Dịch vụ thẻ có thể nói là loại hình dịch vụ trẻ, nó đáp ứng được tốc độ phát triển và phù hợp với xu thế mới, đó là thời đại của thông tin và công nghệ. Việt Nam đang trên con đường hội nhập thì việc vận dụng những cái mới sẽ giúp chúng ta có nhiều cơ hội hơn.
NH TMCP Nhà Hà Nội trong hơn ba năm qua đã thực sự phát huy được lợi thế về nền tảng công nghệ tiên tiến để khẳng định vị trên thị trường thẻ Việt Nam. Vào thời điểm hiện tại NH chiếm khoảng 15% thị phần thanh toán thẻ.
126 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1258 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mở rộng và hoàn thiện dịch vụ thanh toán thẻ tại Ngân hàng cổ phần nhà Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dân của nó, cũng như các chính sách tiếp thị gần gũi, thân mật với đông đảo tầng lớp dân cư. Bên cạnh đó, thẻ Master cũng có khả năng phát triển tiếp theo Visa vì ít nhiều cũng đã có thị trường và dân chúng cũng đã từng quen biết. Tiếp theo là đến thẻ Amex, rồi Diners và cuối cùng là JCB. Do đặc thù của loại thẻ này là dành cho đối tượng có thu nhập cao nên số lượng chủ thẻ có thể hạn chế, nhưng khối lượng từng giao dịch cũng như tổng doanh số sẽ tăng cao.
ử Các chuyên gia công nghệ NH dự báo về xu hướng phát triển của thị trường công nghệ thẻ thanh toán
Thị trường công nghệ thẻ sẽ rất nóng trong thời gian tới. “Việt Nam hiện có trên 80 triệu dân nhưng mới chỉ có khoảng 300.000 thẻ tín dụng(Visa, MasterCard). Trong khi đó Thái Lan có 64 triệu dân nhưng có tới 3-4 triệu thẻ tín dụng. Rõ ràng tiềm năng của thị trường thẻ Việt Nam là rất lớn và thị trường công nghệ thẻ thanh toán sẽ phát triển và cạnh tranh rất mạnh mẽ trong vòng 5 năm tới”, ông Kevin Francis Wong, giám đốc điều hành Openway khu vực Chấu á - nhà cung cấp phần mềm toàn cầu về những giải pháp trong việc thực hiện thanh toán hệ thống mới - nhận định.
ử Các quan chức của Tổ chức Mastercard
Do đó, theo đánh giá của quan chức tổ chức Mastercard quốc tế, thì trong vòng 10 năm tới, Việt Nam sẽ trở thành thị trường sử dụng thẻ dẫn đầu trong khu vực là hoàn toàn khả thi. Bởi với số dân hơn 80 triệu người, phần lớn là dân số trẻ, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, người dân ngày càng làm quen với các tiện ích hiện đại của NH.
3.1.3. Định hướng chiến lược kinh doanh dịch vụ thẻ thanh toán của Ngân hàng TMCP nhà Hà Nội.
ử Triển vọng hình thức thanh toán thẻ của NH TMCP nhà Hà Nội tại thị trường Việt Nam.
Với những đặc điểm và thực trạng thị trường Việt Nam hiện nay, NHTM nói chung và NH Nhà Hà Nội nói riêng chắc chắn gặp không ít khó khăn trong phát triển thanh toán thẻ, ví dụ như việc thay đổi thói quen dùng tiền mặt. Tuy nhiên, thực trạng đó cũng cho thấy thị trường thẻ Việt Nam có tiềm năng lớn để phát triển và đó là cơ hội để Habubank khai thác, phát triển dịch vụ thẻ của mình. Tiềm năng của thị trường được thể hiện ở khả năng thâm nhập của thẻ trong chi tiêu tiêu dùng cá nhân trong nền kinh tế.
Thị trường thẻ lớn và đầy tiềm năng. Với hơn 80 triệu dân, Việt Nam được đánh giá là một quốc gia có dân số trẻ và năng động. Đây là lực lượng không ngại khi tiếp cận với những sản phẩm mới, có tính chất công nghệ cao. Cơ hội đi đôi với thách thức, họ cũng đòi hỏi hệ thống ngân hàng cung cấp sản phẩm có chất lượng cao.
Mức độ cạnh tranh trên thị trường thẻ chưa cao. Hiện nay chỉ có một số ngân hàng nước ngoài: ANZ, UOB, Indovinabank… tham gia 30% thị phần thanh toán thẻ QT, 15% thị phần phát hành thẻ quốc tế. Các ngân hàng nước ngoài khác tại Việt Nam Citibank, HSBC… chưa được phép phát hành thẻ nội địa tại Việt Nam nhưng trong thời gian khoảng 3-4 năm nữa, việc các chi nhánh ngân hàng này tham gia phát hành thẻ là điều tất yếu. Sự có mặt của các nhân tố này sẽ là thách thức lớn đối với các NH Việt Nam nhưng cũng là một cơ hội cho dịch vụ thẻ của Habubank phát triển, nâng cao công nghệ cũng như chất lượng dịch vụ của hoạt động thẻ.
Các NHTM khác không ngừng đưa ra nhiều chính sách khách hàng hấp dẫn cho dịch vụ trả lương qua tài khoản nhằm chiếm lĩnh thị phần. Các ATM của HBB được kết nối qua Công ty Chuyển mạch Tài chính quốc gia (Banknet). Việc tham gia vào hệ thống này giúp cho máy ATM của VCB có thể chấp nhận thẻ của nhiều ngân hàng. Đây thực sự là cơ hội để dịch vụ trả lương qua tài khoản phát triển mạnh mẽ hơn nữa.
ử Triển vọng về điều kiện kinh tế-xã hội
Trong những năm qua, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển đáng khích lệ. Tổng sản phẩm quốc nội GDP năm 2005 trong điều kiện đất nước gặp nhiều khó khăn và thách thức GDP đạt 8,5%, nhiều chỉ tiêu chủ yếu của Quốc hội đề ra đều đạt và vượt mức. Vì thế, nhìn tổng quát năm 2005, chúng ta có bước tiến mới về phát triển kinh tế xã hội tương đối toàn diện.
Hiện nay thu nhập của người dân không ngừng tăng cao và ổn định, khách du lịch quốc tế và người nước ngoài đến làm ăn, học tập ở nước ta ngày càng tăng nhanh. Số lượng doanh nghiệp trong nước được thành lập mới và làm ăn có hiệu quả ngày càng nhiều.
Với nội dung trên, hứa hẹn một triển vọng để các dịch vụ ngân hàng đặc biệt là dịch vụ thẻ phát triển.
ử Triển vọng về môi trường pháp lý và vốn đầu tư
Môi trường pháp lý cho các hoạt động NH đang ngày được mở rộng. Các văn bản pháp luật về quản lý thông tin, chứng từ điện tử, lưu trữ điện tử, giá trị của vật mang tin, viễn thông… cũng như các văn bản về thanh toán, về quyền tự chủ của NHTM, … đã và đang lần lượt được ban hành tạo hành lang pháp lý cho hình thức thanh toán thẻ hoạt động thuận lợi.
Bên cạnh đó, vấn đề về đầu tư cho phát triển đã được cải thiện. Ngoài các dự án tài trợ của nước ngoài, dự án NHNN, các NHTM đã có quyền chủ động đầu tư cho phát triển nghiệp vụ, trong đó có nghiệp vụ thẻ bằng nguồn vốn của mình.
ử Triển vọng về công nghệ, viễn thông- liên lạc, khoa học kỹ thuật Tin học và công nghệ NH:
Từ khi nên kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự chỉ đạo của Nhà nước, các lĩnh vực liên quan đến công nghệ- viễn thông đã phát triển nhanh chóng. Rất nhiều ứng dụng tiến bộ về công nghệ thế giới đã được chuyển giao vào nước ta. Lực lượng cán bộ khoa học Việt Nam đã đủ sức tiếp quản việc chuyển giao kiến thức, mặt bằng công nghệ cũng không ngừng được chú trọng đầu tư, nâng cấp. Mặt bằng công nghệ hiện nay đã hội đủ điều kiện tối thiểu để hình thức thanh toán thẻ phát triển. Công nghệ tin học và viễn thông đang có điều kiện phát triển và ứng dụng rộng rãi ở Việt Nam là một cơ hội có tính then chốt tạo ra sự phát triển của dịch vụ thẻ NH.
ử Triển vọng của tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế
Nằm trong tiến trình chung của nền kinh tế trong tiến trình hội nhập, ngành NH được xác định là một trong những mũi nhọn cần nhanh chóng phát triển để theo kịp tiến trình. Phát triển thanh toán KDTM nói chung và thanh toán thẻ nói riêng là đòi hỏi tất yếu đối với nước ta để đáp ứng nhu cầu giao lưu quốc tế.
Do đó thị trường thẻ Việt Nam có nhiệu cơ hội trở thành nhân tố kích thích, thúc đẩy sự đầu tư vốn và công nghệ của các Tổ chức thẻ quốc tế, các NHNNg vào. Đây chính là một trong những cơ hội thuận lợi để chúng ta đẩy nhanh quá trình phát triển hình thức thanh toán thẻ ở Việt Nam.
ử Triển vọng hoạt động NH
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế đề ra trong kế hoạch 5 năm, năm 2005 Việt Nam phải thực hiện một bước chuyển biến mạnh mẽ hơn những năm trước về tốc độ cũng như chất lượng tăng trưởng.
Theo dự báo về diễn biến kinh tế trong nước và quốc tế, năm 2005 có nhiều yếu tố thuận lợi cho hoạt động NH đó là: Chính phủ cam kết mạnh mẽ trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và của nền kinh tế nói chung; môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường kinh doanh tiếp tục ổn định; các doanh nghiệp từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh…
Tuy nhiên trong bối cảnh diễn biến kinh tế, tiền tệ khó lường, các nhiệm vụ do Quốc hội đề ra cho năm 2005 đã đặt ra cho hoạt động NH nhiều thách thức, nhất là mục tiêu về mức tăng chỉ số giá tiêu dùng dưới 6,5% trong khi mục tiêu tăng trưởng đặt ra ở mức cao.
Vì vậy, nhiệm vụ của ngành NH năm 2005 hết sức nặng nề, không những phải góp phần tích cực để thực hiện tốt mục tiêu của Quốc hội, Chính phủ đề ra, mà còn phải khẩn trương chuẩn bị cho quá trình hội nhập và gia nhập tổ chức thương mại thế giới. Trong khi hệ thống các tổ chức tín dụng vẫn là kênh chủ yếu đáp ứng vốn cho tăng trưởng kinh tế, nhiệm vụ trọng tâm của hoạt động tiền tệ, tín dụng NH năm 2005 đặt ra cụ thể như sau:
Điều hành CSTT linh hoạt nhằm hỗ trợ tích cực việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế 8,5%, ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát theo mục tiêu Quốc hội đề ra, nâng cao chất lượng tín dụng để tăng trưởng bền vững.
Tiếp tục thực hiện chương trình hiện đại hóa NH và hệ thống thanh toán, mở rộng và phát triển các dịch vụ NH hiện đại; đẩy mạnh tiến trình hội nhập quốc tế về NH; tăng cường năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh của các tổ chức tín dụng nhất là các NHTM Nhà nước
ò Định hướng chiến lược của NHTMCP Nhà Hà Nội
Mục tiêu đặt ra cho NH Nhà Hà Nội trong vòng 10 năm tới là phấn đấu trở thành một NH đạt tiêu chuẩn trung bình tiên tiến trong khu vực trên cả hai phương diện: quy mô và chất lượng hoạt động. Để đạt được mục tiêu đó, NHNT cần phải:
Thúc đẩy nhanh tiến trình áp dụng các chuẩn mực quốc tế vào quản lý và cung ứng dịch vụ. Theo đó các hệ thống quản lý khách hàng, quản lý tín dụng, quản lý tài chính đặc biệt là quản lý rủi ro sẽ được hoàn thiện và nâng cao chất lượng theo chuẩn mực quốc tế. Thêm vào đó NH Nhà Hà Nội sẽ phát triển và ứng dụng các dịch vụ trên nền tảng công nghệ tiên tiến, tạo thêm nhiều tiện ích mới cho khách hàng và tăng tính cạnh tranh của sản phẩm.
Phát triển và mở rộng mạng lưới hoạt động để trở thành một tập đoàn tài chính đa năng, theo đó sẽ thành lập các định chế mới như Công ty quản lý quỹ đầu tư, Công ty bảo hiểm, Công ty tài chính chuyển tiền ở Mỹ và mạng lưới chi nhánh; thành lập chi nhánh tại Singapore, Mỹ và một số thị trường khác; cơ cấu lại Công ty tài chính Hongkong.
NH sẽ phát triển thẻ Habubank Vantage hiện nay lên thành thẻ ghi nợ nội địa theo đúng nghĩa của nó, trở thành thẻ ghi nợ quốc tế. Việc phát triển dịch vụ đồng thời với việc nghiên cứu, nâng cấp hệ thống xử lý dịch vụ thẻ, khắc phục những tồn tại về kỹ thuật song hành với việc các công nghệ mới trên thế giới.
ử Phát triển mạng lưới
Để thực sự tiếp cận được thị trường trong nước, việc phát triển được các ĐVCNT cung cấp hàng hoá tiêu dùng cho người dân là vấn đề sống còn. Hiện tại, có mạng lưới siêu thị nhà hàng là có độ chấp nhận thẻ tương đối cao, nhưng thị trường này cũng bị các ngân hàng khai thác đến mức bão hoà. Một siêu thị có khi đến ba hay bốn ngân hàng cùng đặt máy thanh toán thẻ, khiến việc đầu tư trở nên lãng phí.
Để chủ thẻ có chỗ chi tiêu, cần phải đẩy mạnh phát triển mạng lưới sang các loại hình đơn vị không phải truyền thống trên thị trường Việt Nam như cửa hàng điện tử, quần áo thời trang, mỹ phẩm, .. Thời gian đầu, thường hiệu quả của các ĐVCNT này sẽ không cao, nhưng chúng ta cần phải hiểu được là đầu tư vào các ĐVCNT trong nước mới là cách đầu tư lâu dài, bền vững và cũng là đầu tư phát triển thị trường thẻ Việt Nam, để phát triển số người sử dụng thẻ.Hiện nay thị trường các ĐVCNT nhỏ, lẻ, phục vụ khách hàng trong nước lại bỏ ngỏ để các ngân hàng như ACB, Đông á, Sacombank chiếm mất. Điều này không chỉ ảnh hưởng về mặt doanh thu mà còn về mặt duy. Đặc biệt trong đầu tư phát triển mạng lưới phải chú ý đến tính hiệu quả, tránh đầu tư tràn lan.
Về mạng lưới giao dịch tự động ATM, việc triển khai thành công hệ thống là một nguyên nhân quan trọng đằng sau thành công của thẻ Habubank Vantage. Ngoài những cái được rất đáng kể của hệ thống ATM, công tác triển khai còn có những vấn đề về mặt hiệu quả. Thực tế địa điểm đặt máy ATM trong hay ngoài trụ sở ngân hàng có vai trò quyết định đến hiệu quả sử dụng của máy. Nên khi quyết định đặt máy cần chú ý đến tính hiệu quả của việc sử dụng máy: đảm bảo khách hàng truy cập dễ dàng, an toàn cho khách hàng, ở chỗ dễ thấy và môi trường hoạt động của máy phải được đảm bảo theo các tiêu chuẩn kỹ thuật của nhà sản xuất.
ử Phát triển sản phẩm
Thực tế cho thấy ở thị trường khác cũng như thị trường thẻ Việt Nam thông qua thành công của thẻ ghi nợ và hệ thống giao dịch tự động ATM cho thấy người tiêu dùng và các ĐVCNT thích nghi dễ dàng với việc sử dụng thẻ ghi nợ. Thẻ ghi nợ với tính năng kết nối trực tuyến vào tài khoản cá nhân tạo tâm lý thanh toán an toàn, thoải mái cho người sử dụng vì không phải đi vay tiêu dùng như thẻ tín dụng. Mạng lưới ATM rộng khắp đem lại sự thuận lợi cho các chủ thẻ, thực sự là hệ thống dịch vụ hiện đại, văn minh, chính xác và đáng tin cậy. Việc sử dụng thẻ không bị giới hạn trong mạng lưới cung ứng dịch vụ của NH hoặc thậm chí biên giới quốc gia. Hiện tại thẻ Habubank Vantage chỉ sử dụng được trong hệ thống của NH và các ngân hàng có kết nối với NH. Để chủ thẻ có thể rút tiền hoặc chi tiêu ở nước ngoài, trong tương lai gần thẻ sẽ trở thành thẻ ghi nợ quốc tế (Thương hiệu Visa hoặc MasterCard).
Hiện nay thẻ Habubank Vantage khi sử dụng tại ĐVCNT phải xác nhận 100% bằng số PIN. Kinh nghiệm quốc tế và bản thân Habubank thấy việc áp dụng số PIN đảm bảo độ an toàn cao nhưng lại hạn chế rất lớn về số lượng ĐVCNT do số lượng máy hỗ trợ PIN có ít và thao tác chấp nhận thẻ không thực sự thuận tiện cho ĐVCNT và người dùng. Vì vậy, các sản phẩm thẻ ghi nợ thành công của quốc tế như Visa Electron, MasterCard Electron đều có tính năng xác định bằng chữ ký và PIN, giải toả được những hạn chế về điểm chấp nhận thẻ. Do đó, trong thời gian tới, Habubank sẽ áp dụng việc sử dụng chữ ký cho thẻ ghi nợ tại các ĐVCNT trên cả nước.
Ngoài thẻ ghi nợ, một sản phẩm thẻ nữa gặt hái được nhiều thành công tại các nước trong khu vực là sản phẩm thẻ liên kết. Thực tế này cho thấy, khách hàng không chỉ trông đợi thẻ đơn giản chỉ là một phương tiện thanh toán mà còn phải có những tiện ích và ưu đãi do các thanh viên liên kết đem lại. Sử dụng thẻ liên kết, khách hàng sẽ nhận được ưu đãi cả từ phía ngân hàng phát hành, cả từ phía đối tác liên kết. Các ngân hàng có thể đưa ra ưu đãi về phí, lãi suất, thời gian ân hạn… Các đối tác liên kết có thể đưa ra ưu đãi về giảm giá, khuyến mại, chương trình điểm thưởng… nhằm khuyến khích khách hàng chi tiêu bằng thẻ.
Nắm vững xu hướng phát triển của dịch vụ thẻ ngân hàng thế giới cũng như hiểu được mong muốn của khách hàng Habubank sẽ phát triển thẻ liên kết với các đối tác có uy tín trên thị trường nội địa và quốc tế nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và khả năng khai thác trên thị trường thẻ nội địa cho tất cả các bên tham gia vì lợi ích của khách hàng và của chính mình. Với tính năng định hướng khách hàng cao của các sản phẩm thẻ liên kết, từng sản phẩm sẽ có đối tượng khách hàng mục tiêu riêng biệt, tối đa hoá khả năng xâm nhập thị trường, tăng tính cạnh tranh với sản phẩm dịch vụ của các ngân hàng khác.
ử Công tác khách hàng
Đặc thù chung của các dịch vụ ngân hàng bán lẻ là nhằm tới đối tượng khách hàng cá nhân nên công tác tiếp thị dịch vụ thẻ mang nhiều điểm tương đồng với các loại hàng hoá dịch vụ tiêu dùng khác. Mặt khác nhu cầu về thẻ tại Việt Nam đối với đa số dân cư không phải là nhu cầu cấp bách, thực sự cần thiết không thể thiếu được. Quan niệm của nhiều người dân vẫn coi dịch vụ thẻ nói riêng và dịch vụ ngân hàng bán lẻ nói chung là dành cho những người có nhiều tiền. Điều đó đặt ra nhu cầu phải tích cực giới thiệu một cách rộng khắp sản phẩm dịch vụ thẻ đến người dân cả nước, thay đổi quan niệm về thẻ. Cái nhìn trong công tác marketing về thẻ không thể chỉ dừng ở mức nhận định nhu cầu của thị trường và thoả mãn nhu cầu đó như mô hình truyền thống mà phải được phát triển lên mức cao hơn. Nhiệm vụ của Marketing thẻ phải tạo ra được nhu cầu, tạo ra được sự ham muốn dành cho sản phẩm.
Việc quảng cáo các sản phẩm cũng không thể đánh đồng các loại thẻ mà với mỗi loại thẻ phải xác định được đối tượng khách hàng mục tiêu riêng, từ đó đưa ra chiến lược marketing phù hợp. Ví dụ đối với thẻ Habubank Vantage phải tạo được hình ảnh một tấm thẻ cho mọi đối tượng, mọi người dân. Hình ảnh tấm thẻ Amex, Visa, MasterCard… phải được gắn liền với hình ảnh chủ thẻ vững vàng về tài chính, hiện đại về lối sống, luôn đi đầu. Mỗi hình ảnh đặc trưng cho từng sản phẩm thẻ phải được thể hiện một cách rõ nét, xuyên suốt trong tất cả các kênh thông tin đến khách hàng từ phong bì gửi thẻ, giấy in sao kê đến những quảng cáo trên báo, lời tư vấn của nhân viên khách hàng. Để công tác tiếp thị tuyên truyền đạt hiệu quả cao, các chương trình quảng cáo và tuyên truyền về thẻ phải tập trung tạo dựng được hình ảnh thống nhất, bài bản cho thương hiệu chung về thẻ của HBB, nhưng vẫn nêu bật được sự đa dạng khác biệt của từng sản phẩm.
Chi nhánh, việc phát triển khách hàng cần chú trọng vào những khách hàng sẵn có. Mỗi khách hàng cá nhân đã có giao dịch với Habubank là một chủ thẻ tiềm năng, mỗi công ty có quan hệ với NH là cơ hội để phát hành thẻ Habubank Vantage để trả lương.
Ngoài việc phát triển chủ thẻ mới, việc làm tốt công tác dịch vụ khách hàng để giữ những chủ thẻ hiện có là điều hết sức quan trọng, nhất là bộ phận khách hàng có chi tiêu cao và thường xuyên. Đối với khách hàng VIP cần phải có chính sách chăm sóc và đối xử đặc biệt.
Trong công tác Marketing của các chi nhánh trên cùng địa bàn, cần tránh tình trạng cạnh tranh lẫn nhau, nhất là trong việc cạnh tranh bằng giá. Các chi nhánh cùng một địa bàn nên có chính sách giá thống nhất cho các sản phẩm dịch vụ, nên thường xuyên có thông tin qua lại để không ảnh hưởng xấu đến tình hình kinh doanh của các đơn vị trong cùng hệ thống.
ử Tổ chức thực hiện
Để khắc phục yếu kém trong công tác tổ chức thực hiện. Hội sở chính phải chủ động xây dựng kế hoạch đầu tư trang thiết bị, công cụ marketing có tính đến tốc độ phát triển của thị trường vào từng thời kỳ.
Tại mỗi CN cần có bộ phận bán hàng chuyên nghiệp dành cho sản phẩm thẻ nói riêng và tất cả các sản phẩm dịch vụ NHBL nói chung. Những địa bàn chính tuy đã có sự trợ giúp của đối tác thuê ngoài nhưng đội ngũ bán hàng của NH vẫn phải chủ động phát triển thị trường và phối hợp với đối tác khai thác một cách hiệu quả hệ thống khách hàng.
Với tầm quan trọng của dịch vụ khách hàng, tại TW và mỗi CN nên có bộ phận quản lý quan hệ khách hàng với trách nhiệm đề ra và thực hiện các tiêu chuẩn về chất lượng dịch vụ khách hàng và quản lý hình ảnh của các sản phẩm dịch vụ nói riêng và hình ảnh chung của ngân hàng theo đúng định hướng của ban lãnh đạo. Bộ phận này còn có trách nhiệm liên tục theo dõi và tiếp nhận những phản ảnh của khách hàng và thị trường về sản phẩm của NH, kịp thời phối hợp với các phòng ban chức năng để có những biện pháp thích hợp nhằm củng cố thương hiệu NH, giữ vững hình ảnh của NH trong lòng khách hàng.
ử Chính sách giá và phân bổ chi phí
Trong giai đoạn đầu phát triển dịch vụ phát hành thẻ để khai phá thị trường, thu hút khách hàng Habubank cũng đưa ra những chính sách giá hết sức ưu đãi.
NH hiện có trong tay một hệ thống sản phẩm dịch vụ đa dạng, chất lượng cao, với nhiều tiện ích hơn hẳn so với nhiều ngân hàng. Như vậy NH có cơ sở để xây dựng lại chính sách giá và phân bổ phí để tăng doanh thu, bù đắp chi phí đầu tư bỏ ra. Những thay đổi như:
-Tính phí thường niên cho thẻ Habubank Vantage
-Thay đổi chính sách phân bổ phí giữa Trung ương và SGD cùng các CN phù hợp với tình hình phát hành và thanh toán thẻ của từng CN. Các CN đầu tư nhiều vào hệ thống ATM và POS với doanh số thanh toán thẻ cao sẽ được phân bổ thêm một phần từ phí phát hành.
Cùng với chính sách giá hợp lý, nguồn thu từ dịch vụ thẻ chắc chắn sẽ tăng, tạo điều kiện cho SGD và các CN tiếp tục đầu tư mở rộng mạng lưới cung ứng dịch vụ và làm tốt công tác khách hàng. Nguồn thu phí dịch vụ cũng là cơ sở để Trung ương tiếp tục đầu tư phát triển sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ và đưa ra thêm nhiều tiện ích phục vụ chủ thẻ trong nước và quốc tế, khẳng định vị trí đi đầu thị trường thẻ Việt Nam.
ử Nền tảng công nghệ
Là một sản phẩm công nghệ cao, nên xây dựng nền tảng hệ thống công nghệ tiên tiến, đạt tiêu chuẩn quốc tế, hoạt động ổn định là yếu tố sống còn của dịch vụ thẻ.
NH có kế hoạch trong vài năm tới thay thế thẻ từ sang thẻ chip (thẻ thông minh – smartcard) sử dụng theo tiêu chuẩn của EMV(gồm các tổ chức thẻ lớn của quốc tế là Europay, Mastercard và Visacard ) cho khách hàng sử dụng thẻ và trước mắt NH sẽ thực hiện đối với thẻ tín dụng quốc tế. Đây là bước tiến để phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như đảm bảo cho quyền lợi của khách hàng và của chính NH. Lần lượt thay thẻ mới ở từng địa phương, cơ quan và khu vực. Trước mắt tiến hành ở các đô thị lớn như Hà Nội và TP. HCM.
3.2. Các giải pháp phát triển kinh doanh dịch vụ thẻ tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội
3.2.1.Giải pháp vi mô từ phía Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội
3.2.1.1. Tăng cường các biện pháp Marketing
Với đặc thù văn hoá tiêu dùng và thói quen sử dụng tiền mặt như hiện nay, công tác truyền thông, quảng ba, tiếp thị để người dân biết, làm quen, thấy được lợi ích thực sự và chấp nhận các dịch vụ tài chính - ngân hàng là rất quan trọng. Các công ty bảo hiểm, đặc biệt là công ty liên doanh bảo hiểm, các công ty 100% vốn nước ngoài như Prudential, AIA,… tổ chức tiếp thị, khuyến mại, mở rộng thị trường dịch vụ bảo hiểm của mình khá tốt, nhưng các NHTM và tổ chức tín dụng khác mới chỉ chú trọng đến hoạt động tín dụng, đến mở rộng cho vay, còn các dịch vụ ngân hàng chưa được quan tâm đúng mức. Cần đẩy mạnh các dịch vụ ngân hàng, trong đó phát triển dịch vụ tài khoản cá nhân và tiện ích sử dụng tài khoản như: sử dụng thẻ rút tiền mặt ATM, thanh toán chi trả tiền dịch vụ điện, nước, điện thoại, phí bảo hiểm, chi trả học phí… tiến tới là nộp thuế, nộp các khoản phí và lệ phí cho NSNN qua hệ thống kho bạc thông qua sử dụng thẻ ATM, thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng. Các NHTM nên đến các doanh nghiệp, các cơ quan, đơn vị, tổ chức, trường đại học, bệnh viện… các hộ kinh doanh, hộ gia đình và cá nhân có thu nhập khá, ổn định… vận động họ mở tài khoản và thực hiện dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt quan ngân hàng.
3.2.1.2.Phát triển mạng lưới chấp nhận thẻ
Doanh số thanh toán hàng hoá, dịch vụ thông qua sử dụng thẻ tăng chậm, chủ yếu do mức độ phát triển mạng lưới đơn vị chấp nhận thanh toán thẻ chậm, nên số lượng các đơn vị chấp nhận thanh toán thẻ chưa nhiều. Theo Hiệp Hội Ngân hàng. Tính đến thời điểm tháng 6/2005 có khoảng 10.000 POS đặt tại các khách sạn, nhà hàng, cửa hàng lưu niệm… ở các thành phố lớn hoặc các điểm du lịch để phục vụ người nước ngoài, khách du lịch. Điều đó cho thấy tính năng thanh toán không dùng tiền mặt của thẻ nội địa còn rất hạn chế, mà có thể ảnh hưởng đến sự tăng trưởng ổn định và bền vững của công cụ thanh toán này.
Bởi vậy trong thời gian tới, các NHTM nói chung và HBB nói riêng cần chú trọng phát triển mạng lưới ĐVCNT bằng cách phối hợp với các nhà hàng, siêu thị và các đơn vị cung ứng hàng hoá, dịch vụ lớn khác trong việc lắp đặt các thiết bị POS để thực hiện thanh toán hàng hoá, dịch vụ cho chủ thẻ. Khi thanh toán không dùng tiền mặt thông qua thẻ thuận tiện sẽ một mặt góp phần thu hút thêm số lượng chủ thẻ, mặt khác tạo thuận lợi cho đơn vị chấp nhận thẻ thực hiện thanh toán và quản lý ngân quỹ hiệu quả hơn, góp phần tạo cơ sở vững chắc phát triển thị trường thẻ Việt Nam.
3.2.1.3.Đầu tư hiện đại hóa công nghệ ngân hàng
Đến lúc này, ngoài chiến lược mở rộng thị trường và nâng cao chất lượng dịch vụ thẻ, các NH đang tính đến việc đầu tư mạnh vào công nghệ để có thể phát triển lâu dài trên thị trường Việt Nam và phù hợp với tình hình phát triển của thế giới. Phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, để triển khai ứng dụng công nghệ tin học-điện tử trong NH. Đây là giải pháp bắt buộc trong giai đoạn hiện nay, quyết định sự tồn tại và phát triển của hệ thống ngân hàng nói chung. Sự chậm chễ trong ứng dụng công nghệ tin học-điện tử trong hoạt động ngân hàng sẽ không tránh khỏi tụt hậu và mất cơ hội kinh doanh rất lớn. Theo đó mô hình công ty cổ phần dịch vụ tin học của các NH; công ty thanh toán thẻ … là những mô hình cần xem xét, nghiên cứu xây dung và triển khai thực hiện.
Việc đầu tư này bao gồm cả máy móc thiết bị, chương trình phần mềm và cả nâng cao trình độ nhân viên ngân hàng. NH cũng nên mạnh dạn đầu tư mạnh mẽ lắp đặt hệ thống máy rút tiền tự động ATM rộng khắp ở các địa phương. Có thể chấp nhận lỗ ở một số địa phương trong một vài năm đầu để từng bước phát triển dịch vụ ngân hàng trong dân cư, thu lãi trong các năm sau đó.
3.2.1.4.Giải pháp về thanh toán, phát triển tài khoản cá nhân.
Đây là cơ sở, là điều kiện để phát triển hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt; phát triển dịch vụ thanh toán thẻ cùng nhiều dịch vụ khác có liên quan. Hiện nay do thói quen sử dụng tiền mặt; nhu cầu thanh toán qua ngân hàng chưa phổ biến đã hạn chế đáng kể giao dịch bằng tài khoản cá nhân. Vì vậy, để thực hiện tốt giải pháp này trước hết ngân hàng cần từng bước thu hút khách hàng đến quan hệ bằng chính sự tiện ích của ngân hàng mang lại thông qua việc quảng bá, sự thuận lợi, nhanh chóng trong quá trình cung cấp sản phẩm dịch vụ cho khách hàng. Theo đó cần mang lại tiện ích thực sự thông qua dịch vụ chi trả lương; tiền điện, nước, điện thoại…
+Phải đầu tư hơn nữa trong việc đẩy mạnh tiếp thị, tuyên truyền quảng cáo, hoàn thiện công nghệ hiện đại, mở rộng mạng lưới, tổ chức giao dịch tiện lợi…
+Cần có sự phối hợp, chấp nhận, hưởng ứng của các tổ chức có nguồn thu thường xuyên lớn bằng tiền mặt như: kho bạc Nhà nước, thuế, hải quan, bảo hiểm, điện, nước, bưu điện, hàng không, giao thông vận tải, xăng dầu… Các đơn vị tổ chức này cẫn sẵn sàng nối mạng và tham gia chương trình thanh toán điện tử, sử dụng máy đọc thẻ hay chấp nhận thanh toán thẻ, khuyến khích khách hàng thanh toán không dùng tiền mặt và giảm nhân viên thu tiền. Từ sự chấp nhận của các cơ quan và doanh nghiệp Nhà nước tạo tiền đề cho sự chấp nhận rộng rãi trong dân cư.
+Không thể thiếu được các chế tài cần thiết, bởi vì thói quen tuỳ tiện thanh toán bằng tiền mặt của các tổ chức cá nhân còn quá lớn. Các khoản thanh toán có giá trị lớn, có thể từ mức nào đó giữa các đơn vị, doanh nghiệp hay tổ chức cá nhân… có tài khoản tại NH hay kho bạc Nhà Nước cần có quy định yêu cầu thanh toán không dùng tiền mặt. Một số quy định khác về sử dụng chữ ký điện tử, chứng từ điện tử, quy định tồn quỹ tại cơ quan, doanh nghiệp… cũng cần được cụ thể hơn. Các quy định đó cần thiết ở cấp độ là Nghị định của Chính phủ. Sau đó được hoàn thiện và nâng cấp lên thành Pháp lệnh và Luật về thanh toán, như vậy tính tuân thủ sẽ tự giác hơn và đồng bộ hơn chế tài.
3.2.1.5.Giải pháp quản trị và giảm thiểu rủi ro
Trước tiên, cần phổ biến rộng rãi các quy định về sử dụng, thanh toán thẻ cho các chủ thẻ, tập huấn và cập nhập thường xuyên kiến thức nghiệp vụ, các quy định của từng tổ chức thẻ quốc tế cho ĐVCNT và các cán bộ nghiệp vụ liên quan để thực hiện đúng quy định.
Cập nhập và lưu hành rộng rãi danh sách Bulettin.
Tập trung phối hợp với các tổ chức thẻ quốc tế và cơ quan an ninh quốc tế phòng chống tội phạm trong lĩnh vực thẻ.
Hạn chế rủi ro tín dụng: Cần cân nhắc và xem xét kỹ lưỡng các trường hợp cho vay tín chấp để phát hành thẻ; đặc biệt là các loại thẻ có hạn mức đặc biệt (V.I.P). Lưu ý với chủ thẻ các quyền lợi và đặc biệt là nghĩa của chủ thẻ đối với ngân hàng khi sử dụng dịch vụ này; cũng như theo dõi chặt chẽ hoạt động sử dụng thẻ và tình hình chi tiêu của chủ thẻ, chú ý và có biện pháp theo từng bước đối với các chủ thẻ trì hoãn hoặc không thanh toán sao kê để thông báo, nhắc nhở, khuyến cáo, khoá thẻ tạm thời hoặc chấm dứt hợp đồng sử dụng thẻ tuỳ theo hành vi của chủ thẻ.
Hạn chế rủi ro trong phát hành và sử dụng thẻ: Cán bộ phát hành phải kiểm tra, xác minh các thông tin phát hành thẻ và các thông tin của khách hàng một cách kỹ lưỡng bằng nhiều hình thức phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Đảm bảo các nguyên tắc an toàn như: Thẻ và PIN phải được giao tận tay chủ thẻ hoặc thẻ và PIN phải được gửi tách biệt nhau. Bên cạnh đó, đẩy mạnh việc sử dụng chương trình quản lý rủi ro của các tổ chức thẻ quốc tế: phải thường xuyên sử dụng và cập nhập các thông tin trên các chương trình quản lý rủi ro của các Tổ chức thẻ quốc tế như SAFE của MasterCard, GFIS, CRIS của VISA. Thường xuyên cập nhập vào hệ thống quản lý danh sách các thẻ mất cắp, thẻ bị hạn chế hoặc cấm lưu hành…
Mua bảo hiểm cho nghiệp vụ thẻ(nếu có), hoặc trích lập dự phòng rủi ro để bù đắp cho các rủi ro phát sinh từ nghiệp vụ phát hành thẻ.
Tìm hiểu kỹ về ĐVCNT trước khi ký kết hợp đồng thanh toán thẻ, đặc biệt là về tư cách của ĐVCNT, hoạt động kinh doanh và khả năng tài chính của ĐVCNT…Theo định kỳ tổ chức tập huấn và cung cấp tài liệu về chấp nhận thanh toán thẻ cho các ĐVCNT. Cung cấp các tài liệu hướng dẫn chi tiết đối với các ĐVCNT kinh doanh một số loại hàng hoá, dịch vụ đặc biệt như: thanh toán quan Internet, các loại hàng hoá có mức độ rủi ro cao như tiền mặt, vàng, bạc, đồ trang sức… Thường xuyên thăm và kiểm tra hoạt động thanh toán thẻ của ĐVCNT. Kịp thời phát hiện những thay đổi lớn về doanh số thanh toán hoặc những hoạt động bất thường của các ĐVCNT. Ngoài ra, cần theo dõi các ĐVCNT mà chủ thẻ không có điều kiện quan sát nhân viên ĐVCNT thực hiện giao dịch như nhà hàng, câu lạc bộ…
Đối với các ĐVCNT được phép thực hiện các loại hình thanh toán đặc biệt có thể yêu cầu ký quỹ, thanh toán tạm ứng một phần hoặc tạm ứng sau một thời gian cho các giao dịch đặc biệt này.
Hạn chế rủi ro nội bộ: Thường xuyên kiểm tra hệ thống máy vi tính của mình, đảm bảo tính liên tục và ổn định. Tăng cường kiểm soát các bước thực hiện nghiệp vụ của các cán bộ làm việc trực tiếp. Hạn chế tối đa tình trạng trục trặc kỹ thuật trong hệ thống, khi hệ thống ngừng hoạt động hoặc phát hiện sai sót phải thực hiện ngay các biện pháp sửa chữa và xử lý kịp thời.
áp dụng các biện pháp xử lý cần thiết khi phát sinh các giao dịch giả mạo.
3.2.1.6. Đào tạo và nâng cao trình độ cán bộ kinh doanh thẻ
Cần đào tạo đội ngũ chuyên viên nắm thật vững về hoạt động thẻ để họ có thể bắt tay ngay vào làm việc mà không gặp khó khăn một khi NH được Nhà nước cấp phép phát hành thẻ. Công tác đào tạo không chỉ dừng ở dạng lý thuyết mà cần thiết có thể chi họ đi nghiên cứu thực hành ở các NHNNg. Từ những thực tế mà họ đã thấy, đã thực hiện thì họ mới có thể vận dụng khi trở về nước.
HBB cần tổ chức hội thảo với những NH có uy tín trên thị trường về phát hành và thanh toán thẻ để rút kinh nghiệm, tìm cho được những hạn chế mà công tác phát hành đang gặp phải, làm thể nào phải đẩy mạnh doanh số phát hành cao hơn nữa, cho nhiều đối tượng hơn nữa, không chỉ cho người nước ngoài mà chú trọng đến người Việt Nam.
3.2.2.Các giải pháp vĩ mô
3.2.2.1.Môi trường pháp lý
Cho đến nay, các văn bản pháp quy về thẻ do NHNN ban hành đều còn thiếu và còn nhiều bất cập. Với vai trò là một công cụ thanh toán không dùng tiền mặt, hoạt động của dịch vụ thẻ dựa trên khả năng hỗ trợ của công nghệ cần phải có các quy định riêng để tạo điều kiện cho các ngân hàng trong quá trình thực hiện.
Nhà nước cần nghiên cứu và ban hành các quy định pháp luật liên quan trực tiếp đến nghiệp vụ thẻ phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện ở Việt Nam, vì cơ sở pháp lý ràng buộc và tác động đến việc hình thành, tồn tại và phát triển của hoạt động thẻ.
Các cơ quan quản lý kinh tế, xã hội, pháp luật cần có sự quan tâm nghiên cứu về lĩnh vực thanh toán thẻ, thông qua việc đưa ra các chính sách, quy chế, quy định tạo môi trường pháp lý đầy đủ để nghiệp vụ thẻ ngân hàng có điều kiện phát triển lành mạnh, đúng hướng.
3.2.2.2.Môi trường kinh tế chính trị xã hội
Các ngành, các cơ quan hữu quan cần quan tâm hơn nữa đến vấn đề thanh toán không dùng tiền mặt, có những chủ trương chính sách, biện pháp đúng đắn kịp thời như chấp nhận thanh toán bằng thẻ tại các trường đại học ví dụ như nộp học phí, nộp thuế, và việc thanh toán của các doanh nghiệp …NH Nhà nước tổ chức tuyên truyền vận động một cách có hệ thống qua các cơ quan báo chí, truyền thanh, truyền hình để người dân đều hiểu và nắm được các tiện lợi và an toàn trong sử dụng thẻ, giúp người dân làm quen với những dịch vụ ngân hàng ngày một tiện ích và phát triển trong đời sống kinh tế xã hội hiện đại. Hiện nay ở các nước công nghiệp thì dịch vụ thẻ rất phát triển vì mọi người đều biết đến thẻ thanh toán, sự tiện lợi của việc dùng thẻ, do vậy họ thích dùng thẻ hơn tiền mặt. Đặc biệt là việc tuyên truyền khuyến khích người dân không chỉ hạn chế trong phạm vi đối tượng là các cán bộ ở các cơ quan lớn mở tài khoản cá nhân tại NH mà phải đối với mọi người dân, vì đây là điều kiện tiên quyết để thực hiện việc mở rộng thanh toán qua NH bằng thẻ. Trước mắt có thể thúc đẩy mở tài khoản cá nhân tại NH mà không cần một số dư tối thiểu. Trên cơ sở đó có thể khuyến khích dân chúng thực hiện thanh toán qua NH.
Cơ quan Nhà nước cần đi đầu trong việc mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt qua NH. Trước hết bắt buộc thực hiện chi trả lương cho cán bộ thông qua tài khoản cá nhân mở tại NH. Sau đó có thể mở rộng thanh toán học phí, tiền điện, thuế, nước… qua NH để người dân làm quen ví các dịch vụ do NH cung cấp.
Nhà nước cần quản lý chặt chẽ việc năm giữ và dùng ngoại tệ. Nếu Nhà nước quản lý chặt chẽ vấn đề này thì người dân sẽ tự cảm thấy rằng trong các trường hợp đi nước ngoài để mua hàng hoá nhập khẩu thì việc mua thẻ là tiện lợi nhất.
Việc duy trì ổn định kinh tế - chính trị, duy trì chỉ số lạm phát hợp lý, khuyến khích đầu tư nước ngoài, phát triển các ngành dịch vụ, công nghiệp, tăng thu nhập của người lao động và công chức cũng là vấn đề mà Nhà nước nên làm để khuyến khích sự phát triển của thẻ thanh toán.
3.2.2.3.Môi trường kỹ thuật công nghệ
Hoạt động phát hành và thanh toán thẻ đòi hỏi có môi trường kỹ thuật tiên tiến làm nền tảng, đặc biệt trong lĩnh vực viễn thông. Không ai khác ngoài Nhà nước có thể đầu tư để thực hiện. Do vậy, muốn phát triển được thị trường thẻ thì trước hết phải chú trọng phát triển hạ tầng cơ sở khoa học kỹ thuật công nghệ.
Tăng cường chuyển giao công nghệ từ các nước tiên tiến trên cơ sở tiếp thu và làm chủ được công nghệ đó. Trong tiến trình hội nhập hiện nay hầu hết các nước mở rộng đa phương hoá quan hệ kinh tế trên cơ sở các bên cùng có lợi. Do vậy, việc tiếp cận để học hỏi, việc chuyển giao công nghệ đã có nhiều thuận lợi hơn trước và đây là việc tất cả các NHTM cần phải làm với sự hỗ trợ của Chính Phủ và NHNN.
Bên cạnh đó, chiến lược đào tạo những chuyên gia kỹ thuật giỏi cần được triển khai rộng khắp mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực mới như công nghiệp thẻ.
3.2.2.4. Các đơn vị thuộc ngành tài chính cần tích cực phát triển và chấp nhận dịch vụ ngân hàng hiện đại.
Giữa hệ thống ngân hàng và hệ thống các đơn vị thuộc ngành tài chính, nhất là Kho Bạc Nhà nước, Thuế, Hải quan, Bảo Việt, Xổ Số… là những đơn vị có khối lượng thu chi, thanh toán bằng tiền mặt rất lớn và các tổ chức khác cần có sự phối hợp chặt chẽ, phát triển đồng bộ trong phát triển và triển khai các dịch vụ tài chính-ngân hàng. Hệ thống Kho Bạc Nhà nước nên đổi mới mạnh mẽ hơn nữa công nghệ của mình, nhất là hoạt động thanh toán, nên sớm thực hiện quản lý vốn tập trung và tham gia hệ thống TTĐTLNH. Các đơn vị, tổ chức có khoản chi trả lương cho cán bộ nhân viên ở mức độ khá, nên phối hợp với các NHTM, vận động họ thực hiện chi trả lương qua hệ thống ATM. Cán bộ, nhân viên của các đơn vị thuộc hệ thống tài chính như: Sở tài chính, Kho Bạc Nhà nước, Thuế, Hải quan, Quỹ hỗ trợ phát triển, Xổ số… nên gương mẫu chấp nhận dịch vụ chi trả lương và nhận lương qua hệ thống ATM. Đặc biệt là cơ quan Thuế, Hải quan, nên chấp nhận thu nộp thuế qua hệ thống tài khoản cá nhân, tài khoản của doanh nghiệp mở tại NH hay Kho Bạc.
3.2.2.5 Nhà nước cần có chính sách tài chính thích hợp khuyến khích các NHTM phát triển mạnh các dịch vụ tài chính-ngân hàng.
Mức thuế thu đối với hoạt động dịch vụ ngân hàng cũng nên được điều chỉnh giảm xuống đối với các chi nhánh NHTM, hay các NHTM đang hoạt động ở các vùng nông thôn nói chung, để khuyến khích các NHTM đẩy mạnh đầu tư, hiện đại hoá công nghệ, mở rộng các dịch vụ ngân hàng, Khoản thuế được giảm đó giành cho đầu tư hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và dịch vụ thanh toán.
3.2.2.6. Nâng cao khả năng hợp tác giữa các NHTM trong việc phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại.
Dịch vụ tài chính-ngân hàng trong cả nước nói chung chỉ thực sự phát triển nhanh và có hiệu quả khi có sự phối hợp đồng bộ và chặt chẽ giữa NHNN, các NHTM và Bộ tài chính, các tổ chức và đơn vị thuộc các ngành tài chính. Sự phối hợp này bao gồm cả sự tự giác, nhận thức được tính hiệu quả trong hoạt động của các đơn vị và tổ chức; mặt khác không thể thiếu được sự chỉ đạo kiên quyết, cụ thể của cơ quan chủ quản. Dịch vụ tài chính-ngân hàng phát triển sẽ giảm vốn đọng trong thanh toán, tạo thành một nguồn vốn rất lớn cho đầu tư, cũng như chu chuyển vốn kịp thời cho đầu tư phát triển kinh tế.
3.2.2.7.Giải pháp từ phía NHNNN
NHNN cần xây dựng hệ thống tiêu chuẩn công nghệ thống nhất và tương thích với chuẩn toàn cầu cho hệ thống thẻ thanh toán giữa các NH, phát triển cơ sở hạ tầng đáp ứng các dịch vụ thẻ thanh toán, thống nhất kết nối hệ thống ATM vốn đang bị “chia cắt” giữa các NH như hiện nay hoặc lượng máy ATM/đầu người dân là quá thấp (số liệu của Hội thẻ NH Việt Nam thống kê thì lượng ATM trên đầu người dân thành thị hiện tại mới chỉ là 1ATM/26.000 người. Một con số quá nhỏ bé so với nhu cầu người dân)…Song với tốc độ phát triển đến chóng mặt của thị trường thẻ thanh toán như hiện nay và tỷ lệ thuận với sự phát triển của các dịch vụ thanh toán qua thẻ của các NH cùng sự kỳ vọng về một đạo luật giao dịch điện tử sẽ được Quốc hội thông qua vào cuối năm nay.
Phát huy năng lực hoạt động của Hiệp hội thẻ Việt Nam
Thông qua Hiệp hội thẻ, các NH thành viên cần có sự phối hợp và thống nhất những chính sách mà họ đã đưa ra. Hiện nay cạnh tranh trong phát hành và thanh toán thẻ giữa các NH ngày càng gay gắt, các NH tự ý đưa ra các chính sách nhằm tìm mọi biện pháp lôi kéo khách hàng. Tuy nhiên trước mắt có thể đem lại lợi thế nào đó, nhưng về lâu dài chính sách đó không thể duy trì mãi được và khi đó, các NH phải thay đổi chính sách cho phù hợp với quan điểm chung của Hiệp hội đưa ra.
NHNN cũng nên khuyến khích các NH phát hành và thanh toán thẻ tham gia Hiệp hội các NH thanh toán thẻ tại Việt Nam để hỗ trợ nhau cùng phát triển trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh. NHNN cũng nên trao cho Hiệp hội thẻ quyền lực nhất định trong việc xử lý các sai phạm, vi phạm trong thanh toán thẻ, ban hành các văn bản có tính pháp lý cao với sự cho phép của NHNN và tổ chức hướng dẫn tập huấn và đào tạo các nhân viên hoạt động kinh doanh thẻ, cùng với các hoạt động quản lý khác. Hiệp hội cũng nên phối hợp với các tổ chức thẻ quốc tế trong việc giúp đỡ các NH hoạch định chiến lược khai thác thị trường, thúc đẩy hoạt động thanh toán và phát hành thẻ, cũng như ứng dụng các tiện ích của công nghệ thẻ, đã đang và sẽ phát triển trên thế giới.
Phát triển hệ thống thanh toán điện tử quốc gia, thúc đẩy việc mở tài khoản cá nhân tại NH
Hiện nay, hệ thống thanh toán điện tử quốc gia đã đi vào ứng dụng bước đầu có kết quả. Các NH đã, đang triển khi hệ thống TTĐT nội bộ của mình để kết nối với hệ thống thanh toán quốc gia. Do đó, mạng lưới thanh toán đã hình thành rộng khắp cả nước, tạo điều kiện bước đầu cho khả năng thanh toán thẻ. Tuy nhiên các NH cần tiếp tục đầu tư phát triển hệ thống thanh toán của mình hơn nữa để phù hợp với nhu cầu phát triển của việc sử dụng và thanh toán thẻ.
3.3. Một số kiến nghị nhằm tạo điều kiện thực hiện các giải pháp đề ra
3.3.1. Kiến nghị với Chính Phủ
Sự trợ giúp của Chính phủ là một vấn đề vô cùng quan trọng đối với mọi ngành, mọi cấp. Nếu có những biện pháp hỗ trợ mạnh mẽ từ Chính phủ về chính sách thuế, về quy định pháp luật... để NHNT VN có định hướng triển khai dịch vụ thẻ góp phần phát triển xã hội lâu dài, thực hiện chủ trương ổn định tiền tệ, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, giảm lượng tiền mặt trong lưu thông... thì nhất định dịch vụ này sẽ thu được những kết quả khả quan. Các cơ quan quản lý kinh tế, xã hội và pháp luật cũng cần có sự quan tâm nghiên cứu về lĩnh vực thẻ, bổ sung những chính sách, quy chế, quy định tạo môi trường pháp lý đầy đủ và thuận lợi để nghiệp vụ thẻ có điều kiện phát triển lành mạnh, đúng hướng.
Chính phủ cần áp dụng các biện pháp mạnh, có quy định cụ thể đối với tổ chức và cá nhân được phép thanh toán tiền mặt với mức tiền cụ thể, phù hợp với tình hình phát triển chung của nền kinh tế. Ví dụ hiện nay quy định đối với tổ chức dưới 10triệu đồng được sử dụng tiền mặt, trên mức đó phải thanh toán KDTM. Đồng thời phải xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm.
Cần xây dựng hệ thống thanh toán hiện đại dựa trên nền tảng CNTT. Chúng ta phải tận dụng cơ hội và thế mạnh của các nước đi sau, thừa hưởng những thành tựu của khoa học công nghệ, vì vậy cần tranh thủ huy động tối đa các nguồn lực để đầu tư xây dựng hệ thống thanh toán hiện đại gồm trung tâm xử lý quốc gia và các trung tâm xử lý khu vực; trang bị máy móc hiện đại và đồng bộ, được quản lý, vận hành bởi đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp có trình độ cao, có thể xử lý mọi tình huống, đảm bảo cho hệ thống thanh toán hoạt động thống suốt, không bị ách tắc.
3.3.1.1. Đẩy mạnh công tác đấu tranh chống tội phạm
Cùng với việc phát triển của thẻ tín dụng là sự xuất hiện một loại tội phạm gian lận và giả mạo thẻ tín dụng .Đây là một loại tội phạm mới trong thời đại điện tử với kỹ thuật cao, rất khó phát hiện thủ phạm .
ở Việt nam chưa có rủi ro phát sinh nhưng với tốc độ phát triển như hiện nay luôn đặt các ngân hàng kinh doanh thẻ trước nguy cơ bị tấn công. Trong khi đó chúng ta lại chưa có chế tài pháp luật điều chỉnh các hành vi giả mạo thẻ . Vì vậy, ngay từ bây giờ cần có định hướng cho công tác chống tội phạm trện lĩnh vực ngân hàng, đồng thời cần phải phối hợp chặt chẽ với lực lượng công an kinh tế và cơ quan cảnh sát quốc tế Interpol.
3.3.1.2. Đầu tư kỹ thuật và hạ tầng cơ sở
ở Việt Nam dịch vụ thẻ còn hết sức mới mẻ. Việc thực hiện nghiệp vụ thẻ còn đang chập chững dựa trên hệ thống thiết bị chưa hiện đại. Nhằm nâng cao hiệu quả mở rộng thị trường thẻ tín dụng, chúng ta phải hiện đại hoá hệ thống phục vụ thanh toán để theo kịp các nước trong khu vực. Hiện nay chúng ta phải nhập thẻ trắng từ nước ngoài nên giá thẻ của ta đắt hơn các nước khác: 10USD/ thẻ.do cơ sở vật chất của ta còn thấp nên chưa thể tự sản xuất được thẻ. Tuy nhiên trong tương lai, khi mà sử dụng thẻ trở nên thông dụng thì không thể tiếp tục nhập thẻ trắng như bây giờ.
Nhà nước cần có chính sách đầu tư hợp lý cho hệ thống máy móc, thiết bị công nghệ phục vụ thanh toán, phát hành thẻ. Sở dĩ phải đầu tư hợp lý vì công nghệ thông tin đang phát triển rất nhanh, nhiều kỹ thuật tiên tiến cách đây vài năm đã trở nên lỗi thời. Công nghệ ứng dụng cũng không nằm ngoài xu thế ấy. Thực tiễn cho thấy trước đây nhiều ngân hàng nước ngoài đã bỏ ra những khoản đầu tư khổng lồ để phát triển hệ thống đầu cuối sử dụng thẻ từ, khi thẻ thông minh thay thế, sự thay đổi gây ra tổn thất rất lớn.Với lợi thế của người đi sau, chúng ta có điều kiện tiếp thu những công nghệ mới nhất. Bởi vậy Nhà nước và các ngân hàng kinh doanh thẻ cần phát triển hệ thống máy móc đầu cuối theo hướng tương thích với hệ thống thế giới.
3.3.1.3. Hoàn thiện môi trường pháp lý, hoà nhập với các thông lệ chung quốc tế.
3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà Nước và các bộ Ngành liên quan
NHNN đóng vai trò lớn trong việc định hướng chiến lược chung cho các ngân hàng thương mại thực hiện hoạt động kinh doanh thẻ thông qua các giải pháp trợ giúp cho các ngân hàng thương mại, trong đó có HBB như:
Cần xây dựng cơ chế chính sách về thanh toán một cách đồng bộ, nhất quán phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội và CNTT. NHTW đóng vai trò quyết định trong việc ban hành cơ chế chính sách, tạo hành lang pháp lý, môi trường thuận lợi, thông thoáng cho quá trình sử dụng, phát triển các phương tiện thanh toán và hệ thống thanh toán; là người trực tiếp quản lý việc đầu tư xây dựng hệ thống thanh toán thống nhất giữa các NH; tổ chức, quản lý kiểm tra giám sát hoạt động của hệ thống thanh toán liên NH.
Phối hợp với các NHTMVN và các tổ chức thẻ quốc tế trong việc hoạch định chiến lược khai thác thị trường, thúc đẩy hoạt động thanh toán và phát hành thẻ, ứng dụng các tiện ích của công nghệ thẻ đã, đang và sẽ được phát triển trên thế giới và khu vực.
Để thẻ thanh toán của HBB nói riêng và của NHTMVN nói chung phat triển thì NHNN cần nhanh chóng kết nối hệ thống máy ATM của các NHTM trên phạm vi cả nước thông qua trung tâm chuyển mạch ATM quốc gia. Nhờ sự liên kết đó, khi chủ thẻ rút tiền hoặc thanh toán tại máy ATM của bất cứ NH nào đã tham gia vào trung tâm chuyển mạch quốc gia đều được xử lý nhanh chóng thuận tiện.
NHNN chỉ đạo để sớm hoàn thiện toàn bộ dự án Hiện đại hóa NH và hệ thống thanh toán, phát huy và khai thác hiệu quả của Dự án này, làm cơ sở cho hình thức thanh toán thẻ hoàn thiện và phát triển thuận lợi.
Các bộ ngành có liên quan như Bộ Công an, Bộ Bưu chính viễn thông, Bộ Tài chính… cần phối hợp chặt chẽ với NHNN để nghiên cứu ban hành các văn bản pháp quy hướng dẫn xử lý cụ thể các trường hợp phát sinh liên quan đến hình thức thanh toán thẻ như xử lý gian lận trong sử dụng thẻ, tranh chấp, rủi ro …
Có biện pháp xử phạt nghiêm khắc đối với những vi phạm quy chế hoạt động thẻ nhằm tạo sự cạnh tranh lành mạnh góp phần thúc đẩy thị trường thẻ Việt Nam phát triển.
ủThành lập Trung tâm bù trừ thanh toán thẻ giữa các thành viên trong nước. Thực tế hiện nay các ngân hàng quản lý phát hành và thanh toán thẻ theo mạng riêng của mình, điều này có lợi là phù hợp với chức năng hoạt động kinh doanh, kinh phí đầu tư thiết bị công nghệ của từng ngân hàng. Nhưng thực tế cũng cho thấy sự phức tạp khi thẻ của một ngân hàng được đem rút tiền mặt ở một ngân hàng khác trong nước khác hệ thống. Lúc đó giao dịch sẽ phải thực hiện thông qua trung tâm thanh toán của tổ chức thẻ quốc tế và phải chịu một khoản phí do tổ chức này qui định . Bởi vậy, thành lập một Trung tâm bù trừ thanh toán thẻ giữa các ngân hàng thành viên trong nước sẽ giảm tính phức tạp về hình thức thanh toán các giao dịch nội bộ trong nước, tăng tốc độ thanh toán nhanh, giải quyết được vấn đề chênh lệch tỷ giá và sẽ thống nhất được về chủ trương giao dịch thẻ ở Việt Nam chỉ dùng đồng Việt nam. Hơn nữa, Trung tâm bù trừ thanh toán sẽ giúp các ngân hàng quan hệ chặt chẽ hơn trong mọi lĩnh vực như :
* Các thành viên phát hành và thanh toán thẻ sẽ cập nhật nhanh nhất những thông tin rủi ro và giả mạo, tránh thất thoát cho các thành viên .
* Kết hợp in ấn các danh sách thẻ cấm lưu hành, giảm được chi phí cho các thành viên.
* Có qui chế thống nhất về đồng tiền thanh toán, mức phí,tỷ giá tạo ra một khí thế cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực thẻ tín dụng tại thị trường Việt nam.
3.3.3. Kiến nghị đối với hiệp hội các Ngân hàng
Hội các ngân hàng thanh toán thẻ phải là nòng cốt tiếp tục đi đầu trong việc cải tiến hình thức, phương thức hoạt động. Thời gian vừa qua, Hội đã thường xuyên làm việc với NHNN và duy trì mối quan hệ chặt chẽ với các tổ chức thẻ quốc tế nhằm tạo điều kiện đẩy mạnh hơn nữa việc phát triển nghiệp vụ thẻ ở Việt Nam. Hội cũng đã thu hút hầu hết các ngân hàng thực hiện dịch vụ thẻ tại Việt Nam tham gia. Các ngân hàng trong Hội đã thống nhất mức phí thanh toán tối thiểu và việc áp dụng thuế giá trị gia tăng được áp dụng cho các ĐVCNT ở Việt Nam nhằm mục đích đảm bảo lợi nhuận cho tất cả các NH, đảm bảo cho thị trường thẻ cạnh tranh lành mạnh. Hội cũng đã nghiên cứu tình hình khó khăn, thuận lợi, cũng như vướng mắc của các NH trong Hội về phát hành và thanh toán thẻ để cùng nhau đề ra các giải pháp khắc phục. Có thể nói, hoạt động của Hội các NHTT thẻ thời gian qua đã có những bước phát triển đa dạng và mạnh mẽ, bước đầu thực hiện được tiêu chí của Hội là "diễn đàn hợp tác và trao đổi kinh nghiệm của các ngân hàng thanh toán thẻ Việt Nam". Tuy nhiên, Hội cần phải hoạt động mạnh mẽ và có hiệu quả hơn nữa, có những thoả thuận nghiêm khắc về chế tài đối với những NH vi phạm, nhằm đóng góp tích cực hơn nữa cho sự phát triển của dịch vụ thẻ trên thị trường Việt Nam.
Kết luận chương 3
Sau khi đánh giá kết quả đạt được của dịch vụ thẻ thanh toán của NH TMCP Nhà Hà Nội, thì bên cạnh đó vẫn còn có nhiều tồn tại và những nguyên nhân trong nhưng năm qua. Chương 3 dựa trên cơ sở những tồn tại và nguyên nhân ở chương 2 để đưa ra sđịnh hướng, các giải pháp, kiến nghị với Chính phủ, NHNN và các bộ ngành liên quan, Hiệp hội NH nhằm hoàn thiện và phát triển hình thức thanh toán thẻ của NH Nhà Hà Nội nói riêng và thị trường thẻ thanh toán Việt Nam nói chung.
kết luận
Dịch vụ thẻ có thể nói là loại hình dịch vụ trẻ, nó đáp ứng được tốc độ phát triển và phù hợp với xu thế mới, đó là thời đại của thông tin và công nghệ. Việt Nam đang trên con đường hội nhập thì việc vận dụng những cái mới sẽ giúp chúng ta có nhiều cơ hội hơn.
NH TMCP Nhà Hà Nội trong hơn ba năm qua đã thực sự phát huy được lợi thế về nền tảng công nghệ tiên tiến để khẳng định vị trên thị trường thẻ Việt Nam. Vào thời điểm hiện tại NH chiếm khoảng 15% thị phần thanh toán thẻ.
Tuy vậy, một số yếu kém nội tại còn đang cản trở sự phát triển của dịch vụ thẻ này. Trong môi trường cạnh tranh gay gắt hiện tại trên thị trường thẻ, việc giữ vững được vị thế trên thị trường và phát triển là một công việc hết sức khó khăn, đòi hỏi sự nỗ lực và phối hợp đồng bộ trên toàn hệ thống. Việc nhìn nhận thẳng thắn các yếu kém và thực hiện các giải pháp khắc phục là vấn đề cấp thiết hiện nay. Với định hướng đúng đắn của Ban lãnh đạo, nỗ lực của từng cán bộ, chắc chắn đầu tư vào dịch vụ thẻ sẽ thực sự có hiệu quả, dịch vụ thẻ NH sẽ hoàn thiện và phát triển bền vững.
Danh mục tài liệu tham khảo
[1] Báo cáo thường niên của NHNN Việt Nam các năm, 2002, 2003, 2004
[2] Lê Văn Tề, Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại.NXB TP. HCM
[3] Nguyễn Danh Lương(2003) “Những giải pháp nhằm phát triển hình thức thanh toán thẻ ở Việt Nam”. Luận án tiến sĩ kinh tế tài chính-ngân hàng, Học Viện Ngân hàng, Hà Nội
[5] PGS.TS. Lê Văn Tề, Thạc sĩ Trương Thị Hồng “ Thẻ thanh toán quốc tế và việc ứng dụng thẻ thanh toán tại Việt Nam”-NXB trẻ.
[6] Tạp chí Khoa học- Đào tạo ngân hàng các năm 2003, 2004, 2005.
[7] Tạp chí Ngân hàng các năm 2003. 2004, 2005
[8] Tạp chí Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam 2003, 2004, 2005.
[9] Tạp chí Nghiên cứu kinh tế 2005
[10] Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ 2003, 2004, 2005.
[11] Tạp chí tin học Ngân hàng 2003, 2004, 2005.
[13] Tài liệu tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2004 và triển khai nhiệm vụ năm 2005.
[14] Tài liệu triển khai nhiệm vụ 06 tháng cuối năm 2005 của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội.
[15] Thời báo ngân hàng các năm 2005, 2006
[16]
[17] Một số tài liệu tham khảo khác có liên quan.
mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0209.doc