ưu đãi cũng như cơ chế quản lý doanh nghiệp ngày càng hiệu quả tạo điều kiện cho doanh nghiệp dễ tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng, đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh là thành phần kinh tế đang được Nhà nước khuyến khích phát triển. Họ đã mở rộng quy mô sản xuất và thị trường tiêu thụ sản phẩm nên nhu cầu về vốn ngân hàng là rất lớn. Do vậy mà dư nợ cho vay đối với DNNQD có quy mô tăng trưởng rất nhanh.
2.3.3. Tỷ lệ nợ quá hạn đối với cho vay DNNQD
Hoạt động tín dụng là hoạt động chính của ngân hàng, chất lượng tín dụng được xác định là mục tiêu hàng đầu, do vậy chi nhánh đã mở rộng thị phần, nâng cao chất lượng các khoản cho vay, không ngừng hoàn thiện việc thực hiện quy trình tín dụng kết hợp nâng cao trình độ chuyên môn và đề cao công tác thẩm định dự án đầu tư, đảm bảo hiệu quả các dự án cho vay nên vốn tín dụng của chi nhánh có hệ số an toàn cao.
Bảng tỷ lệ nợ quá hạn đối với DNNQD
2007
2006
2005
2004
2003
Chỉ tiêu
28
25
16
12
8
Tông sô
24
22
10
7
4
DNNN
4
3
6
5
4
DNNQD
(Nguồn: Số liệu do phòng tổng hợp tiếp thị cung cấp)
Năm 2007, tỷ lệ nợ quá hạn của khu vực DNNQD năm 2007 chiếm 14.3% tổng nợ quá hạn trong khi đó năm 2003 là 50%, năm 2004 là 41.7%, năm 2005 37.5% và năm 2006 12%. Có thể nhận thấy tỷ lệ nợ quá hạn của DNNQD ngày càng giảm một cách rõ rệt. Năm 2003 và 2004, quy mô nhỏ, chưa phát triển và cũng chưa có điều kiện để phát triển, thiếu vốn, nhân lực không đủ trình độ, doanh nghiệp làm ăn thua lỗ nên không đủ tiền để trả nợ ngân hàng đúng hạn như đã thỏa thuận trước trong hợp đồng tín dụng. Luật doanh nghiệp 2005 ra đời đã tạo môi trường làm ăn lành mạnh và công bằng cho DNNQD với các thành phần kinh tế khác, giúp cho doanh nghiệp đẩy mạnh và phát triển hoạt động kinh doanh, vốn vay từ ngân hàng được sử dụng đem lại hiệu quả, lợi nhuận cao. Do vậy mà không những ngày càng thu hút được sự tài trợ của ngân hàng, tỷ lệ nợ quá hạn cũng đang giảm một cách rõ rệt so với các doanh nghiệp nhà nước. Có thể thấy, tỷ lệ nợ quá hạn của các doanh nghiệp nhà nước đang đến mức cảnh báo. Thực tế, doanh nghiệp nhà nước đang ngày càng làm ăn bê trễ, hoạt động kém hiệu quả. Trong nền kinh tế thị trường đang hội nhập, doanh nghiệp nhà nước ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém. Hoạt động của doanh nghiệp nhà nước chưa hiệu quả, khả năng tạo lợi nhuận kém, hàng tồn kho tiêu thụ chậm, công nợ chưa thanh toán được. Bên cạnh đó là các cơ chế, quy chế quản lý còn nhiều bất cập, mang thủ tục hành chính nặng nề, rườm rà. Doanh nghiệp nhà nước vì thế đang là con nợ của các ngân hàng, đang trong tình trạng không có khả năng trả nợ là rất cao..
2.3.4. Chỉ số thu nợ đối với các khoản vay của DNNQD
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
2007
Doanh số thu nợ
548
754
1120
600
Doanh số cho vay
380
1180
750
1310
Chỉ số thu nợ
1.44
0.64
1.49
0.46
(Nguồn: Số liệu do phòng tổng hợp tiếp thị cung cấp)
Chỉ số thu nợ phản ánh khả năng thu hồi vốn của ngân hàng.
Từ bảng số liệu trên ta thấy tình hình thu nợ của chi nhánh là không ổn định. Năm 2007, chỉ số thu nợ là 0.46, thấp hơn nhiều so với năm 2006, 2004 và 2005. Năm 2004, 2006 không những khả năng thu hồi các khoản nợ mới của ngân hàng cao mà ngân hàng còn có các chính sách thu hồi được các khoản nợ quá hạn từ trước. Do vậy mà chỉ số thu nợ có giá trị >1. Mặt khác do doanh số cho vay đối với DNNQD trong hai năm 2004 và 2006 cũng thấp nên khả năng thu hồi vốn cũng đơn giản hơn. Do vậy nên chỉ số thu nợ cao hơn so với năm 2005, 2007 có doanh số cho vay rất cao. Bên cạnh đó cũng phải kể đến chính sách khách hàng của ngân hàng đối với doanh nghiệp cũng ảnh hưởng đến doanh số thu nợ. Năm 2006, doanh số thu nợ rất cao là do ngân hàng có chính sách kiểm soát nguồn vốn cho vay tốt dẫn đến khả năng thu nợ cao, ngoài ra năm trước đó là năm 2005 có doanh số thu nợ rất thấp, do đó mà nợ quá hạn đến năm sau cũng tương đối lớn và đã được ngân hàng thu hồi vào năm 2006.
2.3.5. Tỷ lệ lợi nhuận khối DNNQD đóng góp vào trong tổng lợi nhuận của ngân hàng
Cho vay là nghiệp vụ truyền thống mang lại thu nhập chính cho ngân hàng. Xu hướng mở rộng cho vay đối với DNNQD đã ngày càng đóng góp một tỷ lệ lợi nhuận lớn trong tổng lợi nhuận của ngân hàng. Năm 2007, tỷ lệ lợi nhuận khối DNNQD đem lại chiếm 31.2% tổng lợi nhuận của ngân hàng, tăng 5% so với năm 2006 và 18.8% so với năm 2004. Năm 2007 là năm tăng trưởng nóng về tín dụng, năm thắng lợi của ngân hàng, là năm thu được lợi nhuận cao nhất từ những năm trở lại đây. Lợi nhuận thu được từ cho vay đối với DNNQD đã chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số lợi nhuận doanh nghiệp đạt được. Và con số này ngày càng có xu hướng tăng lên. Sở dĩ như vậy là vì, trước hết là do chính sách mở rộng hoạt động cho vay của ngân hàng đối với DNNQD, thu hẹp cho vay doanh nghiệp nhà nước. Và đặc biệt là trong vài năm trở lại đây, DNNQD đã ra đời với số lượng lớn cùng với chính sách khuyến khích phát triển của Nhà nước. Thực tế cho thấy, có đến 75% DNNQD hiện nay có mức vốn dưới 2 tỷ đồng. Công nghiệp sản xuất còn lạc hậu và hoạt động chủ yếu ở những lĩnh vực có giá trị thấp như chế biến và gia công. Chính vì vậy, các DNNQD đang rất khát vốn để có thể tăng cường cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Có sự phù hợp giữa cung và cầu, do đó mà doanh số cho vay của ngân hàng đối với các DNNQD ngày càng tăng. Môi trường làm ăn thuận lợi, được nhà nước tạo điều kiện, DNNQD đã khơi dậy, huy động và khai thác một tiềm năng to lớn về tiền vốn, sức lao động, trí tuệ, kinh nghiệm, khả năng kinh doanh và các nguồn nhân lực khác vào sự phát triển của đất nước nói chung và sự phát triển của bản thân doanh nghiệp nói riêng. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNNQD cao. Do vậy chất lượng cho vay của ngân hàng đối với các doanh nghiệp trong khu vực này vì thế mà rất tốt, mang lại nguồn thu nhập lớn cho ngân hàng, ngày càng chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng lợi nhuận của ngân hàng.
2.3.6. Vòng quay vốn tín dụng đối với DNNQD
Vòng quay vốn tín dụng cho biết hiệu quả, chất lượng trong hoạt động tín dụng của ngân hàng có tốt hay không. Với một đồng vốn nếu càng cho vay quay vòng nhiều lần bao nhiêu thì càng thu được nhiều lợi nhuận bấy nhiêu nên chỉ số này càng cao thì tốt.
Bảng vòng quay vốn tín dụng
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Doanh số thu nợ
548
754
1120
600
Dư nợ cho vay
350
990
720
1210
Vòng quay vốn
1.57
0.76
1.56
0.50
(Nguồn: Số liệu do phòng tổng hợp tiếp thị cung cấp)
Qua bảng số liệu trên ta nhận thấy tình hình thu nợ của chi nhánh đối với DNNQD chưa ổn định qua các năm. Năm 2004, vòng quay vốn tín dụng cao, 1.57 thì đến năm 2005 lại giảm còn 0.76. Và đến năm 2006 vòng quay vốn tín dụng đã tăng lên 1.56 thì năm 2007 lại giảm còn 0.5. Chứng tỏ công việc quản lý vốn vay của ngân hàng chưa tốt. Có chiều hướng giảm mạnh vào năm nay. Chi nhánh cần cân nhắc, xem xét lại và đưa ra những giải pháp đúng đắn và kịp thời.
2.3.8. Kết quả một số doanh nghiệp tiêu biểu
Một số DNNQD tiêu biểu có quan hệ tín dụng với ngân hàng trong thời gian qua: doanh nghiệp Bảo Tín, doanh nghiệp Mạnh Hải, công ty My Trang, công ty Diện Nam. Minh Hiếu...
Tình hình dư nợ của các doanh nghiệp này tại ngân hàng, cụ thể là: Tính đến tháng 31/12/2007, dư nợ của doanh nghiệp Bảo Tín là 5 tỷ đồng; doanh nghiệp Mạnh Hải là 4,5 tỷ đồng; công ty My Trang là 3 tỷ đồng; công ty Diện Nam 7 tỷ đồng và công ty Minh Hiếu 6 tỷ đồng. Đây là một số doanh nghiệp có quan hệ tín dụng lâu dài, là nhóm khách hàng “quen” của chi nhánh.
2.4. ĐÁNH GIÁ VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DNNQD CỦA NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG CHI NHÁNH ĐỐNG ĐA
2.4.1. Những kết quả đạt được
Ngân hàng Công thương Đống Đa trong thời gian qua đã không ngừng phát triển về cả quy mô và chất lượng hoạt động tín dụng đối với các thành phần kinh tế góp phần tạo điều kiện cho sự phát triển ổn định của nền kinh tế. Trong thành tích chung đó thì hoạt động cho vay đối với DNNQD của chi nhánh cũng đã được mở rộng và phát triển.
Ta có thể nhận thấy, quy mô về hoạt động cho vay đối với các DNNQD đã ngày càng được mở rộng. Chi nhánh đã phần nào đáp ứng được nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp, góp phần mở rộng và nâng cao năng lực sản xuất, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế, cũng như góp phần tạo công ăn việc làm cho người lao động, thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh và ổn định. Sự tăng trưởng này, Chi nhánh hàng năm luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch lợi nhuận được giao và thực hiện tốt nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước của mình.
Như ta thấy ở trên mục 2.2 là số liệu về hoạt động cho vay đối với DNNQD của một số ngân hàng thương mại lựa chọn nằm trên địa bàn Hà Nội, có ảnh hưởng đến khu vực quận Đống Đa, nơi chi nhánh đang hoạt động. Và đặc biệt là ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng, cùng trực thuộc hệ thống Ngân hàng Công thương Việt với Chi nhánh. Qua số liệu của các ngân hàng trên, ta thấy được một cách tổng quan nhất về những kết quả mà Chi nhánh đạt được trong hoạt động cho vay đối với DNNQD trong so sánh tương quan với các ngân hàng đó. Cái đó có thể gọi là “biết người biết ta”. Để từ đó có những đánh giá chính xác hơn về hoạt động của ngân hàng mình, sẽ có những giải pháp, biện pháp tốt hơn cho kinh doanh, cho sự cạnh tranh trên thị trường để “trăm trận trăm thắng”. Nhìn chung, ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa cũng như các ngân hàng thương mại lựa chọn (BIDV chi nhánh Đông Đô, NNo & PT nông thôn Đông Hà Nội, Ngân hàng Công thương chi nhánh Hai Bà Trưng) đều có xu hướng tăng cường mở rộng cho vay đối với DNNQD. Xem xét trong thực trạng cho vay của các ngân hàng đó thì nhìn chung Chi nhánh đều có các chỉ tiêu về cho vay đối với DNNQD lớn hơn, trừ ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Đông Hà Nội là có chỉ tiêu về hoạt động cho vay DNNQD lớn hơn. Qua đó cho thấy chất lượng cho vay của chi nhánh đối với DNNQD nói riêng và hoạt động cho vay của ngân hàng đã rất hiệu quả.
Ngân hàng cũng đã tạo lập và duy trì tốt mối quan hệ tín dụng với các khách hàng truyền thống và ngày càng chuyển dịch theo hướng tập trung chủ yếu vào khách hàng hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả, có uy tín cao. Đặc biệt, Chi nhánh đã thiết lập được môi quan hệ thường xuyên, lâu dài và có sự tín nhiệm nhất định với một số doanh nghiệp lớn. Có thể nói đây là một trong những yếu tố đã góp phần không nhỏ trong việc mở rộng cũng như nâng cao chất lượng tín dụng của Chi nhánh trong thời gian qua cũng như trong tương lai.
Mở rộng hoạt động cho vay đối với DNNQD, đồng thời ngân hàng cũng đã rất chú trọng vào việc đảm bảo chất lượng của sự mở rộng ấy. Đã hạn chế tối đa nợ quá hạn mới phát sinh, còn những khoản nợ quá hạn của các năm trước ngân hàng đã tích cực áp dụng nhiều biện pháp để xử lý để thu hồi lại vốn, thực hiện giãn nợ, giảm lãi suất nợ quá hạn đối với các doanh nghiệp đang gặp khó khăn nhưng có khả năng sẽ trả hết các khoản nợ quá hạn. Và thực tế, nợ qúa hạn của các DNNQD đã ngày càng giảm một cách rõ rệt. Chứng tỏ chất lượng hoạt động cho vay của ngân hàng đối với DNNQD đã từng bước được nâng cao. Ngoài ra, đối với nhóm khách hàng đáng chú ý, nghi ngờ không có khả năng trả nợ thì ngân hàng cũng có những biện pháp thích đáng cùng với Ban xử lý nợ tồn đọng để có cách thu hồi vốn góp phần hạn chế tổn thất cho ngân hàng, lành mạnh tình hình tài chính, nâng cao uy tín và vị thế của ngân hàng trên thị trường.
Ngoài ra, ngân hàng cũng đã tiến hành thẩm định, tổ chức quản lý các hoạt động tín dụng ngày càng hoàn thiện hơn bằng cách nâng cao trình độ của cán bộ tín dụng cũng như hiện đại hoá hệ thống thông tin trong quản lý như: Quy trình xử lý nghiệp vụ cho vay trên Incas... Nhờ vậy mà Chi nhánh nói riêng cũng như hệ thống ngân hàng Công thương Việt Nam đã quản lý, giám sát các khoản tín dụng một cách chặt chẽ trong tất cả các khâu từ khi thẩm định dự án, theo dõi quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng cho đến khi khách hàng trả hết nợ và lãi cho Ngân hàng.
Và một kết quả đạt được rất đáng ghi nhận đó là công tác phục vụ khách hàng có nhiều đổi mới: Hoạt động Marketing phát triển mạnh mẽ cùng phong cách phục vụ giao dịch văn minh, lịch sự của đội ngũ cán bộ đã thực sự tạo được ấn tượng tốt và tạo niềm tin cho khách hàng về một văn hóa kinh doanh của ngân hàng qua đó đã tăng số lượng khách hàng và mở rộng thị phần trên thị trường.
2.4.2. Hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được thì hoạt động cho vay đối với DNNQD của ngân hàng còn tồn tại một số hạn chế sau:
Trước hết, ta nhận xét hoạt động cho vay của ngân hàng so với các ngân hàng thương mại đã lựa chọn. Như đã nói ở trên, các chỉ tiêu về cho vay của ngân hàng hầu hết đều cao hơn so với các ngân hàng đó. Tuy nhiên, xem xét với ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Đông Hà Nội, các chỉ tiêu về doanh số cho vay, dư nợ cho vay, doanh số thu nợ năm 2005 nhỏ hơn so với ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa. Nhưng đến năm 2006, 2007 thì ngược lại, các chỉ tiêu này lớn hơn so với ngân hàng Công thương Chi nhánh Đống Đa. Điều này, Chi nhánh cần phải xem xét, đánh giá lại. Cùng trong địa bàn Hà Nội, khu vực hoạt động cũng lân cận nhau mà sao các chỉ tiêu về cho vay họ lại đạt được như thế. Hơn nữa, thực tế ngân hàng NNo & PT nông thôn Đông Hà Nội chỉ mới thành lập năm 2003, bây giờ hoạt động mới bước sang năm thứ 5.
Tiếp đến, qua cơ cấu cho vay của ngân hàng phân theo thời gian, ta nhận thấy, ngân hàng chủ yếu mới chỉ đang quan tâm đến hoạt động tín dụng ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn còn rất hạn chế.
Quy mô cho vay trung và dài hạn chưa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, nhiều dự án trung và dài hạn mới chỉ dừng lại ở hợp đồng chứ chưa thể giải ngân được..
Về quy trình thẩm định tín dụng, đánh giá khách hàng chủ yếu dựa trên sổ tay tín dụng và tính một cách thủ công nên mất nhiều thời gian và khó có thể đạt được sự khách quan khi xem xét các chỉ tiêu mang tính định tính.
Công tác thẩm định đánh giá khách hàng chưa chính xác và vẫn không thể tránh khỏi sai sót do mỗi cán bộ tín dụng phải phụ trách nhiều khách hàng nên việc giám sát thường xuyên là rất khó. Chưa có tổ chức định giá tài sản tín nhiệm nên việc định giá tài sản của khách hàng là rất khó.
Công tác marketing tuy ngân hàng đã đạt được những kết quả, thành công bước đầu nhưng vẫn có nhiều hạn chế, điều này ít nhiều ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của dư nợ.
Nghiệp vụ và kinh nghiệm của cán bộ tín dụng. Kinh doanh ngân hàng là một nghề đòi hỏi cao về kỹ năng chuyên môn và kinh nghiệm công tác. Nhưng kinh nghiệm lại chỉ có thể tích lũy trong thời gian công tác vì vậy đòi hỏi kinh nghiệm với lực lượng cán bộ trẻ là một yêu cầu khó có thể đáp ứng. Hiện tại ngân hàng có đội ngũ cán bộ tín dụng khá trẻ và làm công tác tín dụng chưa lâu, đối với các cán bộ trẻ thì hạn chế lớn nhất là kinh nghiệm nhưng đổi lại họ có tinh thần học hỏi rất cao, năng động, nhiệt tình trong công tác. Việc đội ngũ cán bộ tín dụng không đồng đều có thể làm cho chất lượng tín dụng cũng bị ảnh hưởng.
Những hạn chế nêu trên về hoạt động cho vay của ngân hàng do nhiều nguyên nhân chủ quan về phía ngân hàng cũng như một số nguyên nhân khách quan.
2.4.3. Nguyên nhân
a./ Các nguyên nhân về phía Ngân hàng
Trước hết là phải xuất phát từ nguồn vốn ngân hàng huy động được. Do khả năng huy động vốn chưa đáp ứng được nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp. Nguồn huy động trung và dài hạn còn rất ít ỏi, dẫn đến hoạt động cho vay trung và dài hạn của doanh nghiệp thì ngân hàng chưa đáp ứng được.
Tiếp theo đó là do cơ chế cho vay còn nhiều bất cập. Trước hết là các điều kiện vay vốn như việc đảm bảo tiền vay hiện đang là nguyên nhân chính ngăn cản các DNNQD đến được với nguồn vốn của ngân hàng. Các doanh nghiệp khi muốn vay vốn của ngân hàng thì phải có tài sản đảm bảo như máy móc thiết bị, quyền sử dụng đất đặc biệt đối với các tài sản bất động sản thì ngân hàng còn gặp khó khăn trong việc định giá các tài sản này, thường là đánh giá thấp hơn nhiều so với giá cả thị trường. Theo luật định, thì các doanh nghiệp chỉ được vay khoản không lớn hơn 70% giá trị của tài sản đảm bảo, điều đó cũng gây khó khăn và cản trở trong việc vay vốn đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.. Về mặt thủ tục vay vốn, ngân hàng cũng chưa niêm yết công khai quy trình vay vốn, các thủ tục cần thiết tại các phòng Khách hàng như một số các ngân hàng thương mại cổ phần khác. Điều này có thể gây khó khăn cho khách hàng khi tiếp cận với ngân hàng.
Quy trình tín dụng còn nhiều vấn đề, nhiều thủ tục phức tạp dễ dẫn đến sai sót trong quá trình thẩm định khách hàng để cho vay. Và vì thủ tục còn nhiều công đoạn nên dẫn đến nhiều khách hàng trong những trường hợp cần vốn khẩn cấp không thể chờ đợi được cho đến khi hoàn tất các thủ tục đó nên đã tìm đến ngân hàng khác. Do đó mà hoạt động cho vay doanh nghiệp bị giảm thị phần.
Phương thức cho vay cũng chưa nhiều, chỉ mới áp dụng cho vya theo từng lần và cho vay theo hạn mức, chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu đa dạng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Hoạt động Marketing ngân hàng: Ngân hàng mới chỉ tập trung vào các hoạt động như quảng cáo, khuyếch trương còn việc áp dụng marketing vào việc phân tích thị trường, nghiên cứu khách hàng nhằm nâng cao chất lượng các dịch vụ còn chưa tốt, cũng như chưa có các biện pháp tích cực để thu hút thêm khách hàng.
Cuối cùng là vấn đề về nguồn nhân lực: Trình độ cán bộ ngân hàng đã được chuẩn hóa ở một mức nhất định. Hiện nay tại ngân hàng đã có 55 cán bộ làm công tác tín dụng, trong đó hầu hết có trình độ đại học chuyên ngành, có 4 cán bộ có bằng thạc sỹ, bố trí tại các phòng khách hàng1, khách hàng 2, phòng KH cá nhân, và phòng giao dịch, như vậy lượng cán bộ tín dụng của ngân hàng là chưa đáp ứng được nhu cầu về hoạt động tín dụng. Ngoài ra có nhiều cán bộ trẻ, một số vừa ra trường, hết thời gian tập sự là phải tiếp cận giữ đơn vị ngay, nên còn nhiều hạn chế, chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc xử lý nghiệp vụ cũng như khả năng làm việc. Khách hàng khi đến với ngân hàng thuộc nhiều ngành nghề kinh doanh khác nhau nên đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có sự hiểu biết nhất định về tất cả các ngành nghề. Tuy nhiên, một cán bộ tín dụng lại chịu phụ trách thường là nhiều khách hàng, các khách hàng này lại thuộc các ngành nghề kinh doanh khác nhau thì để quản lý tốt các khách hàng cũng rất khó khăn.
b./ Các nguyên nhân khách quan
Đây là các nguyên nhân khách quan từ phía các doanh nghiệp ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của ngân hàng.
Đó là tình hình tài chính của doanh nghiệp, là uy tín và vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Như ta đã biết, các DNNQD thường chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ, tình hình tài chính cũng như vị thế vì thế mà chưa ổn định. Sản xuất kinh doanh theo hình thức hộ gia đình, dòng họ, một doanh nghiệp nhiều khi chỉ có từ 10-30 công nhân. Quy mô do vậy mà còn hạn hẹp. Thậm chí cả nơi để sản xuất kinh doanh cũng chưa ổn định. Có nhiều doanh nghiệp phải di dời đến 4-5 lần mới tìm được chỗ chắc chắn để làm ăn. Từ những vấn đề đó không những liên quan đến tình hình tài chính cũng như uy tín của doanh nghiệp mà còn là vấn đề khi ngân hàng hỏi đến tài sản đảm bảo tiền vay. Điều đó hạn chế các doanh nghiệp nhận được nguồn vốn từ ngân hàng. Kể cả nguồn vốn ngắn cũng như trung và dài hạn thì lại càng khó khăn.
Bên cạnh tình hình tài chính, cơ sở vật chất như vậy thì khả năng quản lý của doanh nghiệp cũng đang còn hạn chế ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Môi trường pháp lý chưa thực sự đầy đủ để đáp ứng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các chế độ kế toán quy định đối với hoạt động của doanh nghiệp ngòai quốc doanh chưa cụ thể và thống nhất, cũng như chưa được các doanh nghiệp thực hiện đúng đắn và đầy đủ.
Tóm lại, chương 2 đã giới thiệu một cách tổng quan về ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa cũng như hoạt động chung và hoạt động cho vay đối với DNNQD của ngân hàng và một số ngân hàng thương mại lựa chọn để qua đó có những đánh giá nhận xét trong sự tương quan về hoạt động cho vay giữa những ngân hàng hoạt động cùng địa bàn, khu vực. Qua đó ta cũng rút ra được các nguyên nhân của các kết quả hoạt động cho vay đối với DNNQD của ngân hàng để có những giải pháp thích hợp ở chương tiếp theo.
CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP MỞ RỘNG CHO VAY
ĐỐI VỚI DNNQD TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG
CHI NHÁNH ĐỐNG ĐA
3.1. ĐỊNH HƯỚNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DNNQD
3.1.1. Định hướng chung cho kế hoạch 5 năm
Dựa trên phương hướng mục tiêu của ngân hàng Công thương Việt Nam, chi nhánh hoạt động chủ yếu trên địa bàn quận có uy tín lâu nay nên thu hút được nhiều khách hàng lớn trong đó có cả những công ty, tổng công ty lớn, vì thế nguồn vốn huy động và dư nợ tăng trưởng liên tục qua các năm. Tuy nhiên, nguồn vốn huy động của Chi nhánh lại chủ yếu là loại không kỳ hạn nên chi nhánh luôn bị động trong hoạt động cho vay và đầu tư. Xuất phát từ định hướng chung của NHCTVN là “Phát triển – an toàn – hiệu quả” trong giai đoạn tới hoạt động cho vay DNNQD của chi nhánh đi theo hướng sau:
* Chi nhánh tiếp tục tổng kết tình hình cho vay DNNQD để rút ra những kinh nghiệp bài học để từ đó đưa ra chính sách tín dụng, phương pháp phân tích đánh giá khách hàng, phương thức quản lý tín dụng hợp lý. Duy trì mức tăng trưởng trong huy động vốn và cho vay ở mức hợp lý đồng thời thiết lập, củng cố và duy trì các mối quan hệ thường xuyên với các khách hàng truyền thống, khách hàng lớn và đồng thời tìm kiếm các khách hàng có tiềm năng. Duy trì mối quan hệ theo nguyên tắc cả hai cùng có lợi “lấy hiệu quả kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của Ngân hàng” và “thành công của khách hàng là thành công của ngân hàng”.
* Thực hiện đa dạng hoá các phương thức cho vay vì hiện nay phương thức cho vay chủ yếu là cho vay từng lần và cho vay theo hạn mức nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu sản xuất kinh doanh của khách hàng. Tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa phương thức cho vay đồng tài trợ đối với các nhu cầu vay lớn của khách hàng đặc biệt là các dự án trọng điểm góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các địa phương. Mặc dù đã sử dụng phương thức này nhưng một phần do các dự án đến xin tài trợ này không đủ lớn để ngân hàng thực hiện phương thức cho vay đồng tài trợ.
* Bên cạnh việc thực hiện nhằm mở rộng hoạt động cho vay đối với DNNQD, là khẩu hiệu "an toàn và hiệu quả". Tiếp tục thực hiện các biện pháp để giải quyết nợ quá hạn và duy trì tỷ lệ nợ quá hạn dưới 1%. Đồng thời thực hiện tăng cường thu hút tiền gửi ngoại tệ của khách hàng, vận động các doanh nghiệp có hàng xuất khẩu mở tài khoản tiền gửi tại chi nhánh và sử dụng các dịch vụ thanh toán quốc tế tại chi nhánh.
* Đẩy mạnh hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, đó cũng là yêu cầu tất yếu trong thời kỳ mở cửa và hội nhập. Đồng thời tăng cường đào tạo thêm nghiệp vụ chuyên môn cho các cán bộ tín dụng cũng như phẩm chất đạo đức của cán bộ ngân hàng. Tăng cường công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ.
3.1.2. Mục tiêu năm 2008
- Nguồn vốn huy động đến 31/12/2008 đạt: 4000 tỷ đồng.
- Tổng dư nợ đạt: 2000 tỷ đồng.
- Dư nợ trung và dài hạn đạt: 40%
- Tỷ lệ nợ quá hạn: 1%
Tiếp tục thực hiện chương trình tái cơ cấu, cơ cấu lại bộ máy điều hành hoạt động tín dụng gọn nhẹ, năng động và hiệu quả hơn nhằm đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới.
Căn cứ vào phương hướng phát triển hoạt động cho vay đối với DNNQD và những tồn tại trong hoạt động này tại Chi nhánh mà ta có những giải pháp để nâng cao hoạt động cho vay, phát huy được tốt nhất vai trò – vị thế của ngân hàng trong nền kinh tế.
3.2. GIẢI PHÁP MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DNNQD
3.2.1. Hoàn thiện cơ chế, chính sách cho vay, xây dựng quy trình cho vay đơn giản, khoa học và hiệu quả
Như ta đã nêu ở chương I về cơ sở lý luận thì các chính sách cho vay, cơ chế và quy trình cho vay ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động cho vay của khách hàng nói chung và các DNNQD nói riêng. Để khắc phục nguyên nhân chủ quan trên, khắc phục một cơ chế cho vay, chính sách còn mang nặng tính trì trệ, rườm rà thì ngân hàng nên xây dựng, sửa chữa và bổ sung để hoàn thiện nên một cơ chế, chính sách và quy trình cho vay đơn giản, khoa học mà vẫn hiệu quả. Vẫn đảm bảo được mục tiêu cốt lõi của hoạt động ngân hàng là an toàn và sinh lợi. Đồng thời lại đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, đặc biệt trong những trường hợp cần vốn khẩn cấp thì một cơ chế, một chính sách đơn giản khoa học là rất cần thiết. Đó là cách giữ khách và còn là cách thu hút khách hiệu quả. Giải pháp này do vậy rất quan trọng và cấp bách, hiện tại quy trình cho vay của chi nhánh còn khá nhiều vấn đề bất cập, quá nhiều thủ tục hành chính, nhiều công đoạn. Mà như thế nhiều khi không có lợi chút nào. Mở rộng cơ chế, chính sách cho vay tức là mở rộng cơ chế đảm bảo tiền vay, quy mô, phạm vi cho vay, lãi suất, thời hạn cho vay...Tất nhiên là mở rộng trong phạm vi cho phép, trong khuôn khổ quy định của luật các tổ chức tín dụng về đảm bảo tiền vay, về phạm vi cho vay cũng như lãi suất thời hạn đồng thời cũng phải đảm bảo được cân đối giữa nguồn đi vay và cho vay để đảm bảo được mục tiêu an toàn và sinh lợi. Ngoài ra mở rộng cơ chế, chính sách cho vay còn là mở rộng các phương thức cho vay để đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, của doanh nghiệp nhằm đa dạng hóa hoạt động cho vay đồng thời thu hút được nhiều khách hàng, nhiều DNNQD tham gia hoạt động tín dụng tại chi nhánh. Quy trình cho vay, thủ tục đơn giản nhanh gọn mà vẫn mang lại hiệu quả cao. Bên cạnh đó công đoạn thu thập và xử lý thông tin về khách hàng cũng cần được tiến hành một cách cận trọng, khoa học. Chú ý đến chất lượng thông tin thu thập được và phân tích thông tin đó chính xác để đưa ra quyết định cho vay đúng đắn. Hoàn thiện cơ chế chính sách cho vay thống nhất từ trên xuống để hoạt động cho vay diễn ra nhanh gọn mà vẫn tránh được các rủi ro phi đạo đức, rủi ro tác nghiệp...
3.2.2. Xây dựng, triển khai chiến lược marketing ngân hàng hấp dẫn để thu hút khách hàng mới
Marketing ngân hàng là rất quan trọng, một trong những nguyên nhân dẫn đến hoạt động cho vay của ngân hàng đối với khách hàng nói chung và các DNNQD nói riêng chưa thực sự đem lại hiệu quả, chưa thực sự phát huy hết tiềm năng là do hoạt động marketing chưa hoàn thiện. Đối với hoạt động marketing của ngân hàng, với những đặc thù riêng của mình cần tập trung giải quyết 3vấn đề cơ bản sau: kênh phân phối, thị trường và khách hàng.
Kênh phân phối:
Kênh phân phối là một tập hợp các yếu tố tham gia trực tiếp vào quá trình đưa sản phẩm dịch vụ của ngân hàng đến khách hàng. Nó bao gồm tổ chức, cá nhân và các phương tiện thực hiện các hoạt động đưa sản phẩm dịch vụ của ngân hàng đến với khách hàng. Hệ thống kênh phân phối tạo nên dòng chảy sản phẩm dịch vụ từ ngân hàng đến khách hàng, hoàn thành việc trao đổi giữa khách hàng và ngân hàng trên thị trường.
Để đảm bảo cho sự thành công trong kinh doanh nói chung và trong hoạt động cho vay đối với DNNQD nói riêng, ngân hàng phải hoạch định chiến lược phân phối phù hợp để đưa sản phẩm dịch vụ của ngân hàng đến với khách hàng một cách tốt nhất. Cụ thể là ngân hàng cần khẩn trương quy hoạch, sắp xếp lại đi đôi với tiếp tục mở rộng hợp lý mạng lưới hoạt động: các phòng giao dịch, điểm giao dịch và các kênh phân phối khác của ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa để phục vụ cho mục tiêu mở rộng hoạt động cho vay đối với DNNQD.
Về thị trường
Trong bối cảnh sức ép trên thị trường ngày càng gia tăng cùng với xu thế mở cửa và hội nhập kinh tế để hoạt động cho vay nói riêng và hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung ngày một phát triển đủ sức cạnh tranh trên thị trường, chi nhánh cần chú ý mở rộng thị trường không chỉ trong địa bàn quận Đống Đa mà còn hướng hoạt động ra thị trường các vùng, khu vực khác. Nghiên cứu đặc điểm của từng khu vực, tình hình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên và ngoài địa bàn.
Về khách hàng
Để phát triển mạnh, mở rộng hoạt động cho vay đối với DNNQD, chi nhánh cần xây dựng chiến lược tiếp cận khách hàng hiệu quả, trong đó tập trung vào khách hàng mục tiêu. Tăng cường mạnh mẽ công tác tiếp thị và quảng bá hình ảnh của ngân hàng đa năng, hiện đại, phát triển hiệu quả và bền vững. Cần nghiên cứu thành lập bộ phận tiếp thị từng phòng giao dịch. Tổ chức và triển khai tốt các hoạt động tiếp thị, lựa chọn phân lọai khách hàng để áp dụng cơ chế chăm sóc khách hàng, có bộ phận chuyên trách chăm sóc và duy trì quan hệ tốt với khách hàng truyền thống, khách hàng chiến lược từ chi nhánh cho đến các phòng giao dịch đảm bảo tính cạnh tranh với bên ngoài, tính thống nhất chặt chẽ từ trên xuống.
Bên cạnh đó, chấn chỉnh tác phong giao dịch, để qua đó xây dựng được hình ảnh tốt trong mắt khách hàng, tạo dựng được niềm tin đối với họ. Cụ thể là xây dựng phong cách giao dịch văn minh lịch sự, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, ngân hàng cần có các quy định chuẩn mực, cụ thẻ trong hoạt động giao dịch với khách hàng, đặc biệt là với nhóm khách hàng có quan hệ tín dụng lâu năm với ngân hàng.
3.2.3. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định khách hàng, kiểm tra chặt chẽ việc sử dụng vốn của khách hàng.
Thẩm định khách hàng, kiểm tra chặt chẽ việc sử dụng vốn của khách hàng để tranh các rủi ro phi đạo đức sau khi đã cấp vốn. Kiểm tra chặt chẽ việc sử dụng vốn của khách hàng có đúng như trong cam kết ở hợp đồng tín dụng mà khách hàng đã kí trước đây hay không. Nếu thấy có dấu hiệu xấu, ngân hàng có thể ngừng giải ngân vốn nếu như vốn đang trong quá trình giải ngân, còn không thì tìm cách thu hồi vốn từ khách hàng. Gắn với quá trình sử dụng vốn của doanh nghiệp sau khi ngân hàng giải ngân thì ngân hàng phải tiến hành ngay việc kiểm tra tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp xem có phù hợp với những cam kết trước đây trong hợp đồng tín dụng hay không. Việc kiểm tra này không không chế số lần mà tùy theo dự án, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống của doanh nghiệp. Thông thường, ngân hàng tiến hành kiểm tra các nội dung như: Kiểm tra xem khách hàng có sử dụng vốn vay theo đúng mục đích đã ghi trong hợp đồng tín dụng hay không; kiểm tra tiến độ thực hiện dự án của doanh nghiệp; kiểm tra hiện trạng của tài sản đảm bảo tiền vay. Và việc kiểm tra đó phải được tiến hành tại doanh nghiệp hoặc tại nơi sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Căn cứ dùng để kiểm tra là: phiếu nhập kho vật tư hàng hóa, giấy tờ có giá trị tương đương với tiền mặt, các chứng từ làm căn cứ chi trảViệc kiểm tra hàng hóa vật tư trong kho phải được chú trọng tránh trường hợp doanh nghiệp tạo kho hàng hóa giả để vay vốn qua mắt ngân hàng.
3.2.4. Mở rộng hoạt động huy động vốn
Với phương châm hoạt động "đi vay để cho vay ", muốn mở rộng hoạt động cho vay đối với khách hàng nói chung cũng như DNNQD nói riêng thì ngân hàng phải có vốn để đáp ứng được nhu cầu vốn của doanh nghiệp, do vậy mà giải pháp mở rộng huy động vốn là rất cần thiết. Và để có vốn thì ngân hàng có thể huy động trong xã hội, vốn trong dân, vốn nước ngoài. Cụ thể ngân hàng có thể huy động vốn bằng nhiều hình thức khác nhau như: - Mở rộng mạng lưới chi nhánh và phòng giao dịch toàn quốc bảo đảm cho huy động vốn. – Hiện đại hóa công nghệ gắn liền với đổi mới phong cách giao dịch của nhân viên, tạo sự tôn trọng của ngân hàng đối với người gửi tiền. – Đẩy mạnh các hoạt động marketing, tiếp thị, quảng cáo khuyến mãi trong huy động vốn, tạo thông tin minh bạch. – Đa dạng hóa các sản phẩm gửi tiền tiết kiệm, các hình thức huy động vốn đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Trong việc huy động vốn, ngân hàng tạo sự chủ động lựa chọn linh hoạt cho khách hàng, như: gửi tiền một lần nhưng rút gốc linh hoạt cho nhu cầu chi tiêu vẫn được lãi suất cao; gửi góp nhưng lĩnh ra một lần vào kỳ cuối với lãi suất hấp dẫn, gửi tiết kiệm gắn với bảo hiểm nhân thọ; gửi tiền kèm theo cho vay mua ôtô trả góp chẳng hạn...
Hoạt động huy động vốn do phòng nguồn vốn thực hiện. Và thực tế trong thời gian vừa qua chi nhánh mới chỉ huy động được các nguồn vốn ngắn hạn là chủ yếu. Vì vậy mà mở rộng huy động vốn, ngân hàng đặc biệt phải chú trọng vốn trung và dài hạn để đáp ứng nhu cầu về thời hạn vay của các DNNQD. Tuy nhiên, chi phí để huy động vốn trung và dài hạn sẽ tốn kém hơn so với nguồn vốn ngắn hạn và không kỳ hạn. Do vậy, chi nhánh cần cân đối nguồn vốn huy động với vốn cho vay để cân đối thu chi nhằm đảm bảo kinh doanh có lãi cho mình.
3.2.5. Phát triển công nghệ ngân hàng qua việc hiện đại hóa trang thiết bị phục vụ cho hoạt động cho vay đáp ứng nhu cầu vay vốn của các DNNQD
Đẩy nhanh tiến độ hiện đại hóa công nghệ ngân hàng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Sớm thực hiện giai đoạn 2 hiện đại hóa ngân hàng theo đúng lộ trình đặt ra để có thể cung ứng cho khách hàng nhiều sản phẩm dịch vụ mới, nâng cao hơn nữa chất lượng dịch vụ và chất lượng quản lý thông tin, tăng tốc độ xử lý giao dịch và đảm bảo an toàn, chính xác và hiệu quả. Qua đó nhằm thực hiện nhanh và hiệu quả các công việc trong quá trình cho vay, rút ngắn thời gian phân tích tín dụng, đảm bảo cho nhu cầu cấp bách của các doanh nghiệp cũng như tăng chất lượng hoạt động kinh doanh cho ngân hàng.
Hệ thống trang thiết bị hiện đại của ngân hàng do phòng thông tin điện toán của ngân hàng đảm nhiệm.
3.2.6. Đẩy mạnh công tác đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ tín dụng có nghiệp vụ chuyên môn giỏi, đạo đức tốt đáp ứng yêu cầu của hoạt động tín dụng
Nguồn lực về con người là rất quan trọng. Mang tính quyết định thành bại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đây là một giải pháp mang tính dài hạn. Phải có kế hoạch thực hiện từng bước, thực hiện lâu dài chứ không phải ngày một ngày hai mà được. Mở các lớp đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên. Tạo điều kiện cho cán bộ công nhân viên tham gia các khóa đào tạo nhằm nâng cao, trau dồi nghiệp vụ chuyên môn. Xây dựng đội ngũ cán bộ công nhân viên có đạo đức tốt bởi vì hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ nó mang tính nhạy cảm cao. Tóm lại chi nhánh phải tăng cường đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ về mọi mặt cho cán bộ ngân hàng cũng như nâng cao năng lực quản trị, điều hành của ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa theo chuẩn mực quốc tế. Ngoài ra, chi nhánh tiến hành hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý và phát triển nguồn nhân lực để thu hút nhân tài, cán bộ nghiệp vụ và cán bộ quản lý có trình độ giỏi thông qua xây dựng hệ thống khuyến khích và chế độ quản lý lao động phù hợp.
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.3.1. Kiến nghị đối với ngân hàng Công thương Việt Nam
NHCT Việt Nam đã khẳng định được vị trí, vai trò là một trong những NHTM chủ lực của hệ thống NHTMNN góp phần đắc lực vào sự phát triển kinh tế đất nước những năm qua. Với vai trò là người quản lý, NHCT Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, tuy nhiên cũng cần phải có một số điều chỉnh để phát huy hơn nữa tính năng động và tự chủ của ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa cũng như các Chi nhánh khác. Cụ thể:
* Cần triển khai kịp thời hơn nữa việc hướng dẫn cụ thể các văn bản, qui định của NHNN về hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng, tạo điều kiện cho các chi nhánh hoạt động đúng hành lang pháp lý và đảm bảo chất lượng cao.
* Cần có hướng dẫn quy trình cho vay một cách cụ thể hơn tới các chi nhánh, đồng thời cũng cần trao quyền chủ động hơn nữa cho các chi nhánh trong việc mở rộng tín dụng cũng như thực hiện nghiệp vụ cho vay. Bên cạnh đó, NHCT Việt Nam nên bổ sung các cơ chế, biện pháp cụ thể để tăng cường hiệu lực trong việc chấp hành thể lệ và quy trình tín dụng của cán bộ tín dụng tại các cơ sở.
* Trong tình hình cạnh tranh hiện nay, NHCT Việt Nam cần phải thu hút thêm nguồn ngoại tệ dài hạn, đặc biệt là phải chú ý đến nguồn ngoại tệ từ nước ngoài như cho vay uỷ thác của các tổ chức quốc tế, nguồn vay ưu đãi, kiều hối để đáp ứng nhu cầu tín dụng bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp nhập khẩu đồng thời cũng thu hút các khách hàng xuất khẩu mở tài khoản thanh toán ở hệ thống NHCT. NHCT Việt Nam nên hỗ trợ cho các chi nhánh để các chi nhánh này có điều kiện mở rộng quy mô tín dụng bằng ngoại tệ.
* Cần đẩy mạnh và tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, kiểm soát nhằm phát hiện kịp thời những sai sót, những vi phạm trong quá trình cho vay, góp phần hạn chế tổn thất cho ngân hàng.
*Mở rộng hơn trong công tác Marketing, giới thiệu về ngân hàng qua các hệ thống thông tin đại chúng, sử dụng các công cụ Marketing mới như quảng cáo trên truyền hình, tài trợ, PRnhằm gây dựng được hình ảnh, dấu ấn tốt và niềm tin trong mắt khách hàng.
3.3.2. Kiến nghị đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Luật Doanh nghiệp ra đời đã tạo điều kiện tăng nhanh số lượng các DNNQD. Thực vậy, hiện nay cả nước đã có hơn 260000 DNNQD với tổng số vốn hơn 600000 tỷ đồng. Tuy nhiên, đó chỉ là về số lượng, còn chất lượng thì còn đang là vấn đề cần phải quan tâm. Nhiều doanh nghiệp với số nhân viên rất ít, chỉ khoảng 20-30 người, trình độ năng lực tay nghề chưa thể đáp ứng được trong môi trường kinh tế hội nhập và mở cửa. Do vậy, cần đào tạo nâng cao năng lực trình độ quản lý cho các cấp lãnh đạo cũng như tay nghề cho cán bộ công nhân viên. Tạo điều kiện để tham gia các lớp học, khóa học ngắn ngày đào tạo chuyên môn cho cán bộ công nhân viên. Có thể tìm hiểu thêm về hoạt động tín dụng, luật tín dụng của ngân hàng để có thể tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn vốn của ngân hàng.
Ứng dụng các nguyên tắc kế toán tài chính, thực hiện đúng chế độ hạch toán kế toán để minh bạch hóa các báo cáo tài chính. Đây là yêu cầu cấp thiết không chỉ có lợi cho bản thân doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh mà còn trong trường hợp vay vốn từ ngân hàng.
3.3.3. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước
Để tăng cường khả năng các DNNQD trong cả nước có thể tiếp cận với nguồn vốn của các ngân hàng thương mại, đảm bảo thực hiện vay vốn công bằng giữa các DNNQD và doanh nghiệp Nhà nước, NHNN cần quán triệt và chỉ đạo các NHTM thực hiện tốt theo chỉ thị số 03/2003/CT-NHNN. DNNQD là một thành phần kinh tế ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong hệ thống doanh nghiệp của nước ta, là thành phần đang được khuyến khích phát triển, NHNN cần yêu cầu các NHTM tạo điều kiện thuận lợi cho họ được tiếp cận nhanh chóng với nguồn tài trợ từ ngân hàng.
Hệ thống NHNN và các ngân hàng thương mại cần phải phối hợp thực hiện một cách chặt chẽ giữa quản lý và kinh doanh. Đồng thời với việc quan tâm xây dựng bộ máy thanh tra của NHNN, việc kiểm soát, thanh tra các hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại để hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh đúng hướng, an toàn và hiệu quả.
3.3.4. Kiến nghị đối với các cơ quan quản lý Nhà nước
Các cơ quan Nhà nước nên tiếp tục tạo môi trường thuận lợi cho các DNNQD phát triển và tạo lập sự bình đẳng giữa DNNQD và doanh nghiệp Nhà nước. Cần có các chính sách hỗ trợ các DNNQD thông qua việc đào tạo chủ doanh nghiệp và phương pháp quản lý, hạch toán kinh doanh nhằm minh bạch tình hình tài chính, hỗ trợ về thông tin, xúc tiến thương mại cho tất cả các thành phần kinh tế trong đó có thành phần DNNQD.
Thực hiện chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh theo định hướng và mục tiêu chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Tổ chức các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao đạo đức kinh doanh cho người quản lý doanh nghiệp, phẩm chất chính trị, đạo đức, nghiệp vụ cho cán bộ quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, đào tạo và xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề. Đồng thời thực hiện kiểm tra, thanh tra hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật của doanh nghiệp, của cá nhân và tổ chức có liên quan theo quy định của pháp luật.
Thực tế cho thấy, hiện tại vẫn có những doanh nghiệp phải chịu cảnh di dời đến 4-5 lần mà vẫn chưa tìm được một nơi kinh doanh ổn định. Thậm chí kể cả có một số doanh nghiệp có tay nghề cao nhưng không có mặt bằng làm việc ổn định nên phải chia tay với nghề. Do vậy, cơ quan quản lý nhà nước cần phải có giải pháp thích hợp và kịp thời về vấn đề này. Nếu như nó thực hiện chậm và không được quan tâm kịp thời thì 10-20 năm sau loại hình DNNQD này sẽ đi về đâu trong khi sự đóng góp của nó vào GDP chung của cả nước không phải là nhỏ.
Ngòai ra, đa phần DNNQD rất cần nguồn vốn kinh doanh (cố định và lưu động) vì tính chất sản xuất của loại hình này là sản xuất kiểu gia đình, dòng họ và tự phát, do ngành nghề "cha truyền con nối". Ở góc độ quản lý nhà nước, xin đề nghị Chính phủ hãy dành một nguồn vốn cho các DNNQD vay với lãi suất hỗ trợ để có đủ điều kiện sản xuất trong thời hạn dài. Đây là hình thức "tiếp hơi" cho doanh nghiệp nhở có điều kiện tự vươn lên, vì có vốn mới giải quyết được hàng loạt vấn đề trọng yếu trong sản xuất kinh doanh, như mặt bằng, quản trị kinh doanh, tiếp cận khoa học kỹ thuật tiên tiến, đầu tư thiết bị hiện đại...
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước đang bước vào hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới, mức độ cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng ngày càng trở nên gay gắt. Các ngân hàng muốn tồn tại và phát triển trên thị trường buộc phải nâng cao sức cạnh tranh qua việc xây dựng và thực thi hiệu quả chiến lược phát triển dựa trên thế mạnh của mình. Mỗi ngân hàng có một lợi thế riêng, với ngân hàng Công thương Việt Nam nói chung và ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa nói riêng thì hoạt động tín dụng vẫn là một lợi thế mạnh. Và hiện nay, khi nhóm khách hàng cạnh tranh của các ngân hàng thương mại tập trung vào các DNNQD thì ngân hàng lại có sự giảm sút về quy mô cho vay đối với nhóm đối tượng này. Qua đề tài này, trên cơ sở phân tích, đánh giá những kết quả đã và chưa đạt được của ngân hàng để tìm ra nguyên nhân, giải pháp góp phần mở rộng hoạt động cho vay đối với DNNQD tại ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa. Cụ thể là bài viết đã giải quyết được các vấn đề:
Giới thiệu một cách tổng quan về DNNQD và hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại nói chung cũng như hoạt động cho vay đối với DNNQD nói riêng.
Giới thiệu về ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa, thực trạng hoạt động của ngân hàng và một số ngân hàng thương mại lựa chọn để qua đó đánh giá thực trạng hoạt động của ngân hàng trong mối tương quan với các ngân hàng thương mại khác.
Một số giải pháp mở rộng hoạt động cho vay đối với DNNQD tại ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa.
Mặc dù đã cố gắng nhiều song đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong được sự đóng góp, bổ sung của các thầy cô giáo và ban lãnh đạo ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa.
MỤC LỤC
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Ngân hàng thương mại, chủ biên PGS. TS. Phan Thị Thu Hà, nhà xuất bản thống kê, 2006.
2. Giáo trình Tài chính doanh nghiệp, chủ biên PGS. TS Lưu Thị Hương, nhà xuất bản thống kê 2005.
3. Luật các tổ chức tín dụng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
4. Peter Rose, Quản trị ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản Tài chính.
5. Báo cáo thường niên của ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa.
6. Giáo trình Marketing ngân hàng, chủ biên PGS. TS. Nguyễn Thị Minh Hiền, nhà xuất bản thống kê, 2004.
7. Thời báo kinh tế Việt Nam 2007- 2008.
8. Luật doanh nghiệp 1999, 2005
9. Tạp chí tài chính doanh nghiệp
10. Tạp chí ngân hàng các số năm 2007, 2008
11. Sổ tay tín dụng của ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7568.doc